Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

15/08/2020

Văn nghệ Thứ Bảy : thi sĩ Trần Nhuận Minh chắc về sử, như là truyền thống dòng Trần tộc Điền Trì

Hôm qua, đăng một hồi kí của nhà văn Duyên Anh (1935-1997, tên thật Vũ Mộng Long, người Thái Bình), trong đó có đoạn nói về việc Trần Đăng Khoa bắt giò thơ của Tố Hữu. Đại khái "đường ta rộng thênh thang 8 thước" là lỗi của ông Lành nhìn gần quá, để cháu Khoa chữa cho thành "đường ta rộng thênh thang ta bước". Hồi kí của Duyên Anh, đọc trên Giao Blog ở đây.

Câu chuyện ấy, rồi đầu thập niên 1980, lúc còn học trường làng đầu thời tiểu học, tôi đã nghe nhiều lần do nhiều người kể ! Tức là giai thoại khá nổi tiếng. Bởi vậy nhà văn Duyên Anh vốn là trưởng thành trong văn học Miền Nam - Sài Gòn, nhưng vẫn nghe được (hiện chưa rõ là nghe trước 1975 hay là sau đó), để rồi, cuối thập niên 1980, lúc ở Mĩ quốc xa xôi mà viết hồi kí, ông đã thuật lại giai thoại. 

Duyên Anh thì chê Trần Đăng Khoa đại khái xuất thân nông dân một cục, không phải là dòng dõi cầm bút !


1. Khổ nỗi, Duyên Anh nhầm to. Dòng ấy là dòng của các nhà khoa bảng họ Trần ở làng Điền Trì danh tiếng tại xứ Đông đó. Anh em Trần Nhuận Minh và Trần Đăng Khoa là dòng của Trần Thọ, Trần Tiến, Trần Trợ,... dân bút mực nối đời đấy. Cũng là dòng khoa bảng nối đời đấy ! Có thể đọc nhanh trên Giao Blog về điểm này, ở đây

2. Hai chàng thi sĩ họ Trần, thì với tôi, anh Trần Nhuận Minh lại rất chắc cú về sử. Ông đọc sách và tư duy các vấn đề lịch sử rất chi là sử gia, nên thi thoảng Giao Blog có đưa bài của ông về, ví dụ ở đây.

Hôm nay, đọc chơi một bài Trần Nhuận Minh phản biện một sử gia địa phương. Đâu ra đấy. Cẩn thận. Tỉ mỉ. Đọc anh, cứ liên tưởng đến quê hương Điền Trì !

Chán cho nhà sử địa phương, dù đã từng là Giám đốc Sở Văn hóa tỉnh Quảng Ninh, nhưng viết sử như đùa ! Làm sử lơ tơ mơ đến mức như vậy mà là sử gia danh tiếng ở địa phương ư ?

Thôi, đọc luôn vào bài của thi sĩ họ Trần ở dưới.

Có gì bổ sung thì dán ở bên dưới.

Tháng 8 năm 2020,
Giao Blog


 Trang bìa tập sách.



---

Bài của Trần Nhuận Minh đã đăng 10 năm trước

Nói lại với ông Nguyễn Thanh Sĩ về Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và đền Cửa Ông


Cập nhật lúc 16:26, Chủ Nhật, 23/05/2010 (GMT+7)

LTS: Như bạn đọc đã biết, QNCT, số ra ngày 18-4-2010, có đăng bài “Sinh thời Trần Quốc Tảng có ở Cửa Ông như nhiều người vẫn nghĩ hay không?” của nhà thơ Trần Nhuận Minh.


Theo đó, tác giả cho rằng có nhiều cơ sở sử liệu để chứng minh rằng hiểu như thế là chưa đúng, Trần Quốc Tảng chưa từng ở Cửa Ông, đền thờ Cửa Ông ban đầu cũng không phải lập nên để thờ Trần Quốc Tảng… Sau đó, QNCT đã nhận được bài viết của ông Nguyễn Thanh Sĩ phản bác ý kiến này (đăng trên QNCT, số ra ngày 16-5-2010)…

Chúng tôi cho rằng đây là một vấn đề khoa học đáng để trao đổi một cách nghiêm túc. Vì vậy, xin đăng bài trả lời của nhà thơ Trần Nhuận Minh (đầu đề do Tòa soạn đặt) và rất mong bạn đọc, nhất là những nhà nghiên cứu lịch sử có quan tâm đến vấn đề này, tham gia thảo luận nhằm làm cho sự việc được sáng tỏ… (Bài viết xin gửi theo địa chỉ: Ban QNCT, Báo Quảng Ninh, 71-Nguyễn Văn Cừ, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; hoặc theo E-mail:qncuoituan@yahoo.com)...


1. Ngay đầu đề, ông Nguyễn Thanh Sĩ đã thiếu chính xác. Tôi không viết  “thờ nhầm”. Ý tôi nói là thờ vọng, dù không viết ra. Tôi viết: “Trần  Quốc  Tảng  không vì  thế  mà  kém  đi, thậm  chí  còn  được  tôn vinh thêm, ở  cả những  nơi ông chưa từng đặt chân đến”. Cũng như Đền thờ Trần Quốc Nghiễn ở bến Đoan, TP Hạ Long ngày nay, làm sao chứng minh được Trần Quốc Nghiễn đã “sinh ra hay lập chiến tích” ở đây, như ông nói. Tôi viết việc thờ Trần Quốc Tảng ở Cửa Ông là “hợp với đạo Trời, hợp với lòng Người”. Tôi là một nhà thơ, nhưng chạm vào những giá trị thiêng liêng hay khoa học, tôi tuyệt đối không “tùy tiện” như ông Nguyễn Thanh Sĩ nói. 

2. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Trần Quốc Tảng hai lần được Hưng Đạo vương và vua Trần cử ra Cửa Suốt trấn giữ và có thời gian ở Cửa Suốt”. Theo tôi, căn cứ của ông là không đủ độ tin cậy. Tôi biết, ông dựa vào Trần triều hiển thánh chính kinh tập biên (1910). Đây là sách thần tích, chỉ có ý nghĩa tham khảo, lại được viết mà theo tôi là trong ảnh hưởng của sai lầm từ Bùi Huy Bích ở thời Lê. Thần tích không phải là lịch sử. Một ví dụ vừa diễn ra: Vị Thái uý nhà Lý (mà tôi không tiện nêu tên) theo thần tích, ngọc phả, là người dâng kế dời đô cho vua Lý Thái Tổ, nên đã tổ chức kỷ niệm rất long trọng trong dịp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Các nhà sử học nghi ngờ và tra vào quốc sử là bộ Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT) thì vị Thái uý này có mặt ở thời sau, khi Lý Thái Tổ đã băng hà. Vì vậy, sử dụng thần tích, ngọc phả (hay câu đối) trong các vấn đề lịch sử, phải rất thận trọng. Ông viết: “Lịch sử đã chứng minh”… nhưng không dẫn ra bất cứ nguồn lịch sử đáng tin cậy nào để chứng minh. Sách nào? Trang bao nhiêu? Ai viết? Viết ở thời nào? Xuất bản bao giờ? Có đủ độ tin cậy không? Những tư liệu ông dẫn về Cửa Suốt Cẩm Phả là tư liệu của thời Nguyễn, không phải ở thời Trần. Chúng ta đều biết, ngày 24-4-1884, nhà Nguyễn bán mỏ Cẩm Phả cho Pháp lấy 10 vạn đồng tiền Đông Dương và Trạm Hải quan này được thiết lập (hay được nâng cấp) mà ta biết ngày nay, rất có thể là từ 1884, để nhà Nguyễn thu thuế của Pháp. Theo tôi thì khoảng 730 năm trước, ở thời Trần, Trạm Hải quan này chưa có.

3. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Một vùng chiến lược từ Cửa Suốt (tức Cửa Ông) ra miền biên giới Đông Bắc,... Trần Hưng Đạo và vua Trần giao cho võ tướng tài danh Trần Quốc Tảng” nhưng lại không nêu căn cứ vào nguồn sử liệu nào. Trong khi đó, ĐVSKTT, tập II, Nxb Khoa học xã hội, 1985, trang 58, dòng 11- 12 ghi: “...Khi ấy thuỷ quân Nguyên đánh vào Vân Đồn. Hưng Đạo vương giao hết công việc biên thuỳ cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Khánh Dư”. Theo tôi hiểu, “giao hết” công việc biên thuỳ thì không chỉ có trên biển. Biên thuỳ Đông Bắc chủ yếu là trên bộ, hoặc một phần quan trọng là trên bộ. Chính vì căn cứ lịch sử không thể chối cãi này, cùng với đặc điểm chế độ phân quyền ở thời Trần, mà tôi viết: “Dải đất Hồng Gai, Cẩm Phả hiện nay ở thời Trần… do Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư quản lý từ năm 1282 đến năm 1339, sau khi Trần Quốc Tảng đã mất được 26 năm.” Nghĩa là khoảng thời gian đó, ở đây, không có sự hiện diện của Trần Quốc Tảng. Vậy Trần Quốc Tảng ở đâu? Tôi viết: “Do vậy, có thể hiểu: Trần Quốc Tảng có vương phủ ở một trong các địa danh trên..”, tức là một trong những nơi 4 anh em ông hội quân đánh quân Nguyên, theo sự điều khiển của cha ông, là các huyện thuộc Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay - vì nhà Trần theo chế độ phân quyền (căn cứ vào trang 49, tập II, ĐVSKTT).

4. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: Trần Quốc Tảng “vẫn dành thời gian đến vùng Đông Bắc để thị sát tình hình” là không có căn cứ. ĐVSKTT có ghi lại nhiều cuộc “thị sát tình hình” của ông, nhưng đều ở miền Trung, trong đó có lần ghi cả việc ông đến sách Sẩm Tớ, tên một làng rất nhỏ, người thiểu số, giống như xóm của ta hiện nay, ở tận biên giới Việt - Lào. Vậy thì nếu ông có đi “thị sát biên giới Đông Bắc” liên quan tới chiến lược phòng thủ, chống kẻ thù trực tiếp lúc bấy giờ, ĐVSKTT không thể không ghi.

Theo ông Nguyễn Thanh Sĩ: “Trần Quốc Tảng 2 lần được thưởng công sau trận Bạch Đằng” là không có căn cứ. Lần 1, ông viết: “Chiến dịch Bạch Đằng kết thúc, Hưng Nhượng vương về triều báo công, được vua Trần khen thưởng và phong làm Suất Ti tuần An Bang, được cử ra Cửa Suốt tiếp tục trấn giữ”. Tôi nghĩ, chức vụ này quá nhỏ (theo Địa chí Quảng Ninh, xuất bản năm 2003, chỉ như chức Trạm trưởng Hải quan…) so với công tích và danh tiếng của ông, vị anh hùng Bạch Đằng, đồng thời là bố vợ vua và được phong Đại vương vài năm sau. Lần 2, ông viết: “Trong kì bình công khen thưởng của vua Trần vào cuối năm 1288, Trần Quốc Tảng được phong Tiết độ sứ” Ông viết bình công khen thưởng sau đại thắng Bạch Đằng những 2 lần và lần 2 “vào cuối năm 1288” là sai. Thực ra chỉ có 1 lần. ĐVSKTT, trang 62, chép: “Mùa hạ, tháng 4, định công dẹp giặc Nguyên. Tiến phong Hưng Đạo vương làm Đại vương, Hưng Vũ vương làm Khai Quốc công, Hưng Nhượng vương là Tiết độ sứ”. Không ghi Tiết độ sứ ở đâu (như Trần Tung là Tiết độ sứ Thái Bình chẳng hạn - theo Trần Nhân Tông trong Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục). Và dòng trên ghi thời gian phong thưởng là “Kỉ Sửu, Trùng Hưng năm thứ 5 (1289)”. Như vậy là tròn 1 năm (4/1288 - 4/1289) và chỉ phong 1 lần vào năm 1289.

5. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Khi cánh quân của Trình Bằng Phi đến Đông Triều, thì bị quân Trần Quốc Tảng chặn đánh quyết liệt buộc phải quay lui về Vạn Kiếp” là không có căn cứ. ĐVSKTT không ghi điều đó. Và trong cuốn Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỉ XIII của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, Nxb Khoa học xã hội, 1988. (Hai tác giả còn dẫn cả Nguyên sử, An Nam truyện - Bản kỉ (của chính tên tướng giặc thua trận này cùng với Trình Bằng Phi là Ta Tru), An Nam chí lược, (của sử gia giặc đi theo quân Nguyên) khi đề cập sự kiện này đã mô tả rất kĩ lưỡng trận đánh Trình Bằng Phi và Ta Tru ở Đông Triều. Theo đó, trong đánh trận này, chỉ có một viên tướng nhà Trần là Hưng Ninh vương Trần Tung (chứ không có Trần Quốc Tảng). Đến đây, ông Thanh Sĩ lại có sai lầm giống như Bồi tụng Bùi Huy Bích ở thời Lê, là nhầm lẫn Trần Tung với Trần Quốc Tảng, hoặc đồng nhất hai bác cháu ruột là một người chăng?

6. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm nay là phường Cẩm Phú, thị xã Cẩm Phả” là sai. Xã Trắc Châu là nơi Trần Quốc Tảng lập đồn trú, rồi dẫn quân đánh thẳng xuống sông Bạch Đằng. Trước hết, từ xưa đến nay, phường Cẩm Phú, Cẩm Phả, chưa bao giờ là xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm. Xin mở sách Tên làng xã Việt Nam thế kỉ XIX, (trở về trước), biên soạn năm 1810, hoàn thành năm 1819 (mà bản chữ Hán là Các tổng trấn xã danh bị lãm), Nxb Khoa học, xã hội, 1981, của Viện Hán Nôm, quyển sách có lẽ là duy nhất ghi chép rất tỉ mỉ tên các làng xã Việt Nam, thì rõ: huyện Thanh Lâm là phần đất phía nam của huyện Nam Sách hiện nay, trong đó có xã Trắc Châu, thuộc tổng Trắc Châu, trấn Hải Dương. Còn ở Quảng Ninh, phần Trấn An Quảng, được chú thích là năm 1823 đổi thành trấn Quảng Yên (tức tỉnh Quảng Ninh ngày nay). An Quảng có 1 phủ là Hải Đông (Hải Đông đã tắt khói lang bay - Thơ Lê Thánh Tông), 3 huyện, 3 châu, 8 tổng 32 làng xã vạn chài, có liệt kê từng tên một, trong đó, châu Vân Đồn chỉ có 2 xã, là xã Quan Lạn và xã Minh Châu. Không có tên mảnh đất sau này là Cẩm Phả. Nếu ta biết cách đây khoảng 150 năm, người từ Lán Đạo bây giờ ra núi Bài Thơ còn phải đi bằng thuyền và cách đây khoảng 20 năm, vùng đô thị Vựng Đâng, Cọc 5, Hùng Thắng (TP Hạ Long hiện nay) còn là bãi sú vẹt và vùng biển nông, thì hẳn có thể đoán chắc, cách đây khoảng 730 năm, vùng Cẩm Phả - Hòn Gai ngày nay còn là vùng biển đảo hoang vu, không có người ở. Vậy thì lấy đâu ra quân, lập đồn trú, rồi “đóng đại bản doanh” ở chỗ nào? Hơn nữa trận Bạch Đằng, 1288, ta đánh xuôi theo nước chảy, không có chuyện đánh ngược nước, từ bên ngoài hàng cọc, tức là từ cửa biển đánh vào. Sách Trần triều hiển thánh (1900) mà ông Nguyễn Thanh Sĩ dẫn, cũng ghi rõ: Trần Quốc Tảng “lập đồn ở xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm, trải qua 3 ngày đêm, đánh thẳng vào trại giặc ở sông Bạch Đằng, chỉ một khắc là thắng”. Trắc Châu nay thuộc huyện Nam Sách, Hải Dương.

7. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Theo sách Đại Nam nhất thống chí, bộ sử chính thống dưới triều Nguyễn” là sai. Bộ sử chính thống của triều Nguyễn là Việt sử thông giám cương mục. Đại Nam nhất thống chí là sách địa chí, biên soạn từ năm 1875, hoàn thành năm 1883, thống kê tư liệu khá đầy đủ từng tỉnh, từng huyện, dài rộng bao nhiêu, hình thế đất đai phong thuỷ, khí hậu, hộ khẩu, phong tục ma chay cưới xin, thành quách, sông suối, đường sá, đền chùa, miếu mạo, nhà trạm, chợ búa, cầu cống, trường học, đò cầu, đê đập, nông thổ sản, động thực vật, kể cả các món ăn đặc sản như tôm cua ốc ếch, các sản phẩm từng vùng như thuốc lào, thuốc phiện, mắm cáy, mắm rươi v.v... Ghi hàng ngàn tư liệu như thế mà trong chương về Tỉnh Quảng Yên, mục đền chùa miếu mạo, ở vùng Cẩm Phả ngày nay, trong đó có Cửa Ông, không ghi nơi nào thờ Trần Quốc Tảng cả, chỉ có 1 miếu là Miếu Hoàng Tiết chế, (Tập 4, Nxb Khoa học xã hội, 1971, trang 45), trong đó chỉ thờ có 1 người là Hoàng Cần, theo truyền thuyết là người xã Hải Lãng, Tiên Yên, ở thời Trần. Ông Thanh Sĩ viết: “Hoàng Cần không phải là danh tướng thời Trần” mà “ở thời Lê mạt”, tức cuối Lê, thì tôi khuyên ông đọc lại một dòng trong mục “Miếu Hoàng tiết chế” mà ông vừa dẫn ra, ở bộ sách mà ông xác định là “chính sử”. Tôi nói vậy để khẳng định: Ít nhất đến năm 1883, ở Cẩm Phả, Cửa Ông không có nơi nào thờ Trần Quốc Tảng. Nếu có, sách thống kê vô vàn tư liệu chi tiết ở tỉnh Quảng Yên không thể bỏ qua việc thờ một vị Đại vương lừng lẫy chiến công, lại là bố vợ vua?

8. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Trần Quốc Tảng mất năm 1311” là sai. ĐVSKTT, trang 98, dòng 21, ghi: “Hưng Nhượng vương Quốc Tảng mất”. Tra ở dòng trên, ghi: “Quí Sửu (Long Hưng) năm thứ 21 (1313)”. Xin nói thêm, cái phiến đá và cái mũ đá, khi viết về cái chết của Trần Quốc Tảng mà ông Thanh Sĩ ghi trong bài, theo sách Truyện cổ Nam Sách, Nxb Văn hoá dân tộc, 2000, trang 52-53, của Nguyễn Hữu Phách và Nguyễn Văn Đức, thuật lại theo Lê Mậu Cường, thì hiện còn ở cái giếng trong khu đền thờ Trần Quốc Tảng ở xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm, “đo phiến đá thấy dài 6 thước 4 tấc, rộng 2 thước 3 tấc”…

9. Ông Thanh Sỹ nói Đền Cửa Ông là ngôi đền “duy nhất ở nước ta thờ Trần Quốc Tảng” là sai. Tôi biết ít nhất còn 2 nơi nữa, xin được bổ sung cho ông, một là Đến thờ Trần Quốc Tảng ở xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm, nơi ông lập đồn trú (nay thuộc Nam Sách, Hải Dương). Hai là Văn Miếu (hoặc Văn Chỉ Linh Khê) thuộc thôn Linh Khê, xã Thanh Quang, huyện Nam Sách, gần nơi tổ chức Hội nghị Bình Than của nhà Trần tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282).

10. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Đền Cửa Ông có từ thời Trần” là không có căn cứ, như đã nói ở trên, và “Khởi thuỷ đền Cửa Ông thờ Trần Quốc Tảng”, nếu hiểu là từ khi xây mới, đầu thế kỉ XX thì đúng, nhưng trong lịch trình của đền từ trước đến đầu thế kỉ XX, thì sai. Sách Ngữ văn địa phương Quảng Ninh, Nxb Giáo dục Việt Nam, vừa in 12-2009, tập I, dạy chính thức trong nhà trường, trang 26, ghi nguyên văn: “…trước khi thờ Trần Quốc Tảng, đền Cửa Ông là miếu thờ Hoàng Cần, người địa phương…” đó thôi.

11. Về việc trùng tu, xây dựng lại các đền, để thờ các vị tiền bối, có nâng cấp, có cái phá cũ xây mới, to đẹp khang trang hơn, xứng tầm hơn là việc thường tình của ngành văn hoá. Việc điều chỉnh các nhân thần cho phù hợp cũng là điều bình thường. Ông nói việc làm đó là “thất đức”, tôi e là hơi nặng với các đồng nghiệp của mình…

Cuối cùng tôi muốn nói, lịch sử bao giờ cũng ẩn chứa nhiều bí mật. Trên chặng đường tìm kiếm để tiếp cận với các giá trị khoa học, không ai dám nói là mình không có nhầm lẫn, thậm chí sai lầm. Và đó cũng là điều bình thường trong học thuật, kể cả ở những nhà khoa học lớn. Tuy nhiên, những gì mà ông Nguyễn Thanh Sĩ đã đề cập trong bài viết của mình, theo tôi là chưa đủ sức thuyết phục. Vậy nên xin nói lại để ông hiểu đúng hơn những gì tôi đã trình bày trong bài viết của mình đăng trên QNCT, số ra ngày 18-4-2010.

Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng từng có thời gian ở Cửa Suốt và Đền Cửa Ông thờ Trần Quốc Tảng không phải thờ “nhầm”...

Sinh thời, Trần Quốc Tảng có ở Cửa Ông như nhiều người vẫn nghĩ hay không?








Sinh thời, Trần Quốc Tảng có ở Cửa Ông như nhiều người vẫn nghĩ hay không?


Cập nhật lúc 07:40, Chủ Nhật, 18/04/2010 (GMT+7)

LTS: Đền Cửa Ông là ngôi đền không chỉ nổi tiếng trong tỉnh mà là trong cả nước. Đền thờ vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tảng. Cách đây mấy năm, tượng Trần Quốc Tảng cũng đã được dựng ở Cửa Ông. Và theo nhiều người lâu nay vân nghĩ, rằng Trần Quốc Tảng đã từng sống, thậm chí cả mất, tại đây.

Thế nhưng theo nhà thơ Trần Nhuận Minh, mọi chuyện chưa hẳn đã như vậy. Chúng tôi xin  giới thiệu bài viết của ông gửi cho QNCT để bạn đọc tham khảo...

Múa "Trống trận nhà Trần" trong lễ hội đền Cửa Ông năm 2010.
                                           Ảnh: Công Thành

Tôi vốn rất quan tâm đến lịch  sử thời Trần và ở thời Trần, hai vị danh tướng vô cùng ám ảnh tôi là Trần Khánh Dư và Trần Quốc Tảng. Vì thế, tôi rất cố gắng tìm hiểu hai vị anh hùng này trong khả năng còn hạn chế của mình. Trước đó, tôi đã công bố bài báo Danh tướng Trần Quốc Tảng không mất ở Cửa Ông. Bài này, tôi xin đề cập sâu hơn, rằng sinh thời Trần Quốc Tảng cũng không ở Cửa Ông như có nhiều người vẫn nghĩ...

Chúng ta đều biết, đầu thế kỉ XX, Miếu Hoàng Tiết chế ở Cửa Ông được phá đi xây lại trên địa điểm hiện nay và gọi là Đền Cửa Ông. Sau khi Đền xây xong, tiền nhân đã đưa Trần Quốc Tảng vào thờ ở đây cùng với Hoàng Tiết chế là Hoàng Cần, theo truyền thuyết là người thuộc Tiên Yên ngày nay, một vị tướng cùng thời với Trần Quốc Tảng. Những năm đầu thế kỉ XXI, tượng Trần Quốc Tảng được dựng ở Cửa Ông (mà chính tôi là người soạn văn bia). Đó là ghi nhận của chúng ta ngày nay với công lao to lớn của ông cho lịch sử dân tộc. Việc đó hợp với đạo Trời, với lòng Người. Nhưng ông có sống (và chết) ở đây hay không lại là vấn đề khác. Sau đây là sự trình bày của tôi, rất mong được các vị cao minh, bác nhã, chỉ giáo cho...

1. Dải đất Hồng Gai - Cẩm Phả hiện nay (trong đó có Cửa Ông) thời Trần là một giải biển đảo hoang vu, thuộc vùng biển Vân Đồn - Cửa Lục do Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư quản lý từ năm 1282 đến 1339, sau khi Trần Quốc Tảng đã mất được 26 năm.

Bộ chính sử tin cậy nhất của nước ta là Đại Việt sử kí toàn thư (để giản tiện, xin gọi tắt là TT) do Lê Văn Hưu thời Trần soạn (hoàn thành năm 1272, tức là sau khi Trần Quốc Tảng mất 41 năm), Ngô Sĩ Liên thời Lê viết lại (hoàn thành thời Lê Thánh Tông, năm 1479) đề chúng ta có trong tay hôm nay. Bộ sử này hoàn toàn không ghi Trần Quốc Tảng ở đâu, từ khi sinh ra tới khi mất.
Theo TT, năm 1282, tại Hội nghị Bình Than họp ở vũng Trần Xá  (nay là khoảng sông thuộc xã Nam Hưng, huyện Nam Sách, Hải Dương), Trầ Khánh Dư được tha tội (tiền án là Đánh chết, do thông dâm với vợ Trần Quốc Nghiễn, con dâu trưởng Trần Quốc Tuấn) và được vua Trần phong làm Phó đô tướng quân, phòng thủ vùng biển Vân Đồn, chuẩn bị đối phó với giặc Nguyên xâm lược bằng đường biển, do đó gọi là Vân Đồn phó tướng. Do bố phòng lực lượng, Trần Quốc Tảng phải giữ vùng đất khác, không thể ở cùng với Trần Khánh Dư. Bởi lẽ, tài năng quân sự của Trần Khánh Dư, thuộc vào hàng chỉ sau Trần Quốc Tuấn (không phải ngẫu nhiên mà quyển sách binh thư Vạn Kiếp tông bí truyền của Trần Quốc Tuấn, dùng để dạy quân sĩ đánh giặc Nguyên, Trần Quốc Tuấn lại giao cho Trần Khánh Dư viết lời Tựa). Trần Khánh Dư đã đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tại vùng biển Vân Đồn - Cửa Lục, góp công vô cùng to lớn vào trận đại thắng Bạch Đằng năm 1288 như thế nào, tôi không cần trình bày, vì ai cũng biết. Năm 1312, Trần Khánh Dư còn đi đánh Chiêm Thành, năm 1316 Trần Khánh Dư còn vào Diễn Châu ( nay là Nghệ An) duyệt sổ lính, sổ dân. Tất cả đều bằng thuyền. Theo vua Trần Minh Tông (1300-1357) ghi lại trong bài thơ Dưỡng Chân Bình thôn tử Nhân Huệ vương (Điền trang của Nhân Huệ vương) thì khi về hưu, Trần Khánh Dư còn nghỉ dưỡng già ở Vân Đồn. Ông mất năm 1339, sau Trần Quốc Tảng 26 năm (Trần Quốc Tảng mất năm 1313)...

2. Khi Trần Quốc Tảng hội quân đi đánh giặc Nguyên, trong quân, không có ngươi thuộc vùng đất từ Uông Bí đến Vân Đồn - Cửa Lục. Nghĩa là Trần Quốc Tảng không hề ở vùng này.
Thời Trần, theo chế độ phân quyền. Vương hầu ở nơi nào, nơi đó là một lãnh địa riêng, có quân đội, công an, nhà tù riêng. TT ghi nguyên văn như sau: “Hưng Vũ vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí vương Hiện, đốc xuất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hưng Đạo vương để chống giặc Nguyên” (TT tập II, Nxb KHXH, 1985, trang 49). Đó là 4 Con trai, đồng thời là 4 tướng của Tiết chế Trần Quốc Tuấn. Sách TT chú thích rất rõ: Bàng Hà nay là Nam Sách, Thanh Hà (Hải Dương), Tiên Lãng (Hải Phòng). Na Sầm, Trà Hương là Lục Ngạn, Long Nhãn là Yên Dũng  thuộc Bắc Ninh, Bắc Giang), còn Yên Sinh thì ta biết là thuộc Đông Triều rồi. Đó là quân đội, cũng gọi là gia binh, của các vương ở các lãnh địa do các vương đóng. Do vậy có thể hiểu, Trần Quốc Tảng có vương phủ ở một trong các địa danh trên, không hề ở vùng Hạ Long - Cửa Ông ngày nay. Như vậy, thêm một luận cứ nữa để khẳng định: Trần Quốc Tảng không hề đóng quân ở vùng Cửa Ông!

3. Trần Quốc Tảng là Quốc Trượng (bố vợ vua) được phong Đại vương từ khi còn sống. Vậy Trần Quốc Tảng ở đâu?
Vua Trần Nhân Tông là con rể Trần Quốc Tuấn. Vua Trần Anh Tông là con rể Trần Quốc Tảng - Trần Quốc Tảng được phong Đại vương khi sinh thời. Con trưởng Trần Quốc Tảng là Trần Quang Triều, 14 tuổi đã được phong Văn Huệ vương, làm quan đến chức Tư Đồ (Tể tướng) lấy công chúa Thượng Trân, con gái vua. Chức tước đầu Triều và mối quan hệ cha con - vua tôi rằng rịt như thế thì làm gì có chuyện Trần Quốc Tảng chết cô đơn trong đói nghèo bệnh tật, phải nhờ một người dân tộc Sán Dìu ở Cẩm Phả chôn cất như chôn một người ăn mày - vì bị cha là Trần Quốc Tuấn bắt đi đày ở Cửa Ông như câu chuyện mà tôi biết có một nhà sáng tác đang dự định sẽ viết thành tác phẩm. Sau khi chết, Trần Quốc Tảng được truy phong Thái uý, chức cao nhất trong triều về quân sự, (ngang với Trần Quốc Tuấn sau khi chết được truy phong Thái sư - thầy của vua, là 2 trong Tam công, thượng đỉnh của triều đình). Nên biết thêm là Trần Quốc Tảng mất năm 1313, con rể là vua Trần Anh Tông đương chức, mãi năm 1320 mới mất, Từ đó ta có cơ sở để nêu giả thuyết: Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, được phong Tiết độ sứ năm 1289, (cùng ngày được phong Đại vương của Trần Quốc Tuấn), Trần Quốc Tảng sống ở Kinh thành Thăng Long.

4. Trần Quốc Tảng định danh ở Cửa Ông bắt nguồn từ đâu?
Bồi tụng (Phó Tể tướng) Bùi Huy Bích (1744-1818) có một sai lầm 200 năm trước là nhầm lẫn Hưng Nhượng vương - Tiết độ sứ Trần Quốc Tảng với Hưng Ninh vương - Tiết độ sứ Trần Tung, bác ruột Trần Quốc Tảng, người có tên quen thuộc là Tuệ Trung thượng sĩ, mà vua Trần Nhân Tông thờ làm Thầy. Theo ghi chép của chính vua Trần Nhân Tông, thì Trần Tung: “Hai lần giặc Bắc xâm lăng (1285 và 1287-1288), có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển Thái Bình”... “rồi người lui về sống ở phong ấp Tịnh Bang và đổi tên là hương Vạn Niên”. (Hành trạng Tuệ Trung thượng sĩ của Trần Nhân Tông - Đỗ Văn Hỉ - Huệ Chi dịch, Sách Tinh tuyển Văn học Việt Nam tập 3, Nxb KHXH, 2004, trang 221.) Các sách chú thích Tịnh Bang thuộc tỉnh Quảng Yên. Rồi từ tỉnh Quảng Yên, thành thị trấn Quảng Yên. Thị trấn Quảng Yên cũng có cửa Suất (gọi chệch đi thành cửa Suốt), rồi từ cửa Suốt Quảng Yên thành cửa Suốt Cửa Ông, vì Cửa Ông cũng thuộc tỉnh Quảng Yên. Trần Tung bị lẫn sang Trần Quốc Tảng, vì thế mà dân gian nói Trần Quốc Tảng ở Cửa Ông. Theo tôi nghĩ, hương Vạn Niên không phải ở thị trấn Quảng Yên, mà rất có thể là thị trấn Nam Sách (Hải Dương) hiện nay, ở đây xưa là làng (hương) Vạn Niên, hiện còn ngôi đình cổ, rất to, mang tên Vạn Niên, rất nổi tiếng, là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia, nếu tôi nhớ không nhầm là từ năm 1962.

Đến đây, có thể kết luận: Sinh thời Trần Quốc Tảng không ở Cửa Ông, không hề biết Cửa Ông là đâu. Và điều đó không hề ảnh hưởng gì đến giá trị văn hoá và giá trị tâm linh của đền Cửa Ông khoảng 100 năm nay thờ Trần Quốc Tảng. Trần Quốc Tảng cũng không vì thế mà kém đi, thậm chí còn được tôn vinh thêm, ở cả những nơi ông chưa từng đặt chân đến, cũng như cha ông - Trần Quốc Tuấn, được thờ ở nhiều tỉnh phía Nam. Đó là sự tôn vinh và phụng thờ những giá trị bất tử của dân tộc. Nhưng tôi nghĩ, điều đó, cũng không hề ngăn cản chúng ta khi cố gắng tiếp cận những vấn đề của khoa học, để tránh sự nhầm lẫn đáng tiếc cho các thế hệ con cháu...

http://www.baoquangninh.com.vn/van-hoa/dan-va-nguoi-qn/201004/Sinh-thoi-Tran-Quoc-Tang-co-o-Cua-ong-nhu-nhieu-nguoi-van-nghi-hay-khong-2141495/


---
..

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.