Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

23/07/2021

Sơn Tùng (1928-2021) với quê hương Hoa Lũy ở Diễn Châu

Tin nhà văn Sơn Tùng đã từ trần xuất hiện trên mạng xã hội vào lúc nửa đêm hôm qua (ngày 22/7/2021).

10 năm trước, tức năm 2011, tôi đã viết bài về Sơn Tùng với quê hương Hoa Lũy. Lúc đó là trên Giao Blog ở hệ thống Yahoo (do toàn bộ hệ thống blog của Yahoo bị giải thể, nên hiện Giao Blog - Yahoo  đang tạm được lưu ở bên wordpress, ở đây).


Hôm nay, đăng lại bài viết của 10 năm trước ở đây - tức Giao Blog trên hệ thống Google. Dưới đó là cập nhật và bổ sung, làm dần dần như mọi khi.

Tháng 7 năm 2021,
Giao Blog


Làng nông thêm nghề làm muối Hoa Lũy - quê hương của nhà văn Sơn Tùng
(nguồn ảnh xem ở dưới)


Phòng làm việc của nhà văn Sơn Tùng





Sơn Tùng và con trai Sơn Định (nguồn ở đây)





---





Nguồn của 3 tấm ảnh trên (có cáo phó) : Fb Thiên Sơn



---



Bài đã đăng trên Giao Blog thuộc hệ thống Yahoo vào năm 2011




Sơn Tùng : Chàng trai họ Bùi làng Hoa Lũy (Diễn Châu, Nghệ An)

Năm ngoái, khi du lãng ở hầu khắp các huyện miền bắc tỉnh Nghệ An, tôi ghé thăm làng Hoa Lũy – quê hương của nhà văn Sơn Tùng. Một làng biển mặn mòi nắng và gió.

Trưa tháng 9. Lửa từ trên trời đổ xuống.

Ruộng muối trắng chạy dài.

Những cháu bé chân trần chạy chạy trong những hàng phi lao lô nhô ngoài bãi biển.

Thấp thoáng xa xa là những đài tưởng niệm liệt sĩ. Huyện Diễn Châu vừa mới xây cất xong nghĩa trang liệt sĩ cấp huyện, nghe nói chưa biết đặt tên là gì, là "đền" hay gì đó. Cũng nghe nói, bài văn bia trong nghĩa trang ấy được viết bởi một người con của quê hương – nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo (không biết có đúng không, vì tôi chưa xác nhận thông tin).

Đâu đây thấy dấu chân của vua cha An Dương vương và nàng Mỵ Châu.

Ông bạn nhà văn quê Diễn Châu thì cứ thắc mắc hoài về cái tên khách sạn Mường Thanh. Chuyện là: chủ của "dây chuyền" khách sạn Mường Thanh khắp bắc – trung – nam hiện nay là người Diễn Châu. Ông bạn cứ trách là tại sao phải đặt là "Mường Thanh" ngay ở giữa quê mình nhỉ ? Sao không là "Diễn Châu"? Tôi cự lại. Rồi cuối cùng biện pháp "hòa giải" được tìm thấy: khuyến nghị về việc đặc cách nên đặt tên khách sạn ấy là "Mường Thanh – Diễn Châu" !

Cũng là lúc xe đưa chúng tôi ra đến bãi biển Hoa Lũy. Tương truyền vua Lê Thánh Tông khi mang đại binh đi chinh phạt Chiêm Thành đã qua đây. Vẫn còn đó với bến Ngự, tức là bến mà nhà vua đã ghé vào, cột thuyền và nghỉ lại qua đêm. Còn rất nhiều tương truyền như vậy.

Tất cả những chuyện ấy chẳng làm tôi xúc động mảy may. Chuyện thường ngày ở huyện mà.

Cái làm tôi xúc động chính là những giây phút đứng nghiêm trang trước mộ phần của dòng họ Bùi. Dòng họ đã sản sinh ra người con Sơn Tùng. Nhà văn đã trực tiếp qui tập mộ của dòng họ về bên bãi biển. Trước mộ mẹ và cha, ông dựng hai tấm bia nho nhỏ, trên đó ghi "thân phụ" và "mẫu nghi". Bên cạnh mộ cha mẹ của nhà văn là lăng Ông – nơi thờ cá Ông, vị thần của cư dân làng chài.

Tuần trước, ngồi với nhà văn Thiên Sơn, anh kể cho tôi nghe những mẩu chuyện nho nhỏ khác về người bác họ của mình. Anh có cho biết một số của tạp chí Nhà Văn vừa ra đi chuyên về Sơn Tùng.

Trang bìa của số tạp chí Nhà Văn vừa ra, tháng 4/2011

(nguồn: blog Nguyễn Trọng Tạo)

Tuần trước nữa, trước khi ngồi xuống ăn bún chả trong ngõ Văn Chương, ngay sát nhà Sơn Tùng, chúng tôi (một người bạn cũ đồng hương của Sơn Tùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh, và tôi) định vào thăm nhà văn. Nhưng sau, mọi người quyết định thôi, vì lúc này sức khỏe của ông rất kém, việc viếng thăm có thể sẽ gây bất lợi nào đó.

Tháng 4 năm 2011,
Giao Blog



https://dzjao.wordpress.com/2011/04/20/son-tung-chang-trai-ho-bui-lang-hoa-luy-dien-chau-nghe-an/


---

CẬP NHẬT


13. Ngày 21/8/2021

"

Nhà văn Sơn Tùng rời cõi tạm đêm 13/6 âm lịch Tân Sửu đã tròn một tháng. Tôi bỗng nhận thấy một sự trùng hợp kỳ lạ giữa đôi bạn Văn Cao – Sơn Tùng. Ngày 10-7-1995 tức 13 tháng 6 Ất Hợi, nhạc sĩ Văn Cao “trên đôi cánh Đàn chim Việt bay về Thiên Thai!”.
Đưa tiễn ông, nhà văn Sơn Tùng viết:
“Hồn Nhân Văn Ngời Sáng Thiên Thai, Cánh Buồm Thơ Khép Hoàng Hôn Cửa Biển
Đường Cách Mạng Gọi Đàn Chim Việt, Tiến Quân Ca Vang Hào Khí Đất Trời”.
Đúng 26 năm sau, đêm 22-7-2021 tức 13 tháng 6 Tân Sửu, nhà văn Sơn Tùng “ngã xuống đường khát vọng”.
Trong nhiều năm, nhạc sĩ Văn Cao – tác giả Quốc ca, trong bước “gập ghềnh xa” cũng tìm đến Sơn Tùng để vượt qua bao tháng năm khốn khó: Khi là trên căn gác con con sáu mét vuông vợ chồng nhà văn Sơn Tùng thuê ở phố Nguyễn Trường Tộ, bên dưới là chuồng nuôi lợn của chủ nhà; lúc là ngõ Thụy Chương phố Thụy Khuê; rồi về căn buồng nhỏ số 30 nhà A1 khu tập thể Văn Chương phố Khâm Thiên. Cho đến tuần đầu tháng 6 năm 1995, dù sức khỏe đã rúng động, nhạc sĩ Văn Cao được người bạn đời Nghiêm Thúy Băng hộ vệ đã đi bằng cả trái tim đến với nhà văn Sơn Tùng…
Những người cầm bút khi bị văng ra bên lề cuộc sống, họ tìm đến nhau, nép vào nhau, động viên nhau đi con đường chính đạo: Vạn biến lôi phong nhất tâm văn đạo! Đã nhiều lần, tôi được xem những trang bút tích của nhạc sĩ Văn Cao đề tặng nhà văn Sơn Tùng trên những trang sách để nhớ về thuở hàn vi. Từ sau ngày tác giả Quốc ca hóa thân (1995), vợ ông, bà Nghiêm Thúy Băng nhờ con trai thứ Nguyễn Nghiêm Bằng gửi sang những trang sách mới in với lời đề tựa nhắc nhớ tới kỷ niệm của hai người bạn văn cùng đội số phận…
Kỷ niệm về nhạc sĩ Văn Cao kể sao cho xiết. Đã có lần, nhạc sĩ thốt lên cùng bạn hữu đại ý rằng, cùng là nam nhi Diễn Châu – Nghệ An, anh Sơn Tùng bạn tôi che chở cho tôi; còn người khác lại “đánh” tôi khi cuộc vận động sáng tác Quốc ca mới ra đời…
**
*
Đêm giáp Tết Canh Thìn (2000) từ Thủ đô Hà Nội, trong nhớ quê nhà, nhà văn Sơn Tùng viết mấy vần thơ (về sau tôi chép lại, xin được ghi ra như sau):
“Canh Thìn rồng mở cánh tiên
Đón Nàng Xuân hứa hẹn nghìn trang văn
Phòng văn thoảng ấm hương Xuân
Nhớ quê Hoa Lũy, lòng Xuân bồi hồi
Biển khơi lớp lớp sóng dồi
Cát vàng dương liễu xanh ngời vầng đông
Đền Trang, Đình Cả, Đền Trong
Nguy nga trước biển Đền Ông tam tòa
Giếng thơi từ thuở làng Hoa
Đường làng cổ thụ tuổi thừa trăm xuân
Tình làng nghĩa họ tương lân
Ngô khoai qua bữa mà Xuân – xuân giàu
Hoa Lũy đó!
Quê hương đâu?
Biển hoang, đền xóa sạch làu nát tan
Giếng thơi lấp, cổ thụ tàn
Đại danh thần với Thành hoàng bơ vơ!
Không hương khói, chẳng cúng thờ
Làng Hoa ơi!
Biết bao giờ là Hoa?
Vui thiên hạ.
Buồn quê ta.
Ngàn xưa còn vọng lời ca muôn đời
“Đi xa nhớ trống thành Trài”
Nhớ chuông chùa Bốn, nhớ người làng Hoa”.
Ngày Xuân ở chốn phồn hoa
Mà lòng thổn thức quê nhà… là đâu?...
Những ngày tháng 6 năm 2010, miền Bắc trải qua đợt nắng nóng cao điểm trong lịch sử. Nhà văn Sơn Tùng về quê theo lời mời để ông nói chuyện với cán bộ lãnh đạo xã nhà Diễn Kim về lịch sử thôn xã, về những ngôi đền đã không còn nay đang mong muốn được khôi phục. Bản thân ông cũng là người được dân làng tin cậy gửi gắm nhờ uy tín và đức độ để còn giữ 18 sắc phong (trong tổng số 42 sắc phong) của làng Hoa Lũy xưa, làng Kim Lũy nay, từ thời Lê Cảnh Hưng (1767) đến đời Nguyễn Khải Định (1924).
Trong đó, ông từng đọc để người dân làng Kim được nghe nội dung đạo sắc thứ ba, vua Lê Hiển Tông (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44) phong ngày 16 tháng 5 năm 1783:
“Sắc cho vị Đại Vương Đô Thái uý, Thành Quốc công, gia phong là đấng cầm quyền trung hậu, theo điều nhân nghĩa, nêu cao tiết tháo, mưu lược sâu rộng, mạnh mẽ cương nghị, phù bật quân vương, khang dân trạch vật, giúp đời linh ứng. Lòng dạ sắt đá, chí khí sáng trong. Nơi trận tiền quyết tử trung trinh, hiển hách tựa thiên lôi, tấm thân tiết nghĩa, lưu tiếng thơm mãi về sau, sáng chói như mặt trời, tinh tú, thật đáng ngợi khen, vinh dự đã nêu cao:
Gia phong bốn chữ Kinh Văn Vĩ Vũ, linh ứng đại vương”...
- Tôi hằng mong mỏi - một ngày nào ở đất Diễn Kim hiện lên ngôi đền để được rước Mười Tám Sắc phong về! – Tiếng nói của nhà văn Sơn Tùng đến hôm nay vẫn còn văng vẳng bên tai những người dân xã Diễn Kim qua các thế hệ được nghe ông tâm sự nỗi niềm đau đáu mong mỏi này dưới nắng nóng gay gắt, lại mất điện cả ngày!
Nắng nóng trên 40 độ, và 3 mảnh đạn còn trong đầu nằm phục sẵn, lúc này bất ngờ trỗi dậy. Sau chuyến về nói chuyện cùng cán bộ và nhân dân xã Diễn Kim, nhà văn Sơn Tùng bị “phục binh” từ 3 mảnh đạn gây sự, ông bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, không còn khả năng làm việc. Suốt từ đó ông kiên cường chống trọi với bạo bệnh qua 11 năm trường cho đến khi từ biệt mọi người.
Nỗi niềm mong mỏi - một ngày nào ở đất Diễn Kim hiện lên ngôi đền để được rước 18 sắc phong về làng của ông đã thành hiện thực. Một ngôi đền được xây dựng mới khang trang. Vợ ông, bà Phan Hồng Mai nhớ lời ủy thác của ông, đã trao lại cho lãnh đạo xã Diễn Kim 18 đạo sắc để đưa về đền gìn giữ.
Nhưng đền thờ ai? Ông đã đau đáu bao năm để rồi khi nghe một người cháu họ Bùi trong Ban liên lạc đồng hương Diễn Châu tại Hà Nội, hiện công tác ở một cơ quan Trung ương, báo cáo lại đền thờ một vị thần được rước từ Hải Phòng về, dù mang trọng bệnh, nhà văn Sơn Tùng đã phải thốt lên: “Sao vội vàng thế?”.



"

https://www.facebook.com/son.kieumai/posts/1786305911555728


12. Con trai Sơn Định viết trên Fb


1- Kính thưa các bạn: Cha tôi qua đời vào lúc 23 giờ 5 phút, ngày 13 tháng 6 năm Tân Sửu ( 22/7/2021). Để đi đến đích chặng đường nhọc nhằn cuối cuộc đời, ông còn phải trải qua 20 ngày nằm cấp cứu tại Khoa hồi sức tích cực và chống độc, bệnh viện Việt Xô. Căn bệnh lần này là Suy hô hấp nặng, suy kiệt sức khỏe. Phải thở máy, truyền máu…

2- Trong suốt 20 ngày đêm chăm sóc, tôi rất lo cha tôi không qua khỏi, nếu ra đi lúc này thật là không phải. Bởi vậy, tôi luôn động viên ông cố gắng sống. Đúng là ba tôi không qua nỗi, vì sức tàn lực kiệt, vì mấy tháng gần đây, ba tôi thường hay sốt về chiều. Ăn uống ít dần, ông như ngọn đèn dầu sắp cạn. Tôi xin phép bệnh viện đưa ba tôi về nhà. Về nhà, gặp được vợ con thân yêu của mình độ hơn một tiếng, rồi ông khép lại hai mắt, miệng hé mở và trút hơi thở cuổi cùng vào lúc 23 giờ 5 phút.
Tôi rút hết những thiết bị gắn vào người ông, lau rửa Người bằng nước gừng tươi và thay quần áo mới cho ba tôi và đưa mẹ lại ngồi gần ông lần cuối. Mẹ tôi nghẹn ngào nói: Anh Phong ơi. Em bón gạo, muối cho anh, miếng ăn cuối cùng nhé. Anh Phong ơi! Mẹ tôi khóc, còn ba tôi không rõ có quyền năng nào đã giúp ông từ từ khép chặt đôi môi, mang theo miếng ăn nghĩa tình chồng vợ, đầu gối tay kề, vui buồn sướng khổ tròn đúng 50 năm để rời cõi tạm.

3- Trong dòng người đến nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, tiễn đưa ông, tôi thấy rất nhiều quan khách, các bậc văn nhân, nhà báo, nhà văn. Tôi thấy có cả những công chức, những người nghèo, người tàn tật bán nước, bán xôi vỉa hè … khốn khó vì mấy tháng nay phải nghỉ hàng do lệnh cấm. Họ chẳng ngại gì cả vẫn đến tiễn đưa Người.
- Đêm qua, vào lúc 1 giờ sáng, bà Trần Tố Nga- người phụ nữ Việt Kiều yêu nước đấu tranh về Chất độc màu da cam gọi điện cho tôi, bà nói: Cô đang ở Pháp được nhà báo Kiều Mai Sơn báo tin ba cháu qua đời, cô rất đau buồn. Cô và ba cháu kết tình anh em, cắt máu thề. Vậy mà, anh ra đi, em không về thắp cho anh một nén hương. Cô thật có lỗi với ba cháu…

4- Chiếc xe tang đưa thi hài cha tôi về quê, theo nguyện vọng của Người, chỉ có ba mẹ con tôi (Mẹ tôi, anh tôi Bùi Sơn Long và tôi) tóc bạc pha sương và hai em Kiểu Mai Sơn, Nguyễn Văn Bền. Ngoài ra chỉ có thêm anh Nguyễn Hồng Thái, và anh Nguyễn Thể Kỷ, họ đi bằng xe riêng. Anh Nguyễn Thế Kỷ, tiễn đưa đến hết đất Hà Nam thì quay lại. Trời nắng, hai chiếc lầm lũi tiếp tục đi không gặp bất cứ cản trở nào. Đã nhiều năm không ra khỏi nhà, tôi ngơ ngác nhìn cảnh vật đổi thay ven đường. Vào tới địa phận Nghệ An trời bỗng đổ mưa khóc thương người xứ Nghệ sống xa quê độ vài phút, rồi tạnh hẳn…

6- Sau 11 năm 1 tháng (26/6- 20210 -26/7/2021), xa cách, nay tôi mới đưa ông về lại quê nhà. Lần trước, ba tôi về là để vận động bà con làng Hoa Lũy chung tay khôi phục lại ngôi đền Trang đã bị tàn phá trong chiến tranh. Vốn xưa, đền này thờ các vị nhân thần thời Lê Lợi đánh thắng giặc Minh xâm lược. Còn lần này... Đón đợi cha tôi về, dân làng Hoa Lũy dựng rạp, trải thảm dưới rừng dương để cha tôi nằm yên nghĩ. Đón đợi ông không chỉ có người già mà còn rất nhiều bạn trẻ. Họ đón tiếp ông không phải bằng nước mắt, mà bằng niềm thơ ngây của tuổi trẻ vô tư. Qua các trang mạng, họ biết ông xuất thân là một cán bộ đoàn, làm báo, viết văn như bao người khác. Chức vụ to nhất của ông cũng chỉ ở cấp phó, như: Phó ban đại diện sinh viên trường đại học Nhân Dân, Phó trưởng đoàn đại biểu TNSV đi dự đại hội liên hoan TNSV thế giới, Phó đoàn nhà báo đi B2…. Vậy mà khi ông nằm xuống, từ “Vua, quan trong triều” cho đến những người dân bình thường đều kính nể ông.. ..

7- Thưa các bạn, tôi đóng trang Phây búc của mình từ lâu để lo việc khác. Giờ ba tôi đã đi về phía biển quê nhà – làng Hoa Lũy, tôi mở lại trang Phây, viết mấy lời cảm tạ kể lại sự tình. Tuy gặp nhiều trắc trở trong việc tang gia mùa đại dịch, nhưng cuối cùng mọi chuyện vẫn được diễn ra suôn sẻ, chính là nhờ sự giúp đỡ của mọi người xa gần dành cho ba tôi. Nếu có điều sơ suất trong việc tang gia, rất mong mọi người lượng thứ.

Mộ chí của ba tôi, năm trong khu rừng phòng hộ tại Chòm A, xã Diễn Kim, Diễn Châu Nghệ An


https://www.facebook.com/son.dinh.10690/posts/1755978121257285


Đọc thêm:



Đọc bản word ở đây. (bài này nói về Đinh Lễ, là năm 2020)

Cũng đọc thêm ở đây (bài này nói về Phạm Tu, là năm 2016)


11.

Nhà văn được phong Anh hùng đã đi…

Vanvn – Biết tin nhà văn Sơn Tùng vừa ra đi, đi về cõi vĩnh hằng, để lại thương tiếc cho nhiều đọc giả, nhà báo, nhà văn, tôi cứ ngồi lặng đi.

Khi tôi về báo Tiền Phong (năm 1975) mới biết nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đã nhiều năm là phóng viên của báo như Bùi Ngọc Tấn (đã mất), Lê Minh Khuê, Phan Cung Việt …Trong số đó có nhà văn Sơn Tùng từng là Trưởng ban Nông nghiệp của báo Tiền Phong, rồi xung phong đi chiến trường. Ông là nhà văn mà tôi rất ngưỡng mộ bởi nhân cách, bởi cả cuộc đời ông – một nhà văn, một nhà báo, một phóng viên chiến trường, một thương binh và sau này là một người anh hùng (ông được phong Anh hùng năm 2011) chỉ viết về sự thật, luôn tôn trọng sự thật, dù sự thật đó có nghiệt ngã đến đâu. Và tác phẩm “Búp sen xanh” viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh thời trẻ, rất nổi tiếng của ông ra đời năm 1982 được tái bản tới 30 lần.

Nhà văn Sơn Tùng (1928 – 2021)

Nhiều lần đến nhà riêng của ông, một căn hộ trước đây chỉ có 9 mét vuông ở khu Văn Chương, lần nào cũng thấy ông bên bàn viết, bên giá sách, mà giá sách của ông chiếm gần hết gian phòng. Nhớ lần đến thăm ông, thấy ông nằm bất động, ngồi bên ông là bà Mai, một y tá đã tình nguyện đến với ông khi ông bị thương nặng từ chiến trường trở về nằm ở trạm quân y cách đây gần ba mươi năm và người con trai Bùi Sơn Định, hằng ngày cùng với mẹ Mai chăm sóc bố.

Câu chuyện với Bùi Sơn Định bắt đầu từ làng Kim (Hoa Lũy, Diễn Châu, Nghệ An ) nơi nhà văn Sơn Tùng sinh ra và lớn lên. Có lẽ ở nước mình đây là ngôi làng duy nhất từng có một hương ước là cấm đạo thiên chúa lẫn đạo phật. Nhà nào muốn thờ đạo Phật thì chỉ được thờ trong nhà. Muốn thờ đạo Thiên Chúa phải ra khỏi làng. Làng chỉ thờ đạo Khổng. Chính quyền thuộc Pháp thời đó đã cấm người làng Hoa Lũy đến các khoa thi, bởi vậy ông nội của nhà văn Sơn Tùng là Bùi Văn Tài lẫn thân phụ nhà văn là Bùi Phú dù học hành giỏi giang trong “ Rừng nho bể thánh” cũng chỉ là những nhà nho ở nhà dạy học hay làm nghề đi biển và đi biển mà trở thành “hải sư” như ông Bùi Văn Tài quả là ít có.

“Bố em là người cả đời ham đọc sách, cả đời tự học mà thành người hiểu nhiều, biết rộng nên ông dạy các con, các cháu, nghèo đến mấy, khổ đến mấy cũng phải học, bát chữ phải luôn đầy hơn bát cơm, học chữ và học nghĩa sau từng con chữ… Ông luôn quan niệm rằng học là để làm người hiểu biết, làm người lương thiện, làm người có ích, sống nhân ái, bao dung, cương trực và luôn biết sẻ chia chứ không phải học để có cái bằng mà ra làm ông này bà khác nhằm vinh thân, phì gia… Ông ghét nhất là thói tham lam, ông dạy chúng em khi gắp thức ăn không được sấp tay, phải ngửa tay, ngửa tay là gặp miếng ăn vừa phải, rõ ràng, sấp tay là tham… ông thường nói với các con rằng ở đời nhục nhất là miếng ăn, quá khẩu thành tà… Cả đời ông luôn sống ngay thẳng, trong sạch, sống không chỉ vì mình… Ông dạy các con bằng chính tấm gương của cuộc đời ông…”.

Bùi Sơn Định nói rằng “Bà ngoại em vốn quê gốc ở Vụ Bản, Nam Định, nhưng mẹ em (bà Trịnh Thị Minh, sinh năm 1926, mất năm 1976) được sinh ra ở thị trấn cầu Giát, trong một dòng họ nhiều người đỗ đạt cao. Dưỡng phụ của mẹ em là Phan Hoàng Nghi được vua phong hàm Bát phẩm Văn Giai. Thời trước rất giàu có… Bố em, rồi sau này là chúng em chịu ảnh hưởng rất nhiều từ cách sống, cách nuôi nấng, dạy dỗ bên nội lẫn bên ngoại là luôn thấm nhuần câu nói Bát chữ phải đầy hơn bát cơm… bát chữ mà các cụ dạy không phải là chỉ là học cái chữ, mà ý sâu xa là ở đời phải cố gắng để làm người có học , có hiểu biết, có văn hóa…”.

Có một kỷ niệm mà Bùi Sơn Định không bào giờ quên “Lần đó, sau khi học xong nghề lái xe, em về thăm bố. Bố em đang ngồi viết, em đến bên thưa với bố là con đã học xong, đã nhận bằng lái… Bố em bảo ngồi xuống, rồi ông dặn: Bố chỉ nói với con cái đạo lý này thôi để con luôn nhớ mà răn mình: Người xưa thường nói rằng của làm ra thì để trong nhà… là ý nói của cải có nhiều hay ít cũng không nên khoe khoang, giàu không ai biết, đói chẳng ai hay… Của người ta biếu, người ta cho phải để ngoài sân… là muốn nói hàng ngày luôn nhắc nhở mình không quên ơn những người đã gúp mình lúc khó khăn, hoạn nạn, là mình phải luôn cố gắng bằng anh, bằng chị… Còn của hồ vân thì nhất thiết phải để ngoài ngõ vì đó là thứ của cải không làm mà có, như tham nhũng chẳng hạn… thì chỉ là thứ phù vân, đừng bao giờ ôm vào mình vì không sớm thì muộn cũng sẽ mất…

Dạo đó nhà bố em còn ở ngõ Thụy Khuê, căn nhà lá lợp giấy dầu. Bố vừa dặn dò em xong thì thấy bác Văn Cao (nhạc sỹ đến, dựng cái xe đạp cũ ở bờ tường căn nhà trước mặt, rồi đi vào…” Bùi Sơn Định kể.

Nhà văn Sơn Tùng có năm người con. Bùi Thị Hưng sinh năm 1950, hiện sống ở quê. Bùi Sơn Long sinh năm 1952 , tốt nghiệp đại học cơ điện, từng làm giám đốc trung tâm thực nghiệm, chuyển giao công nghệ. Bùi Sơn Định sinh năm 1955, làm nghề lái xe và Bùi Sơn Tuấn, hiện sống và làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh. Người con riêng của bà Mai là Phan Thị Hồng Anh, nhà văn Sơn Tùng cũng dạy dỗ, yêu thương như con đẻ của mình.

Tôi được biết, một dạo có đồng chí lãnh đạo cao cấp đến thăm ông, thấy cả gia đình ông ở trong một căn phòng có 9 mét vuông rất chật chội, khi ra về đồng chí đó đã chỉ thị cho cấp dưới cấp cho ông một căn nhà rộng hơn ở phố Liễu Giai, nhưng ông không nhận. Rồi người ta xây nhà tính nghĩa phân cho ông vì ông là thương binh nặng, ông cũng từ chối. Ông bảo mình có nhà rồi, tuy chật nhưng còn hơn bao nhiều người chưa có nhà, còn ăn bờ, ở bụi, hãy dành những căn nhà đó cho những người chưa có mét vuông nhà nào cả!

Bao năm nhà cửa chật chội, ông vẫn làm việc hăng say, để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị… Giờ đã có căn hộ 18 mét vuông thì nhà văn Sơn Tùng đã nằm liệt giường.

“Cả đời bố em sống ngay thẳng, trong sạch, luôn dạy chúng em rằng, sống ở trên đời phải biết nhận cái thiệt về mình, Tốt danh hơn lành áo…” Con trai ông, Bùi Sơn Định tâm sự.

DƯƠNG KỲ ANH

https://vanvn.vn/nha-van-duoc-phong-anh-hung-da-di/


10c. Ngày 28/7/2021

Sáng nay, nhiều bạn hữu xa gần nhắn tin, gọi điện, chia sẻ thông tin với tôi về việc có 1 nhà văn viết trên pê-tê-bóc tố cáo tôi "đạo văn". Mọi người muốn tôi lên tiếng. Tôi thì nghĩ, có cái gì mà phải lên tiếng, 2 đường link rõ ràng như vậy, bạn đọc có kiến thức đọc xong thừa hiểu nếp tẻ phân minh. Tôi không quan tâm vì mình còn việc khác để làm.
Tối nay, có thêm bạn hữu gọi điện, muốn tôi dù không nhiều thì ít cũng cứ có lời với những bạn đọc của mình. Tôi thấy cũng là việc nên làm cho phải phép.
Bài viết của tôi là GIỚI THIỆU SÁCH, phải nói rõ ràng như vậy, cuốn sách CUỘC CHIA LY TRÊN BẾN NHÀ RỒNG do Nxb Kim Đồng phát hành năm 2015. Ngay sapo tôi viết:
"Đúng dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Kim Đồng lại trở thành “bà đỡ mát tay” đưa kịch bản phim “Cuộc chia ly trên bến Nhà Rồng” của nhà văn Sơn Tùng đến với bạn đọc".
Thông tin trong bài viết là thông tin trong cuốn sách cùng những lần tác giả trò chuyện khi ông còn mạnh khoẻ chưa lâm bệnh nặng để bạn đọc hiểu hơn lai lịch nhân vật. Bản thảo được con trai tác giả thay cha đánh máy lại gửi đến Nxb Kim Đồng... Thông tin tư liệu là thông tin chung chứ không của riêng ai hết. Có thể nói vui rằng 2 em thùy linh ấy là "cùng bố khác ông nội". Bởi vì coi nó là chuyện tầm phào nên tôi không muốn nói gì kẻo thành chuyện "hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại".
Tôi và nhà văn viết tút chửi tôi trên pê-tê-bóc kia vốn chẳng lạ lẫm gì nhau. Anh đi trước là anh, tôi đi sau là em. Nhưng trong tri thức là bình đẳng không nệ tuổi nhiều tuổi ít. Nếu anh muốn phân định hơn thua, thì tôi nghĩ nên bàn về cuốn Hoa ưu đàm nở muộn anh viết cùng việc dựng mới ngôi Đền Trang - xã Diễn Kim - huyện Diễn Châu - tỉnh Nghệ An. Nơi đó, năm 2013, anh đeo một vị thần tên Đào Văn Lôi ở tít ngoài làng Vân Tra - Thủy Nguyên - Hải Phòng về để thờ. Anh viết bài trên báo Nghệ An rằng Đào Văn Lôi là danh nhân xứ Nghệ, phải đặt tên đường...
Dân làng có những người hiểu biết, họ thấy không đúng, ông Đào Văn Lôi không liên quan gì ở đất Diễn Châu này, lại càng không dính dáng chút gì với Đền Trang. Báo Dân sinh năm 2017 về viết bài nêu nội dung ngôi đền xây xong không biết thờ ai?
Mãi 2 năm sau, đọc được nội dung, biết thông tin, tôi có nêu ý kiến: Năm xưa, cụ Đỗ Mười (cháu rể Diễn Kim) làm Tổng Bí thư đã giúp xây cây cầu qua sông, nhân dân nhớ ơn vẫn gọi cầu ông Mười. Bây giờ cụ Đỗ Mười mất, thấy Thượng toạ Thích Minh Hiền ca ngợi cụ Mười là Bồ tát hiện thân. Vậy thì nên đưa cụ Đỗ Mười vào thờ trong đền ấy, chả phải mất công tìm kiếm ai nữa.
Biết không đúng, anh lẳng lặng bỏ thần Đào Văn Lôi ra, đi tìm ông khác về thờ. Nghe đâu có tìm được ông Phạm Tử Nghi nào đấy và Sở VHTTDL tỉnh Nghệ An đã xếp hạng di tích. Có người nói ông Phạm Tử Hư mới đúng. Tôi nghĩ, trong trường hợp không phải thần được thờ là người Sở VHTTDL tỉnh Nghệ An làm hồ sơ thì các anh sẽ lại tìm đưa ông khác như ông Đẳng Sâm, ông Xuyên Quy, ông Huyền Sâm, ông Trần Bì vào thờ chăng? Thần linh gì mà các anh làm như hòn đá kê chân cột thích thì đưa vào, không thích thì bỏ ra vậy?
Thôi anh ạ, tôi nghĩ rằng nếu anh muốn bàn cãi điều gì cho nó phải ra hẳn tấm, ra hẳn món ấy. Chứ còn ba cái tẹp nhẹp mà anh nêu nó làm hèn người đi.
Còn nếu anh thích nữa, tôi sẽ dành thời gian để phê bình cuốn tiểu thuyết người ta đang ca ngợi anh lên mây, còn anh gọi điện nhờ tôi sửa giúp anh những lỗi sai về lịch sử trong sách để tái bản. Cuốn đấy sửa thế nào được. Tốt nhất, anh ngồi bình tâm đọc lại các sách lịch sử từ vỡ lòng đi đã rồi hãy viết sách. Xây lâu đài trên cát chỉ có trong trò chơi thôi, tưởng nguy nga vậy mà đống cát vẫn hoàn đống cát./.

https://www.facebook.com/son.kieumai/posts/1769422756577377




 
 07:08 - 23/07/2017

Đền Trang thuộc xóm Hoàng Châu, xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, có từ xa xưa. Sau nhiều năm bị phế tích đã được xã phục dựng lại. Tuy nhiên, sau khi phục dựng lại khang trang, người dân đến thăm viếng đền càng thưa dần bởi nhiều người cho rằng họ không biết trong đền thờ ai.

 

Đền Trang mới được phục dựng lại khang trang.

Tại xã Diễn Kim, từ xa xưa có ba ngôi đền là đền Cá Ông, thờ thần cá voi mong đi biển bình an may mắn, thuộc xóm Thu Thành, đền Cả thuộc xóm Đại Thành, thờ Ngài bản thổ linh quan và đền Trang thuộc xóm Hoàng Châu.

Thời gian trôi qua, do nhiều lí do khác nhau như gió bão, tiêu thổ kháng chiến, bom đạn chiến tranh… Những ngôi đền này đã trở thành phế tích. Tại đền Cả, chỉ còn lại hai bia đá, khắc bằng chữ hán nôm. Các nhà nghiên cứu dịch ra thì được biết hai bia đá này chỉ khắc tên những người có công xây dựng đền mà thôi. Tại đền Trang, ngoài nền đất cũ chỉ còn lại một cái giếng nước, còn tại đền Cá Ông thì không còn lại gì ngoài nền đất cũ.

Đền Trang đóng cửa im ỉm, không khói hương vì rất ít người viếng thăm.

Riêng đền Trang, tọa lạc tại xóm Hoàng Châu, cạnh UBND xã Diễn Kim, nhìn bề ngoài đền Trang không toát lên vẻ cổ kính, trầm mặc như nhiều ngôi đền khác mà ánh lên màu vàng rực dưới ánh mặt trời buổi sáng. Bởi đền được phục dựng (thật ra là xây mới trên nền đất cũ). Bao quanh đền là vườn cỏ dại tốt ngang đầu gối. Do nằm sát trục đường chính của xã nên khu vực trước cổng đền cũng là nơi vui chơi của đám trẻ nơi đây. Khi được hỏi về gốc tích của ngôi đền, một người cao tuổi ở xã Diễn Kim, cho biết: “Trong những năm 60 của thế kỷ trước, đền Trang nhiều người đến lắm, tuy nhiên sau đó bị bom đánh sập, sau này trong đền chỉ giếng nước là còn nguyên. Thỉnh thoảng ngày rằm hay mồng một người ta vẫn đến thắp hương cho vị thần nào đó mà không ai biết cả”.

Nhiều năm gần đây, con em xã Diễn Kim, công tác ở nhiều địa phương trên cả nước, cũng đã nhiều lần nghiên cứu, tìm đến các nhà khoa học và các cơ quan có chuyên môn tìm hiểu, nhưng cho đến nay vẫn chưa biết được đền chính thức thờ ai.

Người dân rất ít viếng thăm vì họ không biết cụ thể đền thờ ai.

Bà Cao Thị Hương, nhà ở xóm Hoàng Châu, về nghỉ hưu bà bán tạp hóa gần đền. Sau khi đền được phục dựng, bà Hương vui mừng vì từ đây bà có thêm một nguồn thu đáng kể từ kinh doanh thêm hương hoa, hàng mã. Thế nhưng đền Trang ngày càng ít người đến dâng hương khiến cho hi vọng  của bà ngày càng vơi đi. Bà Hương chia sẻ: “Hồi thì nói thờ ông này, hồi thì nói thờ ông kia rồi người đến thắp hương cũng ít chỉ có một số người ở gần đền đến thắp cầu may thôi. Trước đây nghe nói thờ ông Đào Lôi, nhưng sau nầy, mời người Hà Nội và Hải Phòng về xác định họ nói không phải, vì ông ấy không đi qua đây. Giờ chỉ mong các nhà nghiên cứu, nghiên cứu cho rõ ràng để bà con khỏi băn khoăn khi đến thắp hương tại đền”.

Một người đàn ông Tên Hải, buồn bã, cho biết: “Khi vận động thì dân chúng tôi cũng đồng ý và góp tiền, nhà ít thì trăm ngàn, nhà nhiều thì dăm ba trăm. Nhưng giờ xây xong không biết thờ ai. Người thì nói thờ người này, người thì nói thờ người kia. Chúng tôi không biết nghe ai. Đền được người dân biết đến từ trước đến nay là rất thiêng, nhưng giờ nói không biết thờ ai, dân cũng có gì đó lo lắng, không yên tâm…”.

Qua tìm hiểu, được biết tại xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, trước đây có 3 ngôi đền từng được xây dựng và phụng thờ từ mấy trăm năm trước. Sau Cách mạng tháng Tám, năm 1945, vì nhiều nguyên nhân,tất cả những ngôi đền ấy đã bị phá hủy,  đền Trang là một trong 3 ngôi đền đó. Sau khi những ngôi đền bị phá hủy, người ta giữ lại được 18 đạo sắc phong. Đạo sắc cổ nhất là đời Lê Cảnh Hưng năm 28 (tức 1767), đạo sắc gần đây nhất là đời Nguyễn Khải Định năm thứ 9 (tức 1924), trong đó sắc phong cho 3 vị thần, gồm: Bản Thổ Linh Quan,  Đại Vương Đô Thái Úy Thành Quốc Công và Đông Hải Thái Thú Đại Ngư Ông. Năm 2014, UBND xã Diễn Kim đã vận động quyên góp được hơn 600 triệu đồng để phục dựng lại đền Trang trên khuôn viên 1500 mét vuông. Tuy nhiên sau khi xây xong, con em xã Diến Kim đã thuê dịch 18 đạo sắc phong trên, nhưng rất khó hiểu vì 18 đạo sắc phong này là sắc phong cho cả ba ngôi đền. Thế nên cho đến giờ vẫn chưa biết thờ ai.

Khảo sát của Ban quản lý Di tích- Danh thắng.  

Ông Phạm Xuân Bang, Chủ tịch UBND xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cho biết: “Địa phương đã đặt vấn đề này với con, em xa quê ở Hà Nội nhờ Viện nghiên cứu Hán Nôm nghiên cứu 18 sắc phong tại đền cho nên thờ cúng cũng trên cơ sở nội dung các sắc phong này. Những chuyên gia ngành Hán Nôm học đều nói chưa đủ điều kiện để tổ chức hội thảo cho nên trước mắt chúng tôi cứ tiến hành cúng tế theo 18 sắc phong này. Bây giờ tên tuổi của ngài để thờ ở trong đền thì chưa ai biết cụ thể là thờ ai”.

Đặc biệt khi hỏi về thiết kế phục dựng đền Trang, thì lãnh đạo xã cũng như phòng Văn Hóa và thông tin, đều không biết.

Được biết, Diễn Kim là  xã vùng bãi ngang ven biển của huyện Diễn Châu, kinh tế của người dân chủ yếu sống bằng nghề sản xuất muối và đi biển, chính vì thế bà con rất tha thiết được biết chính xác đền thờ ai, để cầu cúng.

Ông Đào Hồng Thanh, Trưởng phòng Văn hóa và thông tin huyện Diễn Châu, cho biết: “Trong danh mục quản lí di tích, danh thắng của phòng thì không có tên đền Trang. Tôi cũng mới chuyển về phòng, nên cũng chưa nắm được nhiều, nhưng trong tờ trình của xã Diễn Kim xin phục dựng và khảo sát của Ban quản lí Di tích- Danh thắng thuộc sở Văn hóa thể thao thì nói đền thờ ông Đào Văn Lôi. Việc dân không biết thờ ai, hay không tin thờ ông Đào Văn Lôi, thì chúng tôi cũng đang rất mong có một cuộc hội thảo khoa học để xác định chính xác là đền thờ ai”.

Hiện nay nhân dân ở xã Diễn Kim và nhiều xã lân cận thỉnh thoảng vẫn đến thắp hương cầu cúng. Nhiều người dân từ lâu không đến đền nhiều lúc có chuyện chẳng lành trong gia đình hay gia đình chuẩn bị có việc lớn cũng muốn đến đền để cầu xin, nhưng việc không biết đền thờ ai cũng là một băn khăn rất lớn. Rất mong các cơ quan chức năng và địa phương xã Diễn Kim, sớm có các nghiên cứu khoa học cụ thể để trả lời cho người dân.

HOÀNG TÙNG

https://baodansinh.vn/dien-chau-nghe-an--den-xay-xong-chua-xac-dinh-duoc-tho-ai-61265.htm?fbclid=IwAR1r2Euy6FyZU7pOaeltlqrxrbYdoK6e6JrPuoSF4AMSMnO6NH-tKbwJ500





Đào Văn Lôi nhân vật lịch sử của xứ Nghệ

(Baonghean) - Trong Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Lý có ghi, tháng 11 năm 1029 vua Lý Thái Tông phong Đào Văn Lôi là Tả phúc tâm. Với chức vị ấy, ông là một trong những người gần gũi với vua và có thể tham gia vào nhiều quyết định quan trọng của triều đình. Vậy Đào Văn Lôi là ai? Quê quán ở đâu và sự nghiệp ra sao? Đó hẳn còn là một bí ẩn đối với hầu hết mỗi chúng ta...
 
Tại xã Diễn Kim (xưa gọi là làng Hoa Lũy), huyện Diễn Châu, trước đây có 3 ngôi đền từng được xây dựng và phụng thờ từ mấy trăm năm trước. Sau Cách mạng tháng Tám, vì những thiên kiến của một số người, tất cả những ngôi đền ấy đã bị phá hủy...

Nhà văn Sơn Tùng cho biết, sau khi những ngôi đền ở quê bị phá hủy, một người cháu họ ở quê (con một gia đình trước đây đã trông coi đền Trang ở Diễn Kim) đã gửi ra cho ông giữ 18 đạo sắc phong cho thần làng Hoa Lũy. Và chính nhà văn Sơn Tùng đã nhờ một người bạn là chuyên gia về Hán Nôm dịch toàn bộ 18 sắc phong đó từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ.

Từ bản dịch sắc phong mà nhà văn Sơn Tùng đã cho dịch trước đây, tôi đã nhờ nhà nghiên cứu Chu Xuân Giao ở Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, một chuyên gia trong lĩnh vực này rà soát và biên tập thành một bản dịch hoàn chỉnh hơn. Qua đó, chúng tôi tiến hành phân loại, thì thấy trong 18 đạo sắc trải dài trong 157 năm, đạo sắc cổ nhất là đời Lê Cảnh Hưng năm 28 (tức 1767), đạo sắc gần đây nhất là đời Nguyễn Khải Định năm thứ 9 (tức 1924), trong đó sắc phong cho 3 vị thần.

      1. Bản thổ linh quan.
      2. Đại vương đô Thái úy Thành Quốc công.
      3. Đông hải Thái thú Đại ngư ông.

Tôi và nhà nghiên cứu Chu Xuân Giao đã khảo sát trong các tài liệu cổ, xác minh vị thần được phong Đại vương đô Thái úy Thành Quốc công thờ tại đền Trang - trung tâm của xã Diễn Kim ngày nay, chính là Đào Văn Lôi. Tuy nhiên, trong các tài liệu bằng chữ Quốc ngữ hiện thời ghi khá lộn xộn. Có một số ý kiến cho rằng Đào Văn Lôi là con của Đào Cam Mộc (người được phong Tín Nghĩa hầu dưới thời Lý Thái Tổ, sau khi mất được phong Thái Sư, Á Vương, là một trong những nhân vật quan trọng nhất đưa Lý Công Uẩn lên ngôi).

Tình cờ, tôi đã đọc được ý kiến tranh luận của ông Lương Thế Phiệt (đăng trên Website Hội Nhà văn Việt Nam), ông Phiệt người ở làng Vân Tra (thuộc xã An Đồng, huyện An Dương, Thành phố Hải Phòng). Ông Lương Thế Phiệt cho biết, vị Đại vương Đô Thái úy Thành Quốc công Đào Văn Lôi hiện được thờ tại đền Vân Tra, là một trong những ngôi đền cổ nhất của Hải Phòng (gần 1.000 năm), đền đã được công nhận là Di tích quốc gia năm 1994. Đào Văn Lôi có quê mẹ ở làng Vân Tra, quê nội ở Nghệ An, cha của Đào Văn Lôi là Đào Mộc chứ không phải là Đào Cam Mộc như một số tài liệu nói.

Nhận được thông tin này, tôi đã liên hệ với ông Lương Thế Phiệt và ông Phiệt hết sức vui mừng viết thư cho tôi nói rằng, từ bao nhiêu năm nay, người làng Vân Tra vẫn chờ đợi một ngày nào đó, sẽ có một người từ quê nội của Thần liên hệ với bên ngoại, nhưng mãi bây giờ mới thấy. Ông Phiệt cũng cho biết, thần tích đền Vân Tra đã được ông Ngô Đăng Lợi, một trong những nhà nghiên cứu lịch sử địa phương của Hải Phòng sơ dịch. Bản chính của thần tích còn được lưu giữ trong Viện Hán Nôm.

Tôi đã liên hệ với chị Đỗ Bích Tuyển, hiện là nghiên cứu sinh, công tác lâu năm tại Viện Hán Nôm Việt Nam. Chị Tuyển đã tìm được và dịch bản thần tích này ra chữ Quốc ngữ. Bản thần tích này do Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn bản chính vào niên đại Hồng Phúc (1572-1573), và Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, Nguyễn Hiền sao chép lại ngày mồng 7 tháng 5 năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).

Nội dung bản thần tích cho biết nhiều nội dung quan trọng về lai lịch: Thần tích kể, cha của Đào Văn Lôi người gốc Hoan Châu, có tên là Mộc, trước có họ Nguyễn, sau đổi thành họ Đào... Mộ của mẹ ông Đào Mộc nằm trên núi Tung Sơn phía Bắc dãy Tản Lĩnh (chúng tôi xác định nơi này có thể thuộc về xã Trung Sơn, huyện Đô Lương ngày nay). Mẹ Đào Văn Lôi là Đỗ Thị Uyển, người làng Vân Tra, thuộc Hải Phòng ngày nay. Sở dĩ có mối lương duyên giữa ông Đào Mộc và bà Đỗ Thị Uyển là vì ông Đào Mộc thời thanh niên rời quê ra Tràng An theo học, nhờ một người bạn đưa về Vân Tra mà nảy nở mối lương duyên. Sau khi ông Mộc và bà Uyển cưới nhau thì họ trở lại Tràng An sinh sống. Đào Văn Lôi được sinh ra năm Đinh Hợi (987) ở Tràng An, và ở đó đến năm 13 tuổi thì cha mất, theo mẹ về Vân Tra sinh sống.

Đào Văn Lôi lúc nhỏ học hành thông tuệ. 24 tuổi, ông đỗ đầu ở Kinh đô, được vào làm ở Hàn Lâm Viện, rồi phong làm Phủ úy Sơn Tây, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Vì có tài lại nổi tiếng thanh liêm, yêu dân như con, sau được về kinh phong làm Đô Đài, rồi Bình Chương sự, Nội thị. Có công trong dẹp loạn tam vương nên ông được phong làm Tả phúc tâm. Từ đó về sau, lần lượt được phong làm Trung thư thị lang, Tả tham tri chính sự, rồi Thái úy Thành Quốc công.

Cuối đời, Đào Văn Lôi về thăm quê và qua đời ở núi Kim Nhan (nay là huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An), Vua Lý Thánh Tông đã lệnh cho nhân dân lập đền thờ.

Trong lịch sử xứ Nghệ, Mai Hắc Đế là ông vua sớm nhất nổi lên chống giặc Phương Bắc, còn Đào Văn Lôi có thể là người đầu tiên đỗ đạt và làm quan đến hàng Thái úy, rồi lại được xếp vào hàng Thái Bảo. Đó, hẳn nhiên là một niềm tự hào của người xứ Nghệ, nhưng hàng chục năm nay cũng bị quên lãng.

Sau khi có trong tay bản thần tích, chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế. Đoàn gồm ông Nguyễn Trọng Thể (Trưởng ban Ban Liên lạc đồng hương Diễn Kim tại Hà Nội), anh Chu Xuân Giao và tôi đã vào tận Kim Nhan, thuộc huyện Anh Sơn, rồi đến xã Trung Sơn thuộc huyện Đô Lương (nơi mà chúng tôi xác định là có núi Tung Sơn), những nơi này đền thờ cũ đã bị phá hết. Chúng tôi lại đến xã Nghi Thái (thuộc huyện Nghi Lộc) - một địa danh mà theo cuốn Di sản hán nôm Việt Nam xác định là có thờ Đại vương đô Thái úy thành Quốc công Đào Văn Lôi. Ở đây, ngôi đền cũng bị phá, chỉ còn lại một nền đất nhân dân để một bát hương để thắp vào rằm, mồng Một hàng tháng.

Chúng tôi cũng đã lập một đoàn vận động xây dựng lại đền Trang tại xã Diễn Kim do Ban Liên lạc đồng hương Diễn Kim tại Hà Nội làm nòng cốt, kết hợp với ủy ban nhân dân xã Diễn Kim. Chúng tôi đã lên gặp, trình bày với nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười. Chúng tôi cũng đã làm việc với đồng chí Trần Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, và vào làm việc với đồng chí Phan Đình Trạc, lúc đó là Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An. Ở tất cả những nơi đó, chúng tôi đều nhận được sự ủng hộ của các vị lãnh đạo. Đồng chí Phan Đình Trạc đã về tận xã Diễn Kim thăm lại di tích, nơi đã từng thờ Đại vương đô Thái úy Thành Quốc công Đào Văn Lôi.

Từ cảm thức, chúng tôi cho rằng, sở dĩ phải lập lại đền thờ Đại vương đô Thái úy Thành Quốc công Đào Văn Lôi là vì: Trên quê hương xứ Nghệ (quê nội của thần), một mảnh đất anh hùng và văn hiến, nên có ít nhất một nơi thờ tự một vị anh hùng, một bậc đại trí thức, một bậc đại công thần thời hậu Lý mà từ lâu nhân dân đã phong thánh. Và tôi cũng nghĩ, trong tương lai, trên đất xứ Nghệ nên có một con đường mang tên Đào Văn Lôi.

Năm 2012, nhân kỷ niệm 1025 năm Ngày sinh của Đại vương đô Thái úy Thành Quốc công Đào Văn Lôi, nhân dân Diễn Kim đã chính thức khôi phục lại Lễ hội làng Hoa Lũy và làm một Am thờ Ngài trên nền cũ ngôi đền khi xưa. Trong ngày lễ thiêng liêng đó, nhân dân được đọc lại những sắc phong của các đời vua thời trước phong cho thần.

Trên những tư liệu hiện có, mùa Thu năm 2012, tôi đã viết cuốn sách mang tên Hoa Ưu Đàm lại nở, đó là một cuốn truyện lịch sử về cuộc đời và thời đại của Thái úy Thành Quốc công Đào Văn Lôi, thể hiện dưới dạng một truyền thuyết hiện đại xen giữa hư cấu và lịch sử, giữa hiện thực và huyền thoại.

Mong rằng, mọi người dân xứ Nghệ, dù ở nơi đâu, hãy góp một tấm lòng, để sớm khôi phục lại được ngôi đền khang trang thờ Đại vương đô Thái úy Thành Quốc công Đào Văn Lôi. Con người vĩ đại được phong thánh từ gần 1000 năm trước ấy, mãi mãi là niềm tự hào và niềm tôn kính của chúng ta.

Nhà văn Thiên Sơn
https://baonghean.vn/dao-van-loi-nhan-vat-lich-su-cua-xu-nghe-45106.html



10b. Ngày 28/7/2021


Sáng nay, nhiều bạn hữu xa gần nhắn tin, gọi điện, chia sẻ thông tin với tôi về việc có 1 nhà văn viết trên pê-tê-bóc tố cáo tôi "đạo văn". Mọi người muốn tôi lên tiếng. Tôi thì nghĩ, có cái gì mà phải lên tiếng, 2 đường link rõ ràng như vậy, bạn đọc có kiến thức đọc xong thừa hiểu nếp tẻ phân minh. Tôi không quan tâm vì mình còn việc khác để làm.
Tối nay, có thêm bạn hữu gọi điện, muốn tôi dù không nhiều thì ít cũng cứ có lời với những bạn đọc của mình. Tôi thấy cũng là việc nên làm cho phải phép.
Bài viết của tôi là GIỚI THIỆU SÁCH, phải nói rõ ràng như vậy, cuốn sách CUỘC CHIA LY TRÊN BẾN NHÀ RỒNG do Nxb Kim Đồng phát hành năm 2015. Ngay sapo tôi viết:
"Đúng dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Kim Đồng lại trở thành “bà đỡ mát tay” đưa kịch bản phim “Cuộc chia ly trên bến Nhà Rồng” của nhà văn Sơn Tùng đến với bạn đọc".
Thông tin trong bài viết là thông tin trong cuốn sách cùng những lần tác giả trò chuyện khi ông còn mạnh khoẻ chưa lâm bệnh nặng để bạn đọc hiểu hơn lai lịch nhân vật. Bản thảo được con trai tác giả thay cha đánh máy lại gửi đến Nxb Kim Đồng... Thông tin tư liệu là thông tin chung chứ không của riêng ai hết. Có thể nói vui rằng 2 em thùy linh ấy là "cùng bố khác ông nội". Bởi vì coi nó là chuyện tầm phào nên tôi không muốn nói gì kẻo thành chuyện "hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại".
Tôi và nhà văn viết tút chửi tôi trên pê-tê-bóc kia vốn chẳng lạ lẫm gì nhau. Anh đi trước là anh, tôi đi sau là em. Nhưng trong tri thức là bình đẳng không nệ tuổi nhiều tuổi ít. Nếu anh muốn phân định hơn thua, thì tôi nghĩ nên bàn về cuốn Hoa ưu đàm nở muộn anh viết cùng việc dựng mới ngôi Đền Trang - xã Diễn Kim - huyện Diễn Châu - tỉnh Nghệ An. Nơi đó, năm 2013, anh đeo một vị thần tên Đào Văn Lôi ở tít ngoài làng Vân Tra - Thủy Nguyên - Hải Phòng về để thờ. Anh viết bài trên báo Nghệ An rằng Đào Văn Lôi là danh nhân xứ Nghệ, phải đặt tên đường...
Dân làng có những người hiểu biết, họ thấy không đúng, ông Đào Văn Lôi không liên quan gì ở đất Diễn Châu này, lại càng không dính dáng chút gì với Đền Trang. Báo Dân sinh năm 2017 về viết bài nêu nội dung ngôi đền xây xong không biết thờ ai? Mãi 2 năm sau, đọc được nội dung, biết thông tin, tôi có nêu ý kiến: Năm xưa, cụ Đỗ Mười (cháu rể Diễn Kim) làm Tổng Bí thư đã giúp xây cây cầu qua sông, nhân dân nhớ ơn vẫn gọi cầu ông Mười. Bây giờ cụ Đỗ Mười mất, thấy Thượng toạ Thích Minh Hiền ca ngợi cụ Mười là Bồ tát hiện thân. Vậy thì nên đưa cụ Đỗ Mười vào thờ trong đền ấy, chả phải mất công tìm kiếm ai nữa.
Biết không đúng, anh lẳng lặng bỏ thần Đào Văn Lôi ra, đi tìm ông khác về thờ. Nghe đâu có tìm được ông Phạm Tử Nghi nào đấy và Sở VHTTDL tỉnh Nghệ An đã xếp hạng di tích. Có người nói ông Phạm Tử Hư mới đúng. Tôi nghĩ, trong trường hợp không phải thần được thờ là người Sở VHTTDL tỉnh Nghệ An làm hồ sơ thì các anh sẽ lại tìm đưa ông khác như ông Đẳng Sâm, ông Xuyên Quy, ông Huyền Sâm, ông Trần Bì vào thờ chăng? Thần linh gì mà các anh làm như hòn đá kê chân cột thích thì đưa vào, không thích thì bỏ ra vậy?
Thôi anh ạ, tôi nghĩ rằng nếu anh muốn bàn cãi điều gì cho nó phải ra hẳn tấm, ra hẳn món ấy. Chứ còn ba cái tẹp nhẹp mà anh nêu nó làm hèn người đi.
Còn nếu anh thích nữa, tôi sẽ dành thời gian để phê bình cuốn tiểu thuyết người ta đang ca ngợi anh lên mây, còn anh gọi điện nhờ tôi sửa giúp anh những lỗi sai về lịch sử trong sách để tái bản. Cuốn đấy sửa thế nào được. Tốt nhất, anh ngồi bình tâm đọc lại các sách lịch sử từ vỡ lòng đi đã rồi hãy viết sách. Xây lâu đài trên cát chỉ có trong trò chơi thôi, tưởng nguy nga vậy mà đống cát vẫn hoàn đống cát./.

https://www.facebook.com/son.kieumai/posts/1769422756577377



10. Ngày 28/7/2021

Năm 2006 tôi có viết bài ghi chép về cuộc gặp gỡ của nhà văn Sơn Tùng với bà Lê Thị Huệ (nhân vật trong Búp sen xanh). Bài đã đăng báo Tiền phong và được nhiều bạn đọc đón nhận. Năm 2015 báo tuổi trẻ có đăng lại bài này (ghi rõ nguồn Tiền Phong).
Bài viết có tên: "CUỘC GẶP GỠ VỚI NGƯỜI SUỐT ĐỜI CHỜ ĐỢI THẦN TƯỢNG NGUYỄN TẤT THÀNH"
(CAác bạn xem link dưới đây:
Thế nhưng Kiều Mai Sơn đã ăn cắp toàn bộ nội dung bài viết của tôi, trong đó có chỗ trích nguyên văn để viết thành một bài có cái tên na ná https://nongnghiep.vn/nguoi-con-gai-suot-doi-cho-doi....
Ăn cắp là điều tệ hại. Kiều Mai Sơn ăn cắp tư liệu và chép lại nguyên văn nhiều câu trong bài viết của tôi là điều không thể chấp nhận được.
Tôi đề nghị báo Nông Nghiệp Việt Nam phải xem lại bài viết và có thái độ với cộng tác viên của mình.
(Tôi sẽ còn nói thêm về KIỀU MAI SƠN (ảnh dưới đây), tên lưu manh cầm bút trong thời gian tới)

https://www.facebook.com/thien.son.792/posts/4500032163348537



Ghi bổ sung: thật ra, từ 2015, Giao Blog đã đưa cả hai bài về lưu, ở đây.





Ngày xưa từ khi mới chỉ là người yêu của Thiên Sơn, tôi đã đọc tất tần tật những gì TS viết, kể cả chưa đăng. Nhớ bộ Đại gia, tôi đã tham gia cùng anh đặt tên cho những nhân vật nước ngoài, tìm kiếm trên google các địa danh bổ sung tư liệu cho TS. Thế nhưng mấy năm gần đây bận bịu với bọn nhỏ quá, có những tác phẩm khi anh hoàn thành rồi tôi mới dành time đọc được. Mặc dầu vậy tôi luôn hỗ trợ TS tìm kiếm tư liệu. Bất cứ thấy tài liệu, sách in gì liên quan đến tác phẩm anh viết tôi đều đặt mua hết, kể cả sách cũ, sách mới. Có những khi sách về anh còn lấy làm ngạc nhiên: "Ôi, e mua cuốn này à? Đúng cái anh đang cần."
Khi ở Văn Quán, ngôi nhà 4 tầng có 7 cái giá sách to được đặt ở tầng 3,4 nhưng sách và tài liệu của anh thì phải để ở nơi thuận tiện nhất: ngay cạnh chỗ làm việc. Chiếc bàn viết to vẫn không đủ chỗ nên tôi đặt tạm một chiếc giá sách tự lắp kê sát đầu giường, cũng là nơi làm việc. Khi đó Phúc Sơn lắp cho bố, xong tôi sắp xếp những cuốn cần thiết lên giá cho anh tiện đọc. Thi thoảng tôi đích thân lau bụi, không để cô giúp việc lau vì sợ đảo lộn vị trí, khi tìm lại khó. Cái sự đọc, tìm hiểu và tích luỹ của nhà văn nó khủng lắm.
Hôm nay đây, trong những ngày giãn cách XH, tôi ngồi đọc lại GIÓ BỤI ĐẦY TRỜI thấy thật xúc động. TS vẫn đang viết tập tiếp theo, viết một cách say mê. Tôi chỉ mong có một không gian yên bình, một cuộc sống ổn định để anh an tâm viết lách. Và tôi đã làm được điều đó bằng những nỗ lực không ngừng nghỉ của mình. Cả hai chúng tôi, ngay trong những ngày đại dịch này vẫn miệt mài làm việc không ngừng nghỉ. Và tôi cũng hiểu điều gì khiến anh hoàn thành hết bộ tiểu thuyết này đến bộ tiểu thuyết khác. Chỉ có say mê và cống hiến hết mình, không màng điều gì khác anh mới có thể làm như vậy. Hầu như xưa nay tiền nhuận bút sách của TS tôi đều dành để mua lại sách, để anh có thể tặng những bạn bè trân quý và người thân.
Hành trình con chữ rất gian nan, đau đớn, nhọc nhằn. Cái sự viết nó vốn đã rất nặng nề lại cộng với những gian nan của cuộc sống, của lòng người nữa nên công việc của nhà văn càng vất vả. Các tác giả lớn bằng trải nghiệm cả cuộc đời mình đều thốt lên:
"Từng đau đớn vì lòng người phản trắc,
Từng xót xa vì lắm nỗi tỵ hiềm..."
(Bằng Việt)
"Khi đang đắm yêu nào tin được bao giờ
Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ
Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ
Bạn bè thân thọc súng ở bên sườn
Sau cái bắt tay xoè một lưỡi da giao găm
Kẻ tình nguyện giữ nhà muốn chiếm nhà ta ở
Tấm ảnh Mao treo lẫn màu cờ đỏ
Tay ta treo đâu nghĩ có một lần!..."
(Tản mạn thời tôi sống - Nguyễn Trọng Tạo)
Bởi thế tôi chỉ mong anh được bình an để làm việc, để cống hiến, để hoàn thành những ước nguyện của mình.
Dưới đây là tiêu đề và đường link các bài báo về GIÓ BỤI ĐẦY TRỜI - cuốn tiểu thuyết lịch sử mở đầu cho loạt thiểu thuyết lịch sử của anh. (Dự kiến 5 tập).
Bản lĩnh Hồ Chí Minh trước lựa chọn lịch sử
GIÓ BỤI ĐẦY TRỜI vượt qua những giới hạn thông thường (Báo dân việt)
“Gió bụi đầy trời” - một góc nhìn hấp dẫn về lịch sử Việt
“Gió bụi đầy trời” của Thiên Sơn: Lịch sử là liên tục
Gió Bụi Đầy Trời nhìn từ góc độ tiểu thuyết lịch sử
'Không có tư tưởng, tác phẩm chỉ là trò giải trí'
"Gió bụi đầy trời một mình một lối. Nó có một thứ mà từ lâu khá hiếm trong văn chương Việt: Tầm vóc tư tưởng, chiều sâu của những suy nghĩ đa chiều về thực tại. Câu chuyện lịch sử trong Gió bụi đầy trời không hề rơi vào sơ lược theo kiểu ý thức hệ."
- Phó giáo sư Phạm Xuân Thạch
Về cuốn tiểu thuyết lịch sử mới nhất lấy Chủ tịch Hồ Chí Minh làm nhân vật trung tâm
Nhà văn Thiên Sơn: Tiểu thuyết đòi hỏi một góc nhìn khác về lịch sử
NHÀ VĂN THIÊN SƠN: TÔI ĐẶT CHÂN VÀO KHOẢNG TRỐNG MÀ CÁC NHÀ VĂN ĐƯƠNG ĐẠI KHÔNG LÀM
Cái thuở ban đầu dân quốc ấy...

https://www.facebook.com/trinh.t.thuy.92/posts/10217490361965807



9. Bài trên Nhân Dân

Sơn Tùng - nhà văn, người cộng sản anh hùng -0
Nhà văn, Nhà báo, Người cộng sản, Anh hùng Lao động, Thương binh 1/4 Bùi Sơn Tùng (tên quen gọi là Sơn Tùng) vừa lặng lẽ từ giã người thân, bạn bè, đồng nghiệp, công chúng để về cõi trường sinh lúc 23 giờ 5 phút ngày 22 tháng 7 năm 2021. Sự ra đi của ông để lại trong chúng ta bao niềm xúc động, yêu kính, tự hào và cả những suy ngẫm, trăn trở.
   Nhà văn Sơn Tùng sinh ngày mồng 8 tháng 8 năm 1928, tại làng Hoa Lũy, xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước, cách mạng. Cha ông làm Bí thư chi bộ đầu tiên của xã từ năm 1930, mẹ ông vừa nuôi giấu cán bộ của Đảng, vừa giáo dục các con lòng yêu nước, thương nòi, căm thù quân xâm lược. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, gia đình ấy có bảy người con đều là đảng viên cộng sản, trong đó có một liệt sỹ và ông - một thương binh đặc biệt 1/4.
     Ngay từ năm 1944, mới 16 tuổi, Sơn Tùng được giao làm giao thông bí mật cho Việt Minh. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Sơn Tùng làm Bí thư chi đoàn Thanh niên Cứu quốc của xã, năm sau làm Ủy viên Thanh niên Cứu quốc của huyện. Năm 1948, tròn hai mươi tuổi, Sơn Tùng vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng. Ông tiếp tục tham gia cách mạng ở các cương vị khác nhau ở Nghệ An cho đến cuối năm 1954 được cử ra Hà Nội học tại đại học. Tháng 6 đến tháng 11 năm 1955, ông được cử làm Phó Trưởng đoàn Đoàn đại biểu thanh niên, sinh viên Việt Nam tham dự Đại hội Thanh niên, Sinh viên thế giới lần thứ V tại Ba Lan và được ghé thăm Liên Xô, Trung Quốc. Tốt nghiệp đại học, ông được điều về Phú Thọ rồi về lại Hà Nội làm giảng viên khoa Báo chí, trường Tuyên giáo Trung ương.
Chặng đường tiếp theo, ông là phóng viên Báo Nông nghiệp, báo Tiền Phong, vào tuyến lửa khu Bốn thường trú để viết báo. Trước cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Sơn Tùng cùng đồng chí, đồng nghiệp vượt Trường Sơn vào chiến trường B2, miền Đông Nam bộ để thành lập Báo Thanh niên Giải phóng và phụ trách báo này. Ngày 15 tháng 4 năm 1971, trong một trận càn của Mỹ ngụy vào căn cứ của đơn vị, ông bị thương nặng liệt tay phải, vỡ xương vai và xương tay trái, ba mảnh đạn găm vào sọ não không thể mổ để lấy ra, mắt phải bị trọng thương thị lực chỉ còn 1/10. Bằng nhiều phương tiện vận chuyển, qua nhiều cung đường, dưới mưa bom bão đạn, ông được đưa ra miền Bắc để cứu chữa. Cuối năm 1979, ông nghỉ hưu với Thẻ thương binh xếp loại thương tật cao nhất là 1/4, mất 81% sức khỏe.
q21-1627232348389.jpg
    Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “thương binh tàn nhưng không phế”, Bùi Sơn Tùng tiếp tục viết báo và dũng cảm bước vào nghiệp văn mà ông đã ấp ủ nhiều năm trước. Nhà báo, nhà văn là thương binh nặng ấy đã ráng chịu nhiều đau đớn do thương tật, tự tập thiền, luyện khí công, đi thực tế nhiều nơi để sống và viết về công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, của Dân. Phải qua hơn 10 năm trời khổ luyện trong đau đớn thân xác, những cơn động kinh khi thời tiết thay đổi, ông cố cắn răng viết những tác phẩm gan ruột của mình. Rất nhiều lúc, ông phải nhờ vợ con dùng dây cao su buộc ngón tay cái và ngón tay giữa để cầm được cây bút. Nếu ai đó ví nhà văn Sơn Tùng như là nhà văn Nga Nhicôlai Ôxtơrôpxki, tác giả huyền thoại của tiểu thuyết bất hủ “Thép đã tôi thế đấy” thì điều đó đúng gần tuyệt đối. 
  Cả cuộc đời lao động, chiến đấu và sáng tạo văn nghệ, báo chí của mình, nhà văn Sơn Tùng dành nhiều công sức, tài năng và tâm huyết cho đề tài Hồ Chí Minh, xây dựng và lan tỏa hình tượng Hồ Chí Minh cả trong và ngoài nước. Ông viết về Bác Hồ với mấy tư cách, mấy giác độ: Nhà nghiên cứu lịch sử; Nhà nghiên cứu văn hóa; Nhà văn - người cộng sản; Một thương binh đặc biệt, lao động trong một hoàn cảnh đặc biệt. Hồ Chí Minh trong tác phẩm của ông ở các thời kỳ thơ ấu, sống ở quê, đậm đà bản sắc văn hóa xứ Nghệ; thời kỳ trưởng thành ở kinh đô Huế, Bình Định, Bình Thuận, Sài Gòn; thời kỳ Người bôn ba bốn biển năm châu tìm đường cứu nước, cứu dân; thời kỳ Người là lãnh tụ yêu kính, giản dị của Đảng, của dân tộc; Người là kết tinh văn hóa Việt Nam và tinh hoa văn hóa thế giới, một người hiền của nhân loại.
Ở các tiểu thuyết “Búp sen xanh”, “Bông sen vàng”, nhà văn Sơn Tùng đã dày công sưu tầm tư liệu, kiểm chứng tính xác thực, gặp gỡ nhân chứng, chọn lọc chi tiết, có biệt tài trong xây dựng hình tượng Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành và thân phụ, thân mẫu của Người - cụ Nguyễn Sinh Sắc, cụ Hoàng Thị Loan cùng người anh, người chị yêu quý - chị Nguyễn Thị Thanh, anh Nguyễn Sinh Khiêm và nhiều nhân vật khác, nhiều sự kiện trong một giai đoạn lịch sử bi hùng của dân tộc. Đây là đề tài lớn lao, hình tượng cao đẹp, thiêng liêng, giản dị, sinh động và xúc động, ít có ai có thể đạt được thành công và dấu ấn đặc biệt như Sơn Tùng. 
q1-1627231084286.jpg
  Sơn Tùng để lại một di sản văn chương đồ sộ đáng tự hào với hàng chục tác phẩm, trong đó có 21 tác phẩm tiêu biểu. Tiểu thuyết “Búp sen xanh” là tác phẩm tiêu biểu nhất, thành công nhất. Đến nay, “Búp sen xanh” đã được tái bản và nối bản 30 lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bên cạnh đó là các tác phẩm “Bông sen vàng”, “Sáng ánh tâm đăng Hồ Chí Minh”, “Bác về”, “Từ làng Sen”, “Bác Hồ cầu hiền tài”, “Hoa râm bụt”, “Bác ở nơi đây”, “Bên khung cửa sổ”, “Nhớ nguồn”, “Kỷ niệm tháng Năm”, “Con người và con đường”, “Trần Phú”, “Nguyễn Hữu Tiến”, “Vườn nắng”, “Trái tim quả đất”, “Mẹ về”, “Lõm”, kịch bản điện ảnh “Cuộc chia ly trên bến Nhà Rồng”, xấp xỉ một trăm bài thơ, trong đó, bài thơ “Gửi em chiếc nón bài thơ” được phổ nhạc và sống mãi cùng năm tháng… Hai năm 2019, 2020, nhà xuất bản Văn học giới thiệu “Tuyển tập truyện và ký về Hồ Chí Minh” (quyển 1, quyển 2) của Sơn Tùng, là hai tác phẩm quý sau cùng của ông. 
   Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói về nhà văn Sơn Tùng: “Đó là một con người có trí mệnh… Một con người có chí hướng cách mạng, là một đảng viên trung kiên… Anh là một học trò xứng đáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Còn đối với riêng tôi, anh là một người bạn chí thiết”. Học giả Phan Ngọc viết về ông: “Sơn Tùng là nhà văn theo kiểu riêng. Loại nhà văn nghệ sỹ và nhà nghiên cứu không xem công việc của mình là một cái nghề qua đó người ta kiếm sống, giàu có và nổi danh. Đây chẳng qua là tiếp tục con đường cách mạng mà cả dân tộc đã dấn thân vào và hàng triệu người đã ngã xuống”.
Sơn Tùng - nhà văn, người cộng sản anh hùng -0
   Bên cạnh di sản văn chương đồ sộ và vô giá ấy, danh hiệu hết sức cao quý Anh hùng Lao động mà Đảng, Nhà nước phong tặng ông năm 2011, và là thương binh nặng 1/4, nhà văn Sơn Tùng và gia đình ông đã sống một cuộc sống nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng giàu tình nghĩa, đầy chất nhân văn, lòng tự trọng và sự cao thượng. Sau khi tác phẩm “Búp sen xanh” ra đời và ngay lập tức gây được tiếng vang lớn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng biết hoàn cảnh rất khó khăn của nhà văn-thương binh nặng Sơn Tùng, Thủ tướng nêu ý định cùng Thành phố Hà Nội cấp một căn hộ tập thể cho ông. Nhà văn Sơn Tùng chân thành cảm ơn và thưa nhỏ với Thủ tướng xin chưa dám nhận món quà quý đó. Sau này, ông nói riêng với vợ con, ông không muốn ai đó cho rằng vì viết về lãnh tụ mà tác giả được ưu ái.
Khoảng cuối năm 1991, Thành đoàn Hà Nội, quận Đống Đa, phường Văn Chương lại có nhã ý giúp ông và gia đình một chỗ ở kha khá hơn trước. Chủ trương là vậy, nhưng khi bắt tay thực hiện thì ông lại bàn với vợ con là nhà mình ở căn hộ này tuy nhỏ hẹp những đã quá thân quen. Ta trân trọng cảm ơn các cơ quan và đề nghị bố trí cho gia đình nào đó khó khăn hơn. Nhà văn Sơn Tùng là vậy, nghe những chuyện về ông, nơi tá túc của gia đình ông, dường như khó tin. Có người gọi ông là “lập dị”, là “Ông đồ gàn xứ Nghệ”, chắc có căn cớ từ vài câu chuyện vừa kể. Chỉ những người thân cận ông, hiểu, quý mến và kính trọng ông thì không coi đó là sự lạ, mà là sự thường, sự bình dị vốn có của ông.
Ông chưa bao giờ có chút mảy may công thần, không kêu ca, phàn nàn, trách cứ ai. Gia đình ông, cho đến phút ông ra đi vẫn ở trong căn phòng tập thể chật chội 21 m2, được xây dựng từ năm 1960, không có công trình phụ, và dĩ nhiên, không có bình nóng lạnh. Nhiều người gọi ông là nhà văn đặc biệt, nhà văn phi thường; người cộng sản kiên trung, mẫu mực; một thương binh đặc biệt ngoại trú ở nơi đặc biệt nửa sau cuộc đời. Từ ngày ông bị trọng thương, rồi 11 năm gần đây bị thêm tai biến nặng, phải nằm liệt giường, việc chăm sóc ông luôn là bà Hồng Mai - vợ ông và người con trai Bùi Sơn Định. Ông là chỗ dựa tinh thần vững chãi, tự hào của họ, họ là nguồn sức mạnh, là lương y và thư kí thân thương, tin cậy của ông.
Sơn Tùng - nhà văn, người cộng sản anh hùng -0
   Chúng tôi - lớp con cháu, lớp đồng nghiệp ít tuổi gần gũi của ông và gia đình ông những năm tháng ông bị trọng bệnh. Những người cầm bút luôn coi ông là tấm gương tiêu biểu, mẫu mực; sức lao động và năng lượng sáng tạo dường như vô hạn; tài năng và nghị lực phi thường; nhân cách và bản lĩnh cao cả, đẹp đẽ. Nghĩ về ông, soi lại mình, nhiều khi thấy nghèn nghẹn yêu thương, tự hào, khâm phục, lại có cả phần đắng đót, xấu hổ vì còn khá nhiều điều chưa xứng đáng với ông, với bao người đã hy sinh, đã mất mát vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Nhà văn Sơn Tùng cả đời học tập và làm theo Bác Hồ, đến lượt, ông là tấm gương để nhiều người, nhất là giới trẻ, các nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, văn nghệ sỹ... noi theo, làm theo. 
  Xin vĩnh biệt Nhà văn phi thường Sơn Tùng, Anh hùng Sơn Tùng, Người cộng sản Sơn Tùng kính quý !
PGS,TS, Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ
Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình 
Văn học, nghệ thuật Trung ương

 

Ngày xuất bản: 26-07-2021

Ảnh: NGUYỄN ĐÌNH TOÁN - THIÊN SƠN

Đồ hoạ & kỹ thuật: ĐĂNG PHI








https://nhandan.vn/chan-dung/son-tung-nha-van-nguoi-cong-san-anh-hung-656706/?fbclid=IwAR2ICweduA6F058yE_JkcLwzN2T9h8ddm8RqzIiHpgsUOlwJOwh-BdRWe78




8b.


Đường từ Hà Nội về quê ông, ngồi bên linh cữu ông, bác nói với cháu:
- Gần 70 tuổi, bác không bao giờ nghĩ đến có một ngày phải đưa tiễn ông trong mùa dịch dã như thế này. Chứng kiến lễ viếng ông ở Nhà tang lễ Quốc gia, có vòng hoa viếng của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, lễ viếng của đại diện các gia đình, các cơ quan, đoàn thể và cả những người hàng xóm trong khu lao động nghèo lam lũ đến tiễn đưa ông... Dù dịch bệnh đe doạ vẫn không ngăn được tấm lòng của họ dành cho ông.
Có lẽ, ông chọn thời điểm ra đi như thế để không phải lụy đến nhiều người. Xưa nay tính ông vốn trực. Việc gì cũng không thích phiền lụy ai. Cháu cứ tự an ủi mình: Trời gọi ông về, bấm ngón tay thấy là ông phải trải qua 9x9=81 kiếp nạn, mà mới được 80 nên thử thách nốt bằng lễ tang mùa dịch và lệnh giãn cách toàn thủ đô.
Linh cữu vào đi hết địa phận Tĩnh Gia - Thanh Hoá, qua khe Nước Lạnh đến Nghệ An thì một cơn mưa rào khoảng 2-3 phút như khóc đón ông rồi tạnh ngay.
Làm lễ an táng ông xong, xe ra hết địa giới Hoàng Mai - Nghệ An sang Tĩnh Gia - Thanh Hoá thì cuồng phong kéo đến, mây đen vần vũ, trời trút mưa đổ xuống như tẩy sạch mọi bụi bặm cho xe về Hà Nội bình yên.
Bùi Dương Lịch trong “Nghệ An ký” viết: "Khe Nước Lạnh chảy từ núi Ung Sơn qua kênh Xước ra biển, là giới hạn phía bắc tỉnh Nghệ An". Lần danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác từ Hương Sơn - Hà Tĩnh ra Thăng Long để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán, đi qua khe Nước Lạnh có làm bài thơ chữ Hán:
“Hoan, Ái phân cương địa/ Quần sơn hỗ tống nghinh/ Tiều ca, vân lộ xuất/ Điểu ngữ, cốc phong sinh/ Phục thạch đương đồ lập/ Giao thiên đoạn bích hoành/ Hành nhân thuyết hương tứ/ Duy ngã thướng thần kinh”.
Cụ Phan Võ người Yên Thành, Nghệ An, đỗ Phó bảng năm 1910 khi mới 21 tuổi, về sau dịch Thượng kinh ký sự đã dịch ra lục bát bài thơ như sau:
“Nghệ, Thanh phân giới từ đây/ Đón đưa, núi nọ, non này gần xa/ Đường mây văng vẳng tiều ca/ Líu lo chim nói, gió hòa hiu hiu/ Nhấp nhô, đá dựng giữa đèo/ Trời Nam mảnh biếc một chiều giăng ngang/ Người ta nói chuyện về làng/ Riêng mình còn phải dặm trường lên kinh”.
Năm Ất Sửu 1925 - đang làm Tri huyện Tĩnh Gia, cụ Phan Võ được tin vợ sinh con trai. Vùng này có núi (cồn) Ngọc nên cụ lấy làm tên cho con trai là Phan Ngọc. Vào đời, Phan Ngọc trở thành nhà học giả bách khoa. Nhà văn Sơn Tùng và Học giả Phan Ngọc sinh thời hai ông vẫn dành cho nhau tình cảm quý trọng. Mùa hè năm ngoái cụ Phan Ngọc cũng dạo bước cõi tiên.

Đường về làng hoa xa hun hút, xe tang về dù vắng lặng suốt hành trình nhưng lại nặng tình nghĩa của bà con chòm xóm quê hương...














https://www.facebook.com/son.kieumai/posts/1768456503340669



Mỗi con người sinh ra lành lặn thì có 5 ngón tay trên một bàn tay, đủ 10 ngón tay trên hai bàn tay. Nhà văn Sơn Tùng cũng vậy, ông sinh ra đều đủ 5 ngón tay trên mỗi bàn tay.
Vậy mà, khi ông trút hơi thở cuối cùng, nhiều người nhân danh bạn văn, nhân danh gần gũi vung bút sáng tác và thêu dệt về bàn tay của nhà văn Sơn Tùng để lừa bạn đọc. Nhà văn Hữu Thỉnh trả lời phỏng vấn thì nói:
- Thậm chí, vì chỉ còn 2 ngón tay nên anh phải buộc bút vào tay để viết...
Báo Sức khoẻ & Đời sống, báo Nhân dân còn gắn vào thành lời nói của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: - Nhà văn chỉ còn 3 ngón tay...
Những ai từng được gặp Nhà văn Sơn Tùng dù ít dù nhiều đều thấy rằng con người nho nhã ấy có mái móc bồng bềnh, vầng tráng rộng và sáng, khi ngồi luôn ở tư thế bán kiết già của người ngồi thiền lão luyện. Và hai bàn tay ông còn đủ 5 ngón tay trên mỗi bàn tay, ngón nào cũng thon nhỏ đẹp như búp măng, không hề thiếu một đốt chứ đừng nói là thiếu ngón.
Nhà văn đã yên nghỉ trong lòng đất mẹ, những ai đã giấu ngón tay của cụ thì đem trả lại cụ đi, không cụ linh thiêng cụ về cụ hỏi đấy. Nói và vết gì mà tầm bậy tầm bạ như thế cũng dám xưng danh nhà văn, người bạn thân thiết của Nhà văn Sơn Tùng. Bạn đọc có thể xem một vài bức ảnh Nhà văn Sơn Tùng để thấy ông xoè bàn tay chúng ta cứ thoải mái đếm ngón tay ông./.






https://www.facebook.com/son.kieumai/posts/1768348816684771









8. Đêm 26/7/2021



CÒN...
Có lẽ chưa bao giờ làng Kim Lũy có một sự kiện đặc biệt như hôm nay. Dân làng đón Nhà văn - Anh hùng Lao động Sơn Tùng - người con của quê hương trở về đất mẹ. 94 năm trước ông cất tiếng khóc chào đời. Hôm nay, ông về nằm nghe tiếng sóng biển quê nhà vỗ bờ rì rào. Dù màn đêm đã xuống phủ kín không gian, dù lễ an táng ông đã hoàn tất từ 16h chiều, đêm nay các con cháu, chắt nội ngoại trong gia đình, họ hàng vẫn thắp sáng ánh điện để chuyện trò tưởng nhớ!
Người dân làng Kim đón người con xa quê tuổi thọ gần một thế kỷ về yên nghỉ vĩnh hằng, với những điều đặc biệt. Dù ông về quê khi đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, song người già người trẻ, nam phụ lão ấu vẫn chờ đón ông trong nắng chiều cùng các biện pháp phòng dịch cần thiết. Họ trông thấy vòng hoa viếng của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Uỷ viên Bộ Chính trị Phan Đình Trạc, Uỷ viên Bộ Chính trị Nguyễn Xuân Thắng, gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng nhiều cơ quan, ban ngành, đoàn thể khác từ Trung ương đến địa phương.
Người dân làng Kim hẳn sẽ xúc động hơn nếu được trông thấy sáng nay tại Nhà tang lễ Quốc gia (Hà Nội), dù phải chấp hành Chỉ thị 16 của Chính phủ về giãn cách, dù lễ tang chỉ tổ chức trong phạm vi gia đình, nhiều người lao động Thủ đô là hàng xóm của nhà văn trong khu tập thể Văn Chương cũng có mặt để thắp nén hương thơm đưa tiễn anh linh người hàng xóm hiền hậu, đức độ, sống nghĩa tình cùng chòm xóm, chật nhà nhưng rộng bụng. Hơn 40 năm chọn ngõ Văn Chương làm nơi gắn bó để cầm bút viết văn, dù là nhà văn - Anh hùng Lao động, ông vẫn giữ lễ nghĩa với xóm giềng theo phương châm lòng người là rào rậu vững chắc nhất.
Hôm nay, khi cùng bà và các bác tiễn ông về quê, thả nắm đất lên "ngôi nhà mới" của ông, cháu nhớ đến câu Kiều ông thường dẫn: "Thác là thể phách, còn là tinh anh". Ông còn những trang văn ở lại với cuộc đời! Ông còn tấm gương kẻ sĩ về nghị lực - ý chí bền bỉ, uy vũ bất năng khuất. Ai đó có thể chê ông nghèo nhưng không thể chê ông hèn. Ai đó có thể chê ông gàn song phải công nhận ông là người tử tế - Một thứ của hiếm hôm nay giữa Thăng Long - Hà Nội./.







https://www.facebook.com/son.kieumai/posts/1767999343386385





Ông được đưa về quê hương làng Hoa Luỹ xưa. (Nay thuộc Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An).
Vậy là ước nguyện của ông khi sống đã thành hiện thực.
Và chữ ký của ông là trở về với Mẹ, đất Mẹ, quê Mẹ, nấm mồ có hương khói đã thành.
Nơi đây từng có câu ca:
Câu sơn đáo địa
Hoa Luỹ trạng nguyên
Tức là:
khi nào hòn Câu đến đất
Thì Hoa Luỹ có trạng nguyên.
Nay thì hòn Câu ngoài biển đã được đất bồi vào trong.
Còn ai là trạng nguyên của Hoa Luỹ?
Ảnh chụp của Kiều Mai Sơn theo xe chở linh cữu.




https://www.facebook.com/khoi.tu.5283166/posts/601188147515711


7. Ngày 26/7/2021

Xin cảm ơn nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã có lời tiễn biệt sâu sắc, xúc động nói lên những vẻ đẹp và sự cống hiến to lớn của nhà văn Sơn Tùng đối với quê hương, xứ sở.
Tôi xin đưa lại toàn văn bài viết đã tạo nên một ấn tượng sâu sắc trong lễ tang nhà văn Sơn Tùng hôm nay:
"Có những nhà văn khi rời khỏi đời sống này đã để lại hai cuốn sách lớn: Cuộc đời và tác phẩm. Nhà văn Sơn Tùng là một nhà văn như vậy. Ông đã để lại cho đời sống này những sáng tác đặc biệt của ông và cuộc đời lớn của ông.
Nhà văn Sơn Tùng bước vào cuộc đời như một người lính. Ông đã tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong thế kỷ 20 cho độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Có thể nói, chiến tranh đã tàn phá thân thể ông. Nếu không có một khát vọng lớn lao, một nghị lực phi thường, thì những di họa chiến tranh đã xóa tên ông trong đời sống này cho dù ông vẫn sống. Nhưng ông đã đứng dậy, đã cầm bút và đã minh chứng một cách kỳ diệu sức mạnh vô bờ của khát vọng làm người chân chính.
Ông đã sống hơn 90 năm trong cõi đời này. Đấy không phải là tuổi thọ của ông. Đấy chính là khát vọng sống đẹp đẽ của ông và ý chí phi thường của ông cho khát vọng ấy. Cho dù sống trong sự đau đớn của thương tật, nhưng bạn đọc không hề tìm thấy sự mệt mỏi và yếu đuối của ông trong từng trang viết. Trái lại, trong mỗi trang viết của ông, con người đã tìm thấy sự chia sẻ sâu sắc, tình yêu thương rộng lớn và lòng quả cảm vượt qua nhiều giới hạn. Ông là một nhà văn hay nói đúng hơn là một con người chối từ mọi quyền lợi vật chất cho cá nhân mình để đòi hỏi sự công bằng, bác ái cho con người.
Trong một thời đại mà con người đang đứng trước bao thách thức, đặc biệt là những thách thức từ một đời sống ngập tràn sự hưởng thụ ích kỷ, sự vô cảm và phi nhân tính, thì con người nhà văn Sơn Tùng là một giá trị tựa một báu vật còn sót lại. Trong giờ phút này, chúng ta thường nghĩ tới sự ra đi của một con người. Và tôi nhận thấy: Có những người đã ra đi ngay khi họ vẫn đang tồn tại như một thể thức sống giữa chúng ta. Nhưng có những con người ra đi nhưng lại tồn tại mãi trong đời sống chúng ta như một niềm kiêu hãnh. Sự ra đi của nhà văn Sơn Tùng đã làm cho sự ở lại của tinh thần ông trong đời sống này ý nghĩa hơn, cần thiết hơn và dài lâu hơn.
Trước linh cữu của ông trong giờ phút này, Ban Chấp hành cùng các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam biết ơn đối với những tác phẩm của ông và biết ơn một cuộc đời đẹp đẽ và lớn lao mà ông đã sống.
Xin cúi đầu tiễn biệt ông”.

https://www.facebook.com/thien.son.792/posts/4495651337119953


Bác - nhà văn Sơn Tùng hôm nay đã về với quê biển- Làng Hoa Luỹ- Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An. Ngõ Văn Chương từ nay vắng bóng Bác nhưng BÚP SEN XANH và những trang viết của Bác sẽ còn mãi. Hôm nay Bác đi khiến hàng triệu trái tim độc giả hâm mộ BÚP SEN XANH, Bông sen vàng, Trái tim quả đất và những trang viết về Bác Hồ tiếc thương vô hạn.
"BÚP SEN XANH" NGÀY CÀNG "XANH"
(Bài viết của Thiên Sơn năm 2008)
Bây giờ, sau hơn một phần tư thế kỷ được ấn hành, Búp sen xanh đã trở thành một trong những cuốn sách đạt lượng ấn bản kỷ lục ở nước ta với số lượng trên nửa triệu bản qua hơn 20 lần tái bản.
Trong cuộc đời của mỗi người không thể thiếu những cuốn sách gối đầu giường, những cuốn sách đi suốt theo năm tháng và trở thành tấm gương soi chiếu vào mọi ý nghĩ, mọi việc làm, góp phần hình thành nên nhân cách.
Búp sen xanh là một trong những cuốn sách như vậy đối với nhiều người. Nhà văn Sơn Tùng không phải là một tác giả chuyên viết cho thiếu nhi, nhưng chỉ với một cuốn này, dựng lên hình tượng Bác Hồ từ khi được sinh ra đến khi rời bến nhà Rồng, đi tìm đường cứu nước, đã để lại dấu ấn cho biết bao tâm hồn.
Và điều đặc biệt là cuốn sách không chỉ được các em nhỏ đón nhận, mà cả người lớn, những người ở tầng lớp khác nhau từ người dân bình thường đến những trí thức, những nhà khoa học, những nhà cách mạng có tên tuổi nhiệt liệt hoan nghênh.
Những năm gần đây, "Búp sen xanh" được đưa vào tủ sách vàng của nhà xuất bản Kim Đồng, được tái bản một năm vài ba lần. "Búp sen xanh" cũng được dịch sang tiếng Anh và in song ngữ. Ở hầu khắp các hiệu sách từ bắc đến nam, những trung tâm du lịch văn hoá, những khu di tích Bác Hồ bao giờ cũng có sách "Búp sen xanh" bày bán như một món quà thiêng lưu niệm.
Chưa bao giờ mà một cuốn sách văn học lại trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều nghệ sỹ và nhà nghiên cứu đến thế. Trước hết, nó được tác giả chuyển thể thành kịch bản "Cuộc chia ly trên bến nhà Rồng", rồi được sản xuất thành phim truyện "Hẹn gặp lại Sài Gòn" do nghệ sỹ Long Vân làm đạo diễn.
Tác phẩm này trở thành một bộ phim lịch sử hoành tráng trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhật Bác, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt nhân dân Việt Nam trao tặng cho nhân dân Ấn Độ.
Cũng dịp đó, họa sỹ Lê Lam đã chuyển "Búp sen xanh" thành truyện tranh mang tên "Từ làng Sen". Cuốn truyện tranh này khá nổi tiếng và được nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành với 6 thứ tiếng: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nga, Trung Quốc, Lào.
Búp sen xanh lại được nghệ sỹ - nhà nghiên cứu Mịch Quang đưa lên sân khấu tuồng với tên gọi Cậu bé làng Sen. Nhạc sỹ Thuận Yến thì có lần nói rằng chính Búp sen xanh đã là nguồn tư liệu và khởi nguồn của cảm hứng để ông viết nên ca khúc nổi tiếng Miền trung nhớ Bác.
"Búp sen xanh" cũng được chuyển thể thành văn vần. Hiện nay đã có 7 tác giả chuyển thành truyện thơ với nhiều tên gọi khác nhau. Trong số đó có 4 cuốn đã xuất bản là: Diễn ca Búp sen xanh (tác giả Lê Xuân Hãng); Nhụy vàng hương sen (tác giả Hoàng Trang); Ngó sen (NXBTN, tác giả Đức Thục); Hương sen (NXB Hà Nội, tác giả Hồ Nam).
Tại sao "Búp sen xanh" lại được đón nhận nồng nhiệt như vậy?
Đã 30 năm trôi qua từ ngày nhà văn Sơn Tùng đặt bút viết tác phẩm này, nhưng những biến động xã hội, những luồng tri thức khổng lồ được sản sinh ra hàng ngày không làm cho cuốn sách bị cũ đi.
Căn nhà bé nhỏ của ông ở ngõ Văn Chương không bao giờ vắng khách đến để nghe chuyện về Bác Hồ, thậm chí có người tìm mua "Búp sen xanh" rồi tìm đến xin nhà văn một chữ ký để giữ làm kỷ vật trong đời.
Không những thế, "Búp sen xanh" còn được đón đợi nhiều hơn ở những miền đất xa xăm, vượt qua nhiều biên giới để đến với những tâm hồn đồng điệu. Các học giả trên thế giới như Mỹ, Nga, Nhật, Pháp, Hàn Quốc… vì Búp sen xanh mà đã tìm đến nhà văn Sơn Tùng để tìm hiểu thêm về Bác Hồ, nhiều nhà báo, đạo diễn điện ảnh cũng đến đây để tìm hiểu thêm tư liệu.
Năm 1982, khi Búp sen xanh vừa phát hành (và sau đó được trao giải đặc biệt trong cuộc vận động sáng tác về đề tài thiếu nhi) đã có những ý kiến “này nọ”.
Học giả Nguyễn Khắc Viện đã nói rõ quan điểm của mình trong một bài viết ngắn: “Tôi chấp nhận tất cả những “thiếu sót”, quý hồ tác phẩm làm cho tôi nhớ đến Bác, gần gũi thêm với Bác, và gạn lọc rồi, để lại cho tôi một cảm xúc trong sáng. Đó chính là cảm xúc khi gập lại trang cuối cùng của Búp sen xanh”.
Chuyện đã đến tai Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông đã đọc và mời nhà văn lên trò chuyện. Thủ tướng còn đích thân viết lời tựa cho cuốn sách này. Thủ tướng nhấn mạnh “Cuốn sách Búp sen xanh nêu lên một vấn đề: ở đây tiểu thuyết và lịch sử có thể gặp nhau không?”.
Và ông cũng nói “Vấn đề này các đồng chí hoạt động trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật và nói chung tất cả chúng ta cần suy nghĩ để có thái độ. Song ở đây cũng vậy, lời nói có trọng lượng rất lớn thuộc về người đọc, nghĩa là nhân dân”. Lời tựa ngắn gọn, đầy trí tuệ đó của thủ tướng mãi đến hơn 20 năm sau mới in được.
Và cuốn Búp sen xanh đến thời điểm đó đã trở thành cuốn sách được nhân dân thừa nhận. Trong cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, không ít người đã chọn Búp sen xanh để đọc và kể lại trong các kỳ thi.
Ở trang bìa của cuốn Búp sen xanh thường in một lời đề từ ngắn gọn của nhà văn: “Các bậc thiên tài không có sẵn, chính truyền thống gia đình, quê hương là khởi thủy tạo nên những tính cách đầu tiên của mỗi con người đi vào đời”.
Cái nhìn biện chứng giữa con người và truyền thống lịch sử đã giúp nhà văn không chỉ miêu tả thành công một tính cách sinh động thuở hình thành nhân cách vĩ nhân mà còn đưa người đọc trở về với những dấu ấn nóng bỏng của một giai đoạn, những phong tục, tập quán, những nét văn hóa cao đẹp của một thời.
Nhà văn Sơn Tùng “thấy cây và thấy cả rừng”, thấy quả và thấy cả nhân, thấy cái vĩ đại nhưng cũng thấy cả những nét bình thường, gần gũi của Bác Hồ. Vì thế qua cuốn sách tác giả vừa xây dựng thành công được một hình tượng điển hình vừa khắc dựng được những bối cảnh mang tính hoành tráng.
Đọc cuốn sách người ta không chỉ thấy Nguyễn Tất Thành là kết tinh của một nền văn hóa mà còn thấy rõ lớp người trước, lớp người sau và những khát vọng cuộn sóng của cả một dân tộc đang dò dẫm đi tìm con đường giải phóng cho chính mình.
Suốt hơn một phần tư thế kỷ Búp sen xanh là cuốn sách sinh động nhất có thể đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của bạn đọc về thời thơ ấu và thời thanh niên của Bác Hồ.
Hàng triệu người đã lớn lên với thần tượng Nguyễn Tất Thành với những cử chỉ, những lời nói, và hành động do nhà văn Sơn Tùng tái hiện. Với tư cách một tác giả, có lẽ nhà văn Sơn Tùng là một trong những người hạnh phúc hiện nay khi tác phẩm của ông liên tục được ấn hành, truyền bá và phát huy tác dụng cải tạo xã hội, để lại những dấu ấn tích cực trong tâm hồn bạn đọc.
Trong một nền văn học luôn có những khuynh hướng khác nhau. Mỗi nhà văn luôn theo đuổi những mục đích của đời mình trong sáng tác. Nhà văn Sơn Tùng có một mục đích rõ ràng là qua những tác phẩm của mình để làm sống lại hình tượng những người anh hùng dân tộc và cả một nền luân lý của tổ tiên.
Tác phẩm của ông là một sự kết tinh những tư tưởng, tình cảm cao đẹp của người Việt. Ông chú trọng đến sức mạnh của “sự noi gương”, đưa văn học góp phần cải tạo xã hội...
Cả đời nhà văn Sơn Tùng là sự phấn đấu hết mình. Vượt qua thương tật hiểm nghèo, vượt qua thiếu thốn, vượt qua những hạn hẹp của những nếp nghĩ một thời để sống và viết.
Ông đã sống đẹp để có những trang viết đẹp, với một tâm niệm “hành thiện cả một đời vẫn chưa đủ”. Lúc nào ông cũng hướng về bạn đọc, cũng tin tưởng cái đẹp sẽ cứu vớt, nâng đỡ con người. Hàng ngàn trang viết của ông đã ra đời giữa những cơn đau quằn quại do vết thương chiến tranh, giữa những năm tháng tưởng chừng nhiều chuẩn mực đạo đức và lý tưởng xã hội chao đảo.
Nhà văn vẫn trụ vững qua những cơn lốc xoáy thời thượng, kiên định trên con đường đã chọn, truyền lại cho đời sau đạo nghĩa và khí phách ông cha. Búp sen xanh là sự thể hiện tập trung những tư tưởng và tình cảm đó của nhà văn. Nó sẽ còn được bạn đọc gìn giữ như hành trang quý giá trên con đường phục hưng dân tộc, xây dựng nền văn hóa, xây dựng nhân cách con người.
Hà Nội ngày 10/5/2008
Thiên Sơn







https://www.facebook.com/trinh.t.thuy.92/posts/10217482533770107



6. Sáng 26/7/2021


Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ

26/07/2021 | 11:41
TPO - Ngày 26/7, tại Nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội) diễn ra Lễ tang Anh hùng lao động - nhà văn Sơn Tùng. Nhà văn Sơn Tùng được an táng tại nghĩa trang quê nhà tại xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 1

Đúng 7h30 lễ viếng nhà văn Sơn Tùng bắt đầu.

Nhà văn Sơn Tùng (sinh ngày 8/8/1928) tên thật là Bùi Sơn Tùng, quê xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Nhà văn Sơn Tùng nguyên là phóng viên báo Tiền Phong, từng được cử vào chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ và bị thương năm 1971. Sau thời gian điều trị, ông tiếp tục làm việc, gắn bó với báo Tiền Phong đến khi nghỉ hưu năm 1979.

Nhà văn Sơn Tùng là tác giả của nhiều tác phẩm như: Bên khung cửa sổ (1974), Nhớ nguồn (1975), Con người và con đường (1976), Búp sen xanh, Vườn nắng (1997), Trái tim quả đất (2000), Ánh sáng tâm đăng Hồ Chí Minh, Bác ở nơi đây, Từ làng Sen... Ông được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.

Lễ tang nhà văn Sơn Tùng diễn ra trong những ngày cả nước thực hiện nhiều biện pháp phòng chống đại dịch COVID-19, Hà Nội thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16. Do đó, nhiều biện pháp phòng chống dịch như đeo khẩu trang, hạn chế số người và đảm bảo khoảng cách... đã được ban tổ chức lễ tang và gia đình nghiêm túc thực hiện.

Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 2

Chủ nước nước Nguyễn Xuân Phúc và Trưởng Ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc gửi vòng hoa phúng viếng.

Đúng 7h30, lễ viếng nhà văn Sơn Tùng bắt đầu. Các thành viên gia đình, đại diện T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và báo Tiền Phong viếng.

Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 3

Đại diện đoàn T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và báo Tiền Phong viếng nhà văn Sơn Tùng và chia buồn cùng gia quyến.

Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 4

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết; Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc; Ban Bí thư T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; gia đình đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng nhiều cơ quan, đơn vị ... đã gửi vòng hoa kính viếng.

Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 5

Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gửi vòng hoa viếng nhà văn Sơn Tùng.

Trong điếu văn đọc điếu văn trước anh linh nhà văn Sơn Tùng, nhà báo Lê Xuân Sơn - Tổng biên tập báo Tiền Phong, Trưởng ban Tổ chức Lễ tang nhà văn Sơn Tùng bày tỏ: "Một tin hết sức đau buồn trong những ngày cả nước gắng gỏi phòng chống đại dịch COVID-19: nhà văn Sơn Tùng, Anh hùng Lao động, đảng viên 73 năm tuổi Đảng, thương binh hạng 1/4 từ biệt cõi trần.

Dẫu sự ra đi của một nhà văn vào tuổi 94, lại nằm suốt 11 năm trên giường bệnh không phải là đột ngột, bàng hoàng, nhưng tin buồn và những bài viết, nhưng hồi ức về ông vẫn ào ạt xuất hiện trên báo chí, sóng truyền hình và mạng xã hội cho thấy vị trí đặc biệt của ông trong lòng không những chỉ những người thân yêu trong gia đình, những người ở cơ quan ông từng công tác, những người quen biết với ông mà cả trong nhiều thế hệ bạn đọc".

Nhà báo Lê Xuân Sơn đã ôn lại cuộc đời dài lâu với nhiều biến cố và những nỗ lực phi thường, không mệt mỏi để sống, làm việc, sáng tạo và để cống hiến của nhà văn Sơn Tùng.

"Không thể tưởng tượng nổi trong 36 năm, từ 1974 đến tháng 6/2010- năm nhà văn bị tai biến, Sơn Tùng đã cho xuất bản hơn 20 cuốn sách dày dặn, có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, được bạn đọc trong cả nước yêu mến đón nhận. Đặc biệt, trong số tác phẩm đó có hơn một nửa là những sáng tạo về Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo ưu tú, xuất sắc của Đảng. Riêng tiểu thuyết Búp Sen Xanh viết về thời thơ ấu của Bác Hồ, chỉ tính riêng Nhà xuất bản Kim Đồng đã 30 lần tái bản. Biết bao thanh thiếu niên, bao bạn đọc đủ mọi lứa tuổi đã đọc sách, đã học tập noi gương Bác để gắng gỏi phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng, cho non sông đất Việt. Và trong hơn 500 lần nhà văn thương binh đứng trên bục để thuyết trình, nói chuyện về cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, có bao nhiêu người đã được ông truyền lửa?", nhà báo Lê Xuân Sơn xúc động: "Ông đã đi trọn cuộc đời gian lao nhưng hào hùng của mình, làm trọn sứ mệnh của một CON NGƯỜI, một CON NGƯỜI với tất cả các chữ cái viết hoa, một CON NGƯỜI với những ý nghĩa cao quý và đáng tự hào nhất".

Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 6

Nhà báo Lê Xuân Sơn - Tổng biên tập Báo Tiền Phong, Trưởng ban Lễ tang đọc điếu văn nhà văn Sơn Tùng.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam đã có những lời tiễn biệt: Có những nhà văn khi rời đời sống này đã để lại hai cuốn sách lớn là cuộc đời và tác phẩm. Nhà văn Sơn Tùng là nhà văn như vậy. Ông đã để lại cho đời sống này những sáng tác đặc biệt của ông và cuộc đời lớn của ông.

Nhà văn Sơn Tùng bước vào cuộc đời như một người lính. Ông đã tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong thế kỷ XX cho độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Có thể nói, chiến tranh đã tàn phá thân thể ông. Nếu không có một khát vọng lớn lao, một nghị lực phi thường, thì những di họa chiến tranh đã xóa tên ông trong đời sống này cho dù ông vẫn sống. Nhưng ông đã đứng dậy, đã cầm bút và đã minh chứng một cách kỳ diệu sức mạnh vô bờ của khát vọng làm người chân chính.

"Cho dù sống trong sự đau đớn của thương tật, nhưng bạn đọc không hề tìm thấy sự mệt mỏi và yếu đuối của ông trong từng trang viết. Trái lại, trong mỗi trang viết của ông, con người đã tìm thấy sự chia sẻ sâu sắc, tình yêu thương rộng lớn và lòng quả cảm vượt qua nhiều giới hạn", nhà văn Nguyễn Quang Thiều nói.

Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 7

Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều phát biểu tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng.

Đại diện gia đình nhà văn Sơn Tùng, Trưởng nam Bùi Sơn Long đáp từ: "Hôm nay gia đình tổ chức tang lễ cho ba tôi - nhà văn Sơn Tùng, được sự phối hợp của Báo Tiền Phong cùng Ban Tang lễ Quốc gia. Lần đầu tiên cảm ơn những người có mặt tại đây tiễn biệt ba tôi đến nơi an nghĩ cuối cùng".

Đồng thời, ông Bùi Sơn Long bày tỏ sự trân trọng, ấm lòng trước tình cảm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các tổ chức, đoàn thể đã gửi vòng hoa phúng viếng.

Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 8
Đại diện gia đình nhà văn Sơn Tùng, Trưởng nam Bùi Sơn Long đáp từ.
Tiễn biệt nhà văn Sơn Tùng về đất Mẹ ảnh 9

Nhà văn Sơn Tùng được an táng tại nghĩa trang quê nhà xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

https://tienphong.vn/tien-biet-nha-van-son-tung-ve-dat-me-post1359316.tpo?fbclid=IwAR1QTNO6WxST0FTSoLope-DF8B3UZfnrwB95nPq1Njv0MpzAOFloBHwizNc



Bây giờ linh cữu đang về Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gửi hoa viếng.
Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gửi hoa viếng.
Trưởng ban nội chính trung ương Phan Đình Trạc gửi hoa viếng.
Ông Nguyễn Đắc Vinh, Chủ nhiệm Uỷ ban văn hoá giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội gửi hoa viếng...
Cùng đại diện gia đình nhiều chính khách, văn nghệ sĩ, báo chí đến viếng...
Trong nỗi xúc động nghẹn ngào, tôi ghi kính dâng đôi câu đối vĩnh biệt bác:
Kính bái biệt văn hào anh hùng Sơn Tùng
敬 拜 別 文 豪 英 雄 山 松
Chính trực văn
正 直 文
Nhất sinh thanh bạch lưu Nhân cách
一 生 清 白 流 人 格
Hùng văn chính trực hiện Liên hoa
雄 文 正 直 现 莲 花
Tân sửu niên, lục nguyệt, thập thất nhật
辛 丑 年 六 月 十 七 日
Từ Khôi bái thư
慈 魁 拜 书
Dịch nghĩa đôi câu đối:
Một đời thanh bạch lưu lại Nhân cách.
Những áng hùng văn chính trực hiện rõ chất hoa sen.







https://www.facebook.com/khoi.tu.5283166/posts/600917277542798




5.

Thứ Hai 26/07/2021 , 05:50 


Thời gian ở báo Nông nghiệp chỉ 2 năm vậy mà Sơn Tùng đã đặt chân đến hầu hết những vùng đất của miền Bắc, xông pha và phát hiện nhiều tấm gương điển hình.

Nhà viết tuồng - Danh nhân văn hoá Đào Tấn đã viết trong vở tuồng "Hộ sinh đàn" hai câu hát nam đầy khí phách: "Lao xao sóng vỗ ngọn tùng/ Gian nan là nợ anh hùng phải vay".

Dường như có một mối lương duyên, sau này chính Nhà văn Sơn Tùng đã xây dựng hình tượng nghệ thuật Danh nhân văn hóa Đào Tấn trong tiểu thuyết "Búp sen xanh" mà như đánh giá của nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Khoa: “Sơn Tùng đã đi trước cả giới sử học nước nhà trong việc xóa bỏ định kiến về triều Nguyễn như một triều đình tối phản động trước đó với những hình tượng vua quan vì nước vì dân như Tri huyện Nguyễn Sinh Huy, Tổng đốc - Thượng thư Đào Tấn và nhà vua Thành Thái”.

Nhà văn Sơn Tùng và nhạc sĩ Văn Cao. Ảnh: Tư liệu.Nhà văn Sơn Tùng và nhạc sĩ Văn Cao. Ảnh: Tư liệu.

Giọt máu hồng quê hương Xô viết

Dăm năm trước tôi vào thành Vinh, nhà báo Phan Văn Thắng khi đó là Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ An đưa tôi về làng Kim Lũy, xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ngôi làng tên Kim mà rất cổ ấy là nơi chôn nhau cắt rốn nhà văn Sơn Tùng. Xe ô tô qua cầu rồi từ từ lăn bánh vào làng Kim, vốn tên xưa là làng Hoa Lũy. Thế hệ mới lớn lên bây giờ có lẽ ít biết được rằng nhờ nhà văn Sơn Tùng mới có cây cầu bắc qua sông để dân làng lên thị trấn. Nhưng những người có tuổi trong làng khó quên được vì nhờ có ông mới không còn cảnh cách trở đò ngang. Duyên do cũng từ cuộc gặp với Tổng Bí thư Đỗ Mười vào một ngày mùa đông năm 1994...

Qua cuộc trò chuyện, Tổng Bí thư Đỗ Mười hiểu ra tấm lòng của người cầm bút vốn tôn trọng sự thật, nhà văn chỉ viết sự thật, dù sự thật ấy có làm mất lòng không ít người đang ngồi ghế cao. Một sự hữu duyên khi Tổng Bí thư hỏi về quê hương của nhà văn để rồi người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng nắm chặt bàn tay thương tật của người hàn sĩ xứ Nghệ - quê ngoại vợ mình. Tổng Bí thư Đỗ Mười hỏi thăm cuộc sống của bà con ở làng Kim Lũy. Nghe kể hàng ngày dân làng quê ngoại vợ mình vẫn phải đi đò sang sông để lên thị trấn, Tổng Bí thư thoáng chút trầm ngâm rồi ông dặn người giúp việc lưu ý chuyện này. Chẳng bao lâu, cây cầu bắc nhịp, con đò lui dần vào dĩ vãng.

Làng Hoa Lũy nơi cậu bé Bùi Sơn Tùng cất tiếng khóc chào đời bên bãi ngang mường nước mặn, con trai giỏi nghề khơi lộng, quả cảm trước phong ba - Trai làng Hoa xông pha biển cả - con gái vừa đẹp người, vừa đẹp nết đảm đang, hiền thục - Gái làng Hoa tần tảo đoan trang. Cha là Bùi Phú, một trong bảy người sáng lập tổ chức cách mạng đầu tiên ở trong làng, Bí thư Chi bộ lâm thời xã Diễn Kim trước Xô Viết Nghệ Tĩnh. Mẹ là Nguyễn Thị Nhiên con một nhà Nho, vào loại giàu có trong làng cũng đã sớm tham gia Đảng Tân Việt yêu nước.

Nhà văn Sơn Tùng mồ côi cha năm lên 9 tuổi, chị cả ông (sau này là Chủ tịch UBND đầu tiên của xã Diễn Kim) tuổi vừa mười tám. Dưới ông còn hai em trai, một em 5 tuổi (sau là liệt sỹ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ), em út mới lên ba. Mẹ ông góa bụa tần tảo với vài thửa ruộng lúa nương dâu một mình nuôi dạy bảy người con thơ dại (năm con trai, hai con gái) nên người. Bảy người con ai cũng có chữ nghĩa, đều tham gia Cách mạng, đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1944, mới 16 tuổi, tiếp bước cha anh, Sơn Tùng đã tham gia hoạt động cách mạng tại địa phương. Từ công tác đoàn thanh niên, với năng khiếu thiên bẩm, ông đã viết những bài thơ tuyên truyền đăng trên các báo như Cứu quốc Liên khu IV. Ban đầu là những bài vần vè dễ thuộc dễ nhớ để củng cố quyết tâm kháng chiến thắng lợi: “Em là con gái chưa chồng/ Răng đen nhưng nhức, má hồng hây hây/ Anh nào đi lính hôm nay/ Quyết tâm em đợi đến ngày thành công”. Đến năm 1955, bài "Gửi em chiếc nón bài thơ" ra đời đã trở thành một ca khúc trữ tình được nhạc sĩ Lê Việt Hòa phổ nhạc khi đất nước thống nhất “nước non liền một dải”.

Tốt nghiệp trường Đại học Nhân dân (nay là trường Đại học Kinh tế Quốc dân) ở một khóa đặc biệt chỉ có duy nhất sau ngày miền Bắc giải phóng (1954), được đón toàn lãnh tụ đến giảng bài: Chủ tịch Hồ Chi Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng (Hiệu trưởng danh dự), Bộ trưởng Hoàng Minh Giám (Hiệu trưởng)… Sơn Tùng được giữ lại làm giáo vụ trường. Năm 1959, trường Báo chí do Tuyên giáo Trung ương mở, ông được chuyển sang làm giảng viên.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng ân cần đón Nhà văn Sơn Tùng. Ảnh: Tư liệu gia đình.Thủ tướng Phạm Văn Đồng ân cần đón Nhà văn Sơn Tùng. Ảnh: Tư liệu gia đình.

Từ một cán bộ tuyên truyền sang làm báo, Sơn Tùng về báo Nông nghiệp (tiền thân báo Nông nghiệp Việt Nam ngày nay) khi đó như em bé còn nằm nôi. Chủ nhiệm báo Phan Văn Chiêu, một nhà cách mạng lão thành cán bộ miền Nam tập kết (hiện nay tên ông được đặt cho một tuyến đường tại TP Hồ Chí Minh). Những người viết báo (hồi đó không gọi là phóng viên) có: Nguyễn Thanh Sân, cán bộ miền Nam tập kết, sau này chuyển về báo Nhân dân; Nguyễn Xuân Khang, sau chuyển sang phụ trách ban Nông nghiệp của báo Hà Nội mới; Chu Hồng Đức, con trai nhà văn Học Phi; Nguyễn Văn Đồng; và Nguyễn Sinh sau cũng chuyển sang báo Nhân dân, rồi Tổng biên tập Nhà xuất bản Phụ nữ… Thời đó cũng không cấp thẻ nhà báo như bây giờ, khi đi viết bài ở nơi nào, người viết báo được cơ quan viết giấy giới thiệu mang về nơi đó.

Thời gian ở với báo Nông nghiệp không dài, chỉ 2 năm vậy mà Sơn Tùng đã đặt chân đến hầu hết những vùng đất của miền Bắc, từ đồng bằng đến miền núi, ra cả hải đảo từ Bạch Long Vĩ đến Cô Tô. Ngòi bút của ông đã xông pha và phát hiện nhiều tấm gương điển hình trong nông nghiệp của những năm tháng miền Bắc bắt đầu Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất… Chuyển sang báo Tiền Phong ông làm Phó Bí thư Chi bộ và Phó Trưởng ban Nông nghiệp của báo cho đến khi được phân công vào Nam bộ sáng lập và phụ trách tờ Thanh niên Giải phóng…

Cốt cách sĩ phu

Trở ra miền Bắc với thương tật nặng, mất 81% sức khỏe, gần như người tàn phế. Khó ai ngờ được ông đã bằng ý chí và nghị lực để dùng nội lực trong cơ thể tự rèn luyện để cầm bút trở lại. Ngòi bút đã bắc những nhịp cầu nối những trang văn (Búp sen xanh, Bông sen vàng, Trái tim quả đất, Con người Con đường, Trần Phú, Nguyễn Hữu Tiến – Người vẽ cờ Tổ quốc…) lấp lánh trang đời đưa ông trở thành Anh hùng Lao động duy nhất – hội viên Hội Nhà văn Việt Nam còn tại thế.

Vậy nhưng, mặt sau tấm huân chương cũng là một cuộc sống vất vả ít ai ngờ tới của vợ chồng nhà văn. Mấy ai ngờ Anh hùng Lao động – nhà văn Sơn Tùng suốt 50 năm vẫn ở trên căn phòng tập thể cấp bốn chưa đầy 20m2 không có nhà vệ sinh riêng, vẫn đi vệ sinh chung với bao người dân lao động lam lũ trong con ngõ mang cái tên rõ là nhã: Văn Chương. Có lần, một Tiến sĩ Sử học và một nhà văn người Hàn Quốc tới phỏng vấn, hỏi chuyện ông về Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải... nhịn xả... suốt cả buổi làm việc.

Sống thanh bần, ông bà chỉ cần nhu cầu vật chất tối thiểu, cái gì là tiêu chuẩn của mình thì nhận, cái gì không phải của mình thì kiên quyết từ chối. Ông vẫn thường nói: "Tôi tàn phế thân thể nhưng không tàn phế tâm hồn". Ông bà sống trong tình cảm quý mến của bạn bè chứ không ăn mày tình thương của xã hội. Các con đủ sức mua một căn hộ khang trang để ông bà ở nhưng ông bà không muốn dựa dẫm, ỷ lại vào con cái, tự mình lao động trên cánh đồng văn chương với bao nỗi nhọc nhằn để "đêm nằm lạnh lưng mới biết thương người chiếu rách" như lời ông thường nói.

Nhà giáo Vũ Thế Khôi, trưởng nam cụ Vũ Đình Hòe, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên và 15 năm liền làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chia sẻ:

Cụ Vũ Đình Hòe rất quý trọng nhà văn thương binh Sơn Tùng. Không lần nào từ Thành phố Hồ Chí Minh ra mà Cụ quên bảo tôi đưa xuống căn hộ cấp 4 xập xệ, cầu thang nhỏ dốc ngược ở trong ngõ Văn Chương. Lần nào xuống thăm anh Sơn Tùng về, Cụ cũng lắc đầu, lẩm bẩm: "Thương binh đấy, Anh hùng đấy, mà "họ" để sống như vậy!". Tôi thưa: "Con nghe kể đã có lần gợi ý cấp nhà mới, nhưng Anh không nhận ạ".

"Tính khí khái của kẻ sĩ" - Cụ đáp: "Cho cũng phài biết cách cho”.

Năm 1992, Thành đoàn Hà Nội quan tâm, cấp cho ông bà một căn nhà. Không hiểu bộ phận hành chính và các bên liên quan làm thế nào lại thành nhà tình nghĩa. Cùng với đó là những tiếng bấc tiếng chì trong tổ dân phố. Ông viết thư ngỏ (22/7/1992) cảm tạ tình cảm của Thành đoàn mà xin được từ chối nhận Nhà tình nghĩa.

“Kính gửi: Ban Thường vụ Thành đoàn Thanh niên Hà Nội.

Việc Thành đoàn xây dựng nhà tình nghĩa tặng tôi, một cán bộ Đoàn lâu năm, một thương binh 1/4, đó là nghĩa cử cao cả, là tấm lòng cao thượng của toàn thể cán bộ đoàn viên, đội viên thanh thiếu nhi Thủ đô Hà Nội dành cho tôi. Tôi vô cùng biết ơn. Cho nên tôi đã nhờ Hội Nhà văn Việt Nam cử cán bộ đến Thành đoàn bày tỏ lòng biết ơn của tôi và đề đạt lý do tôi xin được: Không nhận ngôi nhà này.

…Rất biết ơn thanh thiếu nhi Thủ đô, nhưng tôi không thể đến ở ngôi nhà dựng lên đã không đúng như biên bản cuộc họp liên tịch giữa các đại diện UBND quận Đống Đa với UBND phường Văn Chương và tôi. Hơn nữa, căn nhà này dựng lên trên mảnh đất mà tiếng kêu ca: “Ông Sơn Tùng là thương binh, tôi cũng là thương binh, sao chính quyền lại lấy mảnh đất của tôi đã bỏ nhiều công sức san lấp để làm nhà tình nghĩa cho ông Sơn Tùng?”.

Thưa các đồng chí! Tôi ra trận, trả căn hộ thuê cho Phòng nhà đất Đống Đa, 1967. Tôi bị thương ở mặt trận Nam bộ về, đã hai lần dùng tiền nhuận bút viết sách “Bên khung cửa sổ”, “Nhớ nguồn” mua nhà để ở cho thích hợp tình cảnh tật nguyền. Cả hai lần đều bị họ lừa (Một lần ở hẻm Nguyễn Trường Tộ, một lần ở ngõ 146 Thụy Khuê). Giờ đây, đã 65 tuổi, tật nguyền, tôi cần sự yên tĩnh để làm việc những năm tháng cuối đời. Tôi rất sợ mọi sự giành giật, sát phạt nhau vì một chút vật chất…

Một lần nữa, tôi xin được không nhận căn nhà mà Thành đoàn dành cho tôi. Tuy tôi không ở ngôi nhà này, lòng tôi ghi nhớ mãi mãi nghĩa cử của Thành đoàn”.

Năm 2009, Hội Nhà văn Việt Nam có thành ý đưa 2 tác phẩm của ông là tiểu thuyết “Bông sen vàng” và truyện ký “Cuộc gặp gỡ định mệnh” (được đổi tên từ truyện ký “Bác về”) vào xét duyệt trao tặng thưởng các tác phẩm xuất sắc trong cuộc vận động sáng tác về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đọc tin đăng trên báo Văn nghệ, Nhà văn Sơn Tùng đã có thư “Xin được miễn trao tặng thưởng” gửi Trưởng ban chỉ đạo cuộc vận động, với lý do cả 2 tác phẩm trên đều có một đời sống riêng, hàng chục năm tuổi rồi, nó không thuộc diện trong sáng tác Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Đó là cốt cách của một bậc hàn sĩ mang cốt cách chí khí của sĩ phu Bắc Hà!

4.

Nhà văn Sơn Tùng – Cuộc đời và trang viết

THIÊN SƠN
23-07-2021 08:53
Kinhtedothi – Nhà văn Sơn Tùng - Anh hùng lao động, tác giả nổi tiếng của "Búp sen xanh" đã ra đi ở tuổi 93 vào ngày 22/7 sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh tật. Gợi nhớ, thêm những tư liệu quý báu về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông, báo Kinh tế & Đô thị xin đăng bài viết “Nhà văn Sơn Tùng – Cuộc đời và trang viết” của người cháu họ - nhà văn Thiên Sơn.


Người bác họ, người thầy lớn của tôi

Theo cách xưng hô của người xứ Nghệ thì tôi gọi nhà văn Sơn Tùng bằng cậu, còn với người miền bắc thì gọi là bác. Ở Hà Nội lâu năm nên tôi gọi là bác cho phù hợp với cách xưng hô thông thường nơi đây. Mẹ của nhà văn Sơn Tùng là chị gái của ông ngoại tôi. Mẹ tôi kém nhà văn Sơn Tùng 3 tuổi. Thời thơ ấu ở quê nhà văn Sơn Tùng với mẹ tôi là những người anh em rất thân thiết.

Tôi lớn lên trong thời kỳ cả nước nghèo đói sau giải phóng miền Nam. Từ bé đã được nghe mẹ nhắc đến nhà văn Sơn Tùng nhưng tôi không được gặp. Nhà văn Sơn Tùng rời quê hương từ những năm 50, hoạt động ở tỉnh đoàn, sau ra học đại học Nhân dân rồi làm giảng viên đại học, làm báo Tiền phong. Từ năm 1964 ông vào chiến trường Nam Bộ thành lập báo Thanh niên giải phóng, rồi bị thương nặng trở ra bắc năm 1972. Do sức khỏe yếu nên ông ít về quê. Gia đình tôi lại lưu lạc vào tận trong Đồng Nai mấy năm, đến 1985 mới trở lại quê. Vì vậy, hè năm 1988 tôi mới được gặp nhà văn Sơn Tùng.

Tôi vẫn nhớ như in lần gặp đầu tiên ấy. Ông về thăm quê. Tổ chức một cuộc nói chuyện cho mọi người nghe và sau đó đến nhà thăm thầy mẹ tôi. Hiển hiện trước tôi là một người đàn ông có vầng trán rộng, mái tóc lấm tấm bạc chải ngược ra sau và phủ kín tai. Đôi mắt cương nghị ánh lên sau làn kính trắng. Ông mặc chiếc áo sơ mi màu xanh da trời. Các ngón tay trái co lại. Giọng ông hơi trầm, nhưng vang, truyền cảm. Phong thái nhẹ nhàng, hoạt bát, tao nhã. Ở ông toát lên sự cuốn hút lạ lùng. Ngày hôm sau đó, tôi cùng thầy tôi lên nhà văn hóa huyện Diễn Châu nghe ông kể chuyện về tuổi thơ và gia đình Bác Hồ. Hôm ấy ông đứng nói say mê từ sáng đến trưa, chỉ nghỉ vài tiếng buổi chiều lại nói cho đến gần tối. Không một mảnh giấy trong tay, các câu chuyện ông kể cứ kế tiếp nhau trong một mạch chuyện xuyên suốt khiến người nghe không thể rời được.

4 năm sau đó, khi tôi đã là sinh viên năm thứ 2 khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là trường ĐH KHXH&NV) thì tôi chủ động đến thăm ông. Năm đó tôi đã tập tọe làm thơ. Biết tôi đi theo đường văn chương, ông vui lắm. Trong lời đề tặng tôi cuốn “Con người con đường” ông ghi: “Vạn biến lôi phong nhất tâm văn đạo”. Sau này tôi càng hiểu đó là châm ngôn của chính ông và cũng là lời dặn dò ông dành cho tôi. Năm tháng qua đi tôi càng hiểu rằng, đường đời gian nan, sự đời biết bao bão tố, nhưng hãy kiên định đi trên con đường sáng tạo chân chính cho đến ngày thành công. Ông nghĩ vậy và suốt cuộc đời đã làm như vậy. Cũng từ những ngày tháng tuổi sinh viên đó, tôi đã dần trở thành một người được ông sẻ chia nhiều tâm sự sâu kín.

Suốt trong khoảng 15 năm, từ năm 1995 đến năm 2010, cứ mấy hôm tôi lại đến phòng khách của nhà văn Sơn Tùng ở ngõ Văn Chương. Đấy là một căn phòng hẹp chưa đến mười mét vuông, không kê bàn ghế. Khách đến phải ngồi xuống nền nhà. Từ khoảng 9, 10 giờ sáng đến chiều tối ít khi vắng khách. Đủ các loại khách: Văn nhân, các nhà trí thức nhiều lĩnh vực, các vị lãnh đạo, các nhà báo quốc tế, những người cùng quê, các cháu sinh viên… Nhiều buổi trưa khi khách về hết tôi thường được vợ ông là bà Hồng Mai mời ở lại ăn cơm. Tôi được chứng kiến những bữa cơm đạm bạc của nhà văn. Ông thường ăn một chút rau, một chút thịt hoặc cá và nửa bát cơm. Bữa cơm lúc nào cũng vui, râm ran chuyện. Sau bữa trưa, 2 bác cháu thường trải giấy báo xuống nền, ngả lưng và trò chuyện xuyên trưa.

Thông thường ở phòng khách mọi người nói nhiều đến chuyện thế sự và văn chương thì câu chuyện giữa nhà văn Sơn Tùng và tôi những buổi trưa như thế hướng về ký ức, kỷ niệm, về dự định và những niềm khát vọng của ông. Nhiều lần ông nhắc đến thời thơ ấu ở quê và những kỷ niệm  sâu sắc với giọng xúc động. Cha ông là một người hoạt động cách mạng trong phong trào 1930-1931 ở Nghệ An, cụ mất bất ngờ do bệnh khi tuổi còn sung sức. Nhà văn Sơn Tùng kể, năm ông mới hơn mười tuổi thì mồ côi cha. Trước khi ông cụ mất, gia đình ông nhiều phen vất vả vì bị giặc Pháp truy lùng. Sau ngày cha ông mất cảnh khó khăn còn nhân lên gấp bội. Cảnh mẹ góa con côi, cái buồn, cái nghèo đổ ập xuống gia đình ông. Hiu quạnh không biết kể sao cho xiết. Những ngày khổ đau ấy, cả làng, cả họ hàng đùm bọc nhau, giúp nhau từng củ sắn, củ khoai vượt qua những ngày đói khổ. Tình nghĩa đó, ân tình sâu nặng đó, dù bao nhiêu năm xa ông vẫn mang theo trong lòng, để rồi hơn năm mươi năm sau ông nhắc lại với tôi. 

Tôi cố gắng học ở nhà văn Sơn Tùng nhiều điều, từ nghị lực sống, sự kiên định khổ luyện trên con đường văn chương, đến sự rộng mở bao dung trong tâm hồn, lòng nhân hậu, sự biết ơn cuộc đời, sự quan tâm đến những con người đau khổ… Và cũng chính từ những năm sinh viên ấy, ông thực sự đã trở thành một người thầy lớn của tôi trên đường văn và đường đời. 

Sau 7 năm lăn lộn ở chiến trường, tháng 4/1971 nhà văn Sơn Tùng bị thương do mảnh đạn M79. Ông Nguyễn Minh Triết, một người đồng chí thân thiết cùng cơ quan đã cõng nhà văn Sơn Tùng chạy qua những cánh rừng xác xơ bị cày xới vì bom đạn vào bệnh viện dã chiến cấp cứu khi máu ròng ròng chảy ướt đẫm tấm áo sau lưng. Tình cảm keo sơn đó giữa 2 người bạn, 2 người đồng chí là một tấm gương mẫu mực.

Sau này ông Nguyễn Minh Triết trở thành Chủ tịch nước, còn nhà văn Sơn Tùng vẫn là một hàn sĩ. Thỉnh thoảng Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết lại đến thăm người bạn cũ ở phố Khâm Thiên. Năm 2010 khi nhà văn Sơn Tùng bị tai biến nặng, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã 2 lần đến bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện Y học cổ truyền thăm và kể lại câu chuyện sâu sắc nghĩa tình giữa ông và nhà văn Sơn Tùng cho các bác sĩ nghe, mong các bác sĩ tìm cách cứu chữa nhà văn. Năm 2010, đích thân Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký quyết định phong danh hiệu anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng và đến tận Hội Nhà văn trao quyết định ấy cho nhà văn Sơn Tùng.

Nhà văn Sơn Tùng từ chiến trường B2 ra Hà Nội cuối năm 1971, sau thời gian điều trị dài. 14 vết thương khắp cơ thể ông, nhiều mảnh đạn trong sọ não không thể phẫu thuật lấy ra được, tay trái co quắp, tay phải chỉ còn ba ngón tay cử động, thị lực còn 1 phần 10, mất 81% sức khỏe. Thỉnh thoảng ông lại bị động kinh. Những khi mưa gió, có khi đang ngồi bỗng bị cơn co giật và ngã ngay xuống nền nhà. Từ chối đi điều trị dài ngày, ông tự tập khí công và thiền định, tìm cách khôi phục dần sức khỏe. Những ngày đầu những năm 70 ấy nghèo đói, gian khó, bệnh tật, nhưng ông vẫn tranh thủ thời gian khi vết thương ít hành hạ thì cầm bút viết. Cũng những ngày ấy, những người bạn văn chương dần tụ hội trong căn phòng nhỏ của ông. Cùng ngồi xuống nền nhà, cùng đàm đạo chuyện thế sự, văn chương. Dần dần hình thành một câu lạc bộ nhỏ, ông gọi đó là Chiếu văn. Trong Chiếu văn có những người nổi tiếng như Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Minh Giang, Siêu Hải, Hoàng Nhật Tân… 

Có một câu nói được nhà văn Sơn Tùng nhấn mạnh trong tiểu thuyết “Búp sen xanh”, và tôi nghĩ đó là thông điệp quan trong trong đời cầm bút của ông: “Mắt mù không đáng sợ bằng mắt sáng tim mù”. Sơn Tùng lặng lẽ làm việc trong nghèo khó, trong cảnh vết thương hành hạ hàng ngày. Như một người leo núi, ông lặng lẽ nhích từng chút, từng chút về cái đích mà ông hướng tới. Sơn Tùng có viết về chiến tranh qua các tiểu thuyết: Vườn nắng, Lõm; về danh nhân cách mạng qua các truyện lịch sử: Trần Phú, Nguyễn Hữu Tiến… Nhưng mảng sách thành công nhất của ông, để lại ấn tượng nhất là mảng sách về đề tài Hồ Chí Minh. 

Say mê, tôn thờ viết về Hồ Chí Minh

Có thể nói, trong văn học nghệ thuật hiện đại, Hồ Chí Minh là một đề tài lớn. Hàng trăm nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ đã tái hiện hình tượng của Bác qua những loại hình nghệ thuật khác nhau. Nhưng thành công và để lại ấn tượng trong đề tài này không dễ dàng. Đối với người cầm bút như Sơn Tùng, viết về một vĩ nhân lớn nhất của thời đại mình, với tất cả sự phong phú, phức tạp và nhạy cảm của đề tài, đòi hỏi ở ông sự nghiền ngẫm, sâu sắc và kiên định rất lớn. Trong những năm được gần ông tôi hiểu thêm về những khó khăn triền miên không bao giờ hết mà ông gặp phải. Có thể do cách nhìn hẹp hòi hạn chế, có thể là từ sự hời hợt nông cạn, và có thể do cả những đố kỵ từ một số người đã kìm hãm tự do sáng tác. Sơn Tùng luôn nỗ lực để viết bằng trái tim, bằng nhận thức của mình và trở thành một người có quan điểm độc lập trong việc đánh giá và khắc tạc hình tượng Hồ Chí Minh.

Trong tác phẩm “Búp sen xanh” xuất bản 1982, lần đầu tiên Sơn Tùng xây dựng một mối tình trong trẻo và kín đáo giữa Nguyễn Tất Thành và Út Huệ. Câu chuyện này gây cho nhà văn khá nhiều phiền phức. Có lúc cuốn sách đã bị đình bản. Nhưng rồi thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chú ý đến sự việc, đã đọc cuốn sách và giải tỏa khó khăn cho nhà văn bằng cách đồng ý cho cuốn sách tái bản. Thủ tướng còn đích thân viết lời tựa cho cuốn sách (mà nhiều năm sau đó nhà văn mới cho in). Trải qua thời gian, người đọc đã chấp nhận việc miêu tả về một vĩ nhân thời trẻ với những mối quan hệ bình dị, gần gũi với con người. Sơn Tùng đã góp phần hé mở cánh cửa để người đọc dần dần có thể khám phá những miền tâm tư sâu thẳm của nhân vật Hồ Chí Minh. 

Nếu nhìn toàn bộ sáng tác của nhà văn Sơn Tùng về đề tài Hồ Chí Minh gồm các tiểu thuyết: “Búp sen xanh”, “Bông sen vàng”, “Trái tim quả đất” và “Truyện ký Bác về”, “Nguyễn Ái Quốc qua ký ức một bà mẹ Nga”… cùng hàng chục tác phẩm ngắn khác ta thấy ngòi bút của ông luôn nhất quán và có chủ kiến riêng. Sơn Tùng viết về Hồ Chí Minh bằng lòng ngưỡng mộ, say mê và tôn thờ. Ông dành cả cuộc đời của mình từ khi mới ngoài hai mươi tuổi đến năm hơn tám mươi tuổi để tìm hiểu về Bác. Những năm năm mươi của thế kỷ trước ông đã gặp anh trai và chị gái Bác Hồ để tìm hiểu về gia cảnh, về tuổi thơ của Bác. Khi trở thành thành viên của đoàn sinh viên Việt Nam dự hội nghị Thanh niên sinh viên thế giới năm 1955, lần đầu được đến Liên Xô, ông đã tranh thủ xin gặp ngay những người có hiểu biết về Bác trên đất Nga. Sau khi đất nước thống nhất ông đã cùng vợ là bà Hồng Mai vào Đồng Tháp trong những ngày bừa bộn vừa giải phóng miền nam để thăm mộ cụ phó bảng Sắc, tìm hiểu về nhân vật Lê Thị Huệ. Trở về Hà Nội ông tìm gặp những người gần gũi với Bác như Vũ Đình Huỳnh, Vũ Kỳ và sau này trở thành người được cụ Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp quý trọng chia sẻ thêm nhiều tư liệu quý. 

Ngày nay những tác phẩm của nhà văn Sơn Tùng đã được hàng triệu độc giả biết đến và tìm đọc, nhưng không mấy ai tường tận nhà văn đã gạn lọc, đã mò mẫm trong khoảng thời gian mấy mươi năm, chấp nhận mọi sự khó khăn do hiểu nhầm, do nghèo đói để tìm kiếm những tư liệu độc đáo, có ý nghĩa nhằm khắc tạc nên hình tượng của vĩ nhân Hồ Chí Minh. Trong công việc sáng tác về Hồ Chí Minh, Sơn Tùng là một trong những người có công đầu trong việc tạo ra một hệ thống tư liệu gốc về gia đình, quê hương, về tuổi thơ, về những mối quan hệ của Hồ Chí Minh thời trẻ. Hệ thống tư liệu ấy, cùng với ngòi bút khắc tạc nghiêm cẩn và tài tình của ông đã làm sống lại không chỉ hình tượng vĩ nhân mà còn gợi mở thêm những tự liệu quý về những thời khắc lịch sử đầu thế kỷ XX. Trong các trang sách của ông cũng làm sống dậy những tinh hoa văn hóa cổ truyền, những truyền thống tốt đẹp của tổ tiên ta.

Hơn mười năm nay nhà văn Sơn Tùng bị tai biến và không còn sáng tác được nữa. Ông vẫn ở trong một căn phòng xập xệ ở phố Khâm Thiên trong sự chăm sóc của bà Hồng Mai, một người vợ đã đồng hành cùng ông qua muôn nỗi gian truân, một người lặng lẽ phía sau góp sức cùng chồng tạo nên những tác phẩm lớn. Nhiều hôm tôi đến, cầm tay ông chỉ còn biết im lặng. Đôi mắt ông nhìn tôi, có lúc ứa ra những giọt lệ. Ông không nói được. Bàn tay ông truyền sang tôi một cảm giác ấm nóng lạ lùng.

Đề tài Hồ Chí Minh vẫn còn là một đề tài lớn vẫy gọi người sáng tác ở nhiều loại hình nghệ thuật và ở những thế hệ khác nhau. Nhưng những gì ông đã viết là sự đóng góp vô giá cho văn học. Và tôi nghĩ, vinh quang thuộc về những trái tim nhân hậu, những tâm hồn trong sáng vượt lên những cám dỗ, những lợi quyền, không khuất phục uy vũ, để sáng tạo nên những tác phẩm kết tinh giá trị và phẩm giá của dân tộc. Sơn Tùng là một người như vậy. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ngợi ca ông: “Nhà văn chỉ còn ba ngón tay mà vẫn bám được vào đời bằng nghề viết.” Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi ông là “người có trí mệnh”. Nghị lực của ông, tâm hồn trong sáng, cương nghị và khát vọng cống hiến của ông mãi là một tấm gương sáng ngời.

https://kinhtedothi.vn/nha-van-son-tung-cuoc-doi-va-trang-viet-428220.html



3.

Cụ Vũ Đình Hòe rất quý trọng nhà văn-thương binh Sơn Tùng. Không lần nào từ tp HCM ra mà Cụ quên bảo tôi đưa xuống căn hộ cấp 4 xập xệ, cầu thang nhỏ dốc ngược ở trong ngõ Văn Chương. Lần nào xuống thăm anh Sơn Tùng về, Cụ cũng lắc đầu, lẩm bẩm: "Thương binh đấy, Anh hùng đấy, mà "họ" để sống như vậy!" Tôi thưa: "Con nghe kể đã có lần gợi ý cấp nhà mới, nhưng Anh không nhận ạ". - "Tính khí khái của kẻ sĩ" - Cụ đáp: "Cho cũng phài biêt cách cho. Cụ đoc đi đọc lại nhũng tác phẩm Sơn Tùng viết về Hồ Chủ tịch và gia đình Người. Nhưng chính Anh có lần lại lên nhà thăm cụ Hòe lại nói với Cụ: "Thưa bác, cháu vào thăm anh Kỳ (Vũ Kỳ, thư ký của HCT) trươc khi mất, anh nắm tay cháu nói: anh về thưa với bác Hòe hãy dành thời giờ viết về HCT nũa đi. Chẳng còn biết trông cậy vào ai dám nói sự thật về Bác Hồ.
Anh Tùng ơi! Thế là anh đã về với thế giới Người Hiền, để gặp lại Bác Hồ và cha em. Anh trọn đạo với dân với nước mà các Cụ và cả Anh nữa trăn trở đến khi từ giã cõi tamj này vẫn chưa yên lòng. Thương các Cụ và Anh quá đi!
Em xin phép nhà báo Minh Thu đưa lên trang nhà bài này như nén tâm nhang tiễn chân Anh.

The Khoi VU cùng với Vũ Ngọc Oánh và 13 người khác.

Một "người ngoài", nhà báo Trần Minh Thu, có bài viết về tình nghĩa của cụ Hòe với người bạn vong niên nhưng đồng thanh khí là nhà văn Sơn Tùng luôn tôn xưng Cụ là "bác" và tự xưng mình là "cháu". Đã nhiều lần từ SG ra HN, Cụ lặn lội đến ngõ nhỏ, leo các bậc thang gạch đã tróc lở, lên thăm cố tri.
CỤ VŨ ĐÌNH HÒE VÀ NGƯỜI BẠN VONG NIÊN
QĐND - Thứ Sáu, 12/10/2012, 12:3 (GMT+7)
Hơi ấm một ngày cuối thu như còn đọng lại ở sắc tím thủy chung phong lan mà nhà văn Sơn Tùng đang nâng niu trên tay, thành kính dâng lên cụ Vũ Đình Hòe. Cụ bà Nguyễn Thị Trường cảm động nhận từ tay cụ ông Vũ Đình Hòe lẵng hoa lan tím. Cả cuộc đời vất vả tận tụy vì chồng con, cụ bà yêu nhất màu hoa tím, nhẹ nhàng thầm kín.
Căn nhà số 10, phố Phù Đổng Thiên Vương, Hà Nội ngày 15-11-2005 ấy vẫn giữ nguyên dáng vẻ cổ xưa, thâm nghiêm, với chữ nho, câu đối, tủ sách cao lớp lớp. Lần theo lối cầu thang hẹp, nhà giáo ưu tú Vũ Thế Khôi, con trai trưởng của cụ Vũ Đình Hòe đưa nhà văn Sơn Tùng và chúng tôi lên lầu, thăm song thân phụ mẫu. Cụ Vũ Đình Hòe, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục đầu tiên (8-1945 đến 3-1946) và là Bộ trưởng Tư pháp liên tục 15 năm của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946-1960), nay 94 tuổi, mái tóc trắng như mây, vẻ tiên phong đạo cốt, vui vẻ đàm đạo với nhà văn Sơn Tùng về nhân tình thế thái rất là tâm đắc:
- Sáng nay, tại lễ khai giảng Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi nói chuyện với sinh viên là phải biết “cãi lại” thầy cô giáo, nhưng “cãi” một cách lễ độ và có lý lẽ bằng những câu hỏi của mình, phải biết tích cực tham gia vào bài giảng trên lớp bằng các câu hỏi. Tiếng Việt ta nói “học hỏi”. Các em là sinh viên đại học, không phải học sinh phổ thông “cấp bốn”. Vậy, khi học phải hỏi, chưa hỏi là chưa học, đặc biệt ở đại học. Không đơn thuần chỉ thụ động ngồi nghe những điều thầy cô dạy bảo và chăm chăm trả lời cho phù hợp, để lấy điểm cao. Tôi mong cho nền giáo dục của ta thực sự là giáo dục vị nhân sinh. Trẻ con được phát triển hài hòa tự nhiên về thể lực, trí tuệ và tâm hồn theo đúng độ tuổi của chúng...
Không khí thân mật ấm cúng. Bóng nắng xế ngoài hiên. Cụ bà nhỏ nhắn hiền từ ngồi bên cạnh cụ ông, ân cần rót thêm trà vào các chén. Nhà văn Sơn Tùng mái tóc muối tiêu bồng bềnh, ánh mắt ngời sáng sau cặp kính cận trắng nói với chúng tôi:
- Cụ Vũ Đình Hòe là cháu trực hệ đời thứ 4 của Tiến sĩ Vũ Tông Phan, người làng Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Tiến sĩ Vũ Tông Phan là Hội trưởng Hội Hướng Thiện đầu tiên của đền Ngọc Sơn, thành lập năm 1841. Cụ là một trong những người khởi xướng công cuộc chấn hưng văn hóa Thăng Long nửa đầu thế kỷ 19, về truyền thống yêu nước chống ngoại xâm và sự nghiệp trồng người. Trước Cách mạng, giảng đàn Ngọc Sơn là nơi ngầm nuôi dưỡng, “gây men văn hóa” cho Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội. Tết năm 1946, Bác Hồ đến thăm đền Ngọc Sơn. Lúc ấy, cụ Vũ Bội Hoàn, thân sinh cụ Vũ Đình Hòe là chủ bản điện đền Ngọc Sơn, đón tiếp Cụ Hồ cùng dự tất niên với các cố lão của 36 phố phường...
Cụ Vũ Đình Hòe bị bệnh giãn phế nang kinh niên, nhưng âm thanh tiếng nói vẫn sang sảng:
- Cụ Hồ khen ngợi, các cụ đã cao niên mà còn ra sức khuyến thiện trừ tà, giảng thiện cho con cháu là quý lắm! Tôi xin được góp thêm một ý kiến: Trước đây, các cụ làm việc vận động một cách kín đáo, phải che đậy khéo léo. Từ nay, ta sẽ nói thẳng vào mặt lũ giặc: Trên đời tội ác lớn nhất là xâm lược, áp bức bóc lột. Điều Thiện cao cả nhất là yêu nước, yêu dân chủ, độc lập, tự do.
Khi còn là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, cụ Vũ Đình Hòe phụ trách một trong năm Đặc ủy đoàn Chính phủ, đi công tác 12 tỉnh, thực hiện nhiệm vụ động viên toàn dân đoàn kết chiến đấu và tăng gia sản xuất theo phương châm “Kháng chiến trường kỳ gian khổ, nhất định thắng lợi”, đồng thời kiểm tra từ gốc công tác của các Ủy ban Kháng chiến, công tác tư pháp. Bộ trưởng Vũ Đình Hòe đã ra thông tư, chỉ thị cho các cấp tư pháp và công an dưới quyền phải thi hành luật lệ theo đúng đường lối của Chính phủ. Bác Hồ nhận được bản báo cáo kinh lý của Bộ trưởng Vũ Đình Hòe. Người bút phê ngoài lề “Tốt”, rồi cho phép vị Bộ tưởng Bộ Tư pháp nghỉ 10 hôm về ăn Tết với gia đình ở Bờ Đậu (Thái Nguyên). Hồ Chủ tịch còn gửi tặng 10 vuông lụa Vạn Phúc và một bánh thuốc lào Vĩnh Bảo để mừng thọ cụ ông Vũ Bội Hoàn, 70 tuổi, thân sinh của Bộ trưởng.
Cụ Vũ Đình Hòe xúc động:
- Tôi còn nhiều việc chưa làm được với ngành tư pháp, chưa đền đáp được lượng bao dung và công ơn rèn giũa của Bác Hồ đối với cán bộ pháp lý, công ơn của Bác xây dựng nền pháp lý Việt Nam.
Đạo đức và Pháp luật là nhất thể. Cái nhất thể ấy không phải luôn luôn cứ giữ nguyên trạng. Nhưng, dù có biến đổi thế nào, cùng với sự biến chuyển của vạn vật thì cái căn nguyên của nó vẫn thế. Đó là tính nhân bản của đạo đức và pháp luật. Nắm vững cái bất biến ấy, Bác Hồ ứng với vạn biến của xã hội, trong nước cũng như trên thế giới.
Cái bất biến ấy là Nhân Nghĩa.
Chúng tôi cùng nhà văn Sơn Tùng bái biệt vị tiên ông quốc lão Vũ Đình Hòe và cụ bà, trong hơi nắng còn đọng một chút ấm cuối ngày.
Một thời gian sau, cụ Vũ Đình Hòe chuyển vào sống ở phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cho hợp sức khỏe của cụ. Từ phương Nam, cụ Vũ Đình Hòe gửi thư cho nhà văn Sơn Tùng:
“TP Hồ Chí Minh, ngày 20-1-2008
Anh Sơn Tùng mến thương!
Nhớ anh quá chừng. Anh vẫn khỏe luôn chứ? Năm qua ngoài Bắc rét lắm, mà mảnh đạn nó cứ nằm lỳ trong đầu anh, tội nghiệp. Tôi vào đây đã hai năm tròn, muốn ra thăm mấy bạn già ốm yếu, nhất là anh và anh Hoàng Nguyên, mà cột sống của tôi coi như cứng liệt đi lại phải chống gậy đã đành, lại còn phải có người đi cạnh, đề phòng “cây đổ” còn kịp dựng lên!
May mà cái đầu còn ngọ nguậy được, nên đang cố gắng viết tập III cuốn sách mà anh giúp đỡ nhiều nên đã ra được tập II “Sự cấu tạo của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”. Mong rằng sau Tết sẽ lò mò ra Hà Nội được. Sẽ đến cầu cạnh anh về ý kiến và tư liệu sống. Năm qua, chắc anh có tác phẩm mới viết về đề tài anh hằng ôm ấp: “Tư tưởng nhân nghĩa Bác Hồ”, cầu xin anh cho tôi đọc sẽ gợi ý thêm cho tôi.
Thôi, xin tạm dừng lời. Năm mới, xin chúc anh chị mọi sự tốt lành.
Thân mến
Vũ Đình Hòe”
Nhà văn Sơn Tùng cho tôi được phép đọc bức thư của cụ Vũ Đình Hòe. Tôi cảm động, trân trọng nâng lá thư mỏng, tình dày, nghĩa nặng của cụ cựu Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe, sống gần trọn trăm tuổi, mà vẫn mong được đi “ăn mày” (cụ Vũ Đình Hòe điện đàm với nhà văn Sơn Tùng - TG) chữ nghĩa của người bạn vong niên. Quả nhiên ít lâu sau, cụ Vũ Đình Hòe vừa ra Hà Nội đã lọc cọc chống gậy, cùng con trai, đến thăm ẩn sĩ Sơn Tùng tại tư gia. Cụ vừa leo cầu thang vừa gọi: - Anh Sơn Tùng ơi!…
Cuộc gặp gỡ của những con người khát khao tri thức vỡ òa trong niềm xúc động khôn cùng...
Chẳng phải ngẫu nhiên, sau khi sáng lập Hội Hướng Thiện, cụ Vũ Tông Phan cho khắc lên tấm bia nêu tôn chỉ của Hội:
“Gươm báu mới mài ngời ánh sáng
Hành hay tàng vẫn rạng muôn phương”
“Tàng” không có nghĩa là không hành động, mà hành động thế nào để cái chí khí Nho gia mà thời thế buộc phải tàng đó vẫn tỏa sáng, vẫn ảnh hưởng khắp nơi nơi…
Giảng kinh được phép tiến hành ở các đền, chùa; nhưng Hội Hướng Thiện lồng vào đó nội dung mới được cập nhật phù hợp yêu cầu từng thời kỳ, cứ đều đặn một tháng hai lần vào các ngày mồng 2 và 16, đền Ngọc Sơn giảng những kinh sách có sẵn, mà phải giảng sao cho khéo để kẻ cầm quyền không bắt tội được mình, đến khi tình thế cho phép chuyển sang hành động thì nội dung các bài kinh lập tức được cập nhật những phương châm tư tưởng của từng thời kỳ. Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn là một tổ chức văn hóa xã hội của sĩ phu Hà Nội, là một cơ sở biên soạn, khắc in sách và tàng trữ ván khắc lớn nhất, để truyền bá tư tưởng canh tân của Đông Kinh Nghĩa Thục ở đầu thế kỷ 20, như gửi gắm trong bốn câu thơ của Hội trưởng, thân phụ của cụ Hòe:
“Đấm tan niềm tục, chuông triêu, mộ
Gọi tỉnh hồn mê, mõ nhặt, thưa
Tiếng kệ, câu kinh mong tế độ
Mồi danh, bả lợi chẳng hồ mơ”
Cụ Vũ Đình Hòe đi xa về cõi người hiền ngày 29-1-2011, tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 100 tuổi.
Trần Minh Thu
Giấy phép số: 1442/GP - BTTTT 15-10-2009
Tổng biên tập: Thiếu tướng LÊ PHÚC NGUYÊN
Phó tổng biên tập: Thiếu tướng HỒ ANH THẮNG, Đại tá PHẠM VĂN HUẤN, Đại tá HÀ MẠNH TƯỜNG, Đại tá NGUYỄN KIM TÔN
© 2008 - 2009. Bản quyền thuộc về Báo điện tử Quân đội nhân dân. Bảo lưu mọi quyền.
Ảnh 1&2: Cu Hòe với Sơn Tùng
Ảnh 3: Cụ ông&cụ bà Vũ Đình Hòe với Sơn Tùng và nhà báo Trần Minh Thu

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=861398251161434&id=100018738004194


2.

Nhà văn Sơn Tùng từ giã cõi trần ở tuổi 94

Vanvn- Vì tuổi cao sức yếu lâm trọng bệnh, Anh hùng Lao động – nhà văn Sơn Tùng, tác giả “Búp sen xanh” nổi tiếng viết về Bác Hồ đã từ giã cõi trần hồi 23h5 phút ngày 22.7.2021 (tức ngày 13.6 năm Tân Sửu) hưởng thọ 94 tuổi. Tang lễ của ông được tổ chức vào lúc 7h30 ngày 26.7.2021, nhằm ngày 17.6 năm Tân Sửu.

Nhà văn Sơn Tùng

Nhà văn Sơn Tùng tên khai sinh là Bùi Sơn Tùng, sinh ngày 8.8.1928 ở làng Hoa Lũy, xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; thường trú tại phòng 22, nhà A1, ngõ Văn Chương, phường Văn Chương, Khâm Thiên, Đống Đa, Hà Nội. Anh hùng Lao động, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.

Từ năm 1944, ông tham gia Việt Minh tại quê nhà, sau 1945 công tác Đoàn Thanh niên, viết báo phục vụ kháng chiến chống Pháp. Năm 1955, ông là đại biểu Thanh niên sinh viên Việt Nam dự Đại hội liên hoan Thanh niên sinh viên thế giới lần thứ V tại Varsava, Ba Lan. Ông còn làm công tác giáo vụ Đại học Nhân dân, các báo Nông Nghiệp, Tiền phong thời chiến tranh. Năm 1971, ông bị thương nặng tại miền Đông Nam bộ, thương binh hạng 1/4.

Nhà văn Sơn Tùng là tác giả chuyên sáng tác đề tài Bác Hồ: Nhớ nguồn (tập truyện, 1974); Kỷ niệm tháng năm (truyện, 1976); Búp sen xanh (tiểu thuyết, 1982, tái bản nhiều lần); Bông sen vàng (tiểu thuyết, 1990); Trái tim- quả đất (tiểu thuyết, 1990); Mẹ về (tập truyện, 1990); Hẹn gặp lại Sài Gòn (kịch bản phim, 1990); Từ làng Sen (truyện tranh, 1990); Hoa dâm bụt (tập truyện, 1999); Bác về (truyện ký, 1990); Sáng ánh tâm đăng Hồ Chí Minh (2004); Bác ở nơi đây (ký, 2005); Nguyễn Ái Quốc trong ký ức bà mẹ Nga (tập truyện, 2007); Chung một tình thương Bác (tập truyện ngắn, 2008).

Ngoài ra, ông còn xuất bản: Chim én mùa xuân (diễn ca, 1962); Mười hai cô gái nông trường (chuyện thơ, 1963); Bà mẹ làng Kim (chuyện thơ, 1964); Xuân Lỗ Khê (ký, 1964). Về đề tài chiến tranh: Bên khung cửa sổ (tập truyện và ký, 1974); Lõm (tiểu thuyết, 1994); Vườn nắng (truyện vừa, 1997). Về đề tài nhân vật lịch sử: Con người và con đường (truyện, 1976); Trần Phú (truyện, 1979); Nguyễn Hữu Tiến, người vẽ cờ Tổ quốc (truyện, 1981); Anh hoạ sĩ mù (truyện, 1981).

Tác phẩm “Búp sen xanh”đạt giải thưởng đặc biệt, là tiểu thuyết đầu tiên viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, và cũng là tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng nhất của Nhà văn Sơn Tùng.

Sau nhiều năm lâm bệnh nặng, tuy được gia đình và các y bác sĩ hết lòng chăm sóc, chữa trị nhưng nhà văn đã không qua khỏi và đã trút hơi thở cuối cùng lúc 23h5 phút ngày 22.7.2021 (tức ngày 13.6 năm Tân Sửu).

Lễ viếng nhà văn Sơn Tùng bắt đầu từ 7h30 phút, lễ truy điệu lúc 8h15 phút, ngày 26.7.2021, tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội sau đó đưa về an táng tại quê nhà xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Thương tiếc vĩnh biệt nhà văn Sơn Tùng, Hội Nhà văn Việt Nam và Ban biên tập Vanvn.vn xin chia buồn sâu sắc với gia đình, người thân, bạn bè, cùng đồng nghiệp ông!

https://vanvn.vn/nha-van-son-tung-tu-gia-coi-tran-o-tuoi-94/




1.

Anh hùng lao động, nhà văn Sơn Tùng: Người về giữa mùa sen

TỪ KHÔI

Trong cuộc đời mỗi người, hầu hết đều có những người thầy được ta kính trọng, đứng vào bậc tôn sư. Với tôi, nhà văn Sơn Tùng là một bậc thầy về tư tưởng, về nhân cách. Cả cuộc đời ông là một sự nhất quán từ nghiệp viết cho đến cách sống.

Nhà văn Sơn Tùng qua nét vẽ của họa sĩ Văn Len năm 1995.
Nhà văn Sơn Tùng qua nét vẽ của họa sĩ Văn Len năm 1995.

Nửa đêm 22/7, chuông điện thoại reo. Nhìn vào máy thấy hiện lên tên người gọi là anh Bùi Sơn Định, tôi hiểu luôn điều gì vừa xảy ra… Vậy là nhà văn Sơn Tùng đã ra đi khi trời đang đổ mưa, lúc 23h5p. Anh Định vẫn kịp đưa ông về nằm trong ngôi nhà gắn bó mấy chục năm trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời.

Sáng 23/7, tôi đến 22 A1 Văn Chương. Ngồi trong ngôi nhà thân thuộc mấy chục năm thường xuyên lui tới, tôi thấy lòng trống trải, hoang hoải. Ông chủ của Chiếu Văn như vẫn còn trong phòng văn?

Trong phòng văn là bác Hồng Mai - người vợ tảo tần của nhà văn Sơn Tùng và một số người thân, bạn hữu đang ngồi trước bàn viết của nhà văn Sơn Tùng. Trên bàn vẫn là bức họa thần thái do họa sĩ Văn Len vẽ năm 1995. Và bức tượng nhà văn do nhà điêu khắc Trần Tuy thể hiện năm 2009. Phía trên bàn làm việc là bàn thờ các danh nhân: Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phía trên bàn thờ các danh nhân là tượng Phật, lá bồ đề được Hòa thượng Thích Huyền Diệu tặng. Phòng văn vẫn còn thoang thoảng mùi hương trầm xứ Nghệ.

Sau khi trao đổi các thông tin và công việc cần thiết, tôi ngồi lặng trong phòng văn. Ký ức ùa về…

Khoảng năm 1984, tôi đã được đọc tiểu thuyết Búp sen xanh của nhà văn Sơn Tùng. Cuốn sách đã làm tôi khóc về thủa niên thiếu của Bác Hồ. Lúc đó, chưa thể nói đến chuyện tôi có lý tưởng gì sau khi đọc cuốn sách, nhưng thực sự cuốn sách đã giúp tôi thêm nghị lực trong học tập.

Năm 1991, lần đầu tiên tôi tới nhà của nhà văn Sơn Tùng. Lúc đó, tôi là sinh viên năm thứ nhất khoa Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội… Khi biết tôi quyết định chuyên ngành Hán Nôm của khoa Văn, nhà văn Sơn Tùng mừng lắm, ông nói: “Suốt hơn 19 thế kỷ, cha ông ta đã sử dụng chữ Hán, Nôm. Chữ Quốc ngữ thì mới từ đầu thế kỷ 20 mới phát triển. Thế là cháu sẽ không đứt mạch nguồn văn hóa tổ tiên…”.

Nhiều nhà báo, nhà văn thường chọn cho mình một bút danh để “lập danh”. Thời kháng chiến chống Mỹ, nhà báo, nhà văn Sơn Tùng nổi tiếng với bút danh Sơn Phong. Nhưng rồi chính cái tên khai sinh Sơn Tùng mới đưa tên tuổi ông lên đỉnh cao sự nghiệp. Nhiều người từng được ông tặng sách, thấy chữ ký rất lạ nhưng không dám hỏi. Trong nhiều bài báo, bài viết cũng không thấy ông đề cập.

Còn tôi, từ năm 1995, khi vừa ra trường và đi làm tập sự ở một cơ quan báo chí đã phân vân: “Thưa bác, cháu xem chữ ký của bác có phải là vẽ cây tùng trên ngọn núi không?”. Lúc đó, giữa phòng văn (nơi chỉ khách thật thân quen ông mới mời vào) ông lặng yên nhìn tôi, như thể xem tôi có hiểu được những gì ông sẽ nói. Và từ tốn: “Đúng là cây tùng trên ngọn núi. Nhưng tầng nghĩa của chữ ký không chỉ có vậy. Đó còn là chữ Mẹ. Và (ông trầm giọng) một nấm mồ có cây hương…”.

Chữ ký của nhà văn Sơn Tùng trong trang sách tặng Từ Khôi.
Chữ ký của nhà văn Sơn Tùng trong trang sách tặng Từ Khôi.

Còn với tôi, bút danh Từ Khôi cùng định hình sau khi bác cháu tâm sự giữa phòng văn này cuối năm 1995. Và cũng tình cờ là tại phòng văn này, sau đó tôi đã gặp nhà thơ họa sĩ Đoàn Việt Bắc - một nhân vật tài hoa với số phận đặc biệt để “khai bút danh”. Bài báo “Họa sĩ thiết kế phim Hồi chuông màu da cam giờ ra sao?” của tôi đã được nhà văn Sơn Tùng giới thiệu cho nhà báo Hoàng Sơn và Nguyễn Ngọc Báu đăng trên ấn phẩm Tiền phong cuối tháng, số tháng 3/1996.

Mỗi người không tự chọn cho mình được nơi sinh ra, nhưng có thể chọn cho mình một con đường. Nhà văn Sơn Tùng thường nói với các nhà văn, bạn hữu như vậy. Với những tiêu chuẩn được ưu ái như gia đình cách mạng, thương binh nặng, có bằng đại học… và quá trình cống hiến nhiều, nếu theo con đường quan lộ sẽ dễ bề thăng tiến. Nhưng ông đã tận hiến cho nghiệp viết.

Những năm trước năm 2000, trước khi có mạng internet và điện thoại của cá nhân còn là thứ xa xỉ, Chiếu Văn của nhà văn Sơn Tùng thường tấp nập bạn văn nghệ, trí thức lui tới. Những bạn hữu tâm giao “cùng kênh” thường hẹn nhau vào sáng thứ ba, rồi thứ tư hàng tuần để trao đổi với nhau thông tin, chuyện nghề. Trong Chiếu Văn lúc đó tôi gặp thường xuyên là nhà văn Mạc Phi, Minh Giang, Siêu Hải, Mai Hồng Niên, Hoàng Kính, Cao Ngọc Thắng, họa sĩ Ngọc Linh, Lê Lam, Giáo sư Phan Ngọc, nhà ngoại giao Hồ Sĩ Bằng, Trần Tam Giáp… Tôi vinh dự được các cụ cho ngồi hầu chuyện, coi như một thành viên nhỏ tuổi nhất của Chiếu.

Chiếu Văn tụ hội được do nhà văn Sơn Tùng có sao “bát tọa”. Đó là cách nói vui, chứ thực ra nếu không phải là người có nhân cách thì sao nhà văn Sơn Tùng được nhiều người quý mến, quây tụ được nhiều bạn hữu.

Về nhân cách, nhà văn Sơn Tùng thường nói với bạn hữu trong Chiếu Văn: “Mình thà làm nạn nhân còn hơn làm sát nhân”. Tư tưởng chọn “cửa thiệt” cho mình khiến ông luôn nhường người về những lợi lộc. Khi còn ở phố Thụy Khuê, ông bị lừa mua phải nhà đất của một người đã có chủ khác. Mấy năm sau, người chủ đến đòi, ông đã trả lại nhà cho họ mà không kêu than. Có tiêu chuẩn được cấp nhà, nhưng khi đến thì ông từ chối vì căn nhà đó đề hai chữ “tình nghĩa”. Ông muốn lấy lại ngôi nhà số 58 phố Nam Đồng năm xưa trước khi đi vào chiến trường đã gửi lại mà không được. Căn nhà đã được phân cho người khác ở…

Một số tác phẩm của nhà văn Sơn Tùng.
Một số tác phẩm của nhà văn Sơn Tùng.

Nhưng về việc viết, ông lại không chịu lùi bước. Ông tìm tòi sự thực, viết sự thực, cho dù vì sự thực đó mà ông có bị dập vùi khốn đốn. Tác phẩm Búp sen xanh xuất bản lần đầu với số lượng 8 vạn bản ngay lập tức đã thành cơn địa chấn không chỉ trong làng văn. Hàng chục bài báo đã viết phê phán nặng tác phẩm. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời nhà văn lên hỏi chuyện. Sau đó, có viết lời tựa cho cuốn sách. Búp sen xanh đã được nhiều tác giả khác chuyển thể như: kịch bản sân khấu tuồng Cậu bé làng Sen của tác giả Mịch Quang; diễn ca Búp sen xanh thể thơ song thất của tác giả Lê Xuân Hãng (hơn 4000 câu); Hương sen, phỏng thơ của Ngọc Hồ; Ngó sen, thơ lục bát của Đức Thục; Nhụy sen, trường ca của Hoàng Trang. Cuốn tiểu thuyết tính đến nay đã phát hành hàng triệu bản, nhiều lần tái bản bị in lậu.

Thế nhưng, ít ai ngờ cuốn tiểu thuyết Búp sen xanh nảy sinh từ sự bất bình của nhà văn vì kịch bản điện ảnh “Con đường năm ấy” viết năm 1978 về cuộc đời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh không được duyệt làm phim dù Giám đốc Xưởng phim truyện Vũ Năng An hết sức điều đình. Không làm được phim thì viết cho thiếu nhi. Ông bắt tay viết khi trong đầu còn găm mảnh đạn, thi thoảng lại rỉ máu. Thế là Búp sen xanh ra đời.

Tượng nhà văn Sơn Tùng do nhà điêu khắc Trần Tuy thể hiện năm 2009.
Tượng nhà văn Sơn Tùng do nhà điêu khắc Trần Tuy thể hiện năm 2009.

Năm 1987, ngành điện ảnh tìm kiếm kịch bản để làm phim cho kỷ niệm 100 năm sinh Hồ Chủ tịch. Nhà văn Sơn Tùng lại được mời viết kịch bản. Trên cơ sở kịch bản cũ, nhà văn Sơn Tùng có chỉnh sửa rồi đổi tên thành “Cuộc chia ly trên bến nhà rồng” rồi “Hẹn gặp lại trên bến nhà rồng”. Năm 1990, bộ phim truyện điện ảnh đầu tiên về Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt với tên phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn”. Bộ phim lại gây xôn xao dư luận. Khi gửi bản thảo kịch bản cho Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, nhà văn Sơn Tùng viết vào trang bìa bản thảo: “Tháng 5/1990, dựng thành bộ phim dài hơn 2 tiếng, đổi tên: Hẹn gặp lại Sài Gòn. Nhân vật Út Huệ, lãnh đạo bắt đổi tên là cô Vân – Tôi lưu ý kiến không chấp nhận cái tên cô Vân”.

Không chấp thuận đổi Út Huệ thành cô Vân vì nhà văn không muốn người xem, người đọc suy diễn nhà văn bịa tạc ra nhân vật người thương của Bác Hồ.

Ngoài những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về Bác Hồ, nhà văn Sơn Tùng còn có những tiểu thuyết khai thác về chiến tranh theo góc riêng như: Vườn nắng; Lõm… và những nhân vật lịch sử như Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua tiểu thuyết Trái tim quả đất; Trần Phú; Nguyễn Hữu Tiến…

Với nhân vật Nguyễn Hữu Tiến, nhà văn Sơn Tùng thực sự đã làm một cuộc điều tra kỳ công để xây dựng nên người vẽ cờ Tổ quốc với tư liệu, chứng cứ ăm ắp, thuyết phục…

Từ Chiếu Văn Khâm Thiên, thương binh, Anh hùng lao động, nhà văn Sơn Tùng tỏa sáng. Cũng từ Chiếu Văn, ngôi sao Sơn Tùng băng về phương Nam, về với biển làng Kim, về với Hoa Lũy xưa giữa mùa sen nở…               

Anh hùng lao động, Nhà văn Sơn Tùng sinh ngày 8/8/1928 tại Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An.

Ông mất hồi 23h5 ngày 22/7/2021. Lễ viếng từ 7h30 đến 8h30 ngày 26/7/2021 tại Nhà Tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. An táng cùng ngày tại nghĩa trang quê nhà xã Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An.






http://daidoanket.vn/anh-hung-lao-dong-nha-van-son-tung-nguoi-ve-giua-mua-sen-5658908.html?fbclid=IwAR27OqaIQnFdXt2DY2hQW0iX9iFmYHE_Ae5n8X8NgjTmFkT-risjFUHSE1U




---

..

..


BỔ SUNG


3.

Với nhà văn Sơn Tùng tại Chiếu Văn

GHI CHÉP CỦA GIAO HƯỞNG
20-06-2020 09:58
Kinhtedothi - Về đề tài Hồ Chí Minh, nhà văn Sơn Tùng là cây bút hàng đầu với 14 cuốn sách về Bác, trong đó Búp Sen Xanh thành công vang dội, tạo nên hiện tượng của đời sống văn chương nước nhà nửa sau thế kỷ XX.
Gần 60 năm sống làm việc trên đất Thăng Long "đồ Nghệ" Sơn Tùng vẫn đặc quánh chất Nghệ, ngay lần đầu gặp tôi tại Chiếu Văn ông chân tình:
- Chúng mình cứ xưng hô “anh” “em” để đàm đạo cho nó tự nhiên. Đều sinh ra nơi bãi ngang xứ Nghệ, anh ở đoạn đầu em ở đoạn giữa, đều theo nghề viết lách, hôm nay có dịp hàn huyên trên đất Thăng Long như này là vui lắm.
Anh Sơn Tùng sinh cùng tháng cùng năm với bố tôi, theo lịch âm anh hơn bố tôi 12 ngày tuổi. Quê anh làng Hoa Lũy (về sau đổi là Kim Lũy), Diễn Kim là xã bãi ngang xứ Nghệ. Trước khi trở thành nhà văn anh chưa một ngày mặc áo lính nhưng công việc lại gần gũi với bộ đội. Cạn nghĩ, anh là người đầu tiên viết tình yêu của Nguyễn Tất Thành - Lê Thị Huệ (Út Huệ). Búp Sen Xanh thì tôi đã đọc, giờ được đàm đạo với tác giả tôi phải khéo gợi để được đọc những điều ngoài đời liên quan Búp Sen Xanh nhưng chưa tiện đưa vào sách. Viết những điều mình nghĩ không viết theo đầu của người khác, những giá trị tinh túy không thể mua dù rất nhiều tiền, luôn là sức mạnh tinh thần giúp tác giả Búp Sen Xanh vượt lên bão tố biển đời. Ý chí, nghị lực của bản thân, truyền thống quê hương, tinh túy gia đình... kết thành bệ phóng đưa thương binh hạng đặc biệt trở thành nhà văn Sơn Tùng.
Ngày 15/4/1971, tại căn cứ Tà Nốt thuộc chiến khu Đ (Tây Ninh), nhà báo Sơn Tùng bị dính quả đạn cối M79 với 14 vết thương trên mình, bị thương sọ não, vỡ xương vai, nửa người bên phải bị liệt, thị lực 1/10, tay phải co quắp, tay trái còn hai ngón, 3 mảnh đạn trong đầu không thể mổ để gắp ra. Đang là phóng viên chiến trường bỗng thành thương binh hạng đặc biệt, những đồng đội từng vào sinh ra tử muốn giúp anh gánh bớt nỗi đau thể xác cũng không được. Nhiều năm bất động sống bằng thực vật, bao lần thương tật muốn "đo ván nốc ao" buộc anh lấy bệnh viện làm nơi thường trú.
Cuộc đời nghĩa tình đã đứng bên thương binh Sơn Tùng gan góc bản lĩnh như chất Nghệ truyền thống, làm nên thần dược giúp anh "trụ hạng" "thăng hạng" ngoạn mục trong làng văn nước nhà.
- Em nghe nói Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhã ý tặng anh căn nhà tại Hà Nội nhưng anh không nhận?
- Chuyện cũ rồi, em hỏi thì anh vắn tắt nghe vui. Ngày đó anh viết xong Búp Sen Xanh, trước khi tìm Nhà xuất bản để xin giấy phép, anh đưa bản thảo anh Vũ Kỳ đọc, đưa cả bản chép tay truyện “Chưa dứt hương thề” của ông Diệp Văn Kỳ (1895
- 1945) bạn của Nguyễn Sinh Cung thời học ở Huế và Nguyễn Tất Thành sau này, bản thảo do bà Lê Thị Huệ (Út Huệ) đưa cho anh trong Nam sau ngày thống nhất nước nhà. Anh nói với anh Vũ Kỳ rằng đưa anh xem trước để khi Búp Sen Xanh ra mắt, anh biết trong đó có một chương viết dựa trên nguồn tư liệu này, đây mới là Bác Hồ thời trai trẻ. Sau đó anh được Cụ Đồng mời đến nhà ăn cơm, Cụ Đồng nói:
- Tôi ở với Bác từ năm 1927, sau này được một đời gần gũi gắn bó với Bác. Có nhiều chuyện Bác nói với tôi với anh Văn thôi, tại sao đồng chí lại biết? Có nhiều cái tôi cũng không biết, có những cái chỉ tôi biết không ai biết mà đồng chí cũng biết? Bây giờ tôi biết giúp đồng chí cái gì nhỉ?
Bữa đó, cụ Đồng có nhã ý tặng một căn nhà, anh nói:
- Yêu quý Bác không chỉ là yêu quý một lãnh tụ thiên tài, mà còn yêu quý sự hy sinh đến như thế của gia đình Bác. Em xin phép không nhận nhà, muốn xin Thủ tướng cái lời tựa Búp Sen Xanh để in vào lần tái bản tới.
Cụ Đồng bảo: - Lời tựa thì có ngay! Viết xong Cụ Đồng đứng dậy ôm anh và khóc:
- Đồng chí ơi, có những việc mắt thấy chưa hẳn đó là sự thật! Không ai hiểu tuổi thơ của Bác bằng anh, chị của Bác. Đồng chí có hạnh phúc được gặp anh chị của Bác lúc sinh thời, ghi giữ được thế này là vô cùng quý, nếu không thì chẳng ai biết.
Anh Sơn Tùng ngừng kể lấy ra tấm ảnh do người bạn đi cùng bấm máy khoảnh khắc Cụ Đồng ôm nhà văn và khóc.
Anh xin phép không nhận nhà là vì sợ mang tiếng nhờ viết Búp Sen Xanh mới được Thủ tướng tặng nhà, người ta sẽ suy diễn Sơn Tùng viết Búp Sen Xanh để nịnh lấy nhà. Sau này viết cuốn Hồ Chí Minh - quá khứ - hiện tại - tương lai, Cụ Đồng dành 1 chương cuối nói về việc riêng của Bác, có đoạn: “Chúng tôi lúc này cảm thấy như có lỗi. Chính tôi năm 1927 ra học trường Chính trị đặc biệt ở 13 phố Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc, khi nghỉ có đến phòng riêng của đồng chí Lý” (bí danh của Bác).
- Anh Sơn Tùng ơi, viết về Bác cái khó nhất là gì?
- Cái khó nhất của nghề viết, đặc biệt viết về Bác, đó là trung thực. Trung thực nói ở đây được hiểu là tính chân thực. Sự thực gắn với sự việc, tính chân thực còn có cả nghệ thuật của nó. Nghệ thuật nói ở đây là nghề nghiệp, là cách viết lách, còn chân thực là phải viết đúng như thế. Viết đúng không có nghĩa là có sao nói vậy. Có những việc hôm nay nói ra là trái với hiện thực, nhưng không vì cái sự trái hôm nay mà từ bỏ hoặc viết chỉ để được đăng, để có tên tuổi. Một cái khó khi viết về Bác là nó như sự tự thân trong lòng, người viết phải rung động xúc cảm như trực tiếp được chứng kiến việc ấy, chuyện ấy. Bởi trước một vị lãnh tụ thiên tài, một nhân cách hoàn thiện như Bác, người viết dễ bị ngợp. Bác đến với nông dân như một người nông dân đến với nông dân. Bác đến với giới trí thức, đến với các bà mẹ thì Bác cũng hòa nhập như một trí thức, một bà mẹ, đến với em thơ cũng thế. Nghĩa là không mất người, không lẫn vào đâu được. Trong khi Bác lại ở vị trí tầm cao nhất của một dân tộc, của Đảng, của Nhà nước ta, nên khiến người viết dễ "ngợp". Mà đã bị "ngợp" thì khó thể hiện thật đầy đủ những tinh hoa toát ra từ con người Bác.
Cũng như mọi người, anh Sơn Tùng cũng muốn một cuộc sống đầy đủ tiện nghi, có khác là anh phải giữ mình cho trọn để viết về Bác. Anh bảo viết về Bác mà đòi cái này kêu ca cái nọ thì không nên chút nào. Anh không nỡ vì luôn nghĩ đến biết bao đồng đội đã ngã xuống trong 2 cuộc kháng chiến giữ nước. Ngay trong nhà, nếu anh kê khai làm hồ sơ đề nghị thì mẹ anh cũng có thể được truy tặng Mẹ VNAH, nhưng anh không nỡ. Đến nay anh vẫn ở thế này cũng là cái khó phải vượt để viết về Bác. Khách nước ngoài là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu... đến với anh ai cũng ngạc nhiên, thấy vậy anh hỏi khách, các bạn đến với tôi hay chỉ đến tìm hiểu về cái nhà? Khách chủ đều cười.
Các bạn người nước ngoài đến với anh Sơn Tùng không những đến với nhà văn hàng đầu viết về Bác, mà còn đến với kho tàng phong phú về Bác được sưu tập lưu giữ trong óc trong tim, đến với một chuyên gia hiểu sâu biết rộng về Hồ Chí Minh. Trong những lần “đối ngoại nhân dân” như vậy, “đồ Nghệ” Sơn Tùng giúp bạn bè nước ngoài hiểu hơn, gần gũi hơn, gắn bó hơn với đất nước con người Việt Nam.
Cuộc đàm đạo 3 tiếng đồng hồ với ngồn ngộn thời gian sự kiện mà không cần sổ sách, anh Sơn Tùng “gói”, tôi lặng lặng mang về để “khi cần thì mở”: "Thế giới còn nhiều đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh thì sống mãi" (Đại tướng Võ Nguyên Giáp). Bác thiên cổ rồi, giờ anh em mình cũng chỉ chọn cho mình một góc để viết về một con người đã thuộc về mãi mãi. Theo anh, các em nên sưu tầm tất cả những hồi kí của những người trong đời từng may mắn được gặp Bác, biến nguồn tư liệu chân thực thành cái của mình, từ đó viết nên các tác phẩm vừa bảo đảm tính chân thực của nghệ thuật văn chương để được bạn đọc chấp nhận.
Ưu thế của các bạn trẻ là xông xáo, phát hiện, là điều kiện tối cần khi viết về Bác. Phát hiện ở đây không phải là mình đi tìm những cái chưa có, mà là những cái đã có nhưng đang ẩn giữa cuộc đời, đặc biệt là trong tâm thức của đội ngũ cán bộ từng được một đôi lần gặp Bác, dù đội ngũ này thưa thớt theo thời gian song vẫn còn nhiều người đang sống. Đến nay chưa ai dựng được bức tranh thật đầy đủ Bác về thăm làng Sen xứ Nghệ, chỉ mới dừng ở những mẩu chuyện này chuyện kia thôi. Thế cũng quý rồi! Bởi những cái đó giúp các thế hệ cầm bút sau này có cơ sở để dựng nên tác phẩm lớn.
Thành công của Sơn Tùng xây đắp bằng ý chí nghị lực của bản thân, bằng sự hy sinh vô bờ suốt gần 50 năm qua của chị Hồng Mai vợ anh, đặc biệt là những năm tháng khó khăn nhất trong cuộc đời người thương binh hạng đặc biệt. Một thương binh Sơn Tùng vượt lên thương tật hiểm nghèo. Một "đồ Nghệ" Sơn Tùng "biết nước sông Lam răng là trong là đục, cuộc đời răng là nhục là vinh". Một Chiếu Văn chủ soái Sơn Tùng lấy "nước non là nghĩa là tình". Tất thảy những giá trị tinh thần ấy, đặc sản xứ Nghệ ấy tạo nên một Sơn Tùng của Báo chí Cách mạng Việt Nam, của Văn học Việt Nam hiện đại.

Ngày 26/6/2010 anh Sơn Tùng bị tai biến não, cấp cứu tại Bệnh viện Bạch Mai, tháng sau phải chuyển sang Bệnh viện Đông Y T.Ư. Thầy và thuốc, Đông và Tây y kết hợp chỉ cứu được anh qua cơn hiểm nghèo, không thể cứu nổi nhà văn Sơn Tùng trở về với Chiếu Văn trong Ngõ Văn Chương. Ngày 14/7/2011, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết ký Quyết định số 1083/QĐ-CTN phong tặng nhà văn Sơn Tùng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

https://kinhtedothi.vn/voi-nha-van-son-tung-tai-chieu-van-387584.html



2.

20:28, 04/06/2021

Cái nắng 40-43 độ C thiêu da đốt thịt những ngày qua, lại được xem là thời tiết rất thuận lợi cho những người dân làm nghề muối ở huyện Diễn Châu (Nghệ An), sản lượng muối diêm dân làm rất cao, thế nhưng việc tiêu thụ lại đang gặp khó nên thu nhập chẳng đáng là bao, giá trị những đồng tiền làm ra còn mặn hơn cả muối.

Một năm làm muối được... 2,5 triệu đồng

Nghề truyền thống và cũng là nghề chính của bà con 4 xã Diễn Kim, Diễn Bích, Diễn Vạn, Diễn Ngọc huyện Diễn Châu (Nghệ An) là làm muối. Cả huyện Diễn Châu hiện có tổng diện tích 120ha làm muối. Nhưng những năm gần đây các ruộng muối ở đây đã bị giảm diện tích chỉ còn khoảng 80ha, nguyên nhân là do muối làm ra không còn nuôi nổi diêm dân.

Nghề muối là nghề truyền thống lâu đời - nhưng những năm gần đây diện tích các ruộng muối của huyện Diễn Châu (Nghệ An) đang dần thu hẹp lại.
Nghề muối là nghề truyền thống lâu đời - nhưng những năm gần đây diện tích các ruộng muối của huyện Diễn Châu (Nghệ An) đang dần thu hẹp lại.

Chúng tôi về đồng muối xã Diễn Kim giữa cái nắng nóng như đổ lửa, cánh đồng muối thưa thớt bóng người. Hầu như không còn lớp trẻ làm muối. Những người đang “phơi lưng cho trời bán mặt cho đất” dưới nắng hè gay gắt lại chủ yếu là những người đã có tuổi. Họ không còn biết làm nghề gì hoặc do tuổi cao không thể đi làm ăn xa. Ngày ngày, họ cần mẫn với nước biển, với cát, nắng và gió để tạo ra những hạt muối trắng, mặn mòi.

Gặp bà Trương Thị Xuân trên đồng muối xã Diễn Kim - huyện Diễn Châu. Bà nói, “gia đình tôi có 4 người tham gia làm muối, làm quần quật một năm được trên dưới 10 triệu đồng. Nếu chia bình quân thì mỗi người được khoảng 2,5 triệu/năm tiền thu từ làm muối. Mỗi tạ muối làm ra chỉ bán được 130 ngàn đồng, chẳng đủ ăn”.

Giá muối đang rớt xuống rất thấp trước sự cạnh tranh khốc liệt của muối miền Nam. Nhưng, người diêm dân này vẫn say sưa với công việc làm muối của mình cho dù thu nhập từ làm muối chẳng thể đảm bảo cuộc sống. Bởi theo Phạm Văn Nam ở xóm Nam Liên, xã Diễn Kim (Diễn Châu), nghề muối đã gắn bó với ông gần cả đời người. Ông tâm sự: “Mấy năm nay, giá muối xuống thấp, thương lái ép giá mua rẻ, dân thì họ chuyển ăn bột canh iốt, nên làm ra cũng không bán được nhiều. Muối dân làm ra chủ yếu là để bán cho chăn nuôi, hoặc để ướp hải sản, là muối sạch nhưng vẫn không có đầu ra...

Đời sống của người làm muối rất khó khăn vì có năm bán được có năm không, phụ thuộc vào thị trường. Cứ mùa muối làm ra nhiều lại không được giá, bà con lại phải mang đến tận nơi cho thương lái thu mua với giá thấp, đến mùa mưa khi muối làm không được bà con lại phải quay lại mua muối giá đắt của thương lái đi bán rong ở các huyện miền ngược tìm kiếm chút lời lãi… Bà con chỉ mong, hạt muối làm ra nếu được Nhà nước hỗ trợ giá, hoặc có công ty bao tiêu sản phẩm thì diêm dân cũng sống chết cùng nghề.

Làm việc giữa trưa nắng thiêu đốt, mồ hôi nhễ nhại thấm còn mặt hơn vị muối những người dân làm ra. Công sức bỏ ra cả một ngày trời này chỉ thu về được khoảng 20-30 ngàn đồng.
Làm việc giữa trưa nắng thiêu đốt, mồ hôi nhễ nhại thấm còn mặt hơn vị muối những người dân làm ra. Công sức bỏ ra cả một ngày trời này chỉ thu về được khoảng 20-30 ngàn đồng.

Nỗi buồn của những diêm dân cũng là nỗi lo của những người quản lý, Phó Chủ tịch UBND xã Diễn Kim - ông Bùi Sơn Công - cho biết: Nghề của làm muối là nghề làm một ngày ăn cả đời nhưng bà con vẫn đói, cứ trời mưa mát thì ngồi nhà, trời nắng như đổ lửa thì kéo nhau ra ruộng... Hiện làm gì và làm thế nào để hỗ trợ bà con làm muối yên tâm gắn bó với nghề vẫn đang là bài toán khó đối với những hộ trồng muối mà còn với cả chính quyền địa phương. Đối với người làm muối ở Diễn Kim, dù đời sống và nghề muối còn nhiều bấp bênh, khó khăn, thăng trầm, nhưng họ vẫn muốn theo nghề, bám nghề. Bởi nghề muối đã gắn bó máu thịt với họ bao đời nay…

"Cả xã Diễn Kim có hơn 700 hộ dân làm muối. Tuy nhiên, hiện chỉ còn khoảng 200 hộ với hơn 400 lao động còn gắn bó với nghề này. Nhiều hộ bỏ nghề vì giá muối thấp quá. Một hộ ở đây trung bình mỗi năm làm được khoảng 3 tấn muối, nếu được giá thì cũng chỉ chưa đầy 5 triệu đồng. Mỗi năm được 5 triệu thì không thể sống nổi với nghề...", ông Công nói.

Giải pháp nào giúp người dân làm muối?

Theo người dân, phương thức làm muối ở huyện Diễn Châu bao đời nay vẫn được duy trì theo cách làm truyền thống. Để làm ra hạt nuối phải trải qua nhiều công đoạn. Đầu tiên phải ngâm cát vào nước biển sau đó đem cát đó phơi trên sân đất nện, khi cát khô sẽ kết tinh thành những hạt muối nhỏ. Dùng nước biển lọc qua cát đó sẽ được nước mặn hơn, rồi tiếp tục phơi cát và dùng nước mặn lọc qua cát đã phơi, sau gần 10 tiếng, nước biển bốc hơi để lại những hạt muối.

Làm muối phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, càng nắng to thì diêm dân càng thu được nhiều muối. Người làm muối ở đây chủ yếu vẫn làm muối theo phương pháp thủ công, nhỏ lẻ, manh mún nên chất lượng muối không cao, khó tìm được thị trường tiêu thụ ổn định.

Do thu nhập thấp, nhiều hộ dân đã bỏ nghề muối và chuyển sang nghề khác để mưu sinh.
Do thu nhập thấp, nhiều hộ dân đã bỏ nghề muối và chuyển sang nghề khác để mưu sinh.

Để tháo gỡ khó khăn cho nghề làm muối, ông Bùi Sơn Công cho rằng, cần phải chú trọng đến chất lượng muối, mở rộng những diện tích muối sạch. Hiện xã đang khẩn trương quy hoạch chi tiết những vùng sản xuất muối sạch, đồng thời tổ chức lại hợp tác xã sản xuất muối theo mô hình mới để hoạt động hiệu quả hơn.

Hiện nay các chính sách cho ngành muối còn ít và chưa đủ để giúp người dân yên tâm sản xuất. Mặt khác, nhiều hợp tác xã (HTX) không đủ năng lực cạnh tranh với tư thương trong hoạt động kinh doanh muối dẫn đến giá muối thấp. Do vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ diêm dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất muối, hỗ trợ các HTX, đặc biệt là tăng cường mở rộng quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu cho ngành muối. Hiện HTX diêm nghiệp Kim Liên ở Diễn Kim đang trong công tác kiện toàn, cơ cấu lại, nhưng vẫn cần thời gian. Trước đây, cũng đã có những kế hoạch dài hơi, thể hiện tầm nhìn 10 năm sau cho nghề muối Diễn Kim, khi con em trong xã cũng trưởng thành lập nghiệp thành công bằng nghề muối, nhưng để họ quay lại đầu tư về làng làm muối cũng không phải là điều dễ dàng.

Không riêng gì Diễn Kim, ở xã Diễn Vạn cũng rơi vào cảnh tương tự, ngoài việc giá muối thấp đem lại thu nhập không cao, thì mỗi năm chỉ sản xuất được trong khoảng 3 tháng nắng nóng, sau đó lại để hoang nên các ô kết tinh, ô chạt lọc, thậm chí là cát biển lọc nước cũng bị hư hỏng hết, buộc phải đầu tư lại khi bước vào vụ mới, khiến cho chi phí sản xuất bị đội lên.

Ông Hoàng Ngọc Biên - Chủ nhiệm HTX muối Vạn Nam xã Diễn Vạn, Diễn Châu (Nghệ An) - cho biết, diện tích của 2 HTX là Vạn Nam hơn 50ha và Vạn Đông khoảng 20ha, nhưng năm nay dự tính chỉ sản xuất được khoảng 30ha. Vụ muối năm nay, ở xã diện tích bỏ hoang còn nhiều là vì giá muối quá thấp. Những năm gần đây, muối ở miền Nam chuyển ra nhiều và giá bán rất thấp chỉ 600 - 700 đồng/kg, đã bao gồm chi phí vận chuyển tận nơi. Vì thế muối của người dân địa phương nơi đây rất khó cạnh tranh.

"Những năm gần đây, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ người dân cải tiến các ô chạt lọc, phủ bạt kết tinh... thế nhưng do giá muối quá thấp, lại khó cạnh tranh nên nhiều người đã bỏ nghề muối. Đối với những diện tích làm muối kém hiệu quả bị bỏ hoang, như ở Diễn Kỷ, Diễn Vạn nay đã được quy hoạch chuyển sang mục đích khác như nuôi trồng thủy sản nhưng do vốn đầu tư ban đầu lớn, rủi ro cao nên nhiều hộ dân vẫn còn e ngại, không dám đầu tư, dẫn đến diện tích ruộng muối bỏ hoang vẫn còn rất lớn...", ông Lê Thế Hiếu - Trưởng phòng NN&PTNT huyện Diễn Châu cho biết.

Hy vọng sau những khó khăn, sự ra đời của các HTX diêm nghiệp Kim Liên, Vạn An… sẽ là luồng gió mới thúc đẩy sự phát triển của nghề muối truyền thống nơi đây. Và trong thời gian không xa, hạt muối của bà con làm muối Diễn Châu sẽ tạo nên được thương hiệu riêng để người làm muối có thể gắn bó hơn với nghề, sống được bằng nghề và làm giàu bằng chính nghề truyền thống.

https://truyenhinhnghean.vn/kinh-te/202106/nghe-an-khat-dau-ra-cho-hat-muoi-392273a/


1.


Nhọc nhằn trên đồng muối trong ngày nắng đỉnh điểm

(Baonghean.vn) - Đất trời xứ Nghệ đang ở giữa những đợt nắng gắt. Có thể với nhiều người thì nắng nóng quả là khắc nghiệt, nhưng với bà con diêm dân thì đó thực sự là những ngày vui. Niềm vui bay lên từ những nhọc nhằn trĩu nặng. Chúng tôi đã thực hiện bộ ảnh này trên cánh đồng muối Diễn Kim (Diễn Châu) trong ngày nắng đỉnh điểm vừa qua.

Diễn Kim là 1 trong 3 vùng làm muối lớn ở huyện Diễn Châu với khoảng hơn 40 ha và chừng 700 lao động làm nghề muối. Khi chúng tôi đến gặp chiều nắng rát bỏng, ngoài trời đo được 38 độ C. Vậy mà bất chấp cái nắng, diêm dân vẫn phơi mình trên những ô ruộng trắng lóa. Ảnh: Lê Thắng
 
Và đây là một cặp vợ chồng già chúng tôi gặp trên đồng muối Diễn Kim, ông là Hồ Xuân Quý sinh năm 1940, bà là Nguyễn Thị Ba sinh năm 1938. Ảnh: Lê Thắng
 
Ông Quý từng là bộ đội chiến đấu tại các chiến trường Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng và miền Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước và nhận được nhiều huân, huy chương. Sau khi giải phóng miền Nam, ông trở về quê hương cùng vợ tiếp tục với nghề làm muối, đến tận bây giờ dù tuổi đã cao nhưng hai ông bà vẫn còn mưu sinh với nghề. Ảnh: Lê Thắng
 
Quy trình làm muối khá nhiều công đoạn. Trong ảnh, sau khi múc nước mặn từ kênh dẫn đổ vào bể lọc, ông Quý đang kiểm tra việc nước ngấm qua đất nền chảy vào bể chứa nhỏ. Ảnh: Lê Thắng
 
Từ bể chứa nước nhỏ này, ông Quý dùng một thiết bị tự chế để đo độ mặn, nhạt. Ảnh: Lê Thắng
Thỉnh thoảng ông lại múc nước từ kênh rải vào đất nền, mục đích sẽ làm cho đất nền đỡ khô, tăng độ thấm lọc cho nước muối. Ảnh: Lê Thắng


Bà Ba tuy yếu ớt nhưng vẫn cố gắng hỗ trợ chồng trong công việc. Ảnh: Lê Thắng
Cái bóng gầy, còng của bà đổ liêu xiêu trên ruộng muối loang loáng ướt. Ảnh: Lê Thắng
 
Làm một lát thì ông Quý lại giục vợ mình nghỉ tay. Điều đặc biệt tôi nhận ra ở tất cả những diêm dân nơi này, dù thân thể họ gầy gò thì đôi bàn tay vẫn to và chai sạn lạ thường. Công việc dùng tay đẩy trang, múc nước, xúc muối... bao năm đã in hằn trên đôi tay ấy. Ảnh: Lê Thắng
Vị mặn của mồ hôi của diêm dân trên đồng muối đã bao lâu nay được ví von là "mặn hơn muối". Ông Quý cho hay, mình là một trong những người đầu tiên của Đoàn Thanh niên xã xung phong đi xây dựng những đồng muối Diễn Bích, Diễn Kim đầu những năm 1960 của thế kỷ trước. Ảnh: Lê Thắng
Phút nghỉ tay bên mái lán của 2 ông bà. Hàng ngày, họ trở dậy từ sớm để ra đồng muối, mang theo cả suất cơm đạm bạc, chai nước cùng với trang, xẻng, gáo múc, xe cút kít... Ảnh: Lê Thắng

Việc đầu tiên khi ra đồng là làm đất nền, tưới nước mặn từ bể vào sân phơi. Buổi chiều lúc 3-4h muối bắt đầu lên hạt thì đó là lúc thu hoạch muối. Phải chọn những ngày nắng nóng để sản xuất, nắng càng nóng thì chất lượng muối càng tốt. Ông Quý cho biết, hiện tại giá muối là 15 ngàn đồng/yến, ông bà già yếu nên một ngày chỉ làm được từ 6-7 yến khoảng 100 ngàn đồng, người khỏe thì ngày được 10 yến cho thu nhập khoảng 150 ngàn đồng/ngày. Ảnh: Lê Thắng
Cả một đời gắn với hạt muối mặn, cuộc sống của ông bà vẫn còn nguyên vất vả, nhọc nhằn. Sau một ngày nắng nóng, niềm vui theo cùng tiếng xe cút kít chênh vênh đi trên lối mòn đẩy xe muối trĩu nặng vào kho. Ảnh: Lê Thắng



https://baonghean.vn/nhoc-nhan-tren-dong-muoi-trong-ngay-nang-dinh-diem-197977.html




15:16, 02/04/2014
Tranh thủ những ngày thời tiết nắng ráo, bà con diêm dân huyện Diễn Châu đang tích cực hoàn tất công tác chuẩn bị để bước vào vụ muối hè thu.

 

Năm nay, với nhiều chính sách hỗ trợ phát triển nghề muối đã tạo khí thế để bà con phấn đấu đạt sản lượng 11.000 tấn, tăng 1.200 tấn so với năm 2013. Ruộng muối của gia đình anh Bùi Văn Việt - xóm Nam Liên, xã Diễn Kim. Gần một tuần nay, gia đình đã huy động đầy đủ nhân lực, làm việc cả ngày để kịp cho vụ muối mới. Với diện tích 130 m2 nại muối, gia đình tập trung đầu tư làm mới ô kết tinh, thay cát để nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay, mọi công tác chuẩn bị cơ bản đã hoàn tất, gia đình đã sẵn sàng cho mẻ muối đầu tiên với nhiều khí thế. Anh Bùi Việt cho biết: “Đầu mùa khí thế bà con cũng như gia đình lấy hết khí thế xuống nại tu sửa, coi như làm nghề muối, nghề muối ông cha để lại. Gia đình mong muốn thuận lợi cái nắng. Khi có nắng gia đình cũng cố gắng mong muốn có muối, có công tiêu việc làm.”

 

Cánh đồng muối Diễn Kim

 

Sau những ngày nghỉ ngơi, bà con diêm dân Hợp tác xã (HTX) Vạn Nam xã Diễn Vạn đã trở lại trên cánh đồng muối. Đây là đơn vị đầu tiên áp dụng qui trình sản xuất muối sạch theo mô hình trải bạt ở Diễn Châu. Với tổng diện tích gần 51 hecta, hiện nay 278 hộ đã đầu tư 140 triệu đồng để cải tạo các công trình đầu vụ. Cùng với đó thì tỉnh tiếp tục hỗ trợ HTX trải thêm 6000 m2 bạt đã nâng diện tích trải bạt lên trên 50% diện tích. Với việc áp dụng phương pháp sản xuất muối sạch trên bạt đã giúp HTX hạn chế tạp chất, nâng cao chất lượng muối và phấn đấu đưa sản lượng lên 4000 tấn, tăng 100 tấn so với năm trước. Ông Vũ Hồng Tuyên- Phó chủ nhiệm HTX Vạn Nam - xã Diễn Vạn cho hay:  “Ban quản lý ra quân đồng loạt cho bà con làm công tác thủy lợi đầu vụ vào ngày 10 âm lịch, tổng khối lượng đào đắp gần 7m3, 700 m3 đất để phục vụ cho việc cấp nước mương cấp I, cấp II, cấp II. Tu sửa các hệ thống cống phai, trạm bơm. Đồng thời huy động tất cả các đội sản xuất, ông bà xóm trưởng trực tiếp động viên, kiểm tra bà con tu sửa.”

 



Các gia đình đầu tư làm mới các ô kết tinh

 

Huyện  Diễn Châu có diện tích đất làm muối 157 ha, chủ yếu tập trung ở các xã: Diễn Kim, Diễn Kỷ, Diễn Bích và Diễn Vạn. Để giúp diêm dân có một vụ sản xuất thuận lợi, UBND huyện đã chỉ đạo gần 1.300 hộ dân tập trung nỗ lực chuẩn bị, đầu tư cơ sở vật chất, sửa sang ô, chạt, lọc, đồng thời tăng nhanh diện tích ứng dụng quy trình sản xuất mới để góp phần giảm bớt sức lao động và tăng năng suất muối trên đơn vị diện tích. Huyện cũng đã phối hợp với xã Diễn Kim tạo điều kiện hỗ trợ cho diêm dân  khai thác 13.000 m3 cát xanh để thay mới cát lọc. Đồng thời tiếp tục áp dụng các cơ chế chính sách nhằm phấn đấu gần 60% bộ chạt lọc được thay mới, 55% diện tích sản xuất muối được trải bạt theo đúng quy trình sản xuất muối sạch. Bà Phan Thị Thuận - Chuyên viên Phòng NN-PTNT huyện Diễn Châu cho biết: “Để tạo điều kiện thuận lợi cho diêm dân sản xuất nghề muối bớt khó khăn, UBND huyện Diễn Châu đã áp dụng chính sách 09 ban hành ngày 1/2/2012. Thứ nhất về chính sách thay đổi chạt lọc cải tiến cho những bộ cũ với mức hỗ trợ 1 triệu đồng/ 1 đơn vị sản xuất. Thứ hai chính sách trải bạt ô kết tinh mức hỗ trợ 3 triệu đồng /đơn vị sản xuất.

 



Làm tốt công tác hỗ trợ chính sách, giúp diêm dân tu sửa, nâng cấp các hạng mục đúng quy trình kỹ thuật, đó là hai điều kiện cần thiết để có một vụ muối sản lượng cao. Với việc làm tốt công tác chuẩn bị, diêm dân huyện Diễn Châu đang phấn đấu vụ muối hè thu này tăng đồng thời cả sản lượng và chất lượng, góp phần nâng cao đời sống, giúp nghề muối phát triển bền vững.

(Hồng Hạnh)

https://truyenhinhnghean.vn/kinh-te/201404/diem-dan-dien-chau-chuan-bi-buoc-vao-vu-san-xuat-muoi-he-thu-617358/





















..


4 nhận xét:

  1. 8. Đêm 26/7/2021

    Từ Khôi
    48 phút ·

    AHLĐ nhà văn Sơn Tùng đã mồ yên mả đẹp

    Ông được đưa về quê hương làng Hoa Luỹ xưa. (Nay thuộc Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An).
    Vậy là ước nguyện của ông khi sống đã thành hiện thực.
    Và chữ ký của ông là trở về với Mẹ, đất Mẹ, quê Mẹ, nấm mồ có hương khói đã thành.

    Trả lờiXóa
  2. 8. Đêm 26/7/2021





    Đang hoạt động
    Son Kieu Mai
    3 phút ·

    CÒN...
    Có lẽ chưa bao giờ làng Kim Lũy có một sự kiện đặc biệt như hôm nay. Dân làng đón Nhà văn - Anh hùng Lao động Sơn Tùng - người con của quê hương trở về đất mẹ. 94 năm trước ông cất tiếng khóc chào đời. Hôm nay, ông về nằm nghe tiếng sóng biển quê nhà vỗ bờ rì rào. Dù màn đêm đã xuống phủ kín không gian, dù lễ an táng ông đã hoàn tất từ 16h chiều, đêm nay các con cháu, chắt nội ngoại trong gia đình, họ hàng vẫn thắp sáng ánh điện để chuyện trò tưởng nhớ!
    Người dân làng Kim đón người con xa quê tuổi thọ gần một thế kỷ về yên nghỉ vĩnh hằng, với những điều đặc biệt. Dù ông về quê khi đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, song người già người trẻ, nam phụ lão ấu vẫn chờ đón ông trong nắng chiều cùng các biện pháp phòng dịch cần thiết. Họ trông thấy vòng hoa viếng của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Uỷ viên Bộ Chính trị Phan Đình Trạc, Uỷ viên Bộ Chính trị Nguyễn Xuân Thắng, gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng nhiều cơ quan, ban ngành, đoàn thể khác từ Trung ương đến địa phương.

    Trả lờiXóa
  3. "Nhà văn Sơn Tùng từ chiến trường B2 ra Hà Nội cuối năm 1971, sau thời gian điều trị dài. 14 vết thương khắp cơ thể ông, nhiều mảnh đạn trong sọ não không thể phẫu thuật lấy ra được, tay trái co quắp, tay phải chỉ còn ba ngón tay cử động, thị lực còn 1 phần 10, mất 81% sức khỏe. Thỉnh thoảng ông lại bị động kinh. Những khi mưa gió, có khi đang ngồi bỗng bị cơn co giật và ngã ngay xuống nền nhà. Từ chối đi điều trị dài ngày, ông tự tập khí công và thiền định, tìm cách khôi phục dần sức khỏe. Những ngày đầu những năm 70 ấy nghèo đói, gian khó, bệnh tật, nhưng ông vẫn tranh thủ thời gian khi vết thương ít hành hạ thì cầm bút viết. Cũng những ngày ấy, những người bạn văn chương dần tụ hội trong căn phòng nhỏ của ông. Cùng ngồi xuống nền nhà, cùng đàm đạo chuyện thế sự, văn chương. Dần dần hình thành một câu lạc bộ nhỏ, ông gọi đó là Chiếu văn. Trong Chiếu văn có những người nổi tiếng như Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Minh Giang, Siêu Hải, Hoàng Nhật Tân… "

    Trả lờiXóa
  4. 13. Ngày 21/8/2021

    "

    Son Kieu Mai
    6 phút ·

    CÁNH BUỒM THƠ KHÉP HOÀNG HÔN CỬA BIỂN
    Nhà văn Sơn Tùng rời cõi tạm đêm 13/6 âm lịch Tân Sửu đã tròn một tháng. Tôi bỗng nhận thấy một sự trùng hợp kỳ lạ giữa đôi bạn Văn Cao – Sơn Tùng. Ngày 10-7-1995 tức 13 tháng 6 Ất Hợi, nhạc sĩ Văn Cao “trên đôi cánh Đàn chim Việt bay về Thiên Thai!”.
    Đưa tiễn ông, nhà văn Sơn Tùng viết:
    “Hồn Nhân Văn Ngời Sáng Thiên Thai, Cánh Buồm Thơ Khép Hoàng Hôn Cửa Biển
    Đường Cách Mạng Gọi Đàn Chim Việt, Tiến Quân Ca Vang Hào Khí Đất Trời”.
    Đúng 26 năm sau, đêm 22-7-2021 tức 13 tháng 6 Tân Sửu, nhà văn Sơn Tùng “ngã xuống đường khát vọng”.

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.