Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

21/11/2021

Học giả - Nhà hoạt động xã hội Huỳnh Trí Chánh (1941-2021) vừa ra đi

Ông đã trút hơi thở cuối cùng vào tối ngày 7 tháng 11 năm 2021 tại đất Phù Tang - nơi ông đã tới du học trước năm 1975, ở lại và xây dựng gia đình cùng một cô gái Nhật Bản. Sinh thời, ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực (giáo dục, phong trào thanh niên, thương mại, ngoại giao,...).

Thông tin ông qua đời được truyền đi vào ngày hôm kia - ngày 19 tháng 11 năm 2021 - trong nhóm "Lưu học sinh vùng Tokyo 1990s-2000s". Một bạn thân thiết với gia đình chú Huỳnh Trí Chánh loan tin kèm theo e-mail bằng tiếng Nhật của gia đình.

Cáo phó của trang Exryu thì cho biết, ông đã rời cõi tạm vào lúc 21h23 ngày 7 tháng 11 năm 2021 (Giao Blog cập nhật tin này vào tối ngày 21/11/2021). Bạn cùng thời với chú Chánh (các chú các bác Vĩnh Sĩnh, Đào Hữu Dũng,...) tự định danh thế hệ của mình là lứa "Chiêu Hòa 40/Showa 40" (lứa đến Nhật vào năm Chiêu Hòa thứ 40, tức năm 1965).

1. Ông là một đàn anh của nhiều thế hệ du học sinh Nhật Bản (thế hệ trước 1975, thế hệ sau 1986). Một phần đời của ông gắn bó với Đại học Ngoại ngữ Tokyo (gọi tắt là Togaidai hoặc Gaigodai) - ngôi trường thân yêu của chúng tôi (tôi đã kể nhanh về ngôi trường của mình ở đây hay ở đây).

2. Tôi là thuộc thế hệ con cháu, đến Nhật khi ông chuẩn bị rời khỏi môi trường đại học (đến tuổi về hưu), nhưng được đặc cách cho gọi là "anh Chánh". Tôi vẫn bị lẫn lộn giữa hai cách xưng hô là "anh Chánh" và "chú Chánh".

3. Ông là một trong những người Việt Nam kể cho tôi nghe trực tiếp chuyện về chí sĩ Trần Đông Phong (hiện không nhớ rõ lần ông kể đầu tiên với tôi là vào ngày hội trường của Đại học Ngoại ngữ Tokyo mùa thu năm 1999 - lúc ấy, tôi còn chưa nhập học - hay là sau năm 2000 khi mà tôi đã chính thức vào trường; có nhiều khả năng là sau năm 2000).

Dưới đây là một sưu tập những chia sẻ của các thế hệ du học sinh Nhật Bản khi nghe tin người đàn anh Huỳnh Trí Chánh vừa ra đi. Mở đầu là chia sẻ của chị Lâm Hồng Phương và anh Đoàn Lê Giang.

Hà Nội, tháng 11 năm 2021,

Giao Blog


ABK (quận Văn Kinh, thủ đô Tokyo), ngày 20 tháng 11 năm 2021


Nguyên chú: "Trong ảnh anh Huỳnh Trí Chánh là người đứng hàng thứ hai từ tay trái."

Nguyên chú: "Anh Chánh mặc áo T shirt trắng đứng ở giữa"









Chú Huỳnh Trí Chánh và gia đình - vợ cùng hai con gái (ảnh từ Fb ĐLG)


Ba người đàn anh (từ trái sang phải): Huỳnh Trí Chánh, Nguyễn Thiện Nam (giữa), Đoàn Lê Giang
(ảnh của Fb ĐLG)


Khu vực cổng Đại học Ngoại ngữ Tokyo (ảnh của Giao Blog, chụp năm 2015)





---

Ngày 20/11/2021

Người anh, người bạn, người đồng nghiệp một thời của thế hệ chúng tôi khi đó, những năm 90 và đầu những năm 2000 , khi chúng tôi sống, học tập và làm việc tại Gai Go Dai, ĐHNN Tokyo, Nhật Bản đã bay đến các vì tinh tú nơi hành tinh ức triệu năm ánh sáng.
🧡
Tối nay chúng tôi được một người em từng học Gai Go Dai báo tin mà ai cũng buồn và thương tiếc anh. Anh cũng đã thọ và đúng cõi . Chúng tôi rất kính trọng anh về trí tuệ, về nhân cách sống và về sự giúp đỡ tận tình của anh cho anh chị em chúng tôi khi bước chân đến Nhật Bản khi đó.
🧡
Mong anh ra đi thanh thản và được siêu thoát. Xin thắp một nén nhang cầu cho hương linh anh Huỳnh Trí Chánh được về nơi Tịnh độ bình an.
🧡
Nam Mô A Di Dà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật






https://www.facebook.com/lamvanphuong.lam.12/posts/1423518821376178


..


Ngày 21/11/2021

Hôm qua đọc thông tin nhóm Lưu học sinh vùng Tokyo mới hay anh Huỳnh Trí Chánh, nguyên Giáo sư thỉnh giảng Đại học Ngoại ngữ Tokyo đã về cõi vĩnh hằng. Anh sinh năm 1941, vậy là thọ 81 tuổi.
Nhớ lần đầu tiên đến Nhật năm 1993 với học bổng của Bộ Giáo dục Nhật Bản, tôi gặp anh ở Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo. Tôi đi học tiếng Nhật, còn anh đang là giáo sư thỉnh giảng ở trường ấy.
Anh đến Nhật vào thập niên 1960 với danh nghĩa du học nhưng nhiệm vụ là tổ chức phong trào chống chiến tranh của Mỹ tiến hành ở VN. Anh đã lấy được bằng Tiến sĩ về Thủy sản ở Đại học Tokyo. Nhưng những ngày tháng sôi nổi nhất của anh là những ngày hoạt động cho phong trào phản chiến: Biểu tình, tuần hành, nằm chặn ở căn cứ Yokosuka (Yokohama) không cho xe tăng Mỹ đi tham chiến ở Việt Nam. Anh từng đi đuổi chuột dưới cống ngầm Tokyo, lái xe tải để lấy tiền trang trải cuộc sống. Sau 1975 anh đi đi về về VN-NB thường xuyên, góp công sức cho công cuộc đổi mới giai đoạn đầu. Cuối đời anh về Việt Nam sinh sống. Anh từ chối mọi bổng lộc mà nhà nước dành cho anh, anh mua một căn nhà nhỏ ở Quận 11 để ở, rồi đi dạy và tham gia hoạt động xã hội cùng với sinh viên ở một vài trường đại học TP.HCM.
Nhớ thời thức suốt đêm uống rượu chuyện trò, nên tôi và anh Nguyễn Văn Huệ vẫn gặp anh thường xuyên. Thỉnh thoảng anh Nguyễn Thiện Nam từ HN vào, cuộc gặp càng thêm rôm rả, chuyện trò không dứt.
Đột ngột khoảng 2016 trong một lần gặp gỡ, anh nói anh sẽ về với gia đình bên Nhật. Thời gian sau nghe anh bị tai biến. Điều trị hồi phục thì anh quên hết tiếng Nhật (dù tiếng Nhật anh dùng gần như tiếng Việt). Anh yếu dần. Mới đây ngày 7/11 anh đã ra đi mãi mãi vì bị viêm phổi. Mỗi con người có một thời của mình!
Anh để lại trong tôi hình ảnh một con người nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, rắn chắc, vui tươi, anh hầu như không có tuổi già. Anh còn để lại hình ảnh con người nhiệt tình, hào hiệp, hết lòng vì bạn bè. Và trên hết, anh đã để lại hình ảnh con người đã sống một đời cho đất nước của mình.
Mọi người không quên anh. Tôi gõ 3 từ "Huỳnh Trí Chánh" trên Google thấy vẫn còn nhiều thông tin về anh.
Dưới đây là mấy tấm ảnh chụp tháng 5, tháng 7 năm 2015 và tháng 4 năm 2019.








https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1574844512858114&id=100009977416332

..





---

CẬP NHẬT


3. Cập nhật vào tháng 1 năm 2022

Đây là các tấm ảnh mà gia đình chú Chánh ở Nhật Bản gửi cho một người trong nhóm "LHS vùng Tokyo 1990s-2000s".












2.

Tôi xin mạn phép gửi một số hình ảnh thân thương trong buổi lễ thắp nhang tưởng niệm anh Huỳnh Trí Chánh tại cư xá Asia Bunka Kaikan, Hon-Komagome, Bunkyu-Ku, Tokyo.






https://www.facebook.com/groups/250338878461227/posts/1921600164668415

"

Han Mac CT
Đầu năm 1980 tui ở Tanashi là trạm kyuukou thứ 3 đường seibushinjuku Đi làm về tui xuống Numabukuro trạm kyuukou thứ 1 thăm Đổ Nhất Tâm đang học cao học ở Todai ,sau nầy Tâm vô cư xá Todai ở Tanashi .Tâm ở VN gần nhà anh Chánh, lúc đó anh Chánh cũng ở Numabukuro mà theo lời Tâm ,vợ anh Chánh là giáo sư dạy đàn piano và anh Chánh có 2 người con gái sinh đôi Tôi không có gặp anh Chánh vì thời đó đên tổng hội gặp nhiều người hăm he đe dọa Anh Chánh chỉ khuyên tôi em ráng học để về que hương xây dựng
1
  • Thích
  • Phản hồi
  • Chia sẻ
  • 23 giờ
  • Đã chỉnh sửa

  • Khon Tri Ngo
    Han Mac CT Thật buồn khi nghe anh tâm sự chuyện ngày xưa. Đất nước VN bị ngoại bang ngang nhiên quyết định chia đôi, người VN cũng tự chia đôi theo tư tưởng theo chủ nghĩa này nọ. Buồn nhất là có 1 số người cực đoan thích chửi bới (hăm dọa như anh nói) những ai có chính kiến khác mình. Thời đó qua rồi , qua 60 tuổi ai cũng nhận ra được lẽ phải. Anh Chánh không chửi bới hay hăm dọa ai nhưng anh cũng có phần cường điệu và lý tưởng trong suy nghĩ của mình. Người hiểu rõ hơn hết là chị Chánh. Cũng có người sử dụng lý tưởng để làm giàu cho cá nhân. Giờ thì có nhiều người đã nhận ra.
    2
    • Thích
    • Phản hồi
    • Chia sẻ
    • 23 giờ
  • Han Mac CT
    lần đầu tiên tui biết anh Chánh là năm Nhật ngữ 1971 ở Kokusai lúc đó anh Chánh thường vô Kokusai đánh tennis Mấy anh sempai nói thấy ông nào để râu rậm rạp là HUỳnh Trí Chánh xếp sòng BeiHeiTo,Thật sự mà nói tổng hội sau 75 thường hăm he anh em chẳng có anh nào là thành viên trụ cột Beheito cả Anh Hồng Lê Thọ Ngô diệu Kế Quách đinh Huân Nguyễn an Trung rất dễ thương Hay hăm dọa anh em là nhưỡng người không phải Beiheito còn liên lạc với bọn chống cộng bên ngoài tìm cách hành hung những anh em rất hiền hòa như Nguyễn Chánh Khê ,anh tui Lê Phạm Xuan Thu
    Luật nhân quả thấy rõ nhưỡng người hành hunh anh tui ở ga Okubo Khê trong Kokusai có người nào được hạnh phúc đâu Tui không nói tên nếu nói tên Trí biêt
    1
    • Thích
    • Phản hồi
    • Chia sẻ
    • 15 giờ
    • Khon Tri Ngo
      Tôi cũng vậy, lần đầu tiên tới Kokusai tham dự một buổi họp sinh viên , có người làm việc cho sứ quán nói xấu anh em Beiheitoh , một số anh em hùa theo mà không chịu tìm hiểu.
      Tất cả chúng ta lúc đó đều trẻ , đều ấu trĩ, nhận định sự việc chưa được chín chắn . Trong đó có vài người ngông, thích làm anh hùng, tự cho mình là người hiểu biết hơn người khác, dùng từ ngữ khó nghe khi phê phán người khác chính kiến . Từ đó mới có sự thù ghét, chửi rủa và hành hung người khác.
      Luật nhân quả có đó anh.

"

"

Han Mac CT
anh Huynh Vu từ ga Komagome đi ngược đường về hướng ABK sẽ gặp đường cụt ,quẹo tay trái đi bộ thêm chút nữa sẽ gặp trung tâm nghiên cưu lúa gạo của Nourinshou ông Mukou dạy môn Thực vật bệnh lý học ở Nodai có dẫn em đến đây thực tập rồi Tỉnh Saitama có Konousu trung tâm nghiên cứu lúa gạo quốc tế của Nhật
2
  • Thích
  • Phản hồi
  • Chia sẻ
  • 23 giờ
  • Đã chỉnh sửa
  • Khon Tri Ngo
    Han Mac CT Trí nhớ của anh còn tốt quá !
    1
    • Thích
    • Phản hồi
    • Chia sẻ
    • 23 giờ
  • Huynh Vu
    Tác giả
    Han Mac CT nếu anh đi qúa một chút thì sẽ đến cư xá Đông Du cũ, nơi anh Hoàn Bắc Bích và Thái ở vào năm 1968, 69.
    1
    • Thích
    • Phản hồi
    • Chia sẻ
    • 18 giờ
    • Han Mac CT
      Huynh Vu hồi mới qua Nhật tối hôm sau anh tui dẫn tui tới cư xá Đông Du ở Bentenchou đường Tozaisen gặp anh Hòe không may anh Hòe không có măt, chỉ có anh Đổ Kỳ Hổ là người VN tôi gặp đầu tiên trên đát NHật Sau này dọn về Takadanobaba gần đường toden nên thường đi theo anh em Đông Du đến đá banh ở sân banh Gaigodai Anh Phan Ngọc Bích thích ăn mì gõ đi ngang cư xá mới Đông Du ở Takadanobaba
      1
      • Thích
      • Phản hồi
      • Chia sẻ
      • 15 giờ

"



1.

Trang đặc biệt Tưởng nhớ

 

Exryu Huỳnh Trí Chánh

(65, Tokyo Suisan-dai)

(         ~  7 tháng 11 năm 2021  )

 

 

 

 cùng thương tiếc báo tin 

 

Anh Huỳnh Trí Chánh  (65, Tokyo Suisan-dai)

 

Đã qua đời ngày 7 tháng 11 năm 2021

tại Nhật Bản. Hưởng thọ 78 tuổi.

 

Thành kính phân ưu cùng chị Yasuko và toàn thể tang quyến. 

Nguyện cầu hương linh anh Chánh được sớm tiêu diêu miền cựa lạc  

 

Exryu Cuối Tuần 

 http://www.ERCT.com  

  

 

................................

 

Vài hàng chia tay

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Xin chào các bạn,

Chúng tôi, Võ Thành Long và Lê Văn Tâm xin báo tin buồn với lòng thương tiếc sâu sắc là anh Huỳnh Trí Chánh, người bạn của chúng ta, đã qua đời vào 21:23 ngày 7 tháng 11 năm 2021 vì bịnh viêm phổi (tiếng Nhật là 誤嚥性肺炎).

Chị Chánh nói là chỉ làm đám tang trong gia đình xong và sẽ hỏa táng vào ngày 11 tháng 11 năm 2021. Vì điều kiện chật hẹp của nhà hỏa táng, nên gia đình chỉ tổ chức quy mô gia đình, mong anh em thông cảm.

Được sự đồng ý của chị Chánh, chúng tôi sẽ tổ chức một buổi lễ đốt nhang và tường nhớ anh Chánh như sau :

địa điểm : phòng 101, Asia Bunka Kaikan

ngày giờ : từ 15 giờ đến 16:30 ngày 20 tháng 11 năm 2021.

Chị Chánh sẽ có mặt chung với chúng ta.

Vì trong bối cảnh dịch bệnh corona, anh chị em tham dự xin vui đeo khẩu trang và giữ khoảng cách.

Trân trọng

Võ Thành Long và Lê Văn Tâm

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Vô cùng thương tiếc và xin thành kính chia buồn cùng gia đình anh Huỳnh Trí Chánh.

Thế là lại vắng một sempai, một người bạn cùng thời của chúng ta.

Hẳn là anh đã sống một cuộc đời trọn vẹn theo ý mình, Xin chúc anh từ nay yên nghỉ thảnh thơi.

Người cứ theo người đi về đâu
Biết rồi có gặp lại mai sau
Có nơi nào hẹn cho nhau biết
Để lại cùng lên một chuyến tàu

Quỳnh Chi

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Buồn quá!

Thương nhớ tiếc một người bạn tận tụy, nhiệt tình, tích cực.

Xin cùng với các bạn nguyện cầu anh linh anh Huỳnh Trí Chánh sớm an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng.

Xin chia buồn cùng gia đình anh Chánh,

Xin cảm ơn anh Tâm và anh Long đã báo tin

Huỳnh Mùi

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Tôi vô cùng đau buồn được tin Anh Huỳnh Trí Chánh đã ra đi. Nhớ ngày nào sau 75 khi trở lại Nhật, tôi có đến thăm Anh Chánh tại nhà Anh, ở gần ga Shimbashi thì phải. Một người bạn hoạt bát, lanh lợi, vui vẻ, sao Anh đã vội ra đi !

Nguyện cầu hương linh Anh Chánh sớm trở về nước Phật vui sống đời đời trên Cõi Vĩnh Hằng.

Nguyễn-Trung Chí (Exryu USA)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Người đi đi mãi không về
Nhớ Người dòng suối Đa My gợn buồn

Tôi dự định chuyến về Nhật năm 2020 sẽ ghé thăm anh, nhưng thực tế tinh hình dịch bệnh covid-19 ngày một trầm trọng vượt qua dự tưởng. Các chuyến bay đi về Nhật –Việt Nam đều bi hạn chế, các qui chế tiêm chủng vaccine cũng quá khó khăn, cứ ngong ngóng ngày được lên máy bay, nhưng cũng chưa thực hiện được.

Dịch Covid-19 lần này xảy ra làm đảo lộn mọi trật tự thế giới trên mọi lãnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, len vào gia đình, quan hệ Người với Người, sự tàn khốc ngoài sức tưởng tượng và chẳng ai dự đoán được thân phận mình ngày mai sẽ ra sao.

Nói đến anh Chánh, bao giờ cũng nhớ đến dáng người nhỏ bé. Nhớ ngày xưa anh Vĩnh Sính ví anh Chánh như “ Người ruồi gieo máu lửa”. Nhưng trong hoạt động và công việc anh bao giờ cũng tích cực, chu đáo, đi tiên phong và không bao giờ lùi bước trước khó khăn, nghịch cảnh, cố gắng đạt được mục đích đã hoạch định.

Đối với lớp anh em trẻ, anh bao giờ cũng có tình cảm khoan dung với nụ cười dễ thương.

Về tửu lượng anh Chánh là “một cao thủ “mà tôi chưa bao giờ gặp

Thường thì người ta mượn rượu tiêu sầu :” Dục phá thành,duy hữu tửu”, nhưng với anh Chánh thì rượu là một chất xúc tác để khơi mào câu chuyện trao đổi với anh em, câu chuyện không bao giờ có hồi kết . Có những lần hẹn anh đi ăn cơm chiều thứ Bảy xong, anh lại rủ đi uống lần 2 (Ni ji kai 二次回), lần 3 (3 次回) đến 3-4 giờ sáng là chuyện bình thường

Cách đây hơn 4 năm, khi biết anh bị tai biến mạch máu não,tôi ghé đến bệnh viện ở TODA thăm anh,suốt buổi chiều anh vui vẻ cố gắng nói chuyện, nhưng phần lớn anh chỉ nhớ tiếng Việt Nam, tiếng Nhật anh quên gần hết,và nói những chuyện của 10-30 năm trước, còn những chuyện gần sau này anh hầu như không nhớ rõ được. Chị Yasuko than anh chỉ nói tiếng Việt, nên đôi khi Chị Yasuko không hiểu hết ý của anh, nên mỗi ngày làm khán hộ bệnh cho anh rất vất vả.

Sau lần đi thăm anh, tôi chạnh lòng đinh ninh không lẽ đây là lần cuối cùng nói chuyện với anh Chánh trong một tâm thái bâng khuâng khó diễn tả.

Trước khi chia tay, tôi cảm thấy anh có điều gì còn muốn nói thêm; bước đi một lúc, ngoãnh nhìn lại vẫn còn thấy anh đứng vẫy tay :

Có những niềm riêng làm sao nói hết
Như mây như mưa, như cát biển khơi
Có những niềm riêng, làm sao ai biết
Như trăng trên cao cách xa vời vợi

.....

Này niềm riêng,như nước vẫn đầy vởi
Đâu đây vang vang tiếng buồn gọi mời
Ôi nỗi sầu, cao chất ngất
Như một ngày, như mọi ngày, như vạn ngày, không thấy đổi thay!!!

........

Có những niềm riêng, một đời dấu kin
như rong như rêu, bám trong biển khơi
Có những niềm riêng, một đời câm nín
Nên khi xuôi tay, còn chút ngậm ngùi

(Có những niềm riêng;Lê tín Hương)

Sau lần gặp mặt đó, vẫn định có dịp về Nhật, rủ vài anh em đi thăm, nhưng bây giờ không còn có cơ hội nữa.!!!.

Vầng trăng xưa vẫn còn, mà người xưa giờ cách xa muôn trùng !

Anh Chánh!

Khi vào trong cuộc đời này, anh đã đóng góp và trả nợ cuộc đời như Trịnh Công Sơn viết : “Hai mươi năm xin trả nợ người “, vì vậy lần này ra đi anh đã hoàn thành” Nghiệp” mà vũ trụ đã trao cho anh, nói theo cách của Thần số học (Numerology của Pythagoras). Hiện anh đang đi vào một vùng năng lượng mới sau khi hoàn thành” Nghiệp”.

Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây
Chút nắng vàng từ nay cũng vội
Khép lại từng đêm vui

Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình, thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi!

.......

Tiếng thì thầm, từng đêm nhớ lại
Ngỡ chỉ là cơn say
Đóa hóa vàng, mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay!!!

(Như một lời chia tay;Trịnh Công Sơn)

Chào anh

Dương Văn Quả ( Exryu Japan )

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Tôi xin được phép chia sẻ vài cảm tưởng cá nhân của tôi về anh Huỳnh Trí Chánh. Nếu tôi có nói điều gì không chuẩn xác, xin các anh chị vui lòng tha thứ.

Hôm được tin anh Chánh qua đời, tôi hết sức bồi hồi xúc động. Đã chứng kiến việc sức khỏe của anh suy thoái từ nhiều năm nay, nhưng khi sự việc xảy ra, tôi cũng không dè vì Chánh kiên trì lắm.

Hồi tưởng lần đầu tiên đi cùng anh Vũ Thư Thanh đến Tòa Đô Chính Tôkyô để dự một party chào đón sinh viên ngoại quốc dưới thời Đô trưởng Minobe (hôm đó có một cụ bà nữ sinh viên du học từ đời Minh Trị cũng có mặt). Tôi nhờ cơ hội ấy mà quen biết anh và hơn 56 năm trời đã trôi qua. Kẻ Komaba người Kokusai, kẻ Đà Lạt người Nha Trang nhưng chúng tôi là bạn đồng khóa Shôwa 40 (1965) đấy. Hồi anh Vũ Thư Thanh - bạn của tôi và anh, lại là láng giềng anh - còn sinh tiền, mỗi lần từ Pháp qua, tôi thường có dịp gặp gỡ cả hai ở Itabashi.

Anh Chánh là người cương trực, sống sôi nổi, hành xử như một trang hảo hớn đời xưa nên đôi khi có vài cử chỉ đầy kịch tính nhưng anh không bao giờ chủ tâm làm tổn thương ai. Cũng như bản thân tôi và những người khác, Chánh không phải là người toàn hảo nhưng bạn bè dù khác chính kiến, vẫn yêu mến anh vì anh ăn ở rất có tình. Hai chúng tôi tính khí cũng khác nhau nhưng tôi hết sức yêu mến và nể trọng anh vì anh đã sống rất thành thực, thực tâm yêu nước thương nòi và biết đau lòng trước những cảnh đời cơ nhỡ. Nếu không nói lên được những điều này trong giờ anh ra đi vĩnh viễn, tôi sẽ thấy mình thực có lỗi với anh.

Dù Chánh có một người vợ hiền thảo, tháo vát và chung thủy, lo cho chồng từng ly từng tý, suốt đời anh chỉ đủ ăn. Có lần mở hãng buôn nhưng cũng phải dẹp tiệm vì mỗi lúc rủng rỉnh xu hào là anh lại phóng tay chiêu đãi bạn bè.

Tôi qua Pháp sống lêu bêu từ năm 1970 đến 1996 và bặt tin anh nên không biết rõ những gì xảy ra ở Tôkyô trong khoảng thời gian đầy biến động đó. Tôi chỉ nhớ các việc làm tốt đẹp của anh sau này như đã thẳng thắn chỉ trích những tiêu cực trong chính trị, vận động hành lang để cứu bạn bè xưa đang gặp khó khăn ở VN, miệt mài dạy học ở hai trường Gaigo (Ngoại ngữ Tokyo) và trung tâm huấn luyện của Bộ ngoại giao Nhật nhằm đào tạo các nhà Việt Nam Học và chuyên viên cần thiết cho sự hợp tác giữa hai nước trong tương lai, tham gia những cuộc biểu tình chống chủ nghĩa bành trướng để bảo vệ chủ quyền biển đảo...Trước khi bị tai biến nặng, anh còn đóng vai "ông Năm", một ông già cổ quái râu tóc lơ thơ, vác túi nylon, chuyên dẫn dắt các em trẻ Sài Gòn đi nhặt rác để bảo vệ môi trường.

Chánh ơi, thôi đã hết những ngày đi chơi với nhau đến hừng sáng ở Shinjuku, Shibuya hay Ikebukuro và đợi chuyến xe điện đầu ngày (shoden) để ra về. Bạn có nhớ không, có hôm, tôi đã từ căn gác Komagome của bạn và ra thẳng phi trường Narita về Pháp sau một đêm không ngủ. Thôi đã hết cái lần được Chánh tự mình đi chợ nấu cơm cho ăn (và rất ngon) khi tôi và anh Nguyễn Khôi Minh ghé thăm nơi bạn dạy học ở ga Nihonmatsu trên Fukushima và chúng mình đã trò chuyện vui như Tết.

Lần trước, anh đã bắt đầu quên tên tôi, còn lần gặp nhau cuối cùng, anh không còn nhận ra mặt tôi nữa. Tuy nhiên, như thế là bạn hạnh phúc đó, Chánh ơi, vì đã quên đi được tất cả câu chuyện của cõi đời đầy bụi bặm này.

Xin bạn hiền hãy ngủ yên,

Đào Hữu Dũng ( Exryu Japan )

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

お知らせ頂きありがとうございます。

突然のことに、とてもショックを受けております。

残念ながら、20日はお伺いすることができません…

彼がいなければ、今の僕はありません。彼が僕に教えてくれたのはベトナム語だけではありませんでした。ボランティアとは何か?そして、人のために尽くすことの大切さを教えてくれました。

ご冥福をお祈りいたします。そして彼の志の一部でも受け継ぎ、世の中のためにどんなことができるか、行動し続けたいと思います。

寺田

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Nhận được tin buồn anh Huỳnh Trí Chánh đã qua đời, xin thành kính chia buồn cùng tang quyến và tập thể Cựu Du học sinh ở Nhật của chúng ta.

Chắc mỗi người trong chúng ta đều có một vài kỷ niệm nầy kia với anh Chánh, nhưng trong tôi anh Chánh mãi mãi là một người ngoan cường và chịu chơi hết mình trên mọi bình diện.

Nhớ hồi mới qua Nhật gặp anh thấy nể sempai quá xá, nhưng sau nhiều lần tiếp xúc nói chuyện thì rất mến anh vì sự trực tính và luôn bao che lo lắng cho kohai.

Nhớ nhiều nhất là đôi lúc nhậu với anh, hầu như là mình anh vừa nhậu vừa nói, mình chỉ nghe và tiếp mồi là chính, nhưng rất thương anh.

Nhớ lại và tặng anh mang về bên ấy mấy câu thơ xưa vừa chợt nhớ nói về uống rượu nhé,

Sống ở dương gian đánh chén nhè,
Thác về âm phủ cắp kè kè.
Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?

– Be!

Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Gặp gỡ chừng như chuyện Liêu Trai,
Ra đi chẳng hứa một ngày mai.

Em ơi! Lửa tắt, bình khô rượu,
Đời vắng em rồi, say với ai?
Nhớ và cảm ơn anh rất nhiều, anh Chánh.

Bùi Chí Trung (Exryu Japan)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Tôi đã không định viết gì thêm về anh Chánh ngoài lời kêu gọi buổi họp mặt để tưởng niệm anh vì nghĩ rằng trong lòng mỗi người đều có những tình cảm thật thân thương đối với anh. Tuy nhiên sau khi đọc bài viết của anh Trung, không hiểu tại sao tôi lại muốn xin được mạn phép viết những dòng nầy để chia sẻ với chúng ta, những người còn ở lại, một bài thơ mà không nhớ do cơ duyên nào tôi đã sưu tập được .

CÒN GẶP NHAU

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời

Còn gặp nhau thì hãy cứ thương
Tình người muôn thuở vẫn còn vương
Chắt chiu một chút tình thương
Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường.

Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi
Bao nhiêu thú vị ở trên đời
Vui chơi trong ý tình cao nhã
Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời.

Còn gặp nhau thì hãy cứ cười
Cho tình thêm thắm, ý thêm tươi
Cho hương thêm ngát, đời thêm vị
Cho đẹp lòng nhau hết mọi người.

Còn gặp nhau thì hãy cứ chào
Giữa miền đất rộng với trời cao
Vui câu nhân nghĩa tròn sau trước
Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau.

Còn gặp nhau thì hãy cứ say
Say tình say nghĩa bấy lâu nay
Say thơ, say nhạc, say bè bạn
Quên cả không gian lẫn tháng ngày.

Kính chúc các anh chị và gia quyến luôn vui khỏe.

Nguyễn thị Ngọc Trinh (Exryu Japan)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Cựu lưu học sinh VN ở Nhật, nói đến anh Chánh, dẫu chưa có dịp tiếp chuyện đi nữa, nhưng có lẽ ai cũng biết anh. Anh tính tình vui vẻ, cởi mở, hết lòng với đất nước, bạn bè. Mấy năm trước có dịp gặp anh, có chào hỏi anh nhưng tiếc có lẽ anh không nhận ra mình được (do di chứng của chấn thương trượt ngã?).

Nay thật bàng hoàng nghe hung tin anh đã mất.

Xin anh Tâm chuyển lời chia buồn của mình đến chị và 2 cháu.

Cầu mong hương hồn anh được an nghỉ nơi miền cực lạc.

Thành kính.

LN Thảo (Exryu Japan) và gia đình.

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Kính gửi anh Tâm và anh Long

Kính nhờ các anh chuyển lời chia buồn sâu sắc tới chị Chánh và hai cháu Kim Liên, Mỹ Liên.

Vì đang ở Việt Nam nên Hoàn không thể tới viếng anh Chánh được, kính nhờ các Anh thắp giùm nén tâm nhang tiễn đưa người Anh kính mến đã rời xa cõi tạm.

Cầu mong Anh sớm tiêu diêu nơi miền cực lạc.

Nguyễn Địch Hoàn (Exryu Japan)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Cầu nguyện hương hồn anh Chánh sớm siêu thoát....

Thành thật xin chia buồn đến gia quyến họ hàng...

Huỳnh vạng Minh

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thành kính chia buồn cùng gia đình anh Huỳnh Trí Chánh,

Nhớ tiếc một người bạn tích cực, nhiệt tình, quả cảm và tận tụy, xin cùng nguyện cầu anh linh anh Chánh an lạc nơi cõi vĩnh hằng.

Cảm ơn anh Lê Văn Tâm và anh Võ Thành Long đã báo tin,

Phạm Vũ Thịnh & Võ Ngọc Thành (Exryu Úc Châu)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thành Thật Phân Ưu cùng chị Yasuyo và gia đình anh Chánh.

Thật đau buồn khi nhận được Hung Tín này.

Vậy là từ nay chúng ta lại mất đi thêm một người bạn rất đáng quý.

Tôi đã dự định đi thăm anh Chánh từ lâu, nhưng vì COVID-19, nên đã không thực hiện được. Buồn quá.

Tôi sẽ tham dự buổi lễ ngày 20/11/2021.

Trân Trọng.

Trương Đình Thanh (Exryu Japan)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thanh kinh chia buoncung i Gia Dinh va ban huu cua anh Chanh . :-(

Xin thap nen huong long cau nguyen anh linh cua Anh Chanh ve an vui noi coi vinh hang .

Vinh biet anh

Kinh

Nguyen Trong Binh (Exryu USA)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thành thật chia buồn với chị Yasuko, hai cháu gái và tang quyến.

Nguyện cầu hương linh sempai được an nghỉ cõi vĩnh hằng.

Lần đầu và cũng là lần chót được anh rủ về nhà chơi vào năm 76.

Đã 45 năm không có dịp gặp lại anh nhưng vẫn nhớ món xào hẹ với gan gà mà anh đãi khi ghé nhà anh khi Tokyo đã về khuya.

NDKhanh (Exryu USA)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thành thật chia buồn cùng chị Yasuko và tang quyến

Cầu nguyện hương linh anh Chánh sớm tiêu diêu miền cực lạc

Trần Đình Tòng và Gia Đình (Exryu VietNam)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Vô cùng thương tiếc một Sempai cương trực, khẳng khái, rất nhiệt tình và hết lòng với kohai.

Không sao quên được những mẫu chuyện có một không hai ở Nhật của anh, chỉ có anh, một mình anh với biệt danh “Người ruồi gây máu lửa “ đã chận bắt cảnh sát Nhật và dẫn về bót cảnh sát vì bắt quả tang cảnh sát chạy xe đạp ban đêm mà không có đèn và rồi ...cảnh sát phải xin lỗi !

Những ký ức về anh cứ ập về, nhất là những buổi đi “nhậu” tăng một, tăng hai, tăng ba, rồi tăng...thâu đêm để mười lần như một, kết thúc bằng một chầu “bourbon “. Đi với anh là chấp nhận “táng sới” !

Lần cuối đến thăm anh tại nhà anh ở SG.

Lần này không phải mang rượu tới biếu anh nữa mà là một hộp.. sữa bột ensure.

Từ dạo đó không còn gặp lại anh nữa.

Giờ thì anh đã ra đi...để lại bao luyến tiếc cho bạn bè và kohai.

Thôi, chúc anh đi bình yên.

...

Xin thành kính chia buồn cùng chị Yasuko và quý tang quyến.

Nguyện cầu hương linh anh sớm siêu thoát về cõi an lành.

Thái Anh Tuấn (Exryu Úc Châu)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Rất buồn khi nghe tin anh Huỳnh Trí Chánh đã ra đi vĩnh viễn.

Chỉ biết nguyện cầu cho Hương Hồn anh sớm thong thả nơi vĩnh hằng.

Namoadidaphat

PMKha (Exryu Japan) và Gia đình

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Bàng hoàng và xúc động trước sự ra đi của anh Chánh.

Qua những lúc làm việc và vui đùa, anh Chánh luôn là người bạn tốt, nhanh nhẹn và nhiệt tình.

Nguyện cầu hương linh anh tiêu diêu nơi miền cực lạc.

Duyên (Exryu Úc Châu) và gia đình,

Sao Anh nỡ vội ra đi

Tôi gặp anh Chánh lần đầu tiên năm 1967 khi tôi tham dự chuyến du ngoạn ngắn hạn do Hội Sinh Viên VN tổ chức, có lẽ tại núi Takao.

Không biết có ai đó nói gì về tầm thước nhỏ người của tôi và anh Chánh, anh nói với tôi “Chúng mình phải đoàn kết với nhau”. Là kohai chân ướt chân ráo sang Nhật, tôi trả lời với sempai : “Chúng mình phải chồng chất lên nhau”. Anh phá lên cười, và lặp lại câu trả lời của tôi cho mọi người nghe.

Anh Chánh có nụ cười rất tươi. Bây giờ vẫn như nghe bên tai, mặc dù anh đã sang bên kia thế giới.

Cho tới khi tôi sang Úc, tôi có nhiều dịp làm việc chung với anh. Anh là người cương quyết, làm việc hết mình, nhưng là người bạn tốt với mọi người, kể cả những ai không cùng chính kiến với anh. Anh có khen người này, người nọ, nhưng chưa nghe anh chê bai hay nặng lời với ai. Anh nhiều lần rũ tôi về nhà anh, uống bia, kể cả sau khi anh lập gia đình với chị Yasukoi. Anh làm món nhậu rất ngon. Chị Yasuko thì không lộ gì vẽ phiền hà.

Anh cũng có óc hài hước. Có lần lái xe trên xa lộ bên Nhật, trên con đường thẳng anh buông hai tay làm anh Hoàng Khắc Long la lớn : “Coi anh Chánh lái xe mà buông tay kìa”. Anh cười khoái trá. Đi chơi với anh, bao giờ cũng vui.

Lần cuối năm 1988, tôi gặp anh ở ABK, anh biết tôi sắp sang Úc, anh đến nói với tôi : “Con tôi tên Kim”. Con tôi bị bạn nó nói “Mầy là dân Triều Tiên phải không”. Con tôi trả lời không thì bạn nó nói “Mầy nói láo, tên mầy là Kim”. Tôi nghĩ anh đau lòng lắm khi lăp lại những câu đó cho tôi nghe, ngụ ý anh tán đồng một phần nào quyết định của tôi.

Kể từ đó tôi không còn có dịp gặp anh nhưng nghe nói anh có về VN làm việc và hoạt động tích cực cho Hội Người Việt tại Nhật Bản, bỏ tiền túi đi từ Fukushima, quê chị Yasuko, về Tokyo.

Năm nay, 2021, được tin nhiều người bạn ở cùng cư xá Inage lần lượt ra đi, tôi dự định sang Nhật một lần để gặp lại ân nhân người Nhật, anh Chánh và những người bạn cũ. Vì nghĩ rằng khi tất cả ở tuổi thất thập cổ lai hi hay cao hơn nữa, bây giờ không gặp thì còn khi nào nữa.

Không may, anh đã ra đi trước khi tôi có thể sang Nhật. Xin anh an nghĩ nơi cõi vĩnh hằng.

 

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Kính nhờ các a/c exyu Nhật Bản chuyển lời thành kính phân ưu đến g/d anh Huỳnh trí Chánh.

Nguyện hương linh anh Chánh sớm vãng sanh về miền Tây phương cực lạc.

Đỗ Văn Điền (Exryu VietNam)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Xin chia buồn cùng chị Yasuko và tang quyến.

Cầu nguyện cho hương hồn anh Chánh sớm siêu thoát.

Trưong Hà Sanh (Exryu USA)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Quang - Nhẫn xin chân thành chia buồn cùng chị Chánh và gia đình .

Ưóc mong hương hồn anh Chánh được an vui nơi miền cực lạc .

Thành kính phân ưu,

Quang - Nhẫn (Exryu USA)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Xin chia buồn cùng chị Chánh và tang quyến,

Xin nguyện cầu vong linh của anh Chánh sớm về côi niết bàn.

Gđ N V Minh Châu, Montreal

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Xin chia buồn cùng chị Chánh và toàn thể gia đình .

Nguyện cầu cho hương linh anh sớm về miền Vĩnh cửu .

Thanh Sơn (Exryu Canada) và gia đình .

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Vo cung dau buon khi nhan duoc tin Anh Chanh da ra di,nhung ky niem hop mat o Saigon cung anh Chanh khong bao gio quen duoc

Xin chia buon cung Chi Yasuko va tang quyen

Xin nguyen cau huong hon Anh Chanh som tieu dieu noi mien cuc lac

HO LAI PHUONG (Exryu Vietnam)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thành thật chia buồn cùng chị Yasuko và tang quyến,

Kính nguyện cầu vong linh anh Hùynh Trí Chánh mau sớm về côi niết bàn.

GĐ Nguyễn Trọng Đức (Exryu USA)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Nhận được tin buồn anh Chánh đã vĩnh viễn ra đi, kính nhờ các anh Tâm/Long chuyển đến chị Yasuko và gia đình anh Chánh lời chia buồn thành kính phân ưu.

Cầu mong cho gia đình sớm vượt qua đau thương, ổn định cuộc sống, mạnh khỏe, bình an và hương hồn anh Chánh sớm về cõi vĩnh hằng.

Quách Đình Huân và gia đình (Exryu Úc Châu)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thành thật chia buồn cùng Chị Yasuko và Tang Quyến.

Cầu mong Chư Phật độ trì hương linh Senpai Huỳnh Trí Chánh sớm về cõi Tịnh Độ.

Gia đình Nguyễn văn Tân (Exryu Canada)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thành thật chia buồn cùng chị Yasuko và tang quyến.

Cầu nguyện hương linh Anh Chánh sớm được yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng.

Gia đình Lê Quang Tấn (Exryu USA)

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Thành kính phân ưu cùng gia đình anh Chánh.

Mong hương hồn anh Chánh sớm phiêu diêu miền cực lạc.

Tôi, người có tuổi hơi xem là nhỏ nhất, cũng đã gần “thất thập cổ lai hy”.

Anh Chuyễn đã ra đi, nay đến anh Chánh.

Tôi không biết lúc nào cùng sẽ được gặp anh Chuyễn, anh Chánh.

Ôi! cũng là một đời người.

Một lần nữa, xin thành kính phân ưu.

Huỳnh công Minh (Exryu Japan)

https://www.erct.com/3-HinhAnh/Exryu-Quaco/Hoai_Niem/Huynh-Tri-Chanh.htm


"

Xin Gửi đến các anh chị bài viết rất hay rất cảm động của anh Dương Văn Quả về cảm nghĩ và hồi ký về những sinh hoạt và tình cảm với anh Huỳnh Trí Chánh. Đây là tình cảm anh Chánh đã dành cho bạn bè và kohai của anh Chánh. Xin mạn phép post lên FB của Hội SV VN Du Học Tại Nhật.
Hồi tưởng :Anh Huỳnh trí Chánh
Dương văn Quả
Người đi đi mãi không về
Nhớ Người dòng suối Đa My gợn buồn
Tôi dự định chuyến về Nhật năm 2020 sẽ ghé thăm anh, nhưng thực tế tinh hình dịch bệnh covid-19 ngày một trầm trọng vượt qua dự tưởng .Các chuyến bay đi về Nhật –Việt Nam đều bi hạn chế, các qui chế tiêm chủng vaccine cũng quá khó khăn, cứ ngong ngóng ngày được lên máy bay, nhưng cũng chưa thực hiện được.
Dịch Covid-19 lần này xảy ra làm đảo lộn mọi trật tự thế giới trên mọi lãnh vực :kinh tế, chính trị,xã hội,len vào gia đình, quan hệ Người với Người, sự tàn khốc ngoài sức tưởng tượng và chẳng ai dự đoán được thân phận mình ngày mai sẽ ra sao.
Nói đến anh Chánh , bao giờ cũng nhớ đến dáng người nhỏ bé.Nhớ ngày xưa anh Vĩnh Sính ví anh Chánh như “ Người ruồi gieo máu lửa”. Nhưng trong hoạt động và công việc anh bao giờ cũng tích cực,chu đáo ,đi tiên phong và không bao giờ lùi bước trước khó khăn ,nghịch cảnh ,cố gắng đạt được mục đích đã hoạch định.
Đối với lớp anh em trẻ , anh bao giờ cũng có tình cảm khoan dung với nụ cười dễ thương.
Về tửu lượng anh Chánh là “một cao thủ “mà tôi chưa bao giờ gặp
Thường thì người ta mượn rượu tiêu sầu :” Dục phá thành ,duy hữu tửu”, nhưng với anh Chánh
thì rượu là một chất xúc tác để khơi mào câu chuyện trao đổi với anh em, câu chuyện không bao giờ có hồi kết . Có những lần hẹn anh đi ăn cơm chiều thứ Bảy xong , anh lại rủ đi uống lần 2 (Ni ji kai 二次回), lần 3 (3 次回) đến 3-4 giờ sáng là chuyện bình thường
Cách đây hơn 4 năm , khi biết anh bị tai biến mạch máu não,tôi ghé đến bệnh viện ở TODA thăm anh ,suốt buỏi chiều anh vui vẻ cố gắng nói chuyện, nhưng phần lớn anh chỉ nhớ tiếng Việt Nam ,tiếng Nhật anh quên gần hết ,và nói những chuyện của 10-30 năm trước , còn những chuyện gần sau này anh hầu như không nhớ rõ được. Chị Yasuko than anh chỉ nói tiếng Việt, nên đôi khi Chị Yasuko không hiểu hết ý của anh, nên mỗi ngày làm khán hộ bệnh cho anh rất vất vả.
Sau lần đi thăm anh ,tôi chạnh lòng đinh ninh không lẽ đây là lần cuối cùng nói chuyện với anh Chánh trong một tâm thái bâng khuâng khó diễn tả.
Trước khi chia tay,tôi cảm thấy anh có điều gì còn muốn nói thêm; bước đi một lúc, ngoãnh nhìn lại vẫn còn thấy anh đứng vẫy tay :
Có những niềm riêng làm sao nói hết
Như mây như mưa ,như cát biển khơi
Có những niềm riêng ,làm sao ai biết
Như trăng trên cao cách xa vời vợi
.....
Này niềm riêng ,như nước vẫn đầy vởi
Đâu đây vang vang tiếng buồn gọi mời
Ôi nỗi sầu, cao chất ngất
Như một ngày ,như mọi ngày ,như vạn ngày ,không thấy đổi thay!!!
........
Có những niềm riêng ,một đời dấu kin
như rong như rêu ,bám trong biển khơi
Có những niềm riêng ,một đời câm nín
Nên khi xuôi tay ,còn chút ngậm ngùi
(Có những niềm riêng;Lê tín Hương)
Sau lần gặp mặt đó, vẫn định có dịp về Nhật, rủ vài anh em đi thăm , nhưng bây giờ không còn có cơ hội nữa.!!!.
Vầng trăng xưa vẫn còn ,mà người xưa giờ cách xa muôn trùng !
Anh Chánh!
Khi vào trong cuộc đời này, anh đã đóng góp và trả nợ cuộc đời như Trịnh Công Sơn viết : “Hai mươi năm xin trả nợ người “, vì vậy lần này ra đi anh đã hoàn thành” Nghiệp” mà vũ trụ đã trao cho anh, nói theo cách của Thần số học (Numerology của Pythagoras). Hiện anh đang đi vào một vùng năng lượng mới sau khi hoàn thành” Nghiệp”.
Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây
Chút nắng vàng từ nay cũng vội
Khép lại từng đêm vui
Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình ,thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi!
.......
Tiếng thì thầm, từng đêm nhớ lại
Ngỡ chỉ là cơn say
Đóa hóa vàng, mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay!!!
(Như một lời chia tay;Trịnh Công Sơn)
Chào anh

https://www.facebook.com/groups/250338878461227/posts/1917394191755679/

"



"

Một tin nhắn từ Nhật của anh Tân báo tin: anh Huỳnh Trí Chánh , bạn của chúng tôi đã ra đi do bệnh viêm phổi. Năm 1993, anh được một cuốn sách của Nhật xếp vào “danh sách 200 nhân vật đã làm thay đổi nước Nhật” cùng với nhiều Thủ tướng của Nhật và nhiều người nổi tiếng khắp thế giới. Anh từng dạy học tại trường Đại học ngoại ngữ Tokyo (công lập) nhiều năm. Sinh sống trên đất Nhật gần 60 năm nhưng anh vẫn giữ quốc tịch Việt. Anh Chánh nguyên là Chủ tịch Tổng Hội người Việt Nam tại Nhật trong suốt thời gian từ năm 1982-2009. Trước đó, anh là Tổng Thư ký của Tổng hội.
Mỗi lần sang Nhật, tôi thường gặp thăm Anh. Hai anh em thường dẫn nhau vào cái quán rượu mà anh có mua membership,rất nhiều loại rượu ngon và hải sản. Anh uống rượu nhiều, còn tôi thì chỉ uống chút ít và ngồi nghe anh nói nhiều về cuộc đời anh và anh em Việt kiểu cùng thời,sống và làm việc trên đất Nhật trên 50-60 năm trời, nhất là giai đoạn còn chiến tranh Việt Nam .
Anh rất ít đi xe hơi, thường anh dắt chúng tôi đi tàu điện, phương tiện phổ biến của người Nhật cho tới tận bây giờ. Lần gặp anh cuối cùng ở Tokyo, cách nay, cũng đã hơn 3 năm cùng với anh Tân, bạn chung của chúng tôi ở Nhật, tôi thấy anh đã bắt đầu yếu, và ít nói chuyện sôi nổi như xưa.
Nay, cũng anh Tân báo tin anh mất qua Viber. Tôi lặng người xúc động. Một đời người như anh, sống với Tổ quốc, bạn bè và gia đình đều trên mức tuyệt vời. Vĩnh biệt Anh và xin chia buồn cùng chị và gia đình.
“Xin chào các bạn,
Chúng tôi, Võ Thành Long và Lê Văn Tâm xin báo tin buồn với lòng thương tiếc sâu sắc là anh Huỳnh Trí Chánh, người bạn của chúng ta, đã qua đời vào 21:23 ngày 7 tháng 11 năm 2021 vì bịnh viêm phổi (tiếng Nhật là 誤嚥性肺炎).
Chị Chánh nói là chỉ làm đám tang trong gia đình xong và sẽ hỏa táng vào ngày 11 tháng 11 năm 2021. Vì điều kiện chật hẹp của nhà hỏa táng, nên gia đình chỉ tổ chức quy mô gia đình, mong anh em thông cảm.
Được sự đồng ý của chị Chánh, chúng tôi sẽ tổ chức một buổi lễ đốt nhang và tường nhớ anh Chánh như sau :
Địa điểm : phòng 101, Asia Bunka Kaikan
ngày giờ : từ 15 giờ đến 16:30 ngày 20 tháng 11 năm 2021.
Chị Chánh sẽ có mặt chung với chúng ta.
Vì trong bối cảnh dịch bệnh corona, anh chị em tham dự xin vui đeo khẩu trang và giữ khoảng cách”.
Trân trọng


https://www.facebook.com/photo?fbid=1042869542936359&set=pcb.1042675996289047

"



0. Ngày 9/11/2021

Anh Huỳnh trí Chánh đã ra đi tại Nhật Bản

https://www.facebook.com/groups/250338878461227/posts/1912928502202248/

"

  • Uy Do
    Định hôm nào đi thăm anh Chánh lại chứ. Đâu ngờ ảnh đi mất rồi. Mà sao anh Chánh lại mất vì viêm phổi? Năm ngoái cũng đã đi thăm ảnh mấy lần, mà từ khi bị đột quỵ (không mổ không vệ sinh nảo), càng ngày anh Chánh càng mất trí nhớ dần, mấy lần đàu thì mất chứng 15 phút, nửa tiếng thì anh Chánh bất đầu vui vẽ trò chuyện, những lần sau thì phải mất 1 tiếng hay 2 tiếng anh Chánh mới nhớ và nói chuyện vui vẽ lại, lần nào chia tay, anh Chánh cũng ôm mình chia tay, anh không còn nói chuyện nhiều với vợ con anh ... Ừ, thấy là anh Chánh đang chết, và tôi cố thăm ảnh thường hơn đến khi anh Chánh đi, nhưng rồi cá nhân tôi cũng nhiều chuyện buồn, thăm anh Chánh ít hơn là như đã kế hoạch ... rồi bây giờ thì biết ảnh đã ra đi. Cám ơn chị Chánh ...
    Note: Beiheito là một tổ chức ít người, có lẽ không quá 10, cảm tình viên thì nhiều (nhiều người chúng ta ngộ nhận là thành viên Beiheito, nhưng không phải). Theo tôi, thì anh Chánh, anh Chuyển là 2 người trong Beiheito, không có thay đổi suy tư và đạo đức của mình, hai anh là 2 đồng chí duy nhất tôi kính mến nhất. Thế là tôi mất hết rồi. Xem như một thế hệ của thời hoạt động sinh viên, vận động người ngước ngoài ngày nào chính thức khép lại... Không biết đến lúc nào mới gặp lại 2 anh ấy.
    • Thích
    • Phản hồi
    • Chia sẻ
    • 1 tuần
    • Đã chỉnh sửa
  • Khon Tri Ngo
    Cám ơn anh Thuận đã cho biết tin mặc dù là tin không vui.
    Anh Chánh kính mến,
    Tôi thật sự rất buồn khi nghe tin anh qua đời. Dẫu biết rằng cuộc đời là vô thường, cuối cùng tất cả đểu phải trở về với cát bụi. Nhưng việc ra đi của anh đã làm cho tôi và nhiều người bùi ngùi thương nhớ đến một sempai luôn nhiệt tình với tập thể sinh viên, yêu quê hương hơn cả yêu bản thân mình. Xin chia buồn cùng chị và gia quyến. Cầu nguyện Chư Phật độ Hương Linh anh sớm được siêu sanh nơi miền cực lạc.
    Kohai Ngô Khôn Trí
    • Thích
    • Phản hồi
    • Chia sẻ
    • 1 tuần
  • Shinichi Emori
    Được tin buồn anh Chánh đã mãn phần tại Tokyo .
    Thành kính phân ưu cùng chị Chánh và gia đình.
    Xin cầu nguyện hương hồn anh Chánh được an nghỉ trên miền Cực lạc.
    Phạm công Tâm


"

..






---

BỔ SUNG



..


Huỳnh Trí Chánh- nhân vật góp phần làm thay đổi nước Nhật

Thứ năm, 01/03/2012 15:39


Là 1 trong 200 nhân vật làm thay đổi nước Nhật, ở tuổi 72 tuổi, với hơn 50 năm sống và làm việc tại Nhật, đã kết hôn với vợ là người Nhật, song Việt kiều Huỳnh Trí Chánh vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.

 

 Ông Huỳnh Trí Chánh (Ảnh IT)


Có hơn 50 năm sống và làm việc tại Nhật, đã kết hôn với vợ là người Nhật, song ông Huỳnh Trí Chánh vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Ông nói: “Tại sao phải đổi quốc tịch của mình?”

Thoát chết li kỳ

Còn nhớ, sau cơn động đất và sóng thần dữ dội xảy ra tại Nhật vào tháng 3/2011, hơn một ngày sau, bạn bè trong và ngoài nước mới nhận được dòng tin nhắn gửi qua email của ông Huỳnh Trí Chánh: “Tôi đang ở trại tị nạn sau khi xảy ra động đất lớn nhất trong lịch sử động đất Nhật. Huỳnh Trí Chánh chưa chết, được phát cơm và nước uống... Tôi không thể viết nhiều hơn vì hàng trăm người đang sắp hàng chờ đến lượt sử dụng máy tính ở trại tị nạn này”.

Trường hợp thoát chết của ông khá li kỳ. Chiều 11/3/2011, trận động đất xảy ra, ông rời trường cùng với 4 đồng nghiệp là người nước ngoài để về nhà, nơi ông đang trọ để dạy ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa Việt cho đội ngũ chuyên viên làm việc cho các chương trình ODA của Nhật tại Việt Nam, gọi là Trung tâm đào tạo của Tổ chức Hợp tác Quốc tế của Nhật - JICA.

Trên đường đi, vì có kế hoạch mời một số bạn bè đến nhà dùng bữa vào ngày hôm sau, ông Chánh ghé siêu thị để mua thực phẩm nên khi trận động đất xảy ra, ông đã được an toàn. Còn 4 đồng nghiệp của ông, người Scotland, Australia, New Zealand và Thái làm việc tại Nhật đều chết trên đường về nhà.

Hiện tại, có trên 50 chuyên viên người Nhật làm việc cho các dự án ODA tại Việt Nam là học trò của ông từ chương trình đào tạo nói trên.

Ông Chánh nguyên là Chủ tịch Tổng Hội người Việt Nam tại Nhật trong suốt thời gian từ năm 1982-2009. Trước đó, ông là Tổng Thư ký của Tổng hội và được coi như người anh cả trong phong trào phản chiến tại Nhật trước năm 1975.

Đón Xuân Nhâm Thìn vừa qua, Ủy Ban Nhân dân TP HCM đã thay mặt Chính phủ, trao Bằng khen của Thủ tướng cho ông vì đã có nhiều đóng góp trong việc xây dựng, củng cố và phát triển cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đoàn kết hướng về cội nguồn, góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương. Trước đó, năm 2006, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã trao ông bằng khen vì đóng góp đặc biệt cho sự phát triển quan hệ 2 nước.

Ông Chánh từ chối nói những chuyện đã qua, song thực tế, Tổng hội người Việt Nam tại Nhật do ông làm Tổng Thư ký và sau đó là Chủ tịch từ năm 1975 có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng và phát triển tại quê nhà. Trong Thông báo giải tán Tổng hội vào năm 2009, ông Chánh viết: “Sự ra đời của Tổng hội là do tình hình khách quan lúc bấy giờ đòi hỏi cộng đồng người Việt tại Nhật cần có một tổ chức tập hợp mọi người Việt tại Nhật để cùng chung sức đóng góp...”.

Tiền thân của Tổng hội là “Tổ chức người Việt tại Nhật đấu tranh đấu cho hòa bình thống nhất đất nước” (được thành lập năm 1969 và giải tán năm 1976). Trong thời bình, những thành viên của Tổng hội theo lời kêu gọi xây dựng đất nước đã trở về làm kinh doanh từ rất sớm. Đó là ông bà Tô Bửu Lưỡng - Đào Thị Minh, thành lập Công ty Lotus chuyên xuất khẩu nông sản Việt sang Nhật từ thời Việt Nam còn bị cấm vận. Đó là ông Hồng Lê Thọ, về nước lập Công ty Mỹ phẩm Đại Phú Sỹ từ những năm 90 của thế kỷ trước. Đó là ông Nguyễn An Trung lập công ty nhập khẩu xe (từ những năm đầu của thập niên 1980) nhằm tìm đường cho Việt Nam thông thương với nước ngoài ngay trong thời gian còn bị cấm vận...

1 trong 200 nhân vật làm thay đổi nước Nhật

Trong cộng đồng Việt kiều Nhật về nước kinh doanh, ông Chánh tuy không làm kinh doanh, song vai trò ngoại giao kinh tế chính trị của ông với Nhật, đặc biệt thời kỳ trước cấm vận, là rất quan trọng. Có lẽ chính vì lẽ đó, ông Chánh, cùng với những vị Thủ tướng nổi tiếng của Nhật cũng như các nhân vật nổi tiếng khắp thế giới, đã được giới thiệu trong quyển “200 nhân vật đã làm thay đổi đất nước Nhật”, xuất bản năm 1993.

Ông Chánh cũng là một Việt kiều Nhật về nước thường xuyên từ sau 1975 để thực hiện các nhiệm vụ không tên. Ông bộc bạch: “Tôi trưởng thành trong “phong trào chống Mỹ” tại Nhật. Đó là lợi thế để tạo niềm tin và làm được việc mình mong muốn để đóng góp cho đất nước trong hoàn cảnh éo le”.

Ông Chánh được đào tạo chuyên ngành Thủy sản hàng hải học tại một đại học công lập ở Tokyo (Nhật Bản). Trước ngày về hưu (năm 2001) và dạy ngôn ngữ học cho JICA, ông có hơn 20 năm giảng dạy tại Đại học Ngoại ngữ Tokyo./.

https://dangcongsan.vn/nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai/huynh-tri-chanh-nhan-vat-gop-phan-lam-thay-doi-nuoc-nhat-116430.html

..


Cập nhật: Chủ nhật 25/11/2007 - 10:11
Theo đặc phái viên TTXVN, vào lúc 15 giờ địa phương, ngày 25-11 (tức 13 giờ cùng ngày, theo giờ Hà Nội), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Phu nhân cùng Ðoàn đại biểu Nhà nước ta đã tới Thủ đô Tokyo, bắt đầu chuyến thăm Nhật Bản cấp Nhà nước theo lời mời của Nhật Hoàng Akihito và Hoàng hậu.
Ra đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Phu nhân tại sân bay Haneda có: Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản H. Kimura, Ðại sứ Nhật Bản tại Việt Nam N.Hattori và Phu nhân, Ðại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Chu Tuấn Cáp và Phu nhân, một số quan chức Bộ Ngoại giao Nhật Bản, cùng các cán bộ Ðại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản và đại diện sinh viên Việt Nam đang học tập tại Nhật Bản.

Chính phủ và nhân dân Nhật Bản đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Phu nhân cùng Ðoàn đại biểu Nhà nước Việt Nam bằng nghi thức loạt 21 phát đại bác bắn chào mừng khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Phu nhân bắt đầu bước xuống cầu thang máy bay.

Ngay khi về đến khách sạn, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết và Phu nhân cùng Ðoàn đại biểu Nhà nước ta đã gặp mặt và nói chuyện thân mật với đại diện Việt kiều và sinh viên Việt Nam đang sinh sống, học tập tại Nhật Bản, cùng những người Nhật Bản đã có nhiều năm gắn bó với Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, xây dựng và phát triển đất nước ngày nay - mà được gọi thân mật là "những người Việt Nam mới".

Hiện cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản có khoảng 17.000 người, thường xuyên có các hoạt động hướng về quê hương, quan tâm đùm bọc nhau. Nhiều doanh nghiệp Việt kiều đã về nước đầu tư và hoạt động rất thành công. Các sinh viên Việt Nam đang học tập tại Nhật Bản đã thành lập được Hội liên hiệp thanh niên, sinh viên Việt Nam.

Thay mặt bà con Việt kiều, Chủ tịch Tổng hội người Việt Nam tại Nhật Bản Huỳnh Trí Chánh bày tỏ niềm phấn khởi, hân hoan của cộng đồng người Việt Nam chào đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang thăm Nhật Bản.

Ông Huỳnh Trí Chánh thổ lộ sự vui mừng và tự hào về những thành tựu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước thời gian qua, đưa vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Bà con Việt kiều tin tưởng chuyến thăm của Chủ tịch nước sẽ mở ra trang sử mới trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản.

Ông Kamo, đại diện "những người Việt Nam mới" nhắc lại kỷ niệm xúc động được gặp Bác Hồ năm 1948 khi ông làm việc tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông bày tỏ niềm tự hào về thời gian được sát cánh cùng nhân dân Việt Nam chiến đấu chống thực dân xâm lược.

Nói chuyện tại buổi gặp mặt, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vui mừng, xúc động trước tình cảm của bà con Việt kiều đối với quê hương, tình cảm của những người dân Nhật Bản đã gắn bó với Việt Nam, có những kỷ niệm sâu sắc về Bác Hồ, xem Việt Nam là quê hương thứ hai của họ.

Chủ tịch nước nhấn mạnh, Việt Nam có được sự phát triển ngày hôm nay là nhờ những đóng góp to lớn của người dân ở trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cả sự đóng góp từ những người bạn của Việt Nam từ thời gian khổ đấu tranh giành độc lập cũng như thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ sự ủng hộ, cổ vũ của bạn bè quốc tế.

Về chuyến thăm Nhật Bản cấp Nhà nước, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói: "Chúng ta rất vui mừng khi tình hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển tốt đẹp. Ðặc biệt, tình cảm của những người bạn trước sau như một thủy chung, hữu nghị với Việt Nam sẽ càng góp phần củng cố sự hợp tác giữa nhân dân hai nước. Chuyến thăm sẽ góp phần tăng cường và củng cố mối quan hệ hữu nghị và đoàn kết Việt Nam - Nhật Bản, đưa sự hợp tác giữa hai nước đi theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn".

Với các sinh viên Việt Nam học tập tại Nhật Bản, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kêu gọi: "Ðất nước đang cần những bàn tay, khối óc của lớp trẻ. Các em cần ráng sức học tập, rèn luyện để sau này đóng góp xây dựng quê hương. Nhật Bản có môi trường đào tạo đặc biệt tốt. Ðất nước Nhật Bản có nền kinh tế, trình độ quản lý hàng đầu thế giới. Nhân dân Nhật Bản đi lên cũng bằng chính bàn tay và khối óc của mình. Học tập ở Nhật Bản, sinh viên sẽ không chỉ tiếp thu được trình độ khoa học kỹ thuật, quản lý, mà còn tích lũy được cả về ý chí, nghị lực và lòng quyết tâm".

Chủ tịch nước tin tưởng với bản lĩnh trí tuệ, noi gương những người đi trước, lớp trẻ trong tương lai sẽ thành công trong công cuộc xây dựng đất nước. Việt Nam ngày mai sẽ là một đất nước hùng cường.

Chiều tối 25-11, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Phu nhân cùng Ðoàn đại biểu Nhà nước ta đã tới thăm và nói chuyện với cán bộ, nhân viên Ðại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản.

admin
Theo Nhân dân

https://baothainguyen.vn/trang-in-23213.html

..


Vinh danh 19 kiều bào Việt Nam tại Nhật Bản

Thứ Hai, 02-07-2007, 02:37


Tham dự buổi lễ có đông đảo đại diện của Tổng hội người Việt Nam tại Nhật Bản, các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và các cơ quan đại diện nước ta tại Nhật Bản.

Đại sứ nước ta tại Nhật Bản Chu Tuấn Cáp đã nhiệt liệt chúc mừng 19 kiều bào được nhận bằng khen lần này, thể hiện sự đánh giá cao của quê hương, đất nước đối với những đóng góp tích cực của Tổng hội  người  Việt  Nam ở Nhật Bản nói chung và các cá nhân được nhận bằng khen nói riêng. Đại sứ nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước đang trông đợi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và tại Nhật Bản nói riêng tiếp tục phát huy truyền thống, chung sức chung lòng cùng đồng bào cả nước đóng góp hiệu quả hơn nữa vào công cuộc xây dựng quê hương, đồng thời là nhịp cầu hợp tác, hữu nghị gắn liền hai dân tộc Việt Nam - Nhật Bản.

Thay mặt những người được trao tặng bằng khen, Tiến sĩ Huỳnh Trí Chánh, Chủ tịch Tổng hội người Việt Nam tại Nhật Bản, đã bày tỏ niềm vinh dự và tự hào cũng như lòng biết ơn sâu sắc đối với quê hương, đất nước. Tiến sĩ cam kết sẽ nỗ lực hết sức để củng cố sự phát triển của cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản nhằm đóng góp tích cực và hiệu quả hơn nữa vào sự phát triển của quê hương, đất nước, đặc biệt là sự phát triển của quan hệ Việt - Nhật.

https://nhandan.vn/nguoi-viet-xa-xu/vinh-danh-19-kieu-bao-viet-nam-tai-nhat-ban-425771/


..

[21] - Người ta hãy còn nhớ các thầy Đàm Quang Tuấn, Huỳnh Trí Chánh… ở Tôkyô Gaidai, Phan Đức Lợi ở Ôsaka Gaidai là những cựu sinh viên du học Nhật Bản đã có cống hiến lớn lao cho việc truyền bá ngôn ngữ văn hóa Việt Nam ở Nhật, bên cạnh các thầy đến từ trong nước từ hai miền Nam (Nguyễn Khắc Kham), Bắc (Nguyễn Cao Đàm). Con số giảng sư khá đông nhưng riêng thầy Đàm Quang Tuấn là người đi tiên phong đã dạy ở Tôkyô Gaidai từ khóa đầu tiên (LND).

VÀ LỊCH SỬ VẪN TIẾP DIỄN:
KHÁI LƯỢC VỀ NGÀNH VIỆT HỌC TẠI NHẬT BẢN


(Et l’histoire continue: petite présentation du monde
des études vietnamiennes au Japon)

Nguyên tác: Frédéric Roustan
Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

Dẫn nhập của người biên dịch:

Nhân vào trang của cơ quan nghiên cứu Réseau-Asie trên mạng, tôi tình cờ gặp bài tham luận bằng tiếng Pháp của nhà nghiên cứu trẻ Frédéric Roustan (đọc tại cuộc hội thảo khoa học về Á Châu do Réseau-Asie qui tụ các học giả và chuyên gia về châu Á ngày 28-29-30 tháng 9 năm 2005 tại Paris). Lúc đó, tác giả hãy còn là nghiên cứu sinh tiến sĩ sử học tại Đại học Ngoại Ngữ Ôsaka. Trong tinh thần cầu học, chúng tôi mạn phép ông để chuyển ngữ hầu các bạn đọc quan tâm có thêm thông tin về lịch sử ngành nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản dưới cái nhìn của người thuộc một nước thứ ba. Ông Roustan đã viết một luận án tiến sĩ vào niên khóa 2006-2007 nhan đề "Xã hội sử cuộc di dân của người Nhật vào miền bắc Việt Nam từ năm 1885 đến 1954" (Socio-histoire de l’immigration japonaise à Tonkin entre 1885 et 1954) dưới sự đồng chỉ đạo của hai giáo sư Gérard Noiriel (EHESS, Paris) và Sakurai Yumio (Đại học Tôkyô).

Có thể nói nội dung bài này phản ánh khá trung thực quan điểm của tác giả Frédéric Roustan ở thời điểm 2005. Dĩ nhiên những sơ sót về mặt kỹ thuật dịch và cách trình bày là trách nhiệm của người dịch.


Nhập đề:

Có hai điều đã thúc đẩy tôi chọn những công trình nghiên cứu của người Nhật về Việt Nam làm đề tài thuyết trình:

- Một là, những nghiên cứu có tính cách "hiện đại" về Á Châu đã ra đời tại Nhật . Lý do là vì người Nhật muốn người Tây Phương hiểu về Á Châu [1]  .

- Hai là, theo lời ông Furuta Motoo, nhà sử học và chuyên viên nghiên về Việt Nam, cũng là một khuôn mặt sáng giá trong giới nghiên cứu Việt Nam hiện tại (<5> Furuta, tr. 18, <6> Furuta, tr. 227) thì Nhật Bản hiện này là một quốc gia mà ngành Việt Học phát triển mạnh nhất, tính theo số lượng, kể từ con số nhà nghiên cứu, báo cáo khoa học cho đến cơ quan nghiên cứu.

Tuy vậy, trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, những báo cáo được dịch ra tiếng nước ngoài hãy còn quá ít; dầu chúng có được dịch ra đi nữa thì đó cũng chỉ là những bài viết ngắn chứ không phải những tác phẩm tiêu biểu trong ngành, xứng đáng được tham khảo một cách rộng rãi. Vả lại, khó lòng hiểu được bản dịch của một bài viết đơn độc khi nó bị cắt đứt khỏi bối cảnh hàn lâm và trí thức mà từ đó nó đã ra đời?

Bản báo cáo sau đây của tôi đề cập đến vần đề nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản trong khoảng thời gian trên một thế kỷ, nghĩa là từ lúc ngành Đông phương học Nhật Bản bắt đầu.
 

I) Cấu tưởng một khu vực địa lý. Nghiên cứu về Việt Nam theo quan điểm Đông phương học Nhật Bản:

Trước tiên phải hiểu được sự cấu tưởng một không gian địa lý gọi là Đông phương. Xuất hiện từ thập niên 1890 ( <36> Tanaka, tr. 47-50) và đối lập với những nghiên cứu về Trung Quốc xưa kia [2] , môn Tôyôgaku hay Đông phương học (chính ra trên mặt chữ Hán, họ viết là Đông dương học 東洋学 ) đã giúp cho các sử gia Nhật Bản [3] , trong vai trò học giả Đông phương học, tạo ra một "môn học khác", hay nói đúng hơn, tự tạo cho mình một tư thế khác (<36> Tanaka, tr.11-15). Khu vực được gọi là Tôyô 東洋 (trong cái nghĩa Đông phương) chỉ có nghĩa là vùng đất không phải là Tây phương (hay Tây dương 西洋, <40> Tsuda, tr. 112) [4] . Đông phương mà những sử gia này tạo ra là một chốn có chung nguồn gốc thần bí, nhưng trước tiên nó là một nơi được tách biệt khỏi cái gọi là Á châu [5] . Việc tạo nên sự tách biệt này không có mục đích lộ rõ ý muốn nhập bọn với Tây phương mà chỉ để tự tạo cho mình một thực thể khác tương xứng với họ. Không gian ban sơ được định nghĩa như Đông phương là phần đất phía đông châu Âu, nghĩa là Trung Đông, Ấn Độ, đại lục Á châu và Nhật Bản.

Bối cảnh ra đời của Đông phương học Nhật Bản:

Những nhân vật đã xây đắp nên khoa nghiên cứu Đông phương trong buổi đầu là các sử gia chuyên môn về Trung Quốc như Shiratori Kurakichi 白鳥庫吉 (1865-1942) (<Goi, tr. 15-70>, <45>Yoshikawa, <41> Tsuda, tr. 325-387), giáo sư khoa sử rồi khoa  Đông phương ở Đại học đế quốc Tôkyô <39> Tôkyô Daigaku, tr. 628-669>, Ichimura Sanjirô 市村瓚次郎 , giáo sư về Hoa ngữ ở Đại học đế quốc Tôkyô và Naitô Torajirô 内藤虎次郎 tức Naitô Kônan 内藤湖南 [6]  (1866-1934), giáo sư và cũng là người đã mở ra khoa Đông Phương ở Đại học đế quốc Kyôtô (<14> Ienaga, tr.3-27). Vài nhân vật như vậy đã qui tụ thành một thế hệ học giả Đông phương học. Thế hệ này cho ra đời một kiến thức rất tổng quát, một học thuyết có tính lịch sử để làm chất liệu giúp thành hình khái niệm Đông phương mà họ thai nghén. Phải đợi đến thế hệ thứ hai, kể từ những năm của thập niên 1920, mới có việc chọn một quốc gia nào đó hay một thời kỳ nào đó để làm đề tài nghiên cứu chuyên biệt. Họ bắt đầu xây dựng nền tảng và điều khiển, ít nhất là trong buổi đầu, những cơ quan nghiên cứu chính yếu cung cấp kiến thức về Á châu cho nước Nhật. Quan trọng hơn hết là phân bộ nghiên cứu của Mantetsu [7]  満鉄研究所 hay Tổng cục đường sắt Mãn Châu (<46> Young), thư viện mang tên Tôyô Bunko 東洋文庫 của Tôa Dôbunkai 東亜同文会[8]  cũng như các phân khoa nghiên cứu Đông phương của các đại học đế quốc Tôkyô và Kyôto. Trên thức tế, trước Thế chiến thứ hai, ở Nhật có rất nhiều hội đoàn hay nhóm nghiên cứu về Đông phương. Thường thường giữa họ đều có liên hệ với nhau.

Từ buổi đầu của thập niên 1910, Shiratori 白鳥 đã đặt ra những phạm trù để lồng khung các kiến thức thâu thập được. Ông còn đi đến việc phân biệt giữa loại kiến thức khoa học có tính thực dụng và loại kiến thức khoa học thuần túy. Loại kiến thức thực dụng là những thành quả nghiên cứu của nhóm Mantetsu vốn có mục đích phục vụ cho các hoạt động cụ thể có tính cách chính trị hay kinh tế. Loại kiến thức thuần túy có tính lý thuyết và văn bản đến từ những công trình nghiên cứu của các đại học, đặc biệt là hai Đại học đế quốc Tôkyô và Kyôto (<36> Tanaka, tr. 231-253). Phái theo khoa học thuần túy muốn đặt mình bên ngoài những đòi hỏi của chính quyền. Ý tưởng này tiến hóa thêm một chút trong những năm 1930 dưới ảnh hưởng của học thuyết Marx lúc đó là một hệ tư tưởng rất phổ biến trong giới trí thức, nghiên cứu và giáo chức đại học (<2> Barshays, tr. 53-59; <3> Duus, tr. 147-206; <20> Najita). Từ đó, có sự phân chia thành hai nhóm, một bên nghiên cứu khoa học, khách quan, một bên nghiên cứu phục vụ đế quốc. Phạm trù này bao gồm cả hai phạm trù do Shiratori 白鳥 đặt ra mà ta đã nhắc đến bên trên. Tuy nhiên, cho dù những nhà nghiên cứu mác-xít và những nhà nghiên cứu phục vụ đế quốc có khác nhau về quan điểm, hầu như họ đều chấp nhận việc Nhật Bản đóng vai trò lãnh đạo Á Châu để đối đầu với Tây phương. Cũng vì thế, phần đông đã hợp tác công khai kể từ năm 1938 trong nhiều trung tâm nghiên cứu khác nhau để phục vụ chính quyền đương thời (<36> Tanaka, tr. 253-262) và nghĩ rằng mình đang giúp đỡ các nước bị áp bức. Thực tình, họ không có một lựa chọn nào khác ngoài việc ngậm miệng làm thinh nếu không muốn vào tù và như thế thường là chọn cái chết (< 2> Barshays; <36> Tanaka, tr.57;<46> Young, tr. 26-32).

Liên hệ giữa Việt học và Đông phương học:

Nói đúng ra, Việt Nam không phải là một phần Đông phương của Nhật Bản nhung nó đã sớm được coi như thuộc vào trong vòng đai. Các nghiên cứu về quốc gia này trong thời kỳ gọi là cận đại đã bắt đầu cùng lúc với những nghiên cứu về Tôyôgaku 東洋学 , nghĩa là vào thời điểm thập niên 1880. Đã có một vài tác phẩm viết về lịch sử An Nam như sách của Hikita Toshiaki 引田利章 (<26> Satô), một giảng viên quân sự. Trước khi Thế chiến thứ hai kết liễu, công trình nghiên cứu về Việt Nam có thể chia thành hai loại. Trước tiên là loại nghiên cứu về quá trình thuộc địa hóa dưới bàn tay người Pháp, dựa lên nguồn tư liệu Pháp. Hai là loại nghiên cứu thời tiền thuộc địa trong mối bang giao với Trung Quốc khi người Pháp chưa đặt chân đến, dựa lên trên nguồn tư liệu Trung Quốc. Cho đến thập niên 1930, tác phẩm đã phát hành chỉ vỏn vẹn có những ký sự du hành (<32> Takada, tr.44) ví như sách của <34> Takegoshi Yosaburô 竹越與三郎 (1865-1950). Trong thập niên 1920, các công trình nghiên cứu đạt được đã phản ánh ý hướng bành trướng kinh tế mới nhú mầm của một số tập đoàn tư lợi Nhật Bản qui tụ dưới hình thức hiệp hội. Chúng ta có thể kể đến tác phẩm của Maeda Hôjirô 前田宝治郎 nhan đề Futsuryô Indo-shina 仏領印支那 (Đông Dương thuộc Pháp) do Nanpô Kenkyuukai 南方研究会 xuất bản ở Tôkyô năm 1924 như một thí dụ tiêu biểu. Nó đã được yểm trợ tài chánh bởi Nanpô Kenkyuukai, nôm na là Hiệp hội nghiên cứu về vùng biển Nam. Những hiệp hội này sau đó đã xúc tiến việc nghiên cứu về khu vực thuộc địa Đông Dương trong tinh thần gọi là Nanshinron 南進論 hay lý luận bành trướng về phương Nam. Chính là phạm trù không gian ấy là nơi đã ghi dấu những công trình nghiên cứu về sau, trước thời điểm Chiến tranh Thái Bình Dương và cũng lấy Việt Nam làm đề tài. Chúng được biết đến dưới cái tên Nanpô Kenkyuu 南方研究 hay những nghiên cứu về phương Nam. Chúng có vẻ gần gủi với loại nghiên cứu khoa học có tính "thực dụng" mà chúng ta đã trình bày. Để thỏa mãn những đòi hỏi nẩy sinh từ cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương, những cơ quan nhà nước của Nhật cũng cho ra đời những công trình nghiên cứu về Việt Nam (<46> Young, tr.44 và 597-606) [9] . Thường đề tài chủ yếu liên quan đến tài nguyên thiên nhiên, giao thông, khí hậu, canh nông và các nhóm dân tộc vv...

Việt học và Nam tiến luận:

Thành quả đạt được trong lãnh vực "khoa học thuần túy" có lẽ là công trình của nhóm đệ tử Shiratori 白鳥 mà người ta thường đánh giá như những nhà khoa học thực nghiệm. Chúng ta có thể nhắc đến Matsumoto Nobuhiro 松本信弘 (1897-1981) [10] , Fujiwara Riichirô 藤原利一郎 (1915- 2008 LND ) [11] , và nhất là Yamamoto Tatsurô 山本達郎 (1910-2001). Nhân vật được nhắc sau cùng xứng đáng được gọi là nhà nghiên cứu chuyên ngành tiên phong ở Nhật Bản trong lãnh vực Việt Nam Học và Đông Nam Á Học (<5> Furuta, tr. 18). Sử quan của các vị nói trên là nhìn Việt Nam qua hình ảnh Trung Quốc và liên hệ của Việt Nam đối với Trung Quốc. Do đó những nhà chuyên môn này thông thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Trung. Một phần vì vai trò của tác phẩm ngoại quốc được chuyển ngữ (họ dùng), một phần do gốc gác chuyên môn Đông phương học của các nhà nghiên cứu Nhật Bản chuyên viết về Việt Nam, việc xây dựng một kho kiến thức về vùng đất ấy chỉ nằm trong một hệ thống có tương quan trung tâm / ngoại vi, và không cho phép nó có được cá tính riêng.

Song song với việc nói trên, Đông Dương (Ấn Độ Chi Na) lại được kể vào trong khu vực gọi là Nan.yô 南洋 (Nam Dương) hay là phía Nam Thái Bình Dương. Kể từ cuối thế kỷ 19, những người chủ trương phải "tiến xuống phương Nam" đã triển khai và bình thường hóa khái niệm địa lý này.Từ Nan.yô được định nghĩa như một vùng đất không thuộc về Đông phương lẫn Tây phương (<43> Yano, tr.57). Vùng này không thuộc vào Á châu. Quyển sách của Takegoshi Yosaburô 竹越與三郎 vừa được nhắc đến bên trên là đại diện cho quan điểm cấu tạo nên một không gian tương đương với vùng Đông Nam Á của thời đại chúng ta. Sau Thế chiến thứ nhất, nó được những đoàn thể tư lợi xem như là một vùng có tiềm năng để bành trướng về mặt kinh tế (<27> Shimizu, tr.13>. Cùng một lúc , cụm từ Tônan Ajia, Đông Nam Á 東南アジア được đem vào trong giáo trình, và Nhật Bản cũng bắt đầu có mặt nột cách chính thức trong vùng đất Á châu này. Sự kiện đơn sơ này tỏ rõ cho ta thấy những tín hiệu dự báo khu vực Á Châu sẽ bành trướng về phía Nam, và với khái niệm địa lý vừa được cấu tưởng, sẽ có một sự tiếp cận về văn hóa và dân tộc trước đó vốn chưa hề có giữa Nhật Bản và vùng đất này. Những công trình nghiên cứu về khu vực ấy sẽ tạo ra gốc rễ và mối liên lạc chung cho cả hai bên như các học giả Tôyôgaku 東洋学 đã làm với Trung Quốc trước đây. Hơn nữa, hình ảnh của Việt Nam được trình bày trong những nghiên cứu trên chỉ là một xứ chậm tiến mà nói một cách khác thì nó phải cần đến Nhật Bản để được giải phóng ra khỏi bàn tay người Tây phương và sau đó là nhận sự giúp đỡ.

Như vậy sau khi họp lại thành một nhóm như đối tượng cho các công trình nghiên cứu về Á châu tại Nhật Bản, Việt Nam đã được nhập vào vùng Đông phương Nhật Bản. Những thành quả đạt được, dù các tác giả của chúng đã đến từ chân trời ý thức hệ nào, vẫn còn bị giam hãm trong một cái khung quyền uy của chế độ gia trưởng, lúc nào cũng muốn tỏ ra che chở và chực can thiệp.
 

II) Những công trình nghiên cứu thời hậu chiến về Việt Nam:

Đối với những nhà Việt học người Nhật , thời hậu chiến là một giai đoạn kéo dài (từ 1945) cho đến giữa thập niên 1960, cũng là thời kỳ hoàng kim của công cuộc nghiên cứu về Việt Nam.

Không thấy có những thế hệ tự phát. Hầu hết các nhà chuyên môn về châu Á thời hậu chiến đều là những kẻ đã được đào tạo bởi các môn đệ của Shiratori 白鳥. Như thế, khi môn phái Đông phương học Nhật Bản và Đông phương học Pháp đại diện bởi EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ) [12]  hợp lưu để khai sinh thế hệ đầu tiên của những chuyên gia về Việt học.

Thế hệ gạch nối giữa tiền chiến và hậu chiến với Yamamoto Tatsurô:

Đối với Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung, Yamamoto Tatsurô đã đóng được vai trò gạch nối hai thời tiền chiến và hậu chiến. Ông đã hiển nhiên trở thành một khuôn mặt lớn trong giới nghiên cứu Nhật Bản về Đông Nam Á cho đến thập niên 1970. Môn Việt Học thời hậu chiến chịu ảnh hưởng nặng của những sử gia chuyên môn về lịch sử thời kỳ tiền thuộc địa, họ nghiên cứu lịch sử pháp chế Việt Nam như thể nó một bộ phận nối dài của luật lệ Trung Quốc. Thế nhưng cùng lúc đã bắt đầu thấy một số nghiên cứu liên quan đến các vương triều độc lập tự chủ hay về Vương Quốc Chăm (<32> Takada, tr.44). Quyển Nghiên cứu lịch sử An Nam (Annanshi Kenkyuu 安南史研究, Tôkyô, nhà xuất bản Yamakawa, 1950) của Yamamoto là một tác phẩm đáng ghi nhớ. Trong đó, Yamamoto 山本 sử dụng những công trình nghiên cứu tiền chiến và tìm hiểu về những đợt xâm lăng của hai triều Nguyên, Minh cũng như các cuộc kháng chiến của người Việt Nam. Chủ đề liên quan đến mối bang giao giữa Trung Quốc và Việt Nam rất phổ biến trong học giới hậu chiến. Những công trình nghiên cứu lấy Việt Nam làm đề tài của giai đoạn này đã được <42> Yamamoto biên tập thành một tác phẩm chung gồm nhiều tác giả vào năm 1975. Cho đến bây giờ, nó vẫn được xem như một tác phẩm lớn đáng được tham khảo và là đỉnh cao của Đông phương học Nhật Bản. Dầu vậy, thành quả về nghiên cứu một cách trực tiếp về Việt Nam sau thời chiến hãy còn tương đối hạn chế.

Mọi sự bắt đầu tiến triển thực sự từ thập niên 1950 vì những lý do có tính cách kinh tế và địa chính học. Còn đứng về phương diện hàn lâm mà nói thì mọi nghiên cứu đã dựa vào khái niệm chuyên môn gọi là area studies (<16> Kitagawa, tr. 11-29).

Thế hệ hậu chiến I (1945) và học thuyết Yoshida:

Rõ ràng lúc ấy nhà nước Nhật Bản đang mong mỏi trở lại Á châu bởi vì Nhật đang cần có một sự ổn định về mặt chính trị. Mặt khác lnhững liên hệ kinh tế có thể giúp họ thoát ra khỏi sự tùy thuộc vào kinh tế Mỹ. Đó là tinh thần của cái mà người ta gọi là "Học thuyết Yoshida", gọi theo tên của Thủ tướng Nhật Bản, Yoshida Shigeru 吉田茂[13] . Học thuyết đó đã giúp cho các area studies, chiiku kenkyuu (地域研究 nghiên cứu địa vực) phát triển bởi vì nhà nước đang cần những thông tin của họ hướng dẫn cho những quyết định chính trị. Chẳng mấy chốc mà cụm từ chiiki kenkyuu  地域研究 được theo một nghĩa đặc thù khi nói về nghiên cứu ở Á châu. Nó bàn về Á châu trong cái nghĩa một nhóm quốc gia hãy còn chưa phát triển (<10> Hashiguchi, tr. 3-5). Tuy nhiên, giữa area studies và chiiki kenkyuu hãy còn có một sự khác biệt cơ bản. Đó là ở Tây Phương, những nhà chuyên môn nghiên cứu về một một không gian nghiên cứu đặc biệt nào đó thường họp nhau để bàn về một nước dưới cái nhìn đa khoa, trong khi đó, người Nhật lại làm ngược họ bằng cách không chú trọng vào một chuyên khoa nào. Thẩm quyền của họ đến từ sự hòa mình hoàn toàn trong ngôn ngữ và văn hóa của quốc gia đối tượng quan sát.

Có hai hiệp hội đã mở đường cho hình thức nghiên cứu địa vực đó. Tháng chạp năm 1951, tổ chức tên là Ajia Kyôkai [14]  (アジア協会 Á châu hiệp hội) được thành lập bởi Fujizaki Nobuyuki, một viên chức cai trị ở thuộc địa. Sau chiến tranh, ông ta đã liên hệ vói Đại học Keiô ở Tôkyô để tổ chức một nhóm nghiên cứu về Á châu. Cũng vào thời điểm đó, Kishi Nobusuke 岸信介, nguyên Tổng trưởng thương mại, vừa ra khỏi nhà tù nơi ông bị giam cầm với tu cách một chiến phạm hạng A...Ông Kishi tỏ ra thích thú với kế hoạch do Fujizaki soạn thảo nên giúp ông này, cả bằng tiền nong, để trước tiên thành lập một nhóm nghiên cứu phi chính thức vào năm 1951, và sau đó một hiệp hội có tính công cộng vào năm 1953. Ajia Kyôkai sẽ xúc tiến những công trình nghiên cứu theo đúng những hướng chính của "Hoc thuyết Yoshida" . Cụ thể là hiệp hội này chỉ đặt trọng tâm vào tình hình kinh tế Á châu cho nên họ muốn việc làm của mình là thực dụng chứ không nhuốm màu sắc ý thức hệ [15] . Người ta cũng nhận ra rằng trong nhóm nghiên cứu hồi mới bắt đầu, có một tình cảm chống Tây Phương khá rõ. Một trong những đề tài nghiên cứu của nhóm là sự tái thiết quốc gia ở Á châu sau khi chiến tranh kết thúc, cũng như liên hệ giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa cộng sản. Các nhà nghiên cứu đã đến tận nơi tận chỗ để thu hoạch càng nhiều thông tin càng tốt và sau đó chuyển lại cho nhóm nghiên cứu. Năm 1957, Fujizaki được Thủ tướng Kishi đồng ý cho tổ chức một trung tâm nghiên cứu quốc gia. Đến năm 1960, dưới sự quản lý của Bộ Công Thương (MITI), Ajia Keizai Kenkyuujô アジア経済研究所[16]  đã được thành lập, và kể từ ngày đó, vẫn là một trung tâm nghiên cứu chính về Á châu có ảnh hưởng rất lớn đến việc soạn thảo chính sách nhà nước (policy making) [17] . Giám đốc đầu tiên của trung tâm là Tohata Seiichi cũng đã góp viên đá đầu tiên cho tòa nhà. Nhân vì Nhật Bản cần phát triển sự nghiên cứu về từng nước một, chứ trước kia họ chỉ làm về Trung Quốc và trong những điều kiện mà chúng ta đã biết, Tohada đã nghĩ ra một phương pháp làm việc mới, gửi các chuyên gia đi đến tận nơi sống hai, ba năm, để có thể tích lũy tất cả những gì họ biết về nước đó. Khái niệm chiiki kenkyuu 地域研究 giúp cho Nhật Bản tái định nghĩa Á châu như những quốc gia thuộc thế giới thứ ba (<15> Shizawa, tr. 8-10). Dĩ nhiên là Nhật Bản cũng nhân đó tự định nghĩa lại mình trong tương quan với họ. Dẫu sao, trong khi chính phủ Nhật đang đi theo một chính sách thân Mỹ và với tất cả những gì mà Mỹ đang biểu lộ ra như là chủ nghĩa đế quốc ở Nhật, cái ý chí khu vực của các nhà nghiên cứu Nhật Bản có thể xem như một hình thức đề kháng.

Đối với những trào lưu tư tưởng ở Nhật, dù Mác-xít hay hiện đại, hậu chiến có nghĩa là dân chủ hay cuộc đấu tranh cho dân chủ, cho dù muốn định nghĩa dân chủ là thế nào đi nữa. Không riêng giới trí thức mà cả giới kinh doanh, sinh viên, đều dấn thân trên con đường này. Thế nhưng điều đó có nghĩa họ lại quay về với Tây Phương thêm một lần nữa ( <7> Gayle, tr. 152-165). Dẫu sao, cùng lúc, khi cả Á châu sôi sục, hội nghị Bandung tổ chức vào năm 1955 được coi như là một cơ hội kết hợp của những nhà nghiên cứu này và cống hiến một mô hình đầy tiềm năng cho những ai không chấp nhận Tây Phương (<29> Shiraishi, tr.101).

Cũng vào khoảng thời gian đó, một hiệp hội khác đã đi tiếp con đường. Năm 1959, Đại học Kyôto tổ chức được một nhóm nghiên cứu Á châu. Năm 1963, Tônan Ajia Kenkyuu Senta 東南アジア研究センター tức Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á được thành lập. Khác với IDE (tức Ajia Keizai Kenkyuujô), nhóm này chỉ qui tụ toàn những giáo chức đại học, những muốn đi theo một hướng có tính hàn lâm hơn. Lãnh vực nghiên cứu của họ lại rộng hơn nhiều. Ngoài ra, số đông trong nhóm không thuộc truyền thống mác-xít. Như vậy, ta thấy là khái niệm chiiki kenkyuu 地域研究 của họ có hơi khác với các đồng nghiệp ở Tôkyô (<31> Suehiro, tr.25, <18> Motooka, tr. 5-19)[18] .

Thế nhưng trung tâm này đã và vẫn còn là một tượng trưng giữa lòng khoa nghiên cứu về châu Á. Bắt đầu từ năm 1960, họ đã bắt liên lạc với Quỹ nghiên cứu của hãng Ford (Foundation Ford). Ba năm sau, nhờ sự tài trợ của Ford, trung tâm chính thức ra đời (<4> Ford tr.48), (<30> Stonor). Một số lớn các nhà nghiên cứu không để bị đánh lừa bởi vì họ đã thấy ngay liên hệ giữa những đề tài nghiên cứu và nguồn gốc của sự tài trợ. Quỹ này đã được xem như một dụng cụ của chủ nghĩa tân thực dân của người Mỹ và chính sách chống cộng của họ ở Á Châu. Trung tâm trở thành một thí dụ điển hình về một lối sản xuất tri thức mà một phần những nhà nghiên cứu thuộc thế hệ xưa và nhất là hầu hết những người vào đại học này không chấp nhận.
 

III) Chiến tranh Việt Nam:

Khi bắt đầu có sự tăng cường dội bom trên miền bắc Việt Nam từ năm 1965 thì ở Nhật, thời hậu chiến coi như đã chấm hết. Nhìn chung, cuộc chiến ở Việt Nam đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội Nhật Bản (<12> Havens), (<21> Nakajima). Ngoài nó ra, phải kể thêm cuộc "Cách mạng văn hóa" ở Trung Quốc, vốn đã đề nghị một mô hình sản xuất tri thức lôi cuốn được một số đông những nhà nghiên cứu Nhật (<35> Takeuchi tr. 316-323). Cuộc chiến Việt Nam đã gây ra một khoảng cách không hàn gắn được giữa những thế hệ [19]  là điều khó lòng chối cãi. Trái ngược lại với thế hệ của hội nghị Bandung, lần này, hiện tượng này đã vượt ra ngoài phạm vi của giới trí thức và đại học. Tổ chức Beiheiren べ平連 (Hòa bình cho Việt Nam!) (<22> Oguma tr. 117-192) thành lập bởi một nhà trí thức tượng trưng cho cánh tả mới (New Left) của Nhật, Oda Makoto 小田真, đại diện được cho tư duy của thời đại.Tổ chức phản chiến này đã huy động một con số khổng lồ những người Nhật, không vì lý do ý thức hệ mà bởi nó giúp cho những người ấy một cơ hội để trình bày quan điểm (<17> Maruyama tr. 303-310). Cùng lúc đó, các đại học Nhật Bản đã trở thành những bãi chiến trường thực sự, suốt hầu hết giai đoạn chiến tranh.

Thế hệ hậu chiến II (1966) với chiến tranh Việt Nam:

Cũng trong bối cảnh đó, những khóa dạy tiếng Việt đầu tiên ở đại học đã được khai giảng. Một khóa ở Đại học Keiô do giáo sư Kawamoto Kunie 川本邦衛 (sinh năm 1929), một khóa khác ở Đại học ngoại ngữ Đông Kinh (Tôkyô Gaidai) bởi giáo sư Takeuchi Yonosuke 竹内与之助 (1922-2004) vào năm 1966. Hai ông đều từng đến miền NamViệt Nam sống trong thập niên 1950. Họ đã nghiên cứu tiếng Việt cổ điển (chữ Nôm? LND) và tiếng Việt hiện đại trong tinh thần chiiki kenkyuu. Chiến tranh đã giúp cho họ có cơ hội giảng dạy tiếng Việt ở đại học (Nhật, LND). Cơ hội này đánh dấu sự khai sinh đích thực của một đứa bé con, nó sẽ lớn lên không ngừng cho đến tận ngày hôm nay. Việc đi học tiếng Việt của họ trở thành một dấu hiệu đặc biệt của thế hệ này. Lớp người mà chúng tôi tạm mệnh danh "thế hệ chiến tranh Việt Nam" là những sinh viên đi học tiếng Nhật như một hình thức tham gia vào việc chống chiến tranh và sau đó họ đã trở thành nhà chuyên môn Việt học. Đối với họ, nghiên cứu Việt Nam là hiểu được thế giới [20] . Đại học ngoại ngữ Đông Kinh tức Tôkyô Gaidai không những chỉ giúp cho sinh viên có những lớp học tiếng Việt mà còn thêm cả một giáo trình về Việt Nam càng về những năm sau càng phong phú. Cũng nên ghi nhận sự góp mặt từ buổi đầu tiên và hầu như không hề bị gián đoạn của các giảng sư người Việt trong phân khoa này [21]  (<21> Tanaka tr. 117-140).

Sức đề kháng của Việt Nam đã làm thay đổi lối nhìn của người Nhật. Họ không còn xem Việt học như một vòng đai của Trung Quốc học mà chuyển qua chủ đề nghiên cứu về sự kiến thiết đất nước của người Việt. Chúng ta có thể nhắc đến các công trình của Gotô Kimpei 後藤均平 (sinh năm 1926), Katakura Minoru 片倉穣 (sinh năm 1934) và Sakurai Yumio 桜井由躬雄 (sinh năm 1945) [22] . Tinh thần kháng chiến của người Việt Nam trở thành một đề tài thời thượng của các sử gia. Mio Tadashi 三尾忠志 và Kimura Tetsusaburô 木村哲三郎 biết sử dụng các tư liệu viết bằng tiếng Việt một cách thành thạo. Một công trình hợp soạn xuất bản vào năm 1977-78 với nhan đề "Vietnam" đã qui tụ được những thành tựu nghiên cứu trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam (<1> Ajia). Tác phẩm này đã được chào đời nhờ ở Ajia Africa Kenkyuujô アジアアフリカ研究所 tức Trung tâm nghiên cứu Á Phi, một tổ chức nghiên cứu về Á châu và Phi châu được Okakura Koshirô 岡倉古志郎 (1912-2001) thành lập vào năm 1961. Ông Okakura là một nhà lãnh đạo trong phong trào không liên minh với Mỹ và là chuyên gia về chính trị quốc tế. Nhóm tác giả này đã ấn hành một nguyệt san cùng tên, trong có có rất nhiều bài viết liên quan đến Việt Nam.

Như thế, ta thấy chiến tranh (1945-1954 và 1965-1975, LND) đã giúp cho những công trình nghiên cứu về Việt Nam hiện đại khai hoa kết trái. Hai ông Matsumoto Nobuhiro 松本信弘 với bộ thông sử nói về nước này của mình và Shimbo Jun.ichi rô 真保潤一郎 , người đặt trọng tâm nghiên cứu vào chính trị sử, đại diện cho thế hệ đầu tiên sau năm 1945. Họ đã ảnh lưởng rất lớn đến các sinh viên của thế hệ chiến tranh Việt Nam. Giai đoạn ấy cũng đánh dấu bằng sự phiên dịch rất nhiều tác phẩm học thuật của các tác giả người Pháp như Coedes, Mason, Chesneaux, Condominas vv...

Chiến tranh đã chấm dứt trong bối cảnh sinh hoạt hàn lâm cao độ như thế.
 

IV) Từ thập niên 1960 cho đến nay:

Ở Hoa Kỳ, việc chiến tranh chấm dứt cũng có nghĩa là sự chấm dứt của những nghiên cứu về Việt Nam. Nhật Bản thì không thế, tình thế mới ngược lại đã thúc đẩy thêm cho nghiên cứu. Thế nhưng, chiến tranh kết liễu, các nhà nghiên cứu bị lâm vào cảnh thiếu thốn tư liệu và hết còn cơ hội để đi làm việc ngay tại bản địa. Đó cũng là thời điểm mà các sinh viên của thế hệ chiến tranh Việt Nam dần dần gia nhập vào giáo ban đại học và trong các trung tâm nghiên cứu. Vào năm 1977, một phân khoa tiếng Việt đã được khai giảng tại Đại học (quốc lập) ngoại ngữ Ôsaka bởi Tomita Kenji 富田憲次, một sinh viên từng theo học Takeuchi 竹内 và Kawamoto 川本. Việc có khả năng học tiếng Việt tại một đại học quốc lập thứ hai có một tầm quan trọng rất lớn cho việc đào tạo các nhà nghiên cứu. Ở đây, họ có những giờ học về văn hóa, lịch sử chính trị, pháp luật vv...khác hẳn với giáo trình của ngôi trường đàn anh ở Tôkyô vốn chú trọng đến Đông phương học và văn bản học nhiều hơn. Lại nữa, ta nhận thấy lúc ấy có những tiến bộ trong việc nghiên cứu về ngôn ngữ qua việc soạn thảo và phát hành những bộ từ điển và giáo khoa thư dành cho người Nhật (<37> Tomita tr. 55-61). Ngoài ra, vào những năm 1970, Nhật Bản đã có được một địa vị càng ngày càng quan trọng ở châu Á. Một số nhà nghiên cứu về châu Á đã tố giác sự hiện diện nói trên của Nhật như một hình thái của chủ nghĩa đế quốc. Vài người trong đám đã từ giã những trung tâm nghiên cứu như IDE (Ajiken) để gia nhập các đại học.

Vào cuối thập niên 1970, đã có phong trào nghiên cứu về Đảng cộng sản Việt Nam cũng như về những cuộc vận động chống thực dân và đòi độc lập (như của Yoshizawa Minami 吉沢南 và Furuta Motoo 古田元夫 ). Công trình của Furuta sở dĩ thực hiện được là vì ông có cơ hội hiếm có được tiếp xúc với nguồn tư liệu. Ông đã thử giải thích với quan điểm lịch sử tình hình giữa ba nước Trung / Việt / Cam-pu-chia vào cuối thập niên 1970. Một trong những công trình sáng gia nhất của thế hệ này có lẽ là cuốn Betonamu minzoku undô to Nihon, Ajia ベトナム民族運動と日本、アジア hay Những phong trào dân tộc ở Việt Nam và liên hệ của nó với Nhật Bản, Á Châu do Gannandô 巖南堂 ở Tôkyô xuất bản vào năm 1993, chủ yếu nghiên cứu về nhà cách tân Việt Nam là Phan Bội Châu.

Thế hệ hậu chiến III (1986) sau chính sách Đổi Mới:

Tuy nhiên, sau khi Việt Nam thống nhất thì các nhà nghiên cứu hầu như không còn cách gì để có thể nghiên cứu thực địa, họ bắt buộc phải tổ chức lại để làm việc với nhau bằng cách khác. Từ đầu thập niên 1980, những thành viên thuộc thế hệ thứ ba sẽ tụ họp với nhau thường xuyên hơn để thử rút là những điều lợi ích từ những thông tin mà họ có trong tay. Một nhóm đã được thành lập do sáng kiến của Gotô Fumio 後藤文夫 với tôn chỉ là không cần hình thức và không đả động đến những vấn đề chính trị. Nhân vì những nhà nghiên cứu thuộc thế hệ thứ hai đã có những sự bất đồng quan điểm cho nên sáng kiến của Gotô khi thành lập nhóm này là để làm dịu bớt những cuộc cải vã sinh ra từ tinh thần phe nhóm. Dầu sao, nhân vì nguồn thông tin qua hiếm hoi, những cuộc gặp gỡ như vậy trở thành một chỗ tranh giành ảnh hưởng trong giới nghiên cứu về Việt Nam. Một hiệp hội đã dược chính thức thành lập và trở nên bộ phận đầu não cho môn Việt học cho đến giai đoạn Đổi Mới vào năm 1986. Từ thời điểm đó, nhờ được dễ dãi hơn trước trong việc tìm kiếm tư liệu cũng như khả năng đặt chân đến thực địa mà công việc nghiên cứu có phần thuận lợi hơn. Nói như vậy chứ trong thời kỳ 1975-1968, cánh cửa cũng không phải bị đóng kín hoàn toàn.Vài người được tuyển lựa sang Việt Nam kể từ cuối thập niên 1970 với tư cách giảng dạy Nhật ngữ trong một đại học ở Hà Nội hoặc đi đường vòng theo Bộ Ngoại Giao Nhật. Họ là lực lượng lớn lao nhất trong việc nghiên cứu của Nhật Bản về Việt Nam trong giai đoạn đó. Nhật Bản đã giữ được một cánh cửa thông ra hai chiều nhờ ở mối liên hệ ưu đãi đặc biệt giữa một vài nhà nghiên cứu với những cơ quan nhà nước Việt Nam.

Kể từ năm 1986, thế hệ trẻ dưới sự dìu dắt của Sakurai Yumio 桜井由躬雄 đã có thể nghiên cứu thực địa. Sự quay về Việt Nam với hình thức nghiên cứu điền dã (fieldwork) là một chặng đường không thể thiếu được đối với những thế hệ nghiên cứu viên trẻ về Việt Nam kể từ thời kỳ này. Nó giống như một sự tìm về nguồn của chiki kenkyuu 地域研究. Điều này đã giúp cho các nhà nghiên cứu Nhật tiếp thu được một vốn liếng tiếng Việt rất chuẩn xác và tạo nên những mối liên hệ chặt chẽ và chân tình với người bản xứ. Vào năm 1990, cuộc hội thảo về Hội An ở Đà Nẵng bên Việt Nam do Việt Nam và Nhật Bản đồng tổ chức, sau đó được xem như thành quả kết tinh những cố gắng của "thế hệ chiến tranh Việt Nam" và là biểu tượng 25 năm dấn thân của họ.

Cuộc Đổi Mới cũng mở ra một thời kỳ mới về mặt chủ đề khai thác. Tình hình Việt Nam "sau năm 1986" trở thành đề tài cho những nhà nghiên cứu. Lãnh vực nghiên cứu trở nên đa dạng, không chỉ giới hạn trong phạm vi Sử học. Người ta nhận thấy đề tài nghiên cứu về các vương triều Việt Nam thời độc lập tự chủ rất phổ cập. Vào những năm cuối cùng của thập niên 1980, một thế hệ mới đã đăng đàn với những người như Momoki Shiro 桃木室朗 nghiên cứu về triều Lý và lịch sử chính trị cũng như quân sự của triều Trần, hoặc Yao Takao 八尾隆生 đặt trọng tâm vào tổ chức quân sự dưới triều Lê.Ngoài ra, kể từ thời Đổi Mới hay nói chính xác hơn vào khởng giữa thập niên 1990, những chuyên gia Nhật Bản đã có dịp đóng một vai trò năng động trong việc đặt nền móng cho chính trị của thời kỳ quá độ ở Việt Nam, nối tiếp được một truyền thống nào đó đã tạo ra sự liên hệ chặt chẽ giữa tri thức và quyền lực, và như thế, có lẽ là một trong những hình thức đem lại lợi ích cho tất cả các bên liên hệ.
 

Kết Luận:

Để thay cho lời kết luận, tôi (F. Roustan) chỉ mong sao cho những công trình nghiên cứu về Việt Nam của người Nhật được chúng ta dịch ra tiếng Pháp nhiều hơn nữa. Điều này chắc chắn sẽ hữu ích cho chúng ta thôi. Xin nói thêm là ngày nay, vấn đề danh tánh nằm ngầm bên dưới những công trình nghiên cứu về Á châu đang thực hiện tại Nhật Bản vẫn không ngớt được bàn tán. Chúng tôi xin mời quí vị lên tham khảo trên mạng, vào trang của một nhóm nghiên cứu Á châu vừa mới được thành lập ở một đại học tiếng tăm Nhật bản là đủ biết. Phương châm làm việc của họ (Anh văn trong nguyên văn) chắc đủ để trả lời thay:

Cho đến hôm nay, lãnh vực gọi là Á châu học thường được phân tích theo quan điểm của các học giả Tây phương. Trong khi khó lòng phủ nhận việc quan điểm ấy là một cơ sở vững chắc để phân tích, ta thấy các nhà nghiên cứu Tây phương thường có tầm  nhìn của kẻ đứng bên lề, không hiểu cặn kẽ lịch sử địa phương và con người sở tại. Ý định của chương trình chúng tôi là đưa ra những nhận xét về Á châu đến từ bên trong, để cho các học giả Á châu có một cơ hội phát triển phương pháp luận riêng của họ về phần đất Á châu đang vươn lên...".[23]

Giữa các nhà Á châu học, chắc chắn phải có những cách nhìn dị biệt nhưng chẳng lẽ lại xem điều đó đã xảy ra là vì hiểu biết hạn hẹp hay sao?

Frédéric Roustan
Thư Tịch Trích Dẫn Của Tác Giả:

< 1> Ajia Africa Kenkyujoアジアアフリカ 研究所, Betonamu, Vietnam, shizen rekishi bunka ( ベトナム、自然、歴史、文化 ) and seji keizai  政治、経済 , Ajia Africa Kenkyujo アジアアフリカ 研究所編 , Tokyo, Suiyôsha 水曜社 , 1977 -1978.

<2> Barshays, Andrew E., The Social Science in Modern Japan, the Marxian and the Modernist Traditions, Berkeley, University of California Press, 2004.

<3> Duus, Peter, "Socialism, Liberalism and Marxism, 1901-1931" in Tadashi Bob, Modern Japanese Thought, Cambridge University Press, 1998.

<4> Ford Foundation Annual Report, 1963.

<5> Furuta Motoo, Japanese Research on Vietnam, Social Science, Japan, numéro 8, January 1987, pp. 18-19.

<6> Furuta Motoo 古田元夫, Nihon ni okeru betonamu kenkyuu 日本 におけるベトナム 研究 , in Kimura Hiroshi 木村汎, グエンズイズ、古田元夫、日本、ベトナム関係を学ぶひとのために Tokyo, Sekai Shisôsha 世界思想社 , 2001, pp. 227-240.

<7> Gayle, Curtis Anderson, Marxist Theory and Japanese Postwar Nationalism, London, Routledge, 2003.

<8> Goi, Naohiro, 五井直弘 Kindai Nohon to toyoshigaku 近代日本と東洋史学, Les études d’histoire orientale et le Japon moderne, Tokyo, Aoki shoten, 1976.

<9> Hamon, Hervé, Rotman, Patrick, Génération, Paris, Points Seuil, 1088.

<10> Hashiguchi, Tomosuke, "What are the Concepts to Define "Asia" ? " in Search of New Ground of Asian Cultures -Area Studies and Southeast Asia, Tokyo, Institute of Asian Cultures, 1985. p. 3-5.

<11> Hashikawa, Bunso, "Japanese Perspectives on Asia: From Dissociation to Coprosperity" in Iriye, Akira, The Chinese and Japanese Essays in Political and Cultural Interactions, Princeton, Princeton University Press, 1980, pp.328-355.

<12> Havens, Thomas, Fire Across the Sea, Princeton, Princeton University Press, 1987.

<13> Horii, Kenzo, "Southeast Asia, the Economy", in Yamaguchi Hiroshi, Sato Hiroshi, Understanding the Developing World, Thirty Five Years of Area Studies at the IDE, Tokyo, IDE, 1996, pp. 59-82.

<14> Ienaga, Saburo 家永三郎 , Tsuda Sokichi no shisoteki kenkyu 津田左右吉の思想史的研究 , Etudes de la pensée historique de Tsuda Sokichi, Tokyo, Iwanami Shoten 岩波書店 , 1972, p. 3-27.

<15> Shizawa Yoshiaki, "Area studies and Southeast Asia. Outline of Subjects Proposed for Studies", in In Search of New ground for Asian Cultures-Area Studies and Southeast Asia, Tokyo, Institute of Asian Studies, 1985, pp. 8-10.

<16> Kitagawa Katsuhiro, "Japanese Perspectives on Independence of African Countries in the Late 1960s and the early of 1960s: A Preliminary Investigation", in Agora: Journal of International Center for Regional Studies, numéro 1, 2003, pp. 11-29.

<17> Maruyama Shizuo, "Japanese Opinion of the Vietnam War", in Japanese Quaterly, Vol. VII, numero 3, July-September 1965, pp. 303-310.

<18> Motohoka Takeshi 本岡武 , "Chiiki Kenkyuu to wa nani ka? 地域研究とは何か  "Qu’est ce que les aires culturelles?, in Tonan Ajia Kenkyu 東南アジア研究 , numero 2, 1963, pp. 5-19.

<19> Myers, Ramon h., "Japanese Imperialism in Manchuria: The South Manchuria Railways Company, 1906-1933, in Duus Peter, "The japanese Informal Empire in China, 1895-1937, Princeton, Princeton University Press, 1989, pp. 101-132.

<20> Najita, Tetsuo, Koschmann Victor J., Conflict in Modern Japanese History: the Neglected Tradition, Princeton, Princeton University Press, 1982.

<21> Nakajima, Makoto 中島誠 , Sengo shisoshi nyumon 戦後思想史入門 , Introduction à l’histoire de la pensée d’après-guerre, Tokyo, Ushio Shinsho, 1968.

<22> Oguma, Eiji 小熊英二 , Minshu to aikoku 民主と愛国, La démocratie et le nationalisme, Tokyo, Shinyôsha 新曜社 , 2003, pp. 717-792.

<23> Reynolds, Douglas R., "Training Young China Hands; Toa Dobun Shoin and its Percursors, 1886-1945", in Duus Peter eds, The Japanese Informal Empire in China, 1895-1937, Princeton, Princeton University Press, 1989.

<24> Sabot, Jean-Yves, Le syndicalisme étudiant et la guerre d’Algérie, Paris, L’Harmattan, 1995.

<25> Sakai Yoshiki 酒井良樹 , "Betonamu Bunka" ベトナム文化 , La culture vietnamienne, in Sekai no Rekishi 世界の歴史, Vol. 13, Tokyo, Chikuma Shobô  筑摩書房 , 219-234.

<26> Sato, Shigenori 佐藤茂教, Hikita Toshiaki noryakureki ni tsuite 引田利章の略歴について , A propos du curriculum vitae de Hikita Toshiaki, Tonan Ajia rekishi to bunka 東南アジア歴史と文化, numéro 2, 10/1972, pp. 203-205.

<27> Shimizu Hajime, "Southeast Asia as a Regional Concept in Modern Japan: An Analysis of Geography Textbooks" in Shiraishi Masaya, Shiraishi Takashi, The Japanese Colonial Southeast Asia, Ithaca, Cornell University Press, 1993, pp.21-61.

<28> Shimao, Minoru, Sakurai Yumio, "Vietnamese Studies in Japan, 1975-1996", Acta Asiatica, numéro 76, 1999, pp. 81-105.

<29> Shiraishi Masaya, "A Short Essay on Scientific exchanges between Japan and Southeast Asia", Journal of Asia Pacific Studies, numéro 1, pp. 97-106.

<30> Tonor Saunders, Frances, Who Paid The Piper? The CIA and the cultural Cold War, Granta Books, New York, 1999.

<31> Suheiro, Akira, "Bodies of Knowledge: How Think-tanks have affected Japan’s Postwar Research on Asia", in Social Science Japon, numéro 9, 1997, pp. 20-27.

<32> Takada Yoko 高田洋子, Nihon ni okeru Betonamushi kenkyu no sokatsu to tembo日本におけるベトナム史研究の総括と展望, Présentation des études historiques sur le Vietrnam au Japon. In Ajia Africa Kenkyuアジアアフリカ研究, vol. 29, numero 3, 1989, pp. 43-80, pp. 44.

<33> Takada Yoko, "Vietnamese Sudies in Japan", Asian Research Trends, numero 1, 1991, pp. 57-73.

<34> Takegoshi, Yosaburo 竹越與三郎, Nangokuki 南国記 , Carnet de voyages des pays du sud, Tokyo, Bunka Sosho文化叢書, 1910.

<35> Takeuchi Minoru, "The Background to Chinese Studies in Japan, Japan Quaterly, Vol. 18, numéro 3, 1971, pp. 316-323.

<36> Tanaka Stefan, Japan’s Orient, Rendering Past into History, Berkeley, University of California Press, 1993.

<37> Tanaka, Tadaharu 田中忠治 , Tokyo Gaikokugo Daigaku Indochinago Gakka Hyakunenshi 東京外国語大学インドシナ語学科百年史, Tokyo, Mekonkai メコン会 , 2002.

<38> Tomita Kenji 富田憲次 , Nihon ni okeru Betonamugo kyoiku / kenkyu 日本におけるベトナム語教育、研究. Les études et l’enseignement du vietnamien au Japon, in Yamaguchi Keishiro 山口慶四郎、我が国における外国語研究、教育の師的考察、大阪、大阪外国語大学、1989, pp. 55-61.

<39> Tokyo Daigaku Hyakunenshi: bukykyokushi 1 東京大学百年史、部局史1. Histoire des cents ans de l’Université de Tokyo. Histoires des Départements, Tokyo, Tokyo Daigaku Shuppankai 東京大学出版会, 1986.

<40> Tsuda Sokichi 津田左右吉 , Shina shiso to Nihon b支那思想と日本 . Le Japon et la pensée chinoise, Tokyo, Iwanami Shinsho 岩波新書 , 1938.

<41> Tsuda Sokichi 津田左右吉 , Shiratori Hakushi Shoden 白鳥博士小伝 , Bibliographie du Docteur Shiratori, Toyogakuho東洋学報 , numéro 29, 1944, 325-387.

<42> Yamamoto Tatsuro 山本達郎 , Betonamu Chuugoku kankeishi ベトナム中国関係史; 曲氏の台頭さら清仏戦争までKyoku-shi no taito kara Shin-Futsu senso made. Histoire des relations entre le Vietnam et la Chine, Tokyo, Yamakawa Shuppansha 山川出版社 , 1975.

<43> Yano Toru 矢野暢 , Nanshin no Keifu 南進の系譜 , Généalogie de l’avancée vers le Sud, Tokyo, Chuokoronsha 中央公論社 , 1985.

<44> Yasunaka, Akio, "Southeast Asia: Policy and Society", in Yamaguchi Hiroshi, Sato Hiroshi, Inderstanding the Developing World, Thirty Five Year of Area Studies at the IDE, Tokyo, IDE, 1996, pp. 83-98.

<45> Yoshikawa Kojiro 吉川幸次郎 , Toyogaku no Shisoshatachi 東洋学の創始者たち , Les créateurs des Toyogaku, Tokyo, Kodansha 講談社 , 1976.

<46> Young, John, The Research Activities of the South Manchurian Railways Company, New York, Columbia University Press, 1966.
__________________________________________________________
 

[1] - Á Châu hiểu ở đây là một Á Châu "thực sự" nhìn dưới “nhãn quan của người châu Á”, và nhân đấy người Nhật muốn trình bày cho người Tây Phương biết cần phân biệt giữa họ và các dân tộc Á Châu khác.
[2] -  Tức nghiên cứu các sách vở cổ điển Trung Hoa, còn gọi là Hán học.
[3] - Nhà nghiên cứu Naka Michio (1851-1904) thường được xem như người đã sáng lập ra môn học này <36> Tanaka, tr.48.
[4] - Seiyô.
[5] - Sự tách biệt ra khỏi Á Châu (Datsu-a-ron) mà Fukuzawa Yuukichi chủ trương vẫn còn bị đóng khung trong cách dùng chữ của người Tây Phương. Các nhà Tôyôgaku thì khác, họ sử dụng từ này theo một cái nhìn văn hóa tương đối luận (relativisme culturel) <11> Hashikawa. tr. 328 – 355).
[6] - Naitô đã khai triển khái niệm về Shinagaku, môn học về Shina hay Trung Quốc.
[7] -  Phân bộ nghiên cứu của Mantetsu 満鉄調査部 là một cơ quan nghiên cứu Đông phương học rất ưu tú. Mantetsu lúc đầu chỉ là một cơ quan bàn công bán tư có mục đích phát triển đường xe hỏa tại Mãn châu sau trận chiến tranh Nhật Nga. Cho đến năm 1945, những công trình nghiên cứu chính yếu về khoa Đông phương của Nhật hầu như đã phát xuất từ những phân bộ nghiên cứu thay nhau liên tiếp ra đời của nhóm Mantetsu (<19> Myers, tr.101-132).
[8] - Tôa Dôbunkai hay Đông Á Đồng Văn Hội là một học viên chuyên môn và là phân nhánh của Tôa Dôbun Shoin 東亜書院 hay Đông Á Đồng Văn Thư Viện 東亜同文書院 . Tôa Dôbunkai được thành lập vào năm 1898 bởi Munakata Kôtarô để huấn luyện khả năng ngôn ngữ,tri thức văn hóa xã hội về Trung Quốc cho thanh niên Nhật, phục vụ cho mục đích nới rộng giao thương với nước này <23> Reynolds, tr. 210-271).
[9] - Do Bộ Ngoại Giao Nhật Bản, chính phủ đảo Đài Loan và những trung tâm nghiên cứu như Nhóm nghiên cứu Đông Á của Mantetsu, Tôa Kenkyuukai (東亜研究会 Đông Á Nghiên Cứu Hội) và Taiheiyô Kyôkai ( 太平洋協会 Hiệp hội Thái Bình Dương).
[10] - Matsumoto ta đã cho ra mắt công trình về Đông Dương thuộc Pháp. Chính khảe năng nói tiếng Pháp của ông đã đưa đẩy ông đến việc nghiên cứu về Đông Dương.
[11] - Fujiwara chuyên môn nghiên cứu về Hoa kiều. Năm ông mất là do người dịch viết thêm vào.
[12] - Nguyên văn Ecole Francaise d’Extrême Orient. Sự dung lợp giữa hai luồng nghiên cứu đã thành hình trong giai đoạn quân Nhật chiếm đóng Đông Dương.
[13] - Ông Yoshida đã làm thủ tướng 2 nhiệm kỳ: 1946-47 và 1948-54. “Học thuyết Yoshida” nhằm bình thường hóa quan hệ ngoại giao với các quốc gia Á châu và thiết lập những cơ quan với hoạt động có mục đích khuyến khích sự giao lưu kinh tế.
[14] - Tên này mới có từ 1954 chứ trước đó nó có tên là Ajia Mondai Chôsakai アジア問題調査会 .
[15] - JAAS (Japan Asociation for Asian Studies) thành lập năm 1953 cũng chủ trương giống y như thế.
[16] - Thường được gọi tắt là Ajiken hay IDE.
[17] - Muốn biết rõ hơn IDE nghiên cứu những gì, xin xem (<Horii, tr. 59-82), (<44> Yasunaka tr. 83-98) cũng như tạp chí mang tên Kinh tế Á châu hay Ajia Keizai, phát hành từ 1960.
[18] - Tuy vậy, kể từ thập niên 1980, trung tâm này đã thay đổi lối làm việc và tiến về một phương pháp  tương tự như IDE.
[19] - Phải hiểu câu nói này theo cái nghĩa thấy trong luận văn của (<24> Sabot tr.127-134 và <9> Hamon.
[20] - Trao đổi với Furuta Motoo ngày 29/08/2004.
[21] - Người ta hãy còn nhớ các thầy Đàm Quang Tuấn, Huỳnh Trí Chánh… ở Tôkyô Gaidai, Phan Đức Lợi ở Ôsaka Gaidai là những cựu sinh viên du học Nhật Bản đã có cống hiến lớn lao cho việc truyền bá ngôn ngữ văn hóa Việt Nam ở Nhật, bên cạnh các thầy đến từ trong nước từ hai miền Nam (Nguyễn Khắc Kham), Bắc (Nguyễn Cao Đàm). Con số giảng sư khá đông nhưng riêng thầy Đàm Quang Tuấn là người đi tiên phong đã dạy ở Tôkyô Gaidai từ khóa đầu tiên (LND).
[22] - Ảnh hưởng của Paul Mus và của EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ)
[23] - Http://waseda-coe-cas.jp/e/about 3 ito.html (đăng tải ý kiến của tác giả với tất cả sự dè dặt thường lệ. LND)
 

http://chimviet.free.fr/vannhat/nguyennamtran/nntd082_viethoctaiNhatBan.htm

..

Anh Phạm Mạnh Kha, anh Vương Trí Tân, anh Võ Văn Thành, anh Huỳnh Trí Chánh, anh Trần Văn Thọ, anh Lê Hồng Phúc,
anh Nguyễn Văn Ân, anh Lê Ngọc Thảo, anh Nguyễn Bá Thuận, anh Tô Bửu Lưỡng,
anh Võ Công Tánh, anh Cao Văn Phúc


Mời click vào hình nhỏ ở dưới để xem thêm nhiều hình lhác
P1020241.JPG (73410 bytes)P1020243.JPG (75797 bytes)P1020248.JPG (81799 bytes)P1020240.JPG (83258 bytes)P1020246.JPG (67262 bytes)P1020250.JPG (69088 bytes)DSC04206.JPG (52129 bytes)DSC04207.JPG (49451 bytes)DSC04208.JPG (58069 bytes)DSC04210.JPG (50824 bytes)

 

DSC04211.JPG (46113 bytes)DSC04217.JPG (55840 bytes)DSC04214.JPG (62121 bytes)P1020256.JPG (71487 bytes)P1020257.JPG (69297 bytes)P1020259.JPG (57886 bytes)

https://www.erct.com/3-HinhAnh/Exryu-Japan/04-Bonenkai/04-Bonenkai-Japan.htm









Tâm Thư 1990 làm chấn động hệ thống chính trị ở Việt Nam, sau vụ này tên của Bùi Văn Nam Sơn và Nguyễn Ngọc Giao được đưa vào (sau một thời gian dài thì được xóa bỏ) bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở đường Võ Văn Tần TPHCM.


Tâm Thư này xuất phát từ phong trào Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ (bao gồm không ít cựu sinh viên Việt Nam học tập ở Tây Âu trước 1975). Họ bị chính thể cầm quyền nghi ngại, ngăn cản về lại Việt Nam, không được dịp hợp tác để vực dậy đất nước đang ở cận kề khủng hoảng (cũng năm đó, lãnh đạo cấp cao của Đảng cộng sản Việt Nam sang gặp phía Trung Quốc ở Thành Đô, làm một mật ước mà đến nay vẫn còn mờ mịt đối với nhân dân Việt Nam, gây ra tâm lý ngờ vực của nhân dân đối với đường lối lãnh đạo đất nước).

Đến nay đã gần 30 năm.


Tài liệu

gửi các vị lãnh đạo Việt Nam
cùng đồng bào trong và ngoài nước
về việc cải tổ hệ thống chính trị


Cách đây 20 năm, bản TÂM THƯ gửi các vị lãnh đạo Việt Nam cùng đồng bào trong và ngoài nước về việc cải tổ hệ thống chính trị (sau này vẫn được biết dưới tên gọi ngắn là TÂM THƯ) đã được công bố, với hơn 700 chữ ký của những người đã tham gia phong trào ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Úc ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất, chống chính sách xâm lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam.

Ở thời điểm mùa xuân năm 1990, khối Đông Âu sụp đổ, phong trào dân chủ ở Trung Quốc đã bị đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn. Ở Việt Nam, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hoảng sợ, kìm hãm cuộc đổi mới và đàn áp những tiếng nói dân chủ, phần lớn xuất phát từ trong nội bộ Đảng.

Ở nước ngoài, các tổ chức chống đối phấn khởi hi vọng vào sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Việt Nam và Đảng cộng sản. Những tổ chức trước đó chủ trương vũ trang lật đổ nay tuyên bố chọn con đường hòa bình dân chủ.

Nhiều tuyên ngôn, tuyên cáo, hiệu triệu được phổ biến, kêu gọi “chuyển lửa về quê hương”.

Ngay trong nội bộ phong trào Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng đã có ít nhất 4 bản tâm thư kêu gọi dân chủ hóa đời sống chính trị Việt Nam, song bản tâm thư mà chúng tôi công bố dưới đây có tiếng vang hơn cả, có lẽ vì nó tập hợp rộng rãi những thành viên tiêu biểu ở các nước, nội dung thể hiện một lập trường chân thành và trách nhiệm, kiên quyết mà ôn hòa.

Trong bối cảnh diễn biến tình hình trong phe các nước xã hội chủ nghĩa và sự hoảng sợ co cụm của lãnh đạo ĐCS VN, bản tâm thư đã gặp phản ứng tiêu cực của nhà cầm quyền — sự tiêu cực dường như tỉ lệ với tiếng vang của nó trong dư luận, đặc biệt trong nội bộ ĐCS. Những người ký tâm thư hoặc không được cấp visa về nước, hoặc bị cật vấn, hù dọa. Những người được coi là chủ xướng bị theo dõi, cô lập, cấm cửa, có người được nêu tên trong suốt 14 năm trời ở “Viện bảo tàng tội ác Mỹ-ngụy” (đường Võ Văn Tần, TP HCM), danh sách 34 người ký tên đầu tiên (xem ở dưới) được niêm yết ở trụ sở các tỉnh đội và cơ quan công an, nhân viên sứ quán ở nhiều nước (kể cả đại sứ) được chỉ thị ngăn chận đồng bào ký tên hay thúc ép rút tên khỏi tâm thư…

Tuy nhiên, chủ trương mù quáng và thô bạo này không gặp sự đồng tình của cán bộ và đảng viên. Trong chừng mực an toàn cá nhân cho phép, nhiều người (kể cả ở cấp cao nhất) cũng đã kín đáo tỏ thái độ thông cảm, tôn trọng.

Nhân dịp kỷ niệm 20 năm bản Tâm Thư, chúng tôi công bố tài liệu này. Vì nhiều lí do. Trước hết, vì yêu cầu của một số bạn đọc ở trong nước và nước ngoài, bởi một lẽ khá đơn giản (và đáng ngạc nhiên) là nó chưa bao giờ được công bố trên tờ báo nào (Diễn Đàn, hay Đoàn Kết năm 1990, khi ban biên tập Diễn Đàn còn chịu trách nhiệm biên tập báo Đoàn Kết). Thứ nữa, để bản đọc có dịp nhìn lại, đánh giá quan điểm của Tâm Thư, xét xem những ý kiến nêu ra đã lỗi thời, hay vẫn còn là nhu cầu bức thiết của xã hội Việt Nam năm 2010.

Nguyễn Ngọc Giao


Trong vòng không đầy bảy tháng, cuộc đàn áp đẫm máu phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ ở Trung Quốc và sự sụp đổ của chế độ độc tài Ceausescu trước sự vùng dậy của nhân dân Rumani, bất chấp tàn sát, khủng bố, đã chứng minh sự phá sản toàn diện của mô hình xã hội chủ nghĩa do Stalin thiết lập ở Liên Xô từ những năm 1930, trong đó, nhân danh giai cấp vô sản, một cá nhân, một nhóm người hay một đảng phái tự cho mình quyền được đứng trên nhân dân, trên Nhà nước và pháp luật. Hoặc do ý thức rõ được sự phá sản đó hoặc do áp lực của quần chúng, từ mấy năm qua và đặc biết từ mấy tháng nay, hầu hết các đảng cộng sản Đông Âu, bắt đầu là Liên Xô, chính thức hay trong thực tiễn, đã từng bước đoạn tuyệt với chủ nghĩa Stalin và quan niệm chuyên chính vô sản, chấp nhận đối thoại hay hợp tác với những tổ chức khác, kể cả đối lập, cùng nhau xây dựng một nền dân chủ thực sư đa nguyên, nhằm huy động mọi sức lực, mọi tài năng đưa đất nước của họ ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay.

Do những đường lối, chính sách không phù hợp với tình hình thế giới cũng như với thực tế của Việt Nam, nước ta đã bị cô lập về mặt kinh tế cũng như ngoại giao và vẫn chưa thoát ra khỏi cảnh nghèo khó. Đau lòng hơn nữa, cuộc đổi mới khởi động năm 1986 đã bị trì hoãn, bỏ lỡ một cơ may lớn, làm tổn thương lòng tin của nhân dân mới phần nào được phục hồi. Những biến cố vừa xảy ra ở Đông Đức, Tiệp Khắc và nhất là Rumani cho thấy là trong một tình hình chính trị, kinh tế, xã hội bế tắc kéo dài quá lâu, sự thụ động bề ngoài của quần chúng mà sức kiên nhẫn chịu đựng dẫu sao cũng có giới hạn, nhiều khi chỉ là sự bình lặng trước cơn bão lớn. Để tránh cho đất nước khỏi rơi vào thảm kịch Thiên An Môn hay Rumani, trước tiên cần nhận thức rằng không thề dùng đàn áp hay bạo động để giải quyết những vấn đề trầm trọng hiện nay của đất nước mà phải tìm được những phương pháp chính trị thích nghi. Chủ động đổi mới nhanh chóng và cơ bản hệ thống chính trị — song song với đổi mới kinh tế — chính là chìa khoá để thoát ra khỏi khủng hoảng, tránh những đổ vỡ cho xã hội ; đó vừa là yêu cầu khách quan cấp bách, vừa là bằng chứng của quyết tâm và thực tâm đổi mới đất nước.

Từ những nhận định nói trên và nghĩ rằng Tổ quốc Việt Nam là của toàn thể nhân dân Việt Nam chứ không phải của riêng ai và nhất là không thể nào đổi mới và xây dựng đất nước nếu không có hoà bình ổn định, chúng tôi, những người ký tên dưới đây, không nhân danh gì khác ngoài lương tâm, lý trí và tình cảm dân tộc của chính mình, kêu gọi các nhà lãnh đạo hiện nay của Việt Nam, vốn đã có công lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, hãy vì quyền lợi tối cao của dân tộc, sớm cải tổ hệ thống chính trị hiện có bằng cách :

1. thực sự tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho Nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình, để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối Nhà nước.

2. thiết lập một nền dân chủ đa nguyên, thực sự bảo đảm an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng… nhằm tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam, không phân biệt quá khứ, chính kiến hay tôn giáo, tham gia luận bàn và, đặc biệt thông qua tuyển cử tự do, làm và kiểm tra việc nước.

3. ngay trước mắt, mở ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn thể xã hội, để toàn dân bàn định một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền tảng cho một chế độ thực sự lấy dân làm gốc.

Chúng tôi xin gửi tới đồng bào trong nước những tình cảm thiết tha nhất và tin tưởng rằng rằng đồng bào sẽ vượt qua mọi khó khăn, đoàn kết thực hiện công cuộc dân chủ hoá đất nước.

Chúng tôi kêu gọi mọi kiều bào từng băn khoăn, thao thức về tình hình và tương lai của quê hương hãy ký tên ủng hộ bức tâm thư và cùng chúng tôi, trong tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc đich thực, tìm những phương thức hoạt động thích ứng nhằm hỗ trợ đồng bào trong nước xây dựng một xã hội dân chủ, tự do, nhân ái, công bằng và ấm no.

Ngày 22 tháng 1 năm 1990




DANH SÁCH

những người ký tên đầu tiên (tháng 1.1990) :

1. Vĩnh Anh (Canada)
2. Lê Văn Cát (Tây Đức)
3. Huỳnh Trí Chánh (Nhật)
4. Nguyễn Văn Chuyển (Nhật) (*)
5. Lê Văn Cường (Pháp)
6. Nguyễn Văn Danh (Ý)
7. Nguyễn Phạm Điền (Úc)
8. Lê Văn Đồng (Berlin)
9. Nguyễn Ngọc Giao (Pháp)
10. Nguyễn Tuệ Hải (Úc)
11. Thái Thị Khánh Hạnh (Canada)
12. Nguyễn Văn Hiền (Bỉ)
13. Nguyễn Đức Hiệp (Úc)
14. Huỳnh Hơn (Berlin)
15. Nguyễn Đăng Hưng (Bỉ)
16. Lê Thành Khôi (Pháp)
17. Đinh Cao Minh (Pháp)
18. Lê Minh (Úc)
19. Lâm Thành Mỹ (Pháp)
20. Lương Châu Phước (Canada)
21. Trần Tử Quán (Ý)
22. Bùi Văn Nam Sơn (Tây Đức)
23. Nguyễn Văn Tạo (Berlin)
24. Lê Văn Tâm (Nhật)
25. Tôn Thất Nguyễn Khắc Thiêm (Bỉ)
26. Phạm Duy Thoại (Berlin)
27. Phạm Ngọc Thuần (Pháp) (*)
28. Đào Văn Thụy (Pháp)
29. Văn Thự (Pháp) (*)
30. Nguyễn Kỳ Toàn (Canada)
31. Trương Phước Trường (Úc)
32. Phan Quốc Tuyên (Thụy Sĩ)
33. Đỗ Khắc Uy (Nhật)
34. Vinh, tức Vĩnh Khoa (Bỉ)
(*) đã mất


https://rosetta.vn/short/2019/07/22/tam-thu-dien-dan-forum/


..

1 nhận xét:

  1. 3. Cập nhật vào tháng 1 năm 2022

    Đây là các tấm ảnh mà gia đình chú Chánh ở Nhật Bản gửi cho một người trong nhóm "LHS vùng Tokyo 1990s-2000s".

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.