Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

08/03/2021

Về hai tấm bản đồ Việt Nam trong các sách đã in đầu thập niên 1650 của Đắc Lộ

Có một bài viết rất đáng đọc của học giả Alexei Volkov về hai tấm bản đồ thú vị này, đã đăng tải năm 2018, và vừa được dịch giả Võ Xuân Quế chuyễn ngữ sang tiếng Việt.

Về hai tấm bản đồ này, trước đây, tôi cũng đã sử dụng để nghiên cứu về ngôi đền Cờn (Cần Hải linh từ) ở xứ Nghệ (bài đăng ở đây, các năm 2009-2010), và về ba vương quốc cùng tồn tại ở Việt Nam đầu thế kỉ 17, tức Đàng Trên - Đàng Ngoài - Đàng Trong (bài đã đăng ở đây, năm 2019).

Riêng Đàng Trên, thì đó là vương quốc Cao Bằng của các vua nhà Mạc (đọc nhanh về Đàng Trên trên Giao Blog ở đây hay ở đây).

Bản dịch dưới đây lấy về từ trang nhà của hai học giả Việt Nam hiện đang cư trú ở Phần Lan là Võ Xuân Quế và Bùi Việt Hoa.

Có bản gốc bằng tiếng Anh của Alexei ở đường link đặt cuối bản dịch.

Tháng 3 năm 2021,
Giao Blog

---












Về hai bản đồ Việt Nam trong sách của Alexandre de Rhodes

Alexei Volkov

Đại học Quốc gia Thanh Hoa, Tân Trúc (Hsinchu), Đài Loan

Hình dạng và vị trí của Việt Nam trong các bản đồ phương tây trước cuối thế kỷ XVII thay đổi đáng kể; người ta có thể cho rằng tư liệu các nhà truyền giáo ở Việt Nam sưu tập được từ năm 1615 chắc chắn giữ một vai trò trong sự thay đổi đó. Trong bài này, tôi sẽ tập trung vào hai bản đồ của Việt Nam được giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1593-1660) công bố trong tác phẩm Relazione de’ felici sucessi della Santa Fede predicate da’ padri della Compagnia di Giesu nel Regno di Tunchino (Rome, 1650) và Divers voyages et missions du P.Alexandre de Rhodes en la Chine et autres royaumes de l’Orient (Paris, 1653) và thử xác định các nguồn mà ông ta có thể sử dụng khi vẽ các bản đồ này. Không rõ tác giả của các bản đồ là ai. Một ghi chú ở bản đồ thứ hai nói rằng nó được “các Giáo sĩ đạo Jesus” vẽ, nhưng vẫn chưa rõ “các Giáo sĩ’ này làm việc ở Việt Nam hay ở châu Âu, hoặc cả hai nơi. Đường Kinh tuyến gốc dùng trong bản đồ này được cho là giống với đường Kinh tuyến gốc được dùng trong một số bản đồ châu Âu, cụ thể trong bản đồ của J. Hondius năm 1606. Điều đó gợi ý rằng một phiên bản của bản đồ thứ hai có thể có đối với các nhà truyền giáo ở Việt Nam, những người nâng cao nó bằng việc việc thêm một số địa danh và các yếu tố địa hình.

1. Dẫn nhập

Alexandre de Rhodes (1593-1660) là một trong những nhân vật được biết đến rộng rãi nhất trong lịch sử truyền đạo Công giáo vào Việt Nam ở thời kỳ đầu[1]. Ông ở cả hai vương quốc của Việt Nam, lúc bấy giờ được trị vì bởi các Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Ở cả hai vương quốc, ông đều có xung khắc với chính quyền và bị trục xuất khỏi vương quốc nhiều lần. Cuốn sách của ông Relatione de’ felici sucessi della Santa Fede predicate da’ padri della Compagnia di Giesu nel Regno di Tunchino (Tường trình về sự thành công của việc Truyền Bá Đức tin của các Giáo sĩ Dòng Chúa Jesus ở Vương quốc Đàng Ngoài)[2] xuất bản năm 1650 bằng tiếng Ý, sau đó được dịch sang tiếng Pháp (1651) và tiếng Latin (1652) có một bản đồ Việt Nam (ảnh 1) cho thấy một mô tả chi tiết về đường biển và toàn bộ lãnh thổ của đất nước, trải dài từ biên giới với Trung Quốc ở phía bắc tới biên giới với Champa ở phía nam;[3] bản đồ được để hướng Tây ở phía trên.

Ảnh 1. Bản đồ Việt Nam trong sách của Alexandre de Rhodes (1650) (“bản đồ A”)

Một bản đồ khác của Việt Nam có tên “Royaume d’Annan Comprenant Les Royames de Tumkin et De La Cochinchine” (Vương quốc Annam, gồm Vương quốc Đàng Ngoài và Vương quốc Đàng Trong) bao gồm một lãnh thổ rộng hơn (Ảnh 2) in trong “Divers voyages et missions du P.Alexandre de Rhodes en la Chine et autres royaumes de l’Orient” (Các cuộc hành trình và truyền giáo khác nhau của Cha Alexandre de Rhodes ở Trung Hoa và Các Vương quốc Viễn Đông khác) được xuất bản năm 1653.  

Một phần của lời ghi chú trong các con chữ nhỏ in trong hình ô van cho người đọc biết rằng bản đồ được “Vẽ bởi các Cha của Dòng Tên”, ngụ ý rằng nó gồm hơn một tác giả. Lời ghi chú này không nói rõ các Cha này truyền giáo ở Việt Nam hay không, cũng như có cả các Cha ở các nơi khác, chẳng hạn như Trung Quốc, Ý hay Pháp, và cũng không nói rõ de Rhodes có phải là một trong số tác giả hay không. Bản đồ này để hướng với Bắc ở trên, như lời ghi chú nói, được làm ở Paris. Dưới đây tôi nói về hai bản đồ này theo thứ tự là “Bản đồ A” và “Bản đồ B”.

Ảnh 2. Bản đồ Việt Nam trong sách của Alexandre de Rhodes (1653) (“Bản đồ B”)

Vào thời gian hai bản đồ này được xuất bản, một số bản đồ của Đông và Đông Nam Á do các nhà vẽ bản đồ chuyên nghiệp thực hiện đã được lưu hành ở châu Âu trong một thời gian khá dài. Do đó, những câu hỏi mà người ta phải trả lời khi xử lý các bản đồ do de Rhodes công bố có thể là: Có liên hệ gì giữa hai bản đồ này với các bản đồ khác (có lẽ là của phương Tây) về châu Á được thực hiện trước những năm 1650 không? Cụ thể, (những) người tạo ra bản đồ A và B có vẽ các bản đồ châu Âu khác không, và nếu có, họ có thể đã sử dụng những bản đồ nào làm mẫu? Hai bản đồ này có chứa bất kỳ dữ liệu bản đồ mới nào không có trong các bản đồ (phương Tây) trước đó không? Có phải bản đồ B do de Rhodes công bố muộn hơn bản đồ A khoảng ba năm có chứa dữ liệu bản đồ khác với dữ liệu được trình bày trong bản đồ A không; và nếu có, thì những sửa đổi được thực hiện trong bản đồ B đến từ đâu? Một câu hỏi khác sẽ được thảo luận dưới đây liên quan đến các kinh độ trong bản đồ B: chúng có phù hợp với các kinh độ được thể hiện trong các bản đồ Đông Nam Á trước đây và cùng thời không? Cụ thể, “kinh tuyến gốc” nào được những người vẽ bản đồ B sử dụng[4]. Trong bài báo này, tôi thử tìm cách trả lời những câu hỏi này.

2. Cuộc đời và hoạt động của de Rhodes: cái nhìn khái lược

Như đã nói ở trên, Alexandre de Rhodes sinh năm 1593[5], gia nhập Dòng Tên năm 1612, và lên đường sang Châu Á năm 1619. Ông đến Macao năm 1623 và đến Đàng Trong (miền Trung Việt Nam do nhà Nguyễn kiểm soát) vào tháng 12 năm 1624; ông ở đó từ tháng 1 năm 1625 đến tháng 7 năm 1626 trở về Macao và năm 1627 đến Đàng Ngoài (tức miền Bắc Việt Nam do nhà Trịnh kiểm soát). Ông bị trục xuất khỏi đây vào năm 1630, ở lại Macao cho đến tháng 2 năm 1640 và đến Đàng Trong một lần nữa, rồi bị trục xuất khoảng bảy tháng sau đó. Sau một thời gian ngắn ở Macao, ông trở về Đàng Trong (Đà Nẵng) vào tháng 12 cùng năm, bị chính quyền bắt và trục xuất vào tháng 7 năm 1641.

Tuy nhiên, ông trở lại Đàng Trong vào cuối tháng 1 năm 1642, trở lại Ma Cao vào tháng 9 năm 1643, và đến Đàng Trong một lần nữa vào tháng 1 năm 1644. Ông bị bắt ở đó và bị kết án tử hình, nhưng hình phạt này được thay thế bằng việc trục xuất. De Rhodes rời Việt Nam vào tháng 7 năm 1645. Tháng 12 cùng năm, ông lên một thuyền đi từ Macao đến châu Âu, nhưng trên đường đi ông bị người Hà Lan bắt, mất đồ đạc (kể cả danh sách những người Việt Nam mà ông đã cải sang đạo Công giáo), du hành ở châu Á trong vài năm, và cuối cùng đến được Rome vào tháng 6 năm 1649[6].

3. Bản đồ được công bố trong sách của de Rhodes

Trong phần này, tôi sẽ mô tả ngắn gọn hai bản đồ nói trên được công bố trong sách của de Rhodes và so sánh chúng với các bản đồ về Đông Nam Á có ở Châu Âu vào cuối thế kỷ XVI và thế kỷ XVII.

Tác giả của bản đồ A thường được qui cho de Rhodes, vì ông đã công bố nó trong cuốn sách của mình (1650) mà không nêu rõ tác giả của nó, trong khi bản đồ B được ghi rõ ràng cho một số “Giáo sĩ Dòng Tên” không xác định; lời ghi trong hình ô van (cartouche) cho biết rằng nó do Pierre Mariette (1603-1657) vẽ. Phân tích của tôi gợi ý rằng có một mối liên hệ nhất định giữa các địa danh đặc trưng trong hai bản đồ này cũng như vị trí của chúng; không thể loại trừ rằng mặc dù có sự xuất hiện khác nhau, các bản đồ A và B có thể được dựa trên cùng một bộ dữ liệu bản đồ. Hơn nữa, khá ngạc nhiên, có thể chứng minh rằng thông tin bản đồ được trình bày trong bản đồ A trong một số trường hợp chính xác hơn so với bản đồ được tìm thấy trong bản đồ B, có lẽ được biên soạn sau đó và dường như cung cấp thông tin bản đồ chi tiết và cụ thể hơn.

3.1. Mô tả bản đồ A và B

Bản đồ A mô tả lãnh thổ bờ biển Việt Nam từ vĩ tuyến 12°N đến 24°N (các chữ “N” là viết tắt của “North-Bắc”, “W” là “West-Tây”, “E” là “East-Đông” – chú thích của người dịch). Cả đường vĩ tuyến và đường kinh tuyến đều được vẽ nhưng giá trị của kinh độ không được đánh dấu, vì vậy bản đồ này không cung cấp thông tin liên quan đến kinh độ của các vị trí mà nó mô tả. Đây có thể được coi là sự thiếu sót đơn thuần của một người sao chép, tuy nhiên lý do cũng có thể khác. Vào thời gian các bản đồ của de Rhodes được công bố, một trong những vấn đề khó khăn nhất đối với người vẽ bản đồ là xác định kinh độ (các vĩ độ có thể được xác định tương đối dễ dàng dựa trên quan sát độ cao của mặt trời buổi trưa), và các kinh độ của Việt Nam được cung cấp bởi các bản đồ cùng thời khác nhau đáng kể; xem phần 3.2 ở dưới. Do đó, có thể những người chuẩn bị bản đồ để xuất bản trong sách của de Rhodes (1650) (bao gồm cả chính de Rhodes) không chắc chắn về các giá trị của kinh độ tương ứng với lãnh thổ được mô tả, và quyết định không đưa chúng lên bản đồ.

Bản đồ B hiển thị một lãnh thổ lớn hơn một chút với Việt Nam chiếm phần trung tâm của nó. Các vĩ tuyến và kinh tuyến được vẽ và các giá trị của chúng được ghi; theo đó, lãnh thổ hiển thị trên bản đồ nằm trong khoảng từ 10° đến 24° N (vĩ tuyến Bắc) và từ 139° đến 149° E (kinh độ Đông). Các kinh tuyến trong bản đồ B dường như được tính toán tương đối với một số “kinh tuyến gốc” không xác định; Tôi sẽ trở lại vấn đề vị trí của “kinh tuyến gốc” được sử dụng trong bản đồ B trong phần 3.2 dưới đây.

Các toponyms (địa danh) được viết theo nhiều hướng khác nhau trong bản đồ A: một số đi từ dưới lên, một số từ trên xuống và một số được viết theo chiều ngang. Còn trong bản đồ B, tất cả các tên đều được viết theo chiều ngang, trừ hai chú giải dài chạy dọc từ dưới lên[7]. Điều này có thể gợi ý rằng bản đồ B do một người vẽ bản đồ chuyên nghiệp vẽ, người đã đặt các lời ghi chú trên đó một cách có hệ thống và theo cách thường thấy, trong khi bản đồ A là một bản nháp trong đó các lời chú được viết hơi hỗn loạn.

Góc trên bên trái của Bản đồ B có đề cập đến nhà truyền giáo Dòng Tên người Ý Giovanni Battista Bonelli (1589-1638), người qua đời tại Lào. Nội dung viết: “Ce fut en ce desert que tangut le Pere Lean Lean Baptiste Bonel de la Compagnie de Iesus, allant porter la Foy aux Lào ou Layes”, nghĩa là, “Chính trong sa mạc này, Cha Jean Baptiste Bonel của Dòng Chúa Giêsu đã chết, khi Người đi truyền bá Đức Tin cho Người Lào hay Giáo dân”. Bản đồ A không chứa bất kỳ thông tin nào về nhà truyền giáo người Ý này, và điều hơi ngạc nhiên là tên của ông ấy không được nhắc đến trên bản đồ này được in trong ấn bản tiếng Ý của cuốn sách Rhodes năm 1650, nhưng lại xuất hiện trên bản đồ được tìm thấy trong cuốn sách năm 1653 xuất bản ở Pháp của ông[8].

3.2. Kinh tuyến gốc trong bản đồ B

Để tìm vị trí của kinh tuyến “gốc” (hoặc “không”) mà các nhà thiết kế bản đồ B có lẽ đã sử dụng, tôi đã sử dụng phương pháp sau. Tôi đã xem xét sáu vị trí sau đây của “kinh tuyến gốc” (dưới đây viết tắt là PM, tức “Prime Meridian – Kinh tuyến gốc” – chú thích của người dịch) được sử dụng trong bản đồ thế giới của thế kỷ XVI và XVII:

PM1 = 46°37′ W, được thiết lập theo Hiệp ước Tordesillas (1494)[9];

PM2 = 34°54′ W, điểm Cực Đông của Brazil (được gọi là đường phân chia của Giáo hoàng Alexander VI);

PM3 = 14°01′ W, đảo Fuertaventura của Canaries (ví dụ, được sử dụng trong quả địa cầu của Mercator năm 1541);

PM4 = 25°40′ W, Đảo São Miguel của Azores;

PM5 = 43°10’19” W, vị trí của Rio de Janeiro;

PM6 = 23°30′ W, Cape Verde.

Đối với bất cứ bản đồ nào mô tả Việt Nam nằm giữa các kinh độ A và B, A <B, tôi đã kiểm tra xem cự ly (A – PMiB – PMi) cắt với cự ly (103°, 109°30′) có tương ứng với Tọa độ thực tế của Việt Nam theo Greenwich cho i = 1,…,6 không. Nếu chỗ cắt trống, có nghĩa là kinh tuyến gốc PMi, rất có thể không được sử dụng để vẽ bản đồ này; nếu chỗ cắt không trống, tôi tính cho bản đồ này hệ số di = max {pi/m0pi/m} trong đó pi là kích thước góc của giao điểm (tính bằng độ), mo = 6° 30 ‘là kích thước góc của Việt Nam theo tọa độ thực của nó (103° đến 109°30’ E), và m là kích thước góc của Việt Nam theo bản đồ đang xét. Nếu hệ số di bằng hoặc đủ gần với 1, sẽ hợp lý để phỏng đoán rằng kinh tuyến mà người vẽ bản đồ sử dụng có thể giống hệt với PMi; nếu nó tương đối nhỏ, tức là gần bằng 0, những người vẽ bản đồ có thể đã sử dụng một số giá trị khác cho “kinh tuyến gốc” của họ. Để kiểm tra các bản đồ cuối thế kỷ 16 và 17 gửi lại Việt Nam và xác định trong số đó có “tổ tiên” và “hậu duệ” trên lý thuyết của bản đồ B, tôi đã tính toán các giá trị di, cho một lựa chọn các bản đồ được tạo ra trước và sau khi xuất bản (1653). Các bản đồ được kiểm tra gồm:

M1 – “Asiae Nova Descriptio” [Mô tả mới về Châu Á], của Abraham Ortelius (1527-1598), Antwerp, 1601 (xuất bản lần đầu vào năm 1570-1573);[10]

M2 – “Inde” [Ấn Độ], của Abraham Ortelius, từ bản sửa đổi tiếng Pháp (1587) tập Atlas Theater de 1’Univers của ông[11];

M3 – “Asia”, của Fausto Rughesi (fl.1593-1606), Rome, 1597[12];

M4a-b – Bản đồ thế giới của Matteo Ricci (1552-1610) năm 1602 và bản sao tiếng Nhật của nó năm 1604[13];

M5 – “Trung Quốc”, của Jodocus Hondius (1563-1612), Amsterdam, 1606[14];

M6 – “Vương quốc Trung Hoa” của John Speed ​​(1551? -1629), 1626;

M7 – “India quae Orientalis dicituret Insulae Adiacentes” [Ấn Độ và các đảo lân cận phía Đông], của Willem Janszoon Bleau (1571-1638), Amsterdam, 1635[15];

M8 – “Carte de 1’Asie” [Bản đồ Châu Á], do Pierre Bertius (1565-1629), Melchior Tavernier (1594-1665) biên tập, Paris, 1639[16] và 1640[17];

M9 – “Asie” [Châu Á], của Nicolas Sanson d’Abbeville (1600-1667), Paris, Pierre Mariette, 1650;

M10 – “Partie meridionale de 1’Inde” [Phần phía nam của Ấn Độ], của Nicolas Sanson d’Abbeville, Paris, Pierre Mariette, 1654;[18]

M11 – “Imperii Sinarum Nova Descriptio” [Mô tả mới về Đế chế của người Trung Quốc], của Martino Martini (1614-1661), 1654;[19]

M12 – “Imperium Sinicum” [Đế chế Trung Hoa], của Athanasius Kircher (1602-1680), 1667;[20]

M13 – “Cataium”, của Athanasius Kircher, 1667;[21]

M14 – “Penisola Dell India” [Bán đảo của Ấn Độ], do Giacomo Cantelli da Vignola (1643-1695) vẽ trên cơ sở bản đồ của Tavernier “và những người du hành khác” và được xuất bản bởi Giovanni Giacomo de Rossi (1627-1691), Rome, Năm 1683;

M15 – “Carte du Royaume de Siam et des Pays circonvoisins” [Bản đồ Vương quốc Xiêm và các nước láng giềng], của Placide de Sainte-Helene (1649-1734), Paris, Du-Val, 1686.[22]

Kết quả phân tích của tôi được thể hiện trong Bảng 1.

Bảng 1. Kinh tuyến gốc trong các bản đồ thế kỷ XVII

Theo Bảng 1, bản đồ B thuộc cùng nhóm với các bản đồ của Ortelius năm 1578, Hondius năm 1606, Speed năm 1626, Bertius năm 1639 và 1640, Tavemier năm 1679, và G.C. da Vignola và G.G. de Rossi năm 1683 (bản đồ sau thực sự rất gần với bản đồ B và tác giả của nó có lẽ đã dựa khá nhiều vào bản đồ của de Rhodes; tuy nhiên, hãy xem phần 3.5 và 3.6 bên dưới). Quan sát này cho phép gợi ý một số mẫu tiềm năng của bản đồ de Rhodes và loại trừ những mẫu khác, nhưng vì bối cảnh làm nên bản đồ B chưa được biết, nên có thể có nhiều khả năng khác nhau; Tôi sẽ thảo luận ngắn gọn về chúng trong phần kết luận của bài báo này.

Một lưu ý liên quan đến việc phục dựng lại này chắc chắn là theo thứ tự. Việc đặt một mốc đáng tin cậy (ví dụ, một thị trấn) trên bản đồ phải là kết quả của sự kết hợp của một số thao tác bao gồm: tính toán vĩ độ và kinh độ của mốc (có lẽ dựa trên các quan sát thiên văn, ví dụ như quan sát độ cao của mặt trời vào buổi trưa đối với vĩ độ và thời gian của nguyệt thực đối với kinh độ) và tính toán vị trí của mốc so với hệ tọa độ đã thông qua, tức là đến “kinh tuyến gốc”. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ XVII, không có quan sát lịch sử nào được chứng thực về mặt lịch sử trên quy mô lớn về nguyệt thực được thực hiện trong lãnh thổ được thể hiện trong bản đồ A và B, và tọa độ của các điểm mốc, có thể chỉ với một số lượng rất nhỏ ngoại lệ, do không xác định được các thủ tục ngoại suy và/hoặc dựa trên các tọa độ được tìm thấy trong các bản đồ cũ hơn.

Hơn nữa, không chắc liệu bản thân vị trí của “kinh tuyến gốc” đã được xác định với độ chính xác đầy đủ hay chưa; ví dụ, như bản đồ năm 1602 của Ricci cho thấy, Kinh tuyến gốc của ông ta đi qua một hòn đảo không xác định có lẽ thuộc quần đảo Canary[23]. Trong những trường hợp này, việc xác định các vị trí trên bản đồ phụ thuộc đáng kể vào một số biến mà phạm vi của chúng vẫn chưa được xác định; Hơn nữa, việc phục dựng lại của tôi liên quan đến các lỗi bổ sung được tạo ra khi ước tính, hơi gần đúng, các phạm vi được liệt kê trong cột thứ tư của Bảng 1. Việc đánh giá tốt hơn các khoảng này chắc chắn sẽ dẫn đến các giá trị chính xác hơn trong cột cuối cùng của Bảng. Tuy nhiên, ngay cả những ước tính sơ bộ nêu trong Bảng 1 cũng có thể gợi ý một số giả thuyết liên quan đến nguồn thông tin mà người lập bản đồ sử dụng và những mối liên hệ có thể có giữa các bản đồ của họ.

3.3. So sánh các địa danh và vị trí của chúng trên bản đồ A và B

Tôi đã lập danh sách tên của các thị trấn được tìm thấy trong bản đồ A và B, và xác định vị trí vĩ tuyến của mỗi tên trên bản đồ A và B. Dĩ nhiên, vị trí của một tên nào đó nhất định không được phép trùng với vị trí của thị trấn tương ứng; tuy nhiên việc xác định vị trí của các thị trấn trên bản đồ A là không thể, vì trên bản đồ này tên của các thị trấn chỉ hiển thị một địa danh thủ đô duy nhất của miền Bắc Việt Nam, Kecio (Kẻ chợ – Hà Nội hiện nay) được đánh dấu bằng biểu tượng đại diện một bức tường thành phố và một tháp. Vì nhiều từ địa danh trong bản đồ A được viết theo chiều ngang, tôi đã gán cho chúng những khoảng tương ứng với “vĩ độ” của điểm đầu và điểm cuối của chúng; ví dụ, tên “Dinh pho an” trên bản đồ A chiếm một cự ly từ 12°10′ đến 12°50′.

Một phân tích sơ bộ về các tên cho kết quả sau: hầu như tất cả các tên tìm thấy trong bản đồ A đều bị dịch chuyển xuống một mức có hệ thống trong bản đồ B; Ví dụ, thủ đô của miền Bắc Việt Nam, Kecio (Hà Nội), trên bản đồ A có vĩ độ 21°N, và đảo Hải Nam trải dài từ khoảng 18°N đến 19°10′ N, trong khi trên bản đồ B vĩ độ của Hà Nội là 20°N, và vĩ độ của cực Nam và cực Bắc của Hải Nam lần lượt là 17°10′ N và 18°10′ N.

Tôi cho rằng một nhận định như vậy đúng với hầu như tất cả các tên được tìm thấy trong hai bản đồ này, nghĩa là, một từ liên kết nằm ở k° N trong bản đồ A sẽ được tìm thấy ở (k-1)° N trong bản đồ B. Để chứng minh nhận định này, tôi đã chia mỗi bản đồ thành các dải với vĩ độ (k° N, (k+1)° N) và so sánh các từ liên kết nằm trong dải (k° N, (k+1)° N) trên bản đồ B với các từ liên kết trong dải ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ A. Kết quả so sánh vị trí của các tên được thể hiện trong Bảng 2.

Bảng 2. Vị trí của các tên trong bản đồ A và B

Trong bảng này, “i + j*” ở cột thứ ba trong dải “(k+1)° – (k+2)°/k°- (k+1)°” có nghĩa là tôi tìm thấy từ trái nghĩa trong dải ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ A nằm trong dải (k°N, (+1)° N) trên bản đồ B, và các tên j được tìm thấy trong dải ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ A được đặt ở một trong hai dải liền kề ((k-1)° N, k° N) và ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ B. Tương tự, “i+j*” ở cột thứ sáu trong dải “(k+1)° – (k+2)°/k° – (k+1)°)” có nghĩa là tên tìm thấy trong dải (k° N, (k+1)° N) trên bản đồ B nằm trong dải ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ A, và các tên j được tìm thấy trong dải ( N, (k+1)o N) trên bản đồ B được đặt ở một trong hai dải liền kề (k° N, (k+1)° N) và ((k+2)° N, (k+3)° N ) trên bản đồ A.

Theo Bảng 2, đối với khu vực trải dài từ 11°N đến 19°N, tất cả các tên được tìm thấy trong bản đồ A có thể được tìm thấy trong bản đồ B đang bị dịch chuyển một cách có hệ thống về phía nam với 1° (trừ một tên đã được chuyển sang một dải liền kề); các tên được tìm thấy trong các dải 10°N-12°N, 18°N-19°N và 20°N-23°N trên bản đồ B có thể được tìm thấy trong bản đồ A đang được dịch chuyển một cách có hệ thống về phía bắc với 1° (với một số ngoại lệ được đánh dấu với “*”). Có thể diễn giải những dữ liệu này như sau. Về phần phía nam của bản đồ, các tên được tìm thấy trong bản đồ B từ 10°N đến 18°N, về mặt lý thuyết, có thể được lấy từ bản đồ A sau khi dịch chuyển 1° về phía nam và được bổ sung thêm các tên. Đối với phần phía Bắc của bản đồ B (18°N-19°N và 20°N-23°N), các tên của nó tạo thành một tập hợp con thích hợp của các tên của các khu vực tương ứng của bản đồ A, cũng dịch chuyển 1° về phía nam. Trở ngại duy nhất đối với việc dựng lại hình ảnh trực tiếp của bản đồ B từ bản đồ A là ở dải 20°-21°/19°-20°, có thể gợi ý một mối quan hệ phức tạp hơn.

3.4. Vị trí Hà Nội và Hải Nam

Như tôi đã đề cập ở trên, thành phố Hà Nội và đảo Hải Nam được hiển thị trong bản đồ A lần lượt là 21°N và 18°-19°10′. Các tọa độ này tương ứng với tọa độ thực của chúng (21°N và 18°-20°10′). Vị trí của hai địa danh này trên các bản đồ vào cuối thế kỷ XVI và XVII được thể hiện trong Bảng 3.

Bảng 3. Vị trí của Hà Nội và đảo Hải Nam

Dữ liệu được trình bày trong Bảng 3 cho thấy rằng mặc dù các tọa độ tương đối chính xác của Hải Nam đã có vào cuối thế kỷ XVI (M2) và đầu thế kỷ XVII (M5), giá trị chính xác của vĩ độ Hà Nội (21°) xuất hiện cho lần đầu tiên chỉ có trong bản đồ A. Thật thú vị, giá trị chính xác đã được thay đổi trong bản đồ B thành 20° do sự dịch chuyển nói trên về phía nam đối với 1° của hầu hết các điểm mốc.

3.5. Các địa điểm miền Bắc Việt Nam và thủ đô Việt Nam

Một số tên được sử dụng trong bản đồ rất đáng để nghiên cứu. Ví dụ, bản đồ A chứa tên “Cocincina” chỉ được tìm thấy (theo cách viết này) chỉ trong một số ấn phẩm của thế kỷ XVII bằng tiếng Ý và tiếng Latin[24] . Quan sát này phù hợp với thực tế là từ “Cocincina” xuất hiện trên bản đồ A được xuất bản lần đầu tiên trong phiên bản tiếng Ý của cuốn sách của de Rhodes, trong khi bản đồ B xuất bản ở Pháp, nó được thay thế bằng “Cocinchine”. Sự hiện diện của các tên Latinh (ví dụ: “Mare Sinicum”, “Laorum pars”) trong bản đồ A gợi ý rằng bản đồ này vốn được cho là chỉ chứa (1) các tên Latinh và (2) các tên tiếng Việt được phiên âm theo ngữ âm học, trong khi hầu như tất cả các lời ghi chú trong bản đồ B đều được viết bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Tuy nhiên, bản đồ B cũng chứa tên tiếng Bồ Đào Nha “Ponta da Varella” chỉ Cape Varella. Cùng một lời ghi chú, hầu như không rõ ràng trong bản sao tôi có, có thể được tìm thấy ở cuối bản đồ A. Sự hiện diện của lời ghi này có thể gợi ý rằng cả hai bản đồ, ít nhất một phần, dựa trên một mẫu với các ghi chú tiếng Bồ Đào Nha có lẽ do các nhà truyền giáo và/hoặc nhà thám hiểm Bồ Đào Nha thực hiện.

Các tên được sử dụng trong các bản đồ nghiên cứu về Đông Nam Á vẽ vào cuối thế kỷ 16 và thế kỷ 17 để chỉ phần phía Bắc của Việt Nam và thủ đô được liệt kê trong Bảng 4.

Bảng 4. Các từ chỉ Đàng Ngoài và thủ đô của Việt Nam

Người ta có thể nhận thấy rằng tên “Kecio” (cũng được viết là Keccio trong một trường hợp) chỉ Hà Nội xuất hiện tương đối muộn; những bản đồ sớm nhất (trong số những bản đồ đã được nghiên cứu) trong đó nó được tìm thấy là bản đồ A của de Rhodes (1650) và bản đồ của Nicolas Sanson d’Abbeville cũng có niên đại 1650 và được sản xuất bởi cùng một nhà biên tập/nhà xuất bản (Pierre Mariette) dưới dạng bản đồ B của de Rhodes năm 1653. Hơn nữa, tên “Tvmkin”, tức “Thủ đô phía Đông”, chỉ Hà Nội, thủ đô của Đàng Ngoài, chỉ xuất hiện trên các bản đồ phương Tây được nghiên cứu trong bản đồ B của de Rhodes (1653) và M14 (1683), trong khi trong bản đồ A của de Rhodes (1650) cũng như trong bản đồ M9-12, 15 (xuất bản năm 1650 hoặc muộn hơn), nó được dùng để chỉ toàn bộ lãnh thổ Đàng Ngoài. do họ Trịnh kiểm soát.

3.6. Mạng lưới sông trong bản đồ A và B

Có một yếu tố trong bản đồ A và B khiến chúng khác biệt đáng kể so với tất cả các bản đồ phương Tây cùng thời và trước đó: đó là rất nhiều con sông được mô tả trong đó. Bảng 5 cho thấy số lượng sông được mô tả ở mỗi tỉnh trên bản đồ A và B, chỉ có một ngoại lệ (ở tỉnh Thinh Hoa/ThinHoa) là giống nhau.

Thực tế là số lượng các con sông trong hai bản đồ là giống nhau cho tất cả các tỉnh ngoại trừ một sông có thể xuất hiện hoàn toàn ngẫu nhiên; tuy nhiên, so sánh của tôi về số lượng sông ở các tỉnh được mô tả trong bản đồ A với số lượng sông ở các tỉnh tương ứng được thể hiện trong bản đồ M10 (của N. Sanson d’Abbeville, 1654) và M14 (của GC da Vignola và GG de Rossi, 1683) chứng minh rằng những con số này khác nhau đáng kể, như được thể hiện trong Bảng 6.

Có thể thấy rằng số lượng sông trong bản đồ A và M10 khác nhau ở tám tỉnh (trong số 10 tỉnh), và trong bản đồ A và M14, ở sáu tỉnh. Những khác biệt này, nếu so sánh với số lượng sông gần như hoàn toàn giống nhau ở các tỉnh tương ứng được trình bày trong bản đồ A và B có thể gợi ý rằng những người lập bản đồ A và B đã đặc biệt chú ý đến các con sông được mô tả trên các bản đồ này. Sự chú ý này đối với các tuyến đường thủy được thể hiện trong hai bản đồ này trái ngược hẳn với những mô tả về các con sông được tìm thấy trong các bản đồ trước bản đồ của de Rhodes; một số trong số chúng (ví dụ M5, M8) hoàn toàn không hiển thị sông, trong khi một số khác (ví dụ M7) thể hiện chúng là các tuyến đường thủy thô sơ ngắn được mô tả trên bờ biển Việt Nam với các khoảng cách gần như bằng nhau. Do đó, các mô tả của nhiều con sông trên bản đồ A và B cũng như sự tương đương hoàn toàn về số lượng của chúng cho tất cả các tỉnh được thể hiện trong các bản đồ này có thể cho thấy rằng các mô tả của chúng dựa trên dữ liệu trực tiếp thu được từ các cuộc khám phá thực tế lãnh thổ của cả miền Trung và Miền Bắc Việt Nam do chính de Rhodes và/hoặc các thành viên khác của cả hai phái bộ tiến hành. Các bản đồ cho thấy các yếu tố địa hình như núi và đặc biệt là sông chắc chắn rất quan trọng đối với những người truyền giáo, những người, như ghi chép của de Rhodes cho thấy, họ phải di chuyển từ nơi này sang nơi khác tương đối thường xuyên.

Kết luận

Trong các cuốn sách của mình, de Rhodes không bao giờ đề cập đến bất kỳ hoạt động vẽ bản đồ nào; mục đích của ông trong việc công bố bản đồ A và B có lẽ là để thông báo cho người đọc về khu vực diễn ra các sự kiện liên quan. Tác giả của các bản đồ là không rõ ràng; bản thân bản đồ B nói rằng nó được vẽ bởi “Các giáo sĩ Dòng Tên”, nhưng vẫn chưa rõ liệu các “Giáo sĩ” này làm việc ở Việt Nam hay ở Châu Âu, hay cả hai. Sự lựa chọn cụ thể của Kinh tuyến gốc trong bản đồ B (hay nói cách khác, các kinh độ được phân bổ cho Việt Nam) được sử dụng trước đó trong các bản đồ của Ortelius, Hondius, Speed ​​và Bertius gợi ý rằng các phiên bản của một số bản đồ này (hầu hết có thể là, của Ortelius và Hondius) có thể đã được cung cấp cho các nhà truyền giáo làm việc tại Việt Nam, những người đã sử dụng các bản đồ này và bổ sung chúng bằng cách thêm một số địa danh và các yếu tố của cảnh quan, đặc biệt là đường thủy và núi. Tuy nhiên, không thể loại trừ việc de Rhodes đã đánh mất các bản phác thảo địa hình và bản đồ cùng với các tài liệu khác mà ông thu thập được ở Việt Nam trên đường về châu Âu trong thời gian 1645-1649 (cùng với danh sách những người cải đạo, như chính ông đã khẳng định), và thay vào đó, dựa trên những bản đồ phương Tây không rõ nguồn gốc có sẵn về Việt Nam trong thời gian ông ở Rome năm 1649-1650. Điều này làm cho giả thuyết sau hợp lý: các bản đồ của de Rhodes kết hợp dữ liệu bản đồ được vẽ dựa trên các bản đồ phổ biến của đầu thế kỷ XVII, chẳng hạn như của Ortelius và Hondius (do đó sự lựa chọn của kinh tuyến chính trong bản đồ B), với thông tin chi tiết về địa hình, đặc biệt là sông và núi, được truyền tải giữa các thành viên của phái bộ Truyền giáo Dòng Tên ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam dưới dạng bản đồ, phác thảo và mô tả bằng lời nói.

Tài liệu tham khảo

  1. Anon. (1628). Advis certain d’une plus ample descouverte du Royaume de Catat, avec quelques autres particularitez notables de la coste de Cocincina et de 1 ‘antiquite de la foy chrestienne dans la Chine, tirées des lettres des PP. de la Compagnie de Jesus, de I ‘annee 1626, Paris: S. Chappelet.
  2. Bernard, Henri (1935). “Les étapes de la cartographie scientifique pour la Chine et les pays voisins: depuis le XVIIe jusqu’à la fin du XVIIIe siècle”, Monumenta Serica, 1, no.2, pp.428-477.
  3. Bernard, Henri (1939). Pour la compréhension de 1 ‘Indochine et de l’Occident, Hanoi: G. Taupin & Cie.
  4. Boni, Christoforo (1631). Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al regno della Cocincina, Roma: F. Corbelletti.
  5. Cadiere, Leopold (1915). “Les européens qui ont vu le vieux Hue. Le P. de Rhodes”, BAVH, 2, no.3, pp.231-249.
  6. De Rhodes, Alexandre (1650). Relazione de ‘fend successi della Santa Fede predicata da’ Padri della Compagnia di Giesu nel regno di Tunchino: alla santita’ di n.s. pp. Innocenzio Decimo, Roma: Giuseppe Luna.
  7. De Rhodes, Alexandre (1651). Histoire du royaume de Tunquin, et des grands progrez que la prédication de 1 ‘Evangile y a faits en la conversion des infidelles. Depuis l’anne 1627 jusques à I’annee 1646. Composée en latin par le R.P. Alexandre de Rhodes, de la Compagnie de Jesus, et traduite en francois par le R.P. Henry Albi, de la mesme Compagnie, Lyon: Jean Baptiste Devenet.
  8. De Rhodes, Alexandre (1652). Tunchinensis Historiae libri duo, quorum altero status temporalis huisu regni. Altero mirabiles Evangelicae praedicationis progressus referuntur. Coeptae per patres Societatis Jesu ab anno 1627, ad annum 1646, Lugdunum: Devenet.
  9. De Rhodes, Alexandre (1653). Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres Royames de I’Orient, avec son retour en Europe par la Perse & 1 ‘Armenie, Paris: Sebastien Cramoisy et Gabriel Cramoisy.
  10. Fiorini, Matteo (1891). “11 mappamondo di Fausto Rughesi”, Bollettino della Società Geografica Italiana, serie III, vol.IVpp.956-9’72.
  11. Henrion, Mathieu-Richard-Auguste (1847). Histoire générale des missions catholiques, depuis le XIlle siècle jusqu’a nos fours, Paris: Gaume Freres, t.2, pt. 1.
  12. Jacques, Roland (2002). Portuguese pioneers of Vietnamese linguistics prior to 1650. L ‘ceuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en 1650, Bangkok: Orchid Press.
  13. Jonkers, Art R.T. (2005). “Parallel meridians: Diffusion and change in early-modern oceanic reckoning”, in J. Parmentier (ed.), Noord-Zuid in Oostindisch perspectief, The Hague: Walburg, pp.17-42.
  14. Kircher, Athanasius (1667). China Monument’s Qua Sacris Qua Profanis […], Amstelodami [= Amsterdam].
  15. Lach, Donald F. (1994). Asia in the making of Europe, vol.2, book 3, Chicago: The University of Chicago Press.
  16. Lach, Donald F. and Van Kley, Edwin J. (1993). Asia in the making of Europe, vol.3, book 3, Chicago: The University of Chicago Press.
  17. Maggs, Barbara Widenor (2000). “Science, Mathematics, and Reason: The Missionary Methods of the Jesuit Alexandre de Rhodes in Seventeenth-Century Vietnam”, The Catholic Historical Review, vol.86, no.3, pp.439-458.
  18. Manguin, Pierre-Yves (1972). Les Portugais sur les côtes du Viet-Nam et du Camp& Etude sur les routes maritimes et les relations commerciales, d’après les sources portugaises XVIle, XVIIIe siecles), Paris: EFEO.
  19. Marini, Giovanni Filippo de (1663). Delle missioni de’ padre della Compagnia di Giesu nella provincia del Giappone e particolarmente di quella di Tumkino libri cinque, Roma: Nicolo Angelo Tinassi.
  20. Nebenzahl, Kenneth (2005). Exploration des routes de la soie et au-delà: 2000 ans de cartographie, Paris: Phaidon.
  21. Ortelius, Abraham (1587). Theatre de l ‘Univers, Contenant les Cartes de Tout le Monde.
  22. Semans, Cheryl Ann (1987). Mapping the unknown: Jesuit cartography in China, 1583-1773, Dissertation […] for the degree of Doctor of Philosophy in Geography, University of California, Berkeley.
  23. Taylor, Keith W. (2013). A history of the Vietnamese, Cambridge etc.: Cambridge University Press.
  24. Teixeira, Manuel (1964). Missionarios Jesuitas no Vietnão, Macau: Edição do Centro de Informacão e Turismo de Macau.
  25. Teixeira, Manuel (1977). Macau e a sua diocese. vol. XIV As Missões Portuguesas no Vietnam, Macau: Imprensa Nacional.
  26. Torralba, Eduardo, S.J. (1960). “La Date de naissance du Père de Rhodes 15 mars 1591, est-elle exacte?”, Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, n.s., vol.35pp.683-689.
  27. Vickery, Michael (2005). “Champa revised”, ARI Working Paper Series, no.37, Singapore: Asia Research Institute of the National University of Singapore.
  28. Volkov, Alexei (2008). “Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries”, in L. Saraiva and C. Jami (eds.), History of mathematical sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc.: World Scientific, pp.161-185.
  29. Woodward, David (2007). “The Italian Map Trade, 1480-1650”, in D. Woodward (ed.), History of Cartography, vol.3, pt.2, pp.773-803.

Võ Xuân Quế (dịch)

Nguồn: https://www.researchgate.net/publication/325717787_On_two_maps_of_vietnam_by_alexandre_de_rhodes

[1] Năm sinh của de Rhodes là một vấn đề còn tranh cãi; xem thêm chi tiết ở dưới.

[2] Dịch thuật ở đây và dưới là của tôi, còn của người khác được nêu ra.

[3] Nhà nước kiểu Ấn Độ của Champa nằm ở phía nam của Việt Nam ngày nay và tồn tại từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau Thiên Chúa; nhiều lần bị các triều đình Việt Nam đánh bại, và mỗi lần biên giới giữa Champa và Việt Nam mở rộng về phía nam hơn. Sự sáp nhập cuối cùng của Champa vào nhà nước Việt Nam diễn ra vào đầu thế hỷ XIX. Một tóm tắt về tư liệu lịch sử của Champa, xem, chẳng hạn, Vickery (2005). Hai bản đồ thảo luận trong bài này cho thấy biên giới giữa Việt Nam và Champa (viết là “Ciampa”) vượt qua khoảng vĩ tuyến 12 bắc trên bản đồ A và vĩ tuyến 11 trên bản đồ B.

[4] Kinh tuyến “gốc” (hoặc “không”) là kinh tuyến được sử dụng làm tham chiếu để xác định kinh độ của các vị trí nhất định; năm 1884 kinh tuyến Greenwich được quốc tế chấp nhận là kinh tuyến gốc, nhưng trước đó, vị trí của “kinh tuyến gốc” đã thay đổi đáng kể. Sơ lược lịch sử về “kinh tuyến gốc” và các tài liệu tham khảo hữu ích được tìm thấy trong Jonkers (2005).

[5] Một số tác giả (chẳng hạn như C. Sommervogel) đã lấy năm 1591 làm năm sinh của de Rhodes. Nghiên cứu toàn diện nhất về vấn đề này được thực hiện bởi Eduardo Torralba, S.J., trong bài báo của ông năm 1960. Torralba đã tìm thấy hai tài liệu trong kho lưu trữ của Dòng Tên ở Rome cho rằng de Rhodes sinh năm 1593; ông cho rằng một số tác giả đã lấy năm “1591” một cách không cân nhắc được công bố năm 1884 trong một chú thích biên tập của H. Gourdin, Si., trong ấn bản mới của ông về các sứ mệnh của de Rhodes ‘Voyages và các sứ mệnh. Gourdin, như Torralba phỏng đoán (p.686), có thể đã theo năm sinh được gợi ý trong các tác phẩm của C. Sommervogel (1834-1902). Torralba không đề cập rằng năm sinh này của de Rhodes đã được các tác giả khác gợi ý thậm chí sớm hơn, ví dụ, bởi M.-R.-A. Henrion (1805-1862) trong (1847, tr.388). Tôi rất cám ơn Phùng Minh Hiếu đã gửi cho tôi bài viết của Torralba.

[6] Tư liệu này về các chuyến đi của de Rhodes dựa trên cuốn sách của ông (1653); xem thêm Cadiere (1915, tr.233-235), Taylor (2013, tr.288).

[7] Một trong số đó có nội dung “Les Kemoys Peuples Barbare livesent dans ces Montagnes” (Những người Kemoy man rợ sống ở những dãy núi này), và ghi chú khác, “Grande Riviere qui arouse le Royaume de Camboge” (Con sông lớn chảy ra Vương quốc Campuchia).

[8] Về các hoạt động và cái chết của Bonelli, xem de Rhodes (1651, chương.42; đặc biệt, xem trang.284-286); xem thêm Marini (1663, tr.492-503); Việc Marini đề cập đến Bonelli được trích dẫn trong Lach và Van Kley (1993, tr.1159).

[9] Hiệp ước quy định đường phân chia là kinh tuyến đi qua 370 leagues (2.193 km?) phía Tây của các đảo Cape Verde (Cộng hoà Cabo Verde, theo tiếng Bồ Đào Nha)

[10] Từ Ortelius ‘Theatrum Orbis Terrarum. Hernando de Solis ‘Asiae Nova Descriptio (Valladolid, 1603) dựa trên bản đồ của Ortelius’.

[11] Ortelius (1587, p.94).

[12] Fiorini (1891). Lach thông báo rằng bản đồ Rughesi dựa trên bản đồ của Giacomo Gastaldi (năm 1536; năm 1566) nhưng phần châu Á của nó đã được sửa đổi đáng kể (Lach 1994, tr.464); về Gastaldi xem Woodward (2007, trang.781-787).

[13] Bản đồ của Ricci cho thấy kinh tuyến chính đi qua một trong các quần đảo Canary, được mô tả như ba vùng đất có cùng địa danh Fu dao của Trung Quốc (rõ ràng là bản dịch của từ địa danh “Quần đảo may mắn” được Ricci sử dụng trong Tạp chí của mình).

[14] Nebenzahl (2005, tr.133); chỉ phần Việt Nam trên vĩ tuyến 15 được hiển thị. Nebenzahl (2005, tr.9’7).

[15] Bibliotheque Nationale de France, GE D-11850.

[16] Bibliotheque Nationale de France, GE D-11852.

[17] Nebenzahl (2005, tr.101).

[18] Nebenzahl (2005, tr.101).

[19] Nebenzahl (2005, tr.137); chỉ phần Việt Nam nằm trên vĩ tuyến 15 được hiển thị.

[20] Kircher (1667). Bản đồ được chèn vào giữa trang 2 và 3 của cuốn sách của Kircher; nó chỉ hiển thị phần trên của Việt Nam. Trong Bảng 2 dưới đây, nó được ghi là “1667a”.

[21] Kircher (1667, tr.48-49). Trong Bảng 2, nó được ghi chú là “1667b”.

[22] Nebenzahl (2005, tr.109).

[23] Các nhà sử học hiện đại đôi khi không chú ý đầy đủ đến loại dữ liệu này; Ví dụ, trong luận án của mình, Semans (1987) đã chấp nhận giá trị 16°W cho Kinh tuyến gốc được M. Ricci sử dụng (tr.92, 101-102, n.30) mà không chỉ rõ Ricci đã tham chiếu đến một trong những quần đảo Canary nào.

[24] Thư mục của Thư viện Quốc gia Pháp (Paris) chỉ gồm có 6 cuốn bằng tiếng Latin, Ý và Pháp với tiêu đề dùng tên này; trong đó có Borri (1631) và các phiên bản tiếng Ý sách của de Rhodes in năm 1652. Cuốn sớm nhất là của Anon (1628). Về Borri và các hoạt động ở Cochinchina xem Volkov (2008).

[25] Ở đây và trong các mục khác của bảng này, chữ “v” có thể thay bằng chữ “u”. Ở đây và bên dưới nếu một từ ghép đầu được viết bằng chữ in hoa, tôi giữ nguyên chúng trong bảng.


..



----


BỔ SUNG


2.

Phải chăng bản đồ Alexandre De Rhodes 1650 vẽ theo bản đồ Hồng Đức 1490?

Nguyễn Đình Đầu

Lời tựa:  Alexandre De Rhodes, một thừa sai Dòng Tên, đã gắn bó mật thiết với Đại Việt trong hành trình truyền giáo từ năm 1624 đến 1645. Hành trình của thừa sai Alexandre De Rhodes đã kinh qua nhiều bước thăng trầm với nhiều lần bị trục xuất khỏi Đại Việt. Sau đó, vị thừa sai có vẽ một bản đồ về Đại Việt, cung cấp thêm cho thế hệ mai hậu những thông tin bổ ích về địa lý, văn hóa Đại Việt thời bấy giờ. Tuy nhiên, bản đồ ấy khá giống với bản đồ Hồng Đức (được vẽ năm 1490); có nhiều người cho rằng Alexandre De Rhodes đã tham chiếu bản đồ Hồng Đức khi vẽ bản đồ của mình. Xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu ((người chuyên nghiên cứu về các bản đồ, địa bạ cổ) – hiện tại nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu có khoảng 3000 bản đồ trong bộ sưu tập của mình) như là một câu trả lời cho thắc mắc ấy.

Bản đồ Hồng Đức năm 1490

Chúng tôi phỏng đoán bản đồ De Rhodes 1650 (bđ DR) đã vẽ theo mẫu Bản đồ Hồng Đức 1490 (bđ HD), (xin tạm bỏ qua vấn đề tác giả và thời điểm vẽ bđ HD). Vì mấy lí do chính sau:

1. Phương hướng đặt bản đồ

Bđ DR bắt chước bđ HD đặt phương Tây lên trên, phương Đông bên dưới, phương Bắc bên phải và phương Nam bên trái. Tôi chưa từng thấy một bản đồ nào do Âu hay Á vẽ nước ta xưa kia lại có định hướng như vậy. Tất cả đều để phương Bắc lên trên .

Bản đồ in trong sách của Alexandre de Rhodes năm 1650

2. Hai bản đồ đều dùng quốc hiệu An Nam

Trong lời giải thích “An Nam đồ thuyết” kèm theo bđ HD nói rõ An Nam chi địa. Trên góc tây bắc bđ DR có ghi trong khung chữ Regnũ An nam (nước An Nam). Cho tới thời điểm (1650), tất cả các bản đồ Tây phương vẽ nước ta đều ghi quốc hiệu là Cauchychina, Cochinchina tức Giao Chỉ Chi Na hay đúng hơn là Giao Chỉ gần Tần.

3. Những đường nét và bố cục chính

Hầu như giống nhau, chỉ khác là bđ HD vẽ bằng bút lông chú thích chữ Hán, bđ DR vẽ bằng bút sắt chú thích chữ La tinh hay chữ Quốc ngữ cổ. Phía trên bản đồ là núi non, ở giữa là bình nguyên, phía dưới là biển cả. Bđ HD ghi Tây giáp Ai Lao giới thì bđ DR ghi Laorum pars, bên phải một trường thành, bđ HD ghi Vân Nam thì bản đồ DR ghi Cinoe pars. Bản đồ HD ghi Bắc giáp Quế Quản, Quảng Tây (Bách  Việt địa), Quảng Đông (Việt địa Triệu Vũ đế đô) thì bđ DR chỉ ghi Provincia Canton, Macao và Sepul. S.Xaveril (mộ thánh Savie). Bđ HD ghi Tây giáp Lung Lang giới thì bđ DR ghi Cambogiac pars (có lẽ Lung Lang phiên âm tên Panduranga, một xứ của Champa). Bđ HD ghi Chiêm Thành thì bđ DR ghi Ciampa. Bđ HD ghi Thạch Bi thì bđ DR ghi Ponta da Varella và thêm dinh Pho An (Phú Yên) .

4. Địa bàn các thừa tuyên (sau là tỉnh) cũng giống nhau

Kể từ Nam ra Bắc : Quảng Nam (bđ DR ghi Ciam và thêm cả Quangnghia, Quinhin), Thuận Hóa (bđ DR ghi Thoan hoa và thêm địa danh Hoa tức Huế, rồi Bochinh tức Bố Chính), Nghệ An (Nghe an), Thanh Hóa (Thinh hoa), Sơn Nam (Ke nam), Trung Đô (nay là Hà Nội, bđ DR ghi Kecio tức Kẻ Chợ và bên kia sông bo de tức Bồ Đề), Hải Dương (Ke dom, tức Kẻ Đông), Kinh Bắc (KeBac), Sơn Tây (Ke Tay), Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, An Bang kim An Quảng (bđ DR đều thiếu) .

Bđ HD còn ghi những địa danh mà bđ DR không ghi lại như Tây Kinh, Na Sơn, Hy Mã Sơn, An Hoạch Sơn, Hồ Lĩnh Sơn Thiên Cầm Sơn, Tượng Sơn, Phổ Minh Tự, Thiên Cầm Sơn Thập Châu, Ngải Sơn, Bạch Thành, Tản Viên Sơn, Ngưu Dương Động, phật Tích Sơn, Câu Lậu Sơn, Hùng Vương Sơn, Lũng Sơn, Tây Hồ, Lý ông Trọng Miếu, Lịch Sơn, Phụng Dục Sơn Bông Sơn, Nam Xương Châu, Thiên Đức Quang, làm Ngưu Sơn, Tiên Du Sơn, Lục Đầu Quang, Phả Lại Tự, An Tử Sơn An Thù Sơn, Quỳnh Lâm Tự, Mẫu Đơn, Côn Sơn, ải Quan, An Kỳ Sinh đắc đạo xứ, Hồng Đàm, Vân Đồn Sơn, Đại Viên Sơn, Nam Cương, Đồng Trụ giới, Bắc Cương, Phân Mao Lãnh. Còn Đại Hải thì bđ DR ghi là Mare Cinicum, đảo Khai Lan thì bđ DR ghi là Hainan (Hải Nam).

Tuy nhiên, bđ DR có ghi những địa danh mà bđ HD không ghi (kể từ trên xuống dưới và từ nam ra bắc.): Solitudo (Hoang địa), Rumoi (xứ mọi hay Rú mọi), Ran Ran (phủ Phú Yên có sông Đà Rằn), Nuoc Ngot (nước Ngọt), Nuoc Man (Nước Mặn), Ben da (Bến đá), pullucambi (Cù lao Xanh), Cuadai (Cửa Đại), Pulocatà-colaure (Cù lao Rẻ), Bá Linh, Ciam (xứ Quảng Nam), Dinh ciam (Dinh Chiêm), Haifo (Hoài Phố, Hội An nay), pulociampello (Cù lao Đại Chiêm), Cuahan (Cửa Hàn, Đà Nẵng nay), Dinh Ca (Dinh Cả), Hoa (Huế), Cua Say (Cửa Thầy), Dinh coù (Dinh Cũ), Ke dai (?), Vang nai (Hoàng Mai), Cua bang (Cửa  bạng), Van no (Văn Nho), An nuc (An Vực), Diên pho (Diễn phố), Cua bic (Cửa Bích), Cua dai (Cửa Đáy) Ke bo (Kẻ Vó) , Non khe (Kẻ Non), Ke voy (Kẻ Vồi), Ha hoy (Hà Hồi), Kemaoc (Kẻ Mác, Ô Đống Mác), Ke tru (Kẻ Trừ), Kecou (?), Kecoc (Kẻ Cóc), Chamha (Châm Hạ), Da ngon (?), Longuam (?) Kemua (Kẻ Mua), Dai tiên (?), Chin tan (?) , Caubang (Cao bằng), Trang tay (?), Thich (?), Phoi Ke (?), Den hoi (?), Tam dang (?), Ke go (?), Ke fau (Kẻ Sau), Ke Fuoc (Kẻ Trước) . . .

Nói chung, hai bản đồ này giống nhau về cơ bản địa lý tự nhiên và địa lý chính trị (quốc hiệu, các xứ thừa tuyên), nhưng bđ HĐ ghi chú nhiều di tích văn hóa và lịch sử, còn bđ DR thì ghi khá đầy đủ cửa biển và các thị trấn truyền giáo. Bđ DR vẽ theo phương pháp khoa học mới, nghĩa là theo tọa độ các đường kinh tuyến và vĩ tuyến. Tuy nhiên, bđ DR vẽ bờ biển vịnh Bắc Việt không đúng bằng bđ HD.

Trước bđ DR 1650, Tây phương chỉ biết nước ta ở ngoài bờ biển và các hải đảo. Họ vẽ bờ biển Đàng Trong đúng hơn Đàng Ngoài vì ít lui tới Đàng Ngoài. Do đó, bđ DR cũng theo họ mà vẽ sai vịnh Bắc Việt, nhưng đã thêm được khá nhiều địa danh bên trong từ bờ biển lên tới cao nguyên. Ngoài ra, bđ DR đã ghi khá chính xác là ranh giới “Cua Say” chia nước làm hai phần: Tun Kin tức Đàng Ngoài và Cocincina tức Đàng Trong thật rõ ràng

Bản đồ Alexandre De Rhodes 1650 là bản đồ duy nhất của Tây phương đã căn cứ vào Bản đồ Hồng Đức 1490, giúp cho độc giả hiểu biết tương đối đúng đắn đất nước ta ở bốn thế kỷ XV, XVI, XVII và XVIII vậy.

Nguồn: Nguyễn Đình Đầu, Phải chăng bản đồ Alexandre De Rhodes 1650 vẽ theo bản đồ Hồng Đức 1490?, Xưa và Nay, số 33 (1996) tr.33-35

Đăng lại tại:

 

https://vietvafin.wordpress.com/2021/03/10/phai-chang-ban-do-alexandre-de-rhodes-1650-ve-theo-ban-do-hong-duc-1490/





1. Bài đã phát biểu năm 2009, có cho đăng vào năm 2010 trên Da Màu

Bản của Da Màu (chép ngày 8/3/2021)




















Kính tặng nhạc phụ tôi tròn tuổi 80, để kỉ niệm cho một thời thanh xuân dạy học tại huyện Quỳnh Lưu (những năm 1952-1960), cũng cho một đề án phát triển văn hóa du lịch khu vực đền Cờn do ông và một nhóm học trò cũ/cộng sự ở địa phương khởi thảo vào nửa đầu thập niên 1990

clip_image002

Hình 1: Đền Cờn bên dòng sông Hoàng Mai nhìn từ xa [ảnh lấy từ Tư liệu mạng 9]

Lời mở[*]

Trong một bài viết đã công bố trước đây liên quan đến Tứ vị Thánh nương [Chu Xuân Giao 2009], chủ yếu dựa vào việc đối chiếu có phê phán nguồn tư liệu cũ bằng văn tự Hán Nôm (sắc phong, văn bia, địa phương chí, truyền kì…), chúng tôi đã đưa ra kết luận tạm thời rằng, xưng hiệu Tứ vị Thánh nương 四位聖娘 (TVTN), hay Tứ vị (TV) và Thánh nương (TN), có lẽ xuất hiện tương đối muộn, sớm lắm cũng không quá thời Vĩnh Tộ (1619 -1628). Sự xuất hiện muộn màng này, có lẽ không phải là ngẫu nhiên, mà phản ánh kết quả của một quá trình tìm kiếm để định dạng tên gọi cho một tổ hợp thần biển độc đáo, nhằm phân biệt nó một cách rõ ràng với những vị thần hay những tổ hợp thần khác. Có nghĩa là, nếu nghiêm túc đặt vấn đề xưng hiệu của các vị thần được thờ phụng tại đền Cờn ở Nghệ An (trung tâm mang tính toàn quốc của tín ngưỡng TNVN) và rất nhiều nơi khác vào chính nguồn tư liệu văn bản để suy nghĩ thì, cái gọi là TN hay TVTN không hề có dấu hiệu được ra đời ngay từ thời Trần Nhân Tông – Trần Anh Tông (thế kỉ XIII) hay thời Lê Thánh Tông (thế kỉ XV) như trong các trần thuật trước nay của giới nghiên cứu. Phải chăng xưng hiệu ấy được sinh ra vào một thời kì muộn hơn, khi mà tư duy phân tích về hệ thống thần linh biển của người Việt đã trưởng thành.

Kế thừa kết quả nghiên cứu trên, ở bài viết này và những bài viết sau, chúng tôi sẽ sử dụng một nguồn tư liệu khác, có kết hợp với nguồn tư liệu Hán Nôm, để tiếp tục soi rọi vào lịch sử của xưng hiệu TVTN cũng như của đền Cờn. Đó là nguồn tư liệu bằng văn tự châu Âu được soạn bởi những người phương Tây đã đến Việt Nam trong các thế kỉ XVII – XX (họ là giáo sĩ Thiên chúa giáo, nhà buôn, nhà du hành). Ở bài này, chúng tôi chỉ hạn vào hai tác phẩm ở thời kì đầu tiên của nguồn tư liệu này, là hai cuốn sách đã xuất bản bằng nhiều thứ tiếng (Ý, Pháp, Latinh) tại châu Âu trong thập niên 1650 của giáo sĩ Đắc Lộ (tức Alexandre De Rhodes, 1591 – 1660, người đặt nền móng cho chữ quốc ngữ), gồm: 1- Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài (Histoire du royaume de Tunquin), 2 – Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions).

Về mối quan hệ giữa những ghi chép trong hai cuốn sách trên của giáo sĩ Đắc Lộ với đền Cờn tại Nghệ An, trước đây, đã được một số tác giả là linh mục người Việt Nam đề cập đến trong các khảo cứu của họ[1]. Chẳng hạn, tiêu biểu có: linh mục Cao Vĩnh Phan với cuốn Lịch sử giáo phận Vinh (ấn hành năm 1996), linh mục Trần Minh Công với bài “Đền Cờn trong bối cảnh truyền giáo của giáo sĩ Đắc Lộ” (trên Tạp chí Liên lạc nhân văn số tháng 7 năm 2005); ngoài ra, cũng có thể kể đến các khảo cứu của linh mục Đỗ Quang Chính, linh mục Trương Bá Cần và một số người khác[2]. Các nghiên cứu trên đều thống nhất đánh giá cao công lao mở đường của cha Đắc Lộ trong lịch sử truyền giáo tại miền trung Việt Nam. Theo ghi chép của Đắc Lộ thì, ngày 19 tháng 3 năm 1627, đúng vào ngày lễ thánh Giuse, ông lần đầu tiên đã đến Đàng Ngoài bằng việc cập bến cửa Bạng ở Thanh Hóa (khởi hành từ Macao vào ngày 12 tháng 3 năm 1627) [Alexandre De Rhodes 1994 b : 69; 1994a : 81-82[3]]. Từ đó ông bắt đầu công cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài. Thế rồi, đến đầu năm 1629, khi chúa Đàng Ngoài ra sắc lệnh cấm đạo trong toàn cõi và trục xuất ông khỏi vương quốc của ngài, thì cuối tháng 3 năm đó, Đắc Lộ phải đành rời bỏ Thăng Long trên một chiến thuyền đã được chuẩn bị sẵn (chúa bắt ông phải vào Đàng Trong, hoặc phải tiếp tục đi Ma Cao khi đã tới Đàng Trong). Ông trở lại khu vực Cửa Bạng, nơi mà lần đầu tiên ông đã đến trước đây, tức là khu vực Kẻ No trong ghi chép [Alexandre De Rhodes 1994a : 147] hay Vạn No trên bản đồ An Nam do chính Đắc Lộ vẽ (xem Hình 2a và Hình 2b). Sau đó, thuyền của ông đi qua khu vực Cửa Chúa ở Nghệ An (đây lần đầu tiên Đắc Lộ thấy một cửa biển được gọi là Cửa Chúa). Cuối cùng, thay vào việc phải vào Đàng Trong (theo lệnh của chúa Đàng Ngoài), thuyền chỉ đưa ông dừng lại ở tỉnh Bố Chính (do nhã ý của vị thuyền trưởng đã chịu lễ thanh tẩy trong thời gian đưa Đắc Lộ vào Đàng Trong). Trong thời gian khoảng 8 tháng liền lưu lại ở vùng giáp ranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài lúc đó (gồm ba tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Bố Chính), từ tháng 4 năm 1629 đến khoảng tháng 10 hay 11 cùng năm, tuy ở trong hoàn cảnh hết sức khó khăn (“gần tám tháng mà không dâng thánh lễ bởi thiếu nguyên liệu”[4]), nhưng ông và những người tùy tùng đã nỗ lực truyền giáo, đặt những viên gạch đầu tiên cho công giáo miền trung. Đắc Lộ trở đi trở lại giữa ba tỉnh trên, khi bằng đường bộ khi bằng đường thủy. Về đường thủy, kết hợp những ghi chép trong hai cuốn sách nói trên với tấm bản đồ An Nam do chính Đắc Lộ vẽ (bản đồ này nằm trong cuốn thứ nhất), người ta biết được rằng, ông đã ghé vào các cửa biển sau ở vùng Thanh – Nghệ: Cửa Bạng (bản đồ ghi: Cua Bang), Cửa Chúa (Cua Ciüa), cửa Rùm (Cua Rum), Cửa Sót (Cua Sot)[5]. Vấn đề được thảo luận giữa các linh mục đã kể tên trên đây chính là ở việc xác định tên và vị trí hiện nay của các cửa biển này. Với riêng Cửa Chúa, đa phần xác định đó là Cửa Lò (Cao Vĩnh Phan[6], Đỗ Quang Chính[7], Trương Bá Cần[8], Linh Phong – Hoàng Đình Hiếu[9]…); có một người, là tác giả Trần Minh Công, thì cho rằng, về cơ bản đó là Cửa Cờn, nhưng cũng có thể là Cửa Hội hay Cửa Lò. Vẻ như ý kiến cho rằng Cửa Chúa là Cửa Lò đang trở thành một định thuyết trong nghiên cứu của các linh mục. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, cũng có tác giả chỉ coi Cửa Chúa đơn thuần là Cửa Chúa (để nguyên ngữ) mà không quan tâm xem nó là cửa bể nào hiện nay, như linh mục Nguyễn Hồng (xem Tư liệu mạng 8); lại cũng có tác giả chỉ đề cập một cách khái quát là “Nghệ An” mà không lưu tâm đến các cửa bể thuộc vào tỉnh ấy mà Đắc Lộ đã ghé qua trong thời gian từ tháng 3 năm 1629 đến tháng 5 năm 1930, như Peter C. Phan (xem Peter C. Phan 1998 : 48-57).

Thông qua việc đối chiếu một lần nữa các ghi chép của Đắc Lộ trong nguyên bản và bản đồ do ông vẽ (có bổ sung và phân tích một vài đoạn ghi chép của Đắc Lộ chưa được nhắc đến trong các nghiên cứu đi trước), và có đối chiếu với nguồn tư liệu Hán Nôm (phần việc hầu như còn bị bỏ ngỏ trong các nghiên cứu đi trước), kết hợp với quan sát trên thực địa của bản thân chúng tôi, trước hết, chúng tôi đồng quan điểm với nửa đầu trong nhận định của tác giả Trần Minh Công, tức Cửa Chúa trong ghi chép của Đắc Lộ là Cửa Cờn ở Nghệ An. Cửa Cờn (hay Cửa Lạch Cờn) theo cách gọi dân gian chính là cửa biển tương ứng với cái gọi là Càn Hải/Càn Hải môn trong tư liệu Hán Nôm (Lĩnh Nam chích quáiViệt điện u linh, thơ của Lê Thánh Tông). Ở đó, có ngôi đền Cờn (tức Càn Hải môn từ hay Đại Càn điện trong tư liệu Hán Nôm), đương thời, khi Đắc Lộ cập bến, đã rất nổi tiếng với việc thờ Bà Chúa – một nữ thần biển có nguồn gốc Trung Hoa đầy uy lực đối với ngư dân và người đi biển cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Tuy nhiên, tiến thêm một bước, chúng tôi muốn khẳng định rằng, Cửa Chúa trong ghi chép của Đắc Lộ chỉ là Cửa Cờn, mà không phải là Cửa Lò hay Cửa Hội. Có thể nói, đây là một cửa biển gắn bó với lữ trình truyền giáo của Đắc Lộ một cách duyên cớ. Ông đã ghi nó lên bản đồ một cách chắc chắn với cái tên địa phương “Cua Ciüa” (Cửa Chúa), kèm theo hình vẽ và tên của một con sông địa phương mà nó liên thông là “Vang Mai” (Vàng Mai = Hoàng Mai).

Một điểm thú vị nữa, là giữa tư liệu của giáo sĩ Đắc Lộ và tư liệu Hán Nôm trước hay sau thời gian ông truyền giáo ở Việt Nam (Việt điện u linhLĩnh Nam chích quái, Ô Châu cận lụcThượng kinh kí sự), có những điểm tương đồng và tương dị trong nội dung kể về lai lịch và tính cách các vị thần được thờ trong đền Cờn. Sự tương đồng và tương dị này, theo chúng tôi, có ý nghĩa không kém quan trọng đối với việc khảo cứu nhằm hướng đến nhận diện sát thực về lịch sử đền Cờn cũng như xưng hiệu TVTN, và quá trình vận động mang tính lịch sử của tín ngưỡng TVTN trên một phạm vi rộng lớn.

1. Cửa Chúa với những phương thức kí âm của Đắc Lộ

Trong các tác phẩm của Đắc Lộ, chữ Chúa theo cách viết chính tả hiện nay được kí âm bằng 5 tự dạng: Ciüa, Ciua, CujaChouaChúa; chữ Cửa thì có 2 tự dạng: CuaCửa. Trong các nghiên cứu trước đây, người ta thường mới chỉ đề cập đến tự dạng thứ nhất của chữ Chúa, là Ciüa, có khi lại chuyển tự nhầm ra thành Civa (như nghiên cứu của Trần Minh Công). Ở đây, qua đối chiếu bản gốc các tác phẩm của Đắc Lộ, chúng tôi đã làm một khảo sát về chữ quan trọng này, cụ thể như dưới đây.

Tự dạng Ciüa và Ciua : Xem tấm bản đồ An Nam (gồm Đàng Ngoài và Đàng Trong) do chính tay Đắc Lộ vẽ (Hình 2a  2b ở dưới đây), chúng ta thấy có tên một cửa biển được vị giáo sĩ này ghi là Cua Ciüa. Cửa này, như trên đã nói, là một trong 4 cửa biển ở vùng Thanh – Nghệ mà Đắc Lộ đã tới khi ông sử dụng đường thủy trên lữ trình truyền giáo (số cửa biển mà ông đã cập bến chắc nhiều hơn, nhưng có lẽ đây là 4 cửa biển mà ông ghi nhớ hay biết rõ nhất). Cách kí âm nguyên bản của Đắc Lộ trên bản đồ là Cua Ciüa (chữ u trong Ciüa có hai dấu chấm ở trên, như chữ ü tức ue trong tiếng Đức). Cách kí âm Ciüa này xuất hiện nhiều trong các tác phẩm của Đắc Lộ, phần lớn là để nói về các ông chúa cùng tham gia phân chia quyền lực và lãnh thổ nước An Nam đương thời (chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Mạc ở Cao Bằng, chúa Nguyễn ở Đàng Trong). Theo nhận xét của Đắc Lộ cũng như nhiều giáo sĩ phương Tây khác, Ciüa là người nắm thực quyền, đối xứng với Bua (tức Vua) – người gần như bị giảm lỏng trong hoàng cung. Có khi nó đứng riêng, chỉ là Ciüa không kèm theo tên quen gọi của chúa [ví dụ Alexandre De Rhodes 1651b : 14,15]. Có khi Ciüa được ghép cùng với tên của chúa, chẳng hạn chúa nhà Mạc, tức Mạc Kính Khoan đóng tại Cao Bằng trong thời gian giáo sĩ đến Đàng Ngoài, được ghi là Ciüa Canh[10] [Alexandre De Rhodes 1651b : 4].

clip_image004

Hình 2 a: Bản đồ An Nam (gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài) do Đắc Lộ vẽ và công bố vào đầu thập niên 1650[11]

Hoặc như Chúa Thanh Đô Vương (hay Chúa Thanh Đô), tức Trịnh Tráng (nắm quyền trong các năm 1623 -1657), được Đắc Lộ kí âm là Ciüa Thanh Do Vvang (hay Ciüa Thanh Do) [Alexandre De Rhodes 1651b : 13,16].

Tuy nhiên, vẫn là vị Ciüa Canh (Chúa Canh) nói trên, ở một chỗ khác, Đắc Lộ lại kí âm là Ciua Canh, tức là chữ u trong Ciua không có hai chấm ở trên [Alexandre De Rhodes 1651b : 11]. Như vậy, có thể hiểu Ciua và Ciüa được dùng giống như nhau. Điều này được rõ thêm khi chúng ta thấy, để chỉ Chúa Ông (tức Chúa Tiên, tên thực là Nguyễn Hoàng), người dựng nên cơ nghiệp Chúa Nguyễn ở Đàng Trong (nắm quyền trong các năm 1558 -1612), Đắc Lộ ghi là Ciua Ou[12] [Alexandre De Rhodes 1651b : 10]. Hoặc như để chỉ Chúa Bằng (tức Bình An Vương, tên thực là Trịnh Tùng), người nắm quyền ở Đàng Ngoài trong các năm 1570 – 1623, Đắc Lộ có khi ghi là Ciua Bang[13] [Alexandre De Rhodes 1651b : 10], nhưng ở một chỗ khác, lại ghi là Ciüa Bang [Alexandre De Rhodes 1651b : 15].

clip_image006

Hình 2b: Bốn cửa biển vùng Thanh – Nghệ mà giáo sĩ Đắc Lộ đã tới trên lữ trình truyền giáo cuối thập niên 1620[14]

Tự dạng Cuja: Cách ghi âm này hình như chỉ xuất hiện một lần trong các tác phẩm của Đắc Lộ. Đó là từ “Cua Cuja”, tức là Cửa Chúa; đặc biệt, ở đây có một giải thích của Đắc Lộ ghi ngay trong chính văn ở sau từ đó, là “le port de la Reyne” [Alexandre De Rhodes 1651b : 108]. “Le port de la Reyne” ở đây chính là “Port de la Reine” ở một chỗ khác [Alexandre De Rhodes 1651b : 229], có nghĩa là “Cửa biển Bà Chúa/Nữ Chúa” hay “Cửa biển Bà Hoàng/Nữ Hoàng”. Theo tác giả Trần Minh Công, sau này, Bonifacy có dịch “Cửa Chúa” ra tiếng Pháp là “Le port de la Princesse” (“Cửa biển Bà Chúa/Công Chúa”) [Trần Minh Công 2005 ].

Tự dạng Choua: Có thể thấy chữ “Cua Choua” trong ghi chép sau của Đắc Lộ.“Trong thời gian này chúng tôi bị dồn vào thế thiếu thốn mọi sự, đành phải cậy nhờ giáo dân. Họ đã rất rộng rãi cung cấp cho chúng tôi mọi thứ cần dùng. Đồng thời được tin có tàu người Bồ đã đợi sẵn ở Cửa Chúa [nguyên văn: port Cua Choua] có hai cha dòng đến đón vì được tin ở Macao cho biết chúng tôi bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài. Chúng tôi quá đỗi vui sướng khi gặp và được ôm các ngài, vui mừng biết kể sao hết” [Alexandre De Rhodes 1994 b : 109 (nguyên văn), 82 (bản dịch)].

Tự dạng Chúa: Có thể thấy tự dạng này trong cuốn Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum (thường được gọi là Từ điển Việt – Bồ – La), và đặc biệt là rất nhiều trong cuốn Phép giảng tám ngày (song ngữ Latinh – Việt) chính do giáo sĩ Đắc Lộ biên soạn rồi cho xuất bản cùng một lần tại Roma vào năm 1651 [Alexandre De Rhodes 1651a : 118; Tư liệu mạng 3 – xem Hình 3[15]].

Chúa trong Từ điển Việt – Bồ – La có 2 nghĩa (xem Hình 4). Thứ nhất, là Đức Chúa Trời, tức Đấng Kitô [nguyên văn: DominusDomini], vị chân chúa của trời đất trong quan niệm của Kitô giáo. Trong từ điển, Đắc Lộ dẫn câu “đức Chúa blời đất”; ngay trên bìa cuốn Phép giảng tám ngày ở Hình 3, cũng thấy cụm “thánh đức Chúa blời”. Thứ hai, là chỉ các vị chúa cai quản vương quốc [Reyno] Đàng Trong hay Đàng Ngoài [Tunchinenfes Deus] [Alexandre De Rhodes 1651a : 118; Alexandre De Rhodes 1991 : 61 (bản dịch)]. Như vậy, trong từ điển này không xuất hiện Chúa với nghĩa là chỉ những bà chúa/công chúa/nữ hoàng/nữ chúa (Reyne, Reine). Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, khi đề cập đến “Cửa Chúa” ở Nghệ An, chính Đắc Lộ đã ghi 2 chú thích trong chính văn để chúng ta biết được nghĩa của nó là “port de la Reyne” hay “port de la Reine” [Alexandre De Rhodes 1651b : 108, 229]. Tức là, Chúa có nghĩa thứ ba là Bà Chúa/Nữ Chúa/Nữ Hoàng.

clip_image008

Hình 3: Trang bìa của cuốn sách giáo lí song ngữ Latinh – Việt Phép giảng tám ngày xuất bản năm 1651[16]

clip_image010

Hình 4: Mục từ “Chúa” trong Từ điển Việt – Bồ – La xuất bản năm 1651[17]

Các tự dạng Ciüa, Ciua, CujaChoua không thấy xuất hiện trong Từ điển Việt – Bồ – La. Như vậy, có thể đặt giả thiết rằng, phải chăng bản thân Đắc Lộ đã lựa chọn Chúa làm tự dạng chính để đưa vào từ điển ? Rõ ràng, chỉ có tự dạng này đứng được qua thời gian, và ngày nay chúng ta vẫn viết như Đắc Lộ đã kí âm gần 4 thế kỉ trước: Chúa.

2. Cửa Chúa và Cửa Cờn (Càn Hải môn) ở Nghệ An

Theo Trần Minh Công, đa phần các nghiên cứu trước đây (Cao Vĩnh Phan, Đỗ Quang Chính, Trương Bá Cần, Linh Phong – Hoàng Đình Hiếu …) đều như nghiễm nhiên xem Cửa Chúa trong ghi chép của Đắc Lộ chính là Cửa Lò. Về căn cứ cho suy luận đó, có nghiên cứu đã tìm cách chứng minh họ đạo Cửa Lò do chính giáo sĩ Đắc Lộ thành lâp, từ đó, Cửa Chúa được suy một cách tự động ra thành Cửa Lò [Trần Minh Công 2005, 2009].

Ta có thể thấy quan niệm ấy ngay trong website của Tổng giáo phận Huế. Ở bài “Tóm lược lịch sử giáo phận Vinh” trên website đó, có thể đọc thấy dòng giới thiệu như sau: “Ngày Lễ Thánh Giuse, 19.03.1627, khi Giáo sĩ Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đặt chân lên Cửa Bạng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, ngài đã cho dựng một tượng Thánh Giá vĩ đại tại cửa biển và bắt đầu công cuộc truyền giáo. Trong vòng 8 tháng trời giảng đạo, thuyền của cha Ðắc Lộ đã ghé vào những cửa biển ở Xứ Nghệ: Cửa Lò, Cửa Sót và Cửa Rùm. Ở Cửa Rùm, ngài đã thành lập được một trung tâm Công Giáo rất sầm uất” [Tư liệu mạng 2]. Đối chiếu với 4 cửa biển ở vùng Thanh – Nghệ trên bản đồ do Đắc Lộ vẽ, chúng ta thấy rằng, tác giả tư liệu này (đại diện cho quan điểm của Giáo phận Vinh và Tổng giáo phận Huế) xem Cửa Chúa là Cửa Lò.

Trước định thuyết đó, Trần Minh Công đã đưa ra nhận thức mới gồm hai điểm chính sau.

Thứ nhất, qua khảo sát tư liệu viết hiện đại liên quan đến đền Cờn ở cửa Cờn (Quỳnh Lưu, Nghệ An), Trần Minh Công cho ra rằng: Bà Chúa (ReyneReine) trong ghi chép của Đắc Lộ chính là Thánh nương. Bà Chúa/Thánh nương được thờ chính tại đền Cờn, tạo nên truyền thuyết đền Cờn. Vì vậy, về cơ bản, Cửa Chúa chính là Cửa Cờn (hay Cửa Lạch Cờn). Trần Minh Công không tán thành quan điểm cho rằng Cửa Chúa là Cửa Lò, với lí do: hoàn toàn đúng như ghi chép của Đắc Lộ [Alexandre De Rhodes 1994a : 148], từ khu vực Cửa Bạng – Kẻ No (Thanh Hóa) đến Cửa Cờn (Nghệ An) rất gần, còn từ đó đến Cửa Lò thì khá xa (xem Hình 5). Ông cho rằng, từ Cửa Bạng đến Cửa Cờn chỉ khoảng ba hoặc bốn chục cây số, cho nên “vừa mới lên buồm ra đi chưa được bao lâu đã thấy hiện ra bến Bà Chúa”. Bến Bà Chúa cũng rất dễ nhận ra từ xa, vì trên sườn đồi phía bờ biển có một ngôi đền gọi là Đền Ngoài, thuyền bè đi lại từ ngoài khơi sẽ dễ dàng thấy. Một lý do khác cũng cho phép quả quyết “bến Bà Chúa hiện ra trước mặt” kia là Lạch Cờn, nơi đó có ngôi đền Cờn đã nổi tiếng khắp nơi. Tiếng đồn về sự linh thiêng của Bà Chúa khiến cho những người vượt biển hoặc đi ngang qua đó đều sợ hãi phải lo cúng tế cầu an. Vị thuyền trưởng (của thuyền chở Đắc Lộ) cũng ở trong trạng huống ấy, nên “ông chuẩn bị cúng tế dị đoan để lấy lòng ma quỉ”. Việc chuẩn bị đầu tiên là cho thuyền ghé bến Bà Chúa để vào đền Cờn thắp nhang cúng tế [Trần Minh Công 2009 : 4].

Thứ hai, từ chỗ thấy hầu như khắp các cửa biển cửa sông (trên một phạm vi rộng lớn) đều có đền thờ Bà Chúa theo mẫu truyền thuyết đền Cờn, Trần Minh Công đưa ra phỏng đoán rằng, rất có thể khi các thừa sai đến truyền đạo vào cửa biển nào nghe dân nói có thờ Bà Chúa thì gọi đó là Cửa Chúa. Vì vậy, “nói Cửa Lò là “cửa chúa” cũng không sai. Bởi vì ở đó cũng có một đền thờ Tứ vị tại làng Kiên Trung, Nghi Thiết. Đền này nhỏ hơn Đền Cờn, cũng bị bom Mỹ phá trong thời chiến tranh, nay mới được sửa lại và được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 25.09.1992”. Từ đó, Trần Minh Công đi đến kết luận rằng, “Cửa chúa trong bối cảnh “cuộc hành trình bất đắc dĩ” của giáo sĩ Đắc Lộ vào cuối tháng 3 năm 1629 là cửa Hội. Bởi vì đây là “Bến chính của thành phố Vinh, nơi ở của quan tỉnh”. Và như vậy, rất có thể giáo sĩ Đắc Lộ có sự lầm lẫn khi dùng danh xưng “cửa chúa” để ám chỉ cửa Hội chăng?” [Trần Minh Công 2009 : 5].

Như vậy, vẻ như tác giả Trần Minh Công đã tự mâu thuẫn trong kiến giải về Cửa Chúa. Ông cho rằng đó là Cửa Cờn với ngôi đền Cờn thờ Tứ vị hay Tứ vị Thánh nương (tức không phải là Cửa Lò như định thuyết trước nay), nhưng chính ông lại cho rằng cũng có thể đó là Cửa Lò hay Cửa Hội. Cửa Hội, theo Trần Minh Công, là Cửa Rùm (Cua Rum) trên bản đồ An Nam do Đắc Lộ vẽ, đó là cửa chính của tỉnh thành Nghệ An nơi quan tỉnh ở. Có lẽ không phải là tự mâu thuẫn, mà là một sự do dự trong khẳng định, và nếu diễn đạt quan điểm của Trần Minh Công theo cách của chúng tôi thì có tóm tắt như sau: Cửa Chúa đích thực là Cửa Cờn nơi có đền Cờn thờ Bà Chúa (một vị hải thần linh thiêng có tiếng trong một vùng rộng lớn), tuy nhiên, có lẽ do sự nhầm lẫn của Đắc Lộ, mà ở một số chỗ trong ghi chép của ông, Cửa Chúa còn là Cửa Hội hoặc Cửa Lò, nhưng Cửa Hội và Cửa Lò không phải là Cửa Chúa đích thực[18].

clip_image012

Hình 5 : Các cửa biển ở vùng Thanh – Nghệ (Bạng, Lạch Quèn, Thới, Vạn, Lò, Hội, Sót, Nhượng,…)[19]

Ở đây, sẽ nảy ra vấn đề liên quan đến ghi chép của Đắc Lộ đối với Cửa Chúa, rằng ông có nhầm lẫn không ? Tức là, Đắc Lộ có nhầm Cửa Cờn (Cửa Chúa đích thực) với Cửa Lò và Cửa Hội (không phải Cửa Chúa đích thực) hay không ?

Khác với Trần Minh Công, chúng tôi cho rằng Đắc Lộ đã không nhầm lẫn. Ghi chép và định vị trên bản đồ của ông về Cửa Chúa là nhất quán, chỉ có một Cửa Chúa duy nhất, và đó chính là Cửa Cờn. Như trên đã nói, và như sẽ trình bày ở dưới đây, Cửa Chúa/Cửa Cờn là cửa biển gắn bó với lữ trình truyền giáo của Đắc Lộ một cách duyên cớ.

Các nghiên cứu trước đây thường tập trung vào thời điểm tháng 3 năm 1629 trong mối liên quan giữa Đắc Lộ và Cửa Chúa (thuyền của ông khởi hành từ Thăng Long, vào ngày cuối tháng 3 năm 1629). Có lẽ, các nhà nghiên cứu đi trước nghĩ rằng, Đắc Lộ ghé qua Cửa Cờn chỉ có một lần duy nhất, và những lần sau dù Đắc Lộ nói là vào Cửa Chúa nhưng không phải Cửa Cờn mà có thể là Cửa Lò hay Cửa Hội. Chúng tôi thì cho rằng, Đắc Lộ đã tới Cửa Cờn cả thảy 3 lần (ghé qua, tới gặp người, xuất phát).

Ở một dịp khác, nếu có điều kiện, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về lịch trình truyền giáo ở Đàng Ngoài của Đắc Lộ (theo kết quả khảo sát tư liệu của chúng tôi[20]), từ lúc ông vào Đàng Ngoài đến lúc bỏ Đàng Ngoài mà đi, tức là từ tháng 3 năm 1627 đến tháng 5 năm 1630. Ông lần đầu tiên vào Đàng Ngoài từ Cửa Bạng ở Thanh Hóa (tháng 3 năm 1627, đến từ Ma Cao), và cuối cùng rời bỏ Đàng Ngoài từ Cửa Cờn ở Nghệ An (tháng 5 năm 1630, trở về Ma Cao). Chúng tôi cho rằng ông bỏ đi (trở về Ma Cao) bắt đầu từ Cửa Cờn ở Nghệ An, mà không phải là Cửa Hội như các nghiên cứu đi trước. Về đại thể, theo chúng tôi, lịch trình truyền giáo của Đắc Lộ ở Đàng Ngoài có thể chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1: có thể tính từ ngày 19 tháng 3 năm 1627 (trùng ngày lễ thánh Giuse, tại cửa Bạng)[21] đến cuối tháng 3 năm 1629, tức gần tròn 2 năm, tạm gọi là giai đoạn từ Ma Cao đến Thăng Long (Ma Cao – Cửa Bạng – qua đường sông Đáy đi vào đường sông Hồng để đến Thăng Long – gặp chúa Trịnh ở khu vực gần Phủ Lý[22] – theo chúa Trịnh vào Thanh Hóa, dừng lại ở khu vực An Vực – cùng chúa Trịnh về phủ chúa ở Thăng Long – truyền giáo ở Thăng Long và vùng lân cận). Giai đoạn 2: có thể tính từ cuối tháng 3 năm 1629[23] đến khoảng tháng 10 năm 1629[24], tức khoảng 8 tháng, tạm gọi là giai đoạn phải rời bỏ Thăng Long đến tỉnh Bố Chính, với dự định từ đó về Ma Cao nhưng không xuất cảng được (Thăng Long – Kẻ Bờ – Kẻ No/Cửa Bạng – ghé qua Cửa Chúa/Cửa Cờn – tỉnh Bố Chính – Nghệ An – Cửa Rum – tới gặp người Bồ đợi ở Cửa Chúa/Cửa Cờn). Giai đoạn 3: có thể tính từ tháng 10 năm 1629 đến tháng 5 năm 1630, tức khoảng 7 tháng, tạm gọi là giai đoạn tạm trở lại Thăng Long, rồi lại phải rời bỏ Thăng Long, quay lại vùng Thanh Nghệ để từ đó về Ma Cao (Cửa Chúa/Cửa Cờn – theo người Bồ về Thăng Long – truyền giáo ở Thăng Long – rời bỏ Thăng Long – Kẻ Bờ – Kẻ Bích – tới gặp người Bồ đang đợi Cửa Chúa/Cửa Cờn – từ Cửa Cờn về Ma Cao). Với một lịch trình được trình bày vắn tắt ở trên, chúng tôi cho rằng, Đắc Lộ đã tới Cửa Cờn 3 lần trong khoảng thời gian của Giai đoạn 2 và Giai đoạn 3 (Giai đoạn 2 chỉ ghé qua, không vào; Giai đoạn 3 thì tới 2 lần, trong đó, một lần thì từ đó đi Thăng Long, lần cuối cùng thì từ đó đi Ma Cao).

Cụ thể hơn, ghi chép của Đắc Lộ trong Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài và Hành trình và truyền giáo về 3 lần tới Cửa Chúa của ông như sau (xem Bảng 1 ở dưới đây).

Lần tớiThời gian tớiLịch sử vương quốc Đàng NgoàiHành trình và truyền giáo
Nguyên bảnBản dịchNguyên bảnBản dịch

Mô tả tổng quát

(trang 108)“Cua Cuja

Le port de la Reyne

(trang 69)“Cửa chúa”

“Cửa biển bà chúa”

Không có ghi chép

Lần 1

Tháng 3/1629(trang 229)“Cua Ciüa

Port de la Reine

(trang 148)“Cửa chúa”

“Bến bà chúa”

Không có ghi chép

Lần 2

Tháng 10/1629(trang 243)“Port de la Prouince de Ghean(trang 157)“bến tỉnh Nghệ An”(trang 109)“Cua Choua(trang 82)“Cửa Chúa”
Lần 3Tháng 5/1630(trang 258)“Port applle de la Reyne(trang 166)“Cửa chúa”Không có ghi chép

Bảng 1: Đối chiếu các ghi chép của Đắc Lộ về Cửa Chúa ở Nghệ An và 3 lần ông tới đây

Các nghiên cứu trước đây không thực hiện việc đối chiếu ghi chép của Đắc Lộ về Cửa Chúa và 3 lần ông tới đây (như chúng tôi làm tại Bảng 1), vì vậy, thường mắc hai lỗi sau. Thứ nhất, nội dung “Mô tả tổng quan” (xem Bảng 1) đặc biệt quan trọng đối với việc xác định vị trí Cửa Chúa/Cửa Cờn và tính chất của vị thần được thờ ở đó, lại thường bị bỏ qua (điều này, chúng tôi sẽ trở lại phân tích kĩ hơn trong mục 3). Thứ hai, lầm tưởng “Port de la Prouince de Ghean” (“bến tỉnh Nghệ An) trong lần 2 (xem Bảng 1) là cửa biển tiêu biểu cho tỉnh Nghệ An lúc đó, tức Cửa Hội (gần chỗ quan tỉnh ở). Thực ra, nếu đối chiếu ghi chép ở hai cuốn sách do Đắc Lộ viết, ta sẽ biết đó chỉ là một bến thuộc vào tỉnh Nghệ An, và vẫn là “Cua Choua”, tức Cửa Cờn. Hãy thử đọc đối chiếu hai đoạn sau.

Đoạn 1 – Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài (lần 2, những chỗ in nhấn mạnh là bởi chúng tôi): “cha tới cùng tàu người Bồ đậu ở bến tỉnh Nghệ An [nguyên văn: Port de la Prouince de Ghean] nơi chúng tôi đang có mặt. Chúng tôi hằng nhận thấy một dấu hiệu đặc biệt của lòng nhân lành và sự quan phòng của Thiên Chúa. Để yên ủi và nâng đỡ chúng tôi Người đã chỉ dẫn lối cho chiếc tàu đến cái bến hẻo lánh này, trước đây chưa bao giờ và sau này không bao giờ có tàu người Bồ tới, vì bất an toàn và quá xa kinh thành. Tin mừng này làm cho lòng chúng tôi đầy tràn hoan lạc và làm tiêu tan hết những cơ cực đã qua, chúng tôi ra khỏi túp lều ông già Simêon tốt lành đã cho chúng tôi mượn và đi thẳng tới tàu vừa cập bến. Được gặp các cha chúng tôi từ rất lâu và rất mong ước chờ đợi, chúng tôi ôm nhau thân thương và mắt nhỏ lệ, giòng châu đôi bên chan hòa”.

Đoạn 2 – Hành trình và truyền giáo (lần 2): “Trong thời gian này chúng tôi bị dồn vào thế thiếu thốn mọi sự, đành phải cậy nhờ giáo dân. Họ đã rất rộng rãi cung cấp cho chúng tôi mọi thức cần dùng. Đồng thời được tin có tàu người Bồ đã đợi sẵn ở cửa chúa [nguyên văn: Cua Choua] có hai cha dòng đến đón vì được tin ở Macao cho biết chúng tôi bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài. Chúng tôi quá đỗi vui sướng khi được gặp và được ôm các ngài, vui mừng biết kể sao hết.”

Đọc đối chiếu hai đoạn trên, không chỉ thấy rõ “Port de la Prouince de Ghean” (“bến tỉnh Nghệ An), không thể khác, chính là “Cua Choua” (Cửa Chúa), mà quan trọng hơn thế, ta còn biết những thông tin quan yếu về Cửa Chúa. Đó là một “cái bến hẻo lánh”, “bất an toàn và quá xa kinh thành” (đây chỉ kinh thành Thăng Long). Đặc biệt, chính vì lí do trên, mà Cửa Chúa “trước đây chưa bao giờ và sau này không bao giờ có tàu người Bồ tới”, tức là nó chỉ được sử dụng để nối giữa Ma Cao với Đàng Ngoài duy nhất có một lần này mà thôi. Trước đó và sau đó, không bao giờ người ta sử dụng Cửa Chúa vào việc cập bến và xuất bến trong lữ trình từ Ma Cao đến Đàng Ngoài và ngược lại. Như vậy, Cửa Chúa ở đây không thể là Cửa Hội (có lẽ không “hẻo lánh” và không quá “bất an toàn”), chỉ có thể là Cửa Cờn. Tính duy nhất kể trên là một căn cứ để chúng tôi cho rằng, Cửa Cờn có gắn bó một cách duyên cớ với lữ trình truyền giáo của Đắc Lộ. Tuy nhiên, ở thời điểm tháng 10 năm 1629 này (thời điểm liên quan đến hai đoạn trích ở trên), ông mới chỉ đến để gặp người Bồ đang đợi mình tại Cửa Cờn, mà chưa thể xuất cảng từ đó mà về Ma Cao ngay được (bản thân ông cũng không có ý về Ma Cao ngay lúc đó, mà muốn nấn ná ở thêm để chăm lo cho giáo dân). Từ Cửa Cờn, ông lại theo người Bồ về lại Thăng Long một lần nữa. Rồi cuối cùng, đến tháng 5 năm 1630, Đắc Lộ mới quay lại Cửa Cờn để từ đó về Ma Cao.

Bằng việc đối chiếu tư liệu gốc như trên, chúng tôi còn biết được rằng, không phải hễ cứ cửa biển nào có đền thờ Bà Chúa (tức đền thờ Tứ vị) thì Đắc Lộ gọi là Cửa Chúa (theo dân gian). Chỉ với Cửa Cờn, ông mới sử dụng cái tên Cửa Chúa. Điều này có thể thấy qua những ghi chép của Đắc Lộ về Cửa Bạng. Tại Cửa Bạng, nơi mà Đắc Lộ đặt chân đầu tiên khi tới Đàng Ngoài, cũng có một đền thờ Tứ vị giống như Cửa Cờn, đó là đền Lạch Bạng ở làng biển Do Xuyên xã Hải Thanh huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa (xem Tư liệu mạng 7[25]). Đắc Lộ đã đến ngôi đền này, ghi lại sự tích về vị nữ thần được thờ trong đó (sẽ trở lại cụ thể hơn ở mục 3). Với con mắt của một giáo sĩ, Đắc Lộ xem ngôi đền đó là một thứ dị đoan, nên đã cùng một số người Bồ, dựng một cây thánh giá lớn trên đỉnh cao nhất của một ngọn núi gần đó, và tin rằng nhờ vào thế lực của dấu thánh mà xua đuổi được ma quỉ [Alexandre De Rhodes 1651 b : 132; Alexandre De Rhodes 1994a : 85 (bản dịch)]. Như vậy, rõ ràng ở khu vực Cửa Bạng cũng có đền thờ Bà Chúa, nhưng Đắc Lộ không hề gọi Cửa Bạng là Cửa Chúa (ông còn qua lại khu vực Cửa Bạng một lần nữa vào năm 1629). Thêm nữa, dù Đắc Lộ muốn đặt tên Cửa Bạng theo tên thánh là Cửa Thánh Giuse/Joseph (để kỉ niệm ngày 19 tháng 3 năm 1627 – như đã trình bày ở trên), nhưng ông không ghi tên mình muốn đó, mà ghi đúng tên Cửa Bạng (Cua Bang) theo cách gọi dân gian trên bản đồ An Nam (xem Hình 2b, Hình 6). Các tên Cửa Chúa, Cửa Rùm, Cửa Sót, Cửa Đáy, Cửa Bích, trên tấm bản đồ đó, có lẽ đều được ghi bằng tên quen dùng trong dân gian như vậy.

Liên quan đến những cửa biển trên tấm bản đồ do Đắc Lộ vẽ vào thập niên 1650 ở trên, gần đây, Peter C. Phan, trong một công trình nghiên cứu viết bằng tiếng Anh, có lẽ là một trong những công trình bề thế nhất cho đến nay, về Đắc Lộ và quá trình truyền giáo của ông, có cho đính kèm một bản đồ Indochina do các giáo sĩ Dòng Tên thời kì đầu vẽ (“Map of Indochina designed by early Jesuit missionaries”) [Peter C. Phan 1998 : 37]. Hiện chúng tôi chưa rõ bản đồ này được vẽ trước hay vẽ sau bản đồ thập niên 1650 của Đắc Lộ, hay chính là một phiên bản khác (ở một thời điểm khác) của bản đồ thập niên 1650 (tức cũng do Đắc Lộ vẽ), tạm gọi nó là bản đồ Indochina. Trên bản đồ Indochina, ta cũng thấy có bốn cửa biển, là Cua Bang, Cua Ciua, Cua Rum, Cua So (xem Hình 6).

clip_image014

Hình 6: Trích đoạn từ Bản đồ Indochina do các giáo sĩ Dòng Tên thời kì đầu vẽ [Peter C. Phan 1998 : 37[26]]

Đặc biệt, trên bản đồ Indochina, Cửa Bạng được giải thích ngay bên dưới là “Le Port de Sanit Joseph” (Cửa Thánh Giuse), và Cửa Chúa (Cua Ciua) được giải thích là “Le Port de la Reine” (Cửa Bà Chúa). Ở khu vực Cửa Chúa cũng thấy địa danh “Vàng Mai” và “Kẻ Len”. Tất cả những điều này làm tăng tính khả tín cho việc định vị của Đắc Lộ đối với 4 cửa biển trên tấm bản đồ do ông vẽ vào thập niên 1650.

Một lí do nữa từ góc độ ngôn ngữ cho phép chúng ta nghĩ rằng Đắc Lộ không hề lẫn lộn Cửa Chúa (tức Cửa Cờn) với các cửa biển khác là: khi đến Đàng Ngoài, ông đã rất thành thạo tiếng Việt, vì trước đó đã có thời gian dài truyền đạo ở Đàng Trong. Liên quan đến thời kì học tiếng Việt ở Đàng Trong, ông cho biết: “Mỗi ngày tôi học một bài và siêng năng như khi xưa vùi đầu vào khoa thần học ở Rôma. Chúa đã cho tôi trong bốn tháng tôi đủ khả năng để ngồi tòa giải tội và trong sáu tháng tôi đã giảng được bằng ngôn ngữ Đàng Trong và cứ thế tôi tiếp tục trong nhiều năm” [Alexandre De Rhodes 1994b : 55-56 (bản dịch)]. Với khiếu học ngoại ngữ và một vốn tiếng Việt chắc chắn như vậy ở thời điểm các năm 1629 -1630, lại có bản tính cẩn thận trong ghi chép, chắn hẳn Đắc Lộ không nhầm trong kí âm tên Cửa Chúa, cũng như không nhầm nó với các cửa biển khác.

Hơn nữa, nếu đối chiếu bản đồ cùng ghi chép của Đắc Lộ về Cửa Chúa với những ghi chép tương tự trong một cuốn kí sự bằng Hán văn đã biết đến rộng rãi trong học giới là Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720-1790), chúng ta sẽ có được thêm căn cứ để thấy Cửa Chúa chính là Cửa Cờn. Mặc dù thời điểm ghé vào Cửa Cờn trên đường từ Nghệ An ra Thăng Long của Lê Hữu Trác muộn hơn 150 năm so với thời điểm Đắc Lộ tới Cửa Cờn lần đầu tiên (năm 1781 và năm 1629), nhưng có rất nhiều điểm trùng khớp. Trước hết là địa danh “Hoàng Mai/chợ Hoàng Mai” ở gần cầu Kim Lan, tại khu vực Cửa Cờn có ngôi đền “thờ vị thần thiêng nhất Nghệ An” trong ghi chép của Lê Hữu Trác [Lê Hữu Trác (Phan Võ dịch), 1973 : 22 – 26]. Chiều ngày 22 tháng Giêng năm Cảnh Hưng 43 (1781), Lê Hữu Trác đã đến chơi ở khu vực chợ Hoàng Mai và nghỉ lại ở đó. Sáng hôm sau, ngày 23, ông và mấy người đến cầu Kim Lan, đứng từ xa mà vái cái đền thiêng nhất Nghệ An ấy, đó chính là đền Cờn. Theo miêu tả của Lê Hữu Trác từ khu đền Cờn đến khe Nước Lạnh – là nơi giáp giới Thanh Hóa và Nghệ An[27] – rất gần về cự li, cũng tức là rất gần với cửa bể Thần Phù. Đối xứng với địa danh Hoàng Mai trong ghi chép của Lê Hữu Trác, ta thấy trên bản đồ của Đắc Lộ có tên sông Vàng Mai (cũng tức là Hoàng Mai, xem Hình 2b), đó là con sông đổ ra biển để tạo thành cửa biển mang tên Cửa Cờn (hay Cửa Lạch Cờn)[28]. Khoảng cách gần với khu vực giáp giới hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An của Cửa Chúa cũng đã được Đắc Lộ ghi lại như sau: “Rồi chúng tôi lên buồm đi từ tỉnh Thanh Hóa tới tỉnh Nghệ An và chúng tôi thấy hiện ra bến Bà Chúa, người bản xứ gọi là Cửa Chúa, nơi thờ người con gái hoang dâm đã nói đến ở trên” [Alexandre De Rhodes 1994a : 148 (bản dịch)].

Cuối cùng, từ biệt Đàng Trong để trở về Ma Cao vào tháng 5 năm 1630, giáo sĩ Đắc Lộ và một số thương nhân người Bồ đã xuất phát từ chính Cửa Chúa, tức Cửa Cờn. Ông thuật lại: “Cuối cùng sau khi đã đi qua các nơi và ban lời yên ủi và khuyên dụ thích hợp với hoàn cảnh, thì chúng tôi tới cửa bể gọi là Cửa Chúa [nguyên văn: Port applle de la Reyne], nơi đây có tàu người Bồ đang chờ chúng tôi và nơi đây phải ngừng lại một thời gian để cho giáo dân từ các miền lân cận kéo đến xin xưng tội cũng như chịu phép rửa tội (…) Từ đây chúng tôi sửa soạn lên buồm và phải từ biệt Phanchicô đã theo chúng tôi từ Kẻ Chợ” [Alexandre De Rhodes 1994a : 166 (bản dịch)]. Việc xuất phát từ Cửa Cờn để trở về Ma Cao của Đắc Lộ năm đó, như lời ông, là sự kiện duy nhất, trước và sau đó không bao giờ có. Đắc Lộ đến Đàng Ngoài qua Cửa Bạng, và rời khỏi Đàng Ngoài bằng Cửa Cờn, ở cả hai cửa bể ấy đều có đền thờ Bà Chúa. Qua hoạt động thực tiễn của mình, giáo sĩ Đắc Lộ đã ghi chép và suy nghĩ như thế nào về Bà Chúa ? Chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề này ở mục 3 tiếp theo đây.

3. Bà Chúa đền Cờn dưới con mắt của một giáo sĩ phương Tây thế kỉ XVII

Như đã trình bày ở trên, giáo sĩ Đắc Lộ từng 3 lần tới Cửa Cờn, và ông cũng biết không phải chỉ ở đó mới có đền thờ Bà Chúa. Ông cũng đã đến đền thờ Bà Chúa tương tự như vậy ở Cửa Bạng (và có lẽ còn ở nhiều nơi khác). Bởi vậy, chúng ta có thể nghĩ rằng, Đắc Lộ đã trực tiếp nghe, không phải chỉ một mà là nhiều lần, về lai lịch của Bà Chúa ở nhiều nơi có đền thờ bà. Điều này làm tăng tính khả tín cho những ghi chép của ông về Bà Chúa.

Đắc Lộ đã viết một khái quan như sau về Bà Chúa được thờ chính ở đền Cờn: Đoạn 1 – “Còn có một chuyện rất phổ biến trong nước. Có một con vua Tàu vì sống quá bê tha nên vua cha bắt ném cho chết đuối dưới biển, nhưng thi hài nổi lên và trôi giạt vào một cửa biển Đàng Ngoài. Ở đây có người dân sở tại bị tai nạn xảy ra cạnh thi hài người con gái này. Dân làng không những đem chôn cất mà còn dâng kính cửa biển như dâng kính một nữ thần bảo hộ và ngày nay đặt tên cửa biển đó là Cửa Chúa nghĩa là cửa biển bà chúa. Từ nơi này chuyện dị đoan đã lan tràn khắp nước An Nam, đến nỗi không có một cửa nhỏ ở suốt dọc bờ biển mà không có một đền dâng kính người con gái bê tha đó. Hết các thương gia và thủy thủ đều đến cúng lễ cho nữ hải thần và vị ngự trị các biển. Một ngày kia Thiên Chúa sẽ cho thấy, như chúng tôi hi vọng, những đền ngoại đạo thờ bà chúa lăng loàn đáng phỉ nhổ này, được dâng kính đức Trinh nữ Nữ vương thiên quốc, ngôi sao biển đích thực, đấng chỉ bảo và phù hộ cứu vớt người trần” [Alexandre De Rhodes 1994a : 69 (bản dịch)].

Về ngôi đền ở Cửa Bạng cũng thờ Bà Chúa này, Đắc Lộ viết như sau: Đoạn 2 – “trong cửa biển này có một đền kính dâng người thiếu nữ Trung Hoa vô đạo bị chết đuối ngoài biển, như trên tôi đã nói [tức là như đoạn 1 ở trên – cxg chú], đền này chúng tôi không có quyền phá, chúng tôi chỉ tin rằng thánh giá bao quát cửa biển này sẽ dùng thế lực của mình mà xua đuổi ma quỉ được thờ ở đó” [Alexandre De Rhodes 1994a : 85 (bản dịch)].

Ở một chỗ khác, là lần đầu tiên thấy Cửa Cờn, Đắc Lộ đã tường thuật sự việc một cách tỉ mỉ như sau: Đoạn 3 – “Rồi chúng tôi lên buồm đi từ tỉnh Thanh Hóa tới tỉnh Nghệ An và chúng tôi thấy hiện ra bến bà chúa, người bản xứ gọi là Cửa Chúa, nơi thờ cúng người con gái hoang dâm chúng tôi đã nói ở trên [tức là như đoạn 1 ở trên – cxg chú] và là nơi (Thiên Chúa cho phép để trừng trị những dị đoan ma quỉ được sùng bái ở đó) ma quỉ làm trên những lương dân bản xứ nhiều điều hung dữ và làm cho người ngoài xứ qua lại đó phải sợ hãi. Thuyền trưởng còn là lương dân, khi tới gần, ông cũng bắt đầu sợ xảy ra tai nạn và ông chuẩn bị cúng tế dị đoan để lấy lòng ma quỉ” [Alexandre De Rhodes 1994a : 148 (bản dịch)].

Nếu đọc xuôi theo số trang của cuốn Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, thì chúng ta sẽ đọc lần lượt như trên (đoạn 1 – đoạn 2 – đoạn 3), tức là theo trình tự của một tác phẩm đã hoàn chỉnh. Nhưng nếu đọc nó với tư cách là một bản thảo đang được soạn, hình thành từ các sổ nhật kí/ghi chép[29] cùng trí nhớ của Đắc Lộ, thì ta cần đọc theo trình tự sau: đoạn 2 – đoạn 3 – đoạn 1. Có nghĩa là, đoạn 2 và đoạn 3 là thực tế về nữ thần được gọi là Bà Chúa mà Đắc Lộ đã trải nghiệm, còn đoạn 1 là tổng kết của ông về nữ thần được gọi là Bà Chúa từ các thực tế ấy. Thực tế trong đoạn 2 xảy ra vào tháng 3 năm 1627 (tại Cửa Bạng), còn thực tế trong đoạn 3 xảy ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 năm 1629 (tại Cửa Chúa), tức là cách nhau khoảng 2 năm. Trong khoảng thời gian 2 năm đó, Đắc Lộ đã cập bến rất nhiều cửa biển và cửa sông, có lẽ đã gặp rất nhiều đền thờ Bà Chúa tại các cửa ấy (“không có một cửa nhỏ ở suốt dọc bờ biển mà không có một đền dâng kính người con gái bê tha đó”), nhưng ông chỉ lưu ý nhất đến hai thực tế trên, hoặc cũng có thể hiểu đó là hai thực tế đáng nhớ nhất về Bà Chúa mà ông đã trải nghiệm (một là nơi đầu tiên ông đặt chân lên Đàng Ngoài, một là trung tâm của tín ngưỡng thờ Bà Chúa). Nếu đọc các ghi chép của Đắc Lộ với tư cách như là các mảnh rời của một dân tộc chí về Bà Chúa ở thế kỉ XVII, như chúng tôi đã trình bày ở trên, thì chúng ta càng tin rằng, ông hoàn toàn nhất quán trong các ghi chép, và Cửa Chúa ở trong ghi chép của ông chính là Cửa Cờn.

clip_image016

Hình 7Tòa tiền môn đền Cờn mới được xây dựng lại năm 2002 [ảnh lấy từ Tư liệu mạng 9]

Chúng ta đã biết rộng rãi rằng đền Cờn (tức Càn Hải môn từ) là trung tâm của tín ngường thờ Tứ vị Thánh nương (TVTN) trong toàn quốc, đó là một tập hợp thần biển có nguồn gốc Trung Hoa, mà sự tích/lai lịch về tập hợp này, như đã trình bày ở bài viết trước của chúng tôi [Chu Xuân Giao 2009], có thể thấy trong các cuốn sách quan trọng là Lĩnh Nam chích quái (LNCQ) và Việt điện u linh (VĐUL), cũng như rất nhiều thần tích thần sắc ở các nơi, nhiều sách địa phương chí hay kí sự (như cuốn Thượng kinh kí sự đã trích dẫn ở trên). Điều đáng chú ý nhất là, sự tích về Bà Chúa, tức TVTN, được ghi trong LNCQ – VĐUL và hầu hết các tài liệu Hán Nôm có độ lệch pha lớn với sự tích trong ghi chép của Đắc Lộ. Một bên là một bà hoàng Trung Hoa trung nghĩa và tiết hạnh (đi kèm theo là hai hay ba người nữa để thành một tập hợp Tam vị hay Tứ vị), một bên là một người con gái Trung Hoa (tuy là công chúa, hay con gái vua) nhưng bê tha/hoang dâm/vô đạo đến mức bị cha vứt xuống biển rồi chết đuối ! Tuy nhiên, Đắc Lộ chỉ ghi chung chung như vậy mà không chi tiết hóa về cái gọi là bê tha/hoang dâm/vô đạo của người con gái Trung Hoa kia (hoặc giả, người địa phương chỉ cho ông biết đến mức đó).

Đến đây, chúng ta thấy một điều thú vị là, không chỉ tư liệu ở thế kỉ XVII của Đắc Lộ đề cập đến yếu tố hoang dâm trong hình tượng Bà Chúa (Thánh nương) ở đền Cờn, mà còn có cả một tư liệu ra đời ở trước đó một thời gian – nửa cuối thế kỉ XVI. Đó là tiểu mục Tứ vị thánh nương trong cuốn sách đã được học giới chú ý từ lâu là Ô châu cận lục.

Như chúng tôi đã trình bày ở bài trước [Chu Xuân Giao 2009], Ô châu cận lục, theo lời tựa sách ấy, được Dương Văn An hoàn thành vào “ngày rằm tháng 6 năm Cảnh Lịch”, tức trong khoảng các năm 1548 – 1553 thuộc triều Mạc Phúc Nguyên. Theo lời tựa sách ấy, Dương Văn An không phải là người biên soạn từ đầu, mà chỉ là người nhuận sắc hai tập sách đã có của hai người đồng hương nhân dịp ông về quê (tỉnh Quảng Bình ngày nay) chịu tang. Có nghĩa là ông đã “khảo cứu thêm trong sử sách, tham khảo những điều mắt thấy tai nghe, chỗ rườm rà quá thì cắt bớt đi, chỗ sơ sài quá thì bổ sung thêm, rồi đặt tên là Ô châu cận lục” [Dương Văn An 1997 : 11]. Trong sách này, ở mục Đền thờ thần (Thần từ) của quyển 5 Đền chùa (Tự, từ môn), có tiểu mục Tứ vị thánh nương. Trong tiểu mục đó, tác giả sách có đưa ra hai hệ/dạng truyền thuyết khác nhau về Bà Chúa, một thì cho rằng bà có lai lịch là một phu nhân Nam Tống, một thì cho rằng vốn là hoàng hậu của Hùng Vương thứ 13. Chỗ đặc sắc nhất trong ghi chép về dạng truyền thuyết thứ nhất là đoạn có lẽ là tả thực, kèm theo lời bình sau (của Dương Văn An ?): “Phàm thuyền buôn xa gần đi ngang qua biển, nếu gặp phong ba mà thành khẩn cầu đảo, trong chốc lát quả được bình yên. Đến nay, cửa biển khắp nơi đều lập miếu thờ để cúng tế, trở thành phúc thần thiêng liêng ở biển Nam vậy. Tục cũ người địa phương không rõ, nên lấy dâm vật để thờ thần. Sao mà bàn bạc xằng bậy thế. Cần phải nghiêm trị mà cấm ngăn để biểu dương sự chính trực của thần vậy” [Dương Văn An 2001 : 96]. Một nhà Nho ở thế kỉ XVI tỏ ra không hài lòng, thậm chí có thể nói là giận dữ, với việc người địa phương “lấy dâm vật để thờ thần” trong đền Bà Chúa. Tuy nhiên, tác giả Ô châu cận lục cũng không cho biết rõ là “dâm vật” gì và cách sử dụng vật ấy trong thờ cúng Bà Chúa như thế nào. Với dự đoán của Tạ Chí Đại Trường, “dâm vật” ấy là cái linga (“có thể hiểu ngay là người ta thờ cái linga”), và ở đó có việc “lấy cây gậy gỗ/đá chọc vào lỗ lường”. Từ đó, ông đi đến một phán đoán xa hơn, rằng: “có thêm bằng chứng là các đền thờ Bà Banh gần biển trong châu thổ sông Hồng không cần phải gốc từ các tù binh Chàm” [Tạ Chí Đại Trường 2006 : 178].

Trở lại với những ghi chép của Đắc Lộ ở thế kỉ XVII, và đối sánh nó với ghi chép (hay nhuận sắc) của Dương Văn An (hay của một ai đó sau ông[30]) ở thế kỉ XVI, chúng ta sẽ thấy, cùng đề cập đến yếu tố “hoang dâm” của Bà Chúa, nhưng một người thì chỉ cho biết về tính cách dâm của vị thần đó, một người thì chỉ đề cập đến sự thờ phụng lệch lạc mang tính dâm của con dân đối với vị thần. Với ghi chép của Đắc Lộ, ta chỉ biết đó là vị dâm thần nhưng không biết người thờ phụng bà có sử dụng dâm vật trong các ngôi đền hay không. Với ghi chép của Dương Văn An, ta lại chỉ biết là trong đền thờ có dâm vật, còn bản thân tính cách của thần thì lại không rõ có phải dâm thần hay không (về cơ bản, Dương Văn An thuật lại lai lịch của Bà Chúa theo truyền thống đề cao sự trung nghĩa và tiết hạnh của người phụ nữ). Chính sự tương dị và tương đồng ở đây giữa hai cách ghi chép, cũng tức là hai cách nhìn, sẽ gợi ý cho chúng ta những vấn đề khác (chẳng hạn như quá trình biên soạn thần tích về TVTN, quan niệm của Nho gia về dâm thần), nhưng ở đây thì xin tạm gác lại.

Cuối cùng, cần thiết phải nói đến quan điểm của Đắc Lộ về Bà Chúa. Như có thể thấy từ các trích dẫn trên đây, một mặt với tư cách là một người ghi chép khách quan, Đắc Lộ công nhận sự sùng kính nhiệt thành của người đi biển dành cho bà, họ tôn sùng bà như vị thần bảo hộ sinh mệnh trong mỗi chuyến ra khơi, và hễ có dịp ghé qua ngôi đền chính thờ bà ở Cửa Chúa thì nhất định phải vào cầu đảo nếu không lữ trình tiếp đó sẽ không được bình an. Nhưng ở mặt khác, trong tư cách là một thừa sai công giáo, Đắc Lộ cho bà là một hiện thân của ma quỉ cần phải được chinh phục bằng uy lực của Đức Kitô toàn năng; chính bởi thế, ông đã từng dựng cây thánh giá lớn trước đền thờ Bà Chúa ở Cửa Bạng, khi ghé qua Cửa Chúa lần đầu tiên ông cũng không vào đền vái lạy Bà Chúa.

Lời kết

Như đã trình bày ở trên, các ghi chép thực tế và có chiều sâu về Bà Chúa/ Cửa Chúa của Đắc Lộ với những niên đại biên soạn và xuất bản được xác định rõ ràng là những tư liệu vô cùng quí giá cho nghiên cứu (lịch sử, lịch sử tôn giáo). Tuy nhiên, chúng tôi không sử dụng chúng chỉ đơn thuần là tài liệu lịch sử, mà muốn khai thác những giá trị dân tộc chí ẩn chứa trong đó, tức là xem chúng như những dân tộc chí được hình thành từ những ghi chép thực địa cần mẫn và tinh tường của giáo sĩ Đắc Lộ. Về cụ thể, bằng cách đọc lại như trên trước khối tư liệu vốn không hề xa lạ với bạn đọc, nhất là với các linh mục công giáo, chúng tôi đi đến một kết luận khác với các nghiên cứu đi trước, rằng: Cửa Chúa trong ghi chép của Đắc Lộ đích thực là (và chỉ là) Cửa Cờn hay Cửa Lạch Cờn[31] (hiện ở tại xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An). Đó là một cửa bể gắn bó một cách duyên cớ với lữ trình truyền giáo của Đắc Lộ ở Đàng Ngoài hồi thế kỉ XVII.

Cuối cùng, cần thiết nói rằng, điều chúng tôi quan tâm đến lai lịch/truyền thuyết của TVTN, tức của Bà Chúa, không phải là việc truy tìm đâu là lai lịch đúng giữa các nguồn tư liệu, mà là hướng đến việc sẽ nắm bắt sự lưu chuyển của lai lịch ấy qua trục thời gian, rút cục là để có thể nhìn thực tại đương đại ở một bình diện sâu sắc hơn. Sự lưu chuyển của truyền thuyết, bản thân nó đã là lịch sử, nhưng quan trọng hơn, theo chúng tôi là những soi chiếu hay ánh phản vào trong mình nó của thực tại và tâm thế của những thời đại đã bao chứa và chỉnh sửa nó. Sự tiếp nhận và chỉnh sửa của hiện tại, tức thời đại chúng ta đang sống, có thể tìm thấy mầm mống ngay trong, hay chịu sự chi phối một cách mặc định của, dòng lưu chuyển vốn không ngừng nghỉ đó của truyền thuyết. Truyền thuyết, với tính cách là một yếu tố văn hóa, theo cách tiếp cận nhân loại học lịch sử của chúng tôi[32], không phải là nội dung của nó, dù là nội dung tĩnh trên những lát cắt thời gian hay nội dung tổng hợp siêu thời gian, mà chính là ở sự chuyển động trong mối tương quan với thực tại và tâm thế xã hội của nội dung ấy qua các thời đại.

Quan điểm từ sử học về “thần tích” (qua trường hợp cụ thể là Phù Đổng thiên vương) của Tạ Chí Đại Trường trước đây (giữa thập niên 1980), và quan điểm về “truyền thuyết” của chúng tôi (qua trường hợp cụ thể là TVTN) ở đây đã có một điểm gặp gỡ quan trọng. Đồng thời, cũng có sự khác nhau trong hướng đích của tân sử học (new history hay non-offcial history[33]) và nhân loại học lịch sử (historical anthropology, theo quan điểm của chúng tôi). Tạ Chí Đại Trường đã viết: “Thần tích xuất hiện qua những giai đoạn khác nhau, phản ánh tâm tư của con người thời đạ, níu kéo trên bước chân của mình những sự kiện xảy ra trong thời gian đó, hay nói cách khác, một chuỗi thần tích nối tiếp nhau về một nhân vật nếu được đặt kề nhau sẽ làm nổi lên dấu vết lịch sử cấu thành nhân vật đó. Ở đây chúng ta không tìm một khuôn mặt nhạt nhòa qua thời gian mà đi tìm một khuôn mặt hình thành qua thời gian, và lẽ tất nhiên sẽ thấy được khuôn mặt lúc khởi đầu” [Tạ Chí Đại Trường 2009 : 79]. Rõ ràng, cái gọi là “sự chuyển động trong mối tương quan với thực tại và tâm thế xã hội của nội dung qua các thời đại”, với cái gọi là “khuôn mặt hình thành qua thời gian” là một sự gặp gỡ. Nhưng sau khi gặp nhau, đích hướng của hai bên lại chĩa về hai ngả không giống nhau, một bên là tiếp tục truy cứu ngược dòng lịch sử để hầu thấy được “khuôn mặt lúc khởi đầu”, một bên thì sẽ quay về với thực tại đương đại (ở bài này, chưa thực hiện được)./.

Hà Nội, tháng 9 năm 2009 – tháng 2 năm 2010

CXG
(Viện Khoa học Xã hội Việt Nam)


Tài liệu tham khảo/trích dẫn

[1] Alexandre De Rhodes, 1651a, Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum, Romae : Typ. & sumptibus Soc. Congr. de Prop. Fide 1651, Bản chụp kĩ thuật số trên mạng: http://purl.pt/961

[2] Alexandre De Rhodes, 1651b, Histoire du royaume de Tunquin, J.-B. Devenet (Lyon), Bản chụp kĩ thuật số trên mạng: http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k54392965.image.r=19.f2.pagination#

[3] Alexandre De Rhodes (phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính), 1991 (1651), Từ điển An Nam – Lusitan – Latinh (Thường gọi là Từ điển Việt – Bồ – La), Nxb Khoa học xã hội

[4] Alexandre De Rhodes (Hồng Nhuệ dịch), 1994a (1651), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài (Histoire du royaume de Tunquin), Ủy ban Đoàn kết Công giáo Tp. Hồ Chí Minh

[5] Alexandre De Rhodes (Hồng Nhuệ dịch), 1994b (1653), Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), Ủy ban Đoàn kết Công giáo Tp. Hồ Chí Minh

[6] Chu Xuân Giao, 2005, “Nhân loại học Lịch sử – một nhu cầu về phương pháp từ thực tế điền dã tại Nhật Bản, dòng chảy và động thái hiện tại của cách tiếp cận này”, Tạp chí Văn hóa dân gian số 6 (102)

[7] Chu Xuân Giao, 2006 a, “Nhân loại học Lịch sử – một nhu cầu về phương pháp từ thực tế điền dã tại Nhật Bản, dòng chảy và động thái hiện tại của cách tiếp cận này” (tiếp theo và hết), Tạp chí Văn hóa dân gian số 1 (103)

[8] Chu Xuân Giao, 2006 b, “Historical Anthropology and the Field of Japan” [Nhân loại học lịch sử và thực tiễn Nhật Bản], Proceedings of the SOAS/TUFS Post-Graduate Symposium: London, 20-21 February 2006 (Edited by Justin Watkins and Masami Arai) http://www.soas.ac.uk/cseasfiles/tufsabstracts/CHUXuanGiao.pdf

[9] Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương, 2008,”Truy tìm những khoảnh chân thực riêng lẻ: về thời điểm xuất hiện của Phủ Tây Hồ từ góc nhìn nhân loại học lịch sử”, Tạp chí Văn hóa dân gian số 3 (117) năm 2008

[10] Chu Xuân Giao, 2009, “Sự xuất hiện của Thánh nương: về xưng hiệu thần biển qua tư liệu sắc phong cho làng Hải Cát và điện Hòn Chén trong đối sánh với các nguồn tư liệu khác”, Bản thảo tham luận (16 trang đánh máy) cho Hội thảo khoa học Lễ hội đền Cờn và tục thờ Tứ vị Thánh nương với văn hóa biển ở Việt Nam (được tổ chức tại xã Quỳnh Phương huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, vào ngày 16 tháng 6 năm 2009)

[11] Dương Văn An biên soạn (Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên dịch nghĩa, chú thích), 1997, Ô châu cận lục, Nxb Khoa học xã hội

[12] Dương Văn An nhuận sắc – tập thành (Trần Đại Vinh và Hoàng Văn Phúc hiệu đính, dịch chú), 2001, Ô châu cận lục – Tân dịch hiệu chú, Nxb Thuận Hóa

[13] Lê Hữu Trác (Phan Võ dịch), 1973, Thượng kinh ký sự (Kể chuyện lên kinh), Nxb Văn học, In lần thứ hai

[14] Lý Tế Xuyên (Trịnh Đình Dư dịch, Đinh Gia Khánh hiệu đính và bổ sung), 1972, Việt điện u linh (tái bản có sửa chữa và bổ sung), Nxb Văn học

[15] Nguyễn Khắc Xuyên, 1960, “Sưu tầm tài liệu cổ tại Âu châu”, Tạp chí Việt Nam Khảo cổ tập san số 1, Bộ Quốc gia Giáo dục

[16] Nguyễn Khắc Xuyên, “Giáo sĩ Đắc Lộ với chữ quốc ngữ”, Website Dũng Lạc

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=85&ia=504

[17] Nhà xuất bản Bản đồ, 1997, Tập bản đồ hành chính Việt Nam

[18] Ninh Viết Giao chủ biên, 2004, Văn bia Nghệ An, Nxb Nghệ An

[19] Ninh Viết Giao biên soạn, 2009, Đền Cờn, tục thờ Tứ vị Thánh Nương và quần thể di tích văn hóa ở xã Quỳnh Phương, Nxb Nghệ An

[20] Peter C. Phan, 1998, Mission and Catechesis : Alexandre de Rhodes and inculturation in seventeeth-century Vietnam, Orbis Books, Maryknoll, New York

[21] Phạm Đình Khiêm, 1960, “Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII dưới con mắt giáo sĩ Đắc Lộ”, Tạp chí Việt Nam Khảo cổ tập san số 2, Bộ Quốc gia Giáo dục

[22] Tạ Chí Đại Trường, 2006 (1989), Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa -Thông tin

[23] Tạ Chí Đại Trường, 2009, Những bài dã sử Việt, Nxb Tri thức và Nhã Nam

[24] Trần Minh Công, 2005, “Đền Cờn trong bối cảnh truyền giáo của giáo sĩ Đắc Lộ”, Tạp chí Liên lạc nhân văn số tháng 7 năm 2005, Website Trung tâm văn hóa Nguyễn Trường Tộ http://ttntt.free.fr/archive/Tranmingcong.html

[25] Trần Minh Công, 2009, “Đền Cờn trong bối cảnh truyền giáo của giáo sĩ Đắc Lộ”, Website Thân hữu Bình Tuy http://www.thanhuubinhtuy.com

[26] Tư liệu mạng 1, “Giáo phận Vinh toàn tập”, Website Tuổi trẻ công giáo Việt Nam (lên trang ngày 8/5/2009) http://svconggiao.net/showthread.php?t=835

[27] Tư liệu mạng 2, “Tóm lược lịch sử giáo phận Vinh”, Website Tổng giáo phận Huế http://tonggiaophanhue.net/home/dulieu/timhieu

[28] Tư liệu mạng 3, “Alexandre De Rhodes”, Bách khoa toàn thư mở (Bản tiếng Anh) http://en.wikipedia.org/wiki/Alexander_de_Rhodes

[29] Tư liệu mạng 4, Linh Phong – Hoàng Đình Hiếu, “Trịnh Tráng trục xuất giáo sĩ Đắc Lộ vào Đàng Trong, một uẩn khúc lịch sử”, Website Dũng Lạc

http://www.dunglac.org/upload/article/f__1182957352.htm

[30] Tư liệu mạng 5, Đỗ Quang Chính, “Trình độ chữ quốc ngữ của Linh mục Đắc Lộ từ năm 1625 đến năm 1644”, Website Dũng Lạc

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=64&ia=576

[31] Tư liệu mạng 6, “Lược sử tổng giáo phận Hà Nội” (lên trang ngày 11/7/2007), Website Tổng giáo phận Hà Nội

http://www.giaophanhanoi.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=139&Itemid=87

[32] Tư liệu mạng 7, “Làng biển Do Xuyên – Hải Thanh”, Website Trường Phổ thông Trung học Tĩnh Gia 1

http://tinhgia1.info/forum/viewthread.php?tid=5691

[33] Tư liệu mạng 8, Nguyễn Hồng, Chương 4 (tiếp) – Giáo đoàn Kẻ Chợ với những thủ lãnh đầu tiên”, Lịch sử truyền giáo tại Việt Nam (Tập I), Website Dũng Lạc http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=110&ict=452

[34] Tư liệu mạng 9, “Đền Cờn cổ kính”, Website Quỳnh Lưu – Huyện địa đầu xứ Nghệ (lên trang ngày 30/12/2009)

http://www.hoangquynh.vn/anh-que-huong/69-anh-que-huong/398-den-con-co-kinh

[35] Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, 2008a, “Quyết định số 238/QĐ-UBND.CN” (V/v Phê duyệt Quy hoạch hệ thống cảng, bến đường thuỷ trên địa bàn Nghệ An giai đoạn 2008 – 2020)”, Website Trang thông tin điện tử Nghệ An (http://www.nghean.gov.vn/ruletext/default.asp?m=6&p=95&s=32&act=view&id=757)

[36] Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, 2008b, “Quy hoạch hệ thống cảng, bến đường thuỷ Nghệ An giai đoạn từ 2008 đến 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số 238 ngày 22 tháng 01 năm 2008 của UBND tỉnh Nghệ An), Website Trang thông tin điện tử Nghệ An


[*] Nhân hoàn thành bài viết này, chúng tôi xin chân thành gửi lời cảm tạ tới các vị sau đây đã có lời bình luận/trao đổi/phê phán quí báu đối với bản thảo toàn văn, và đặc biệt là giúp đỡ/chỉ dẫn tư liệu nghiên cứu liên quan đến giáo sĩ Đắc Lộ, cũng như xác định vị trí của khu vực Cửa Cờn – sông Hoàng Mai bằng trải nghiệm cá nhân (xếp theo thứ tự thời gian): Phan Đăng Nhật (Hà Nội), Trần Minh Công (Kloster Frauenthal, Hagendorn, Thụy Sĩ), Peter C. Phan (Georgetown University, Washington DC, Hoa Kì), Trần Văn Toàn (Cộng hòa Pháp).

Bản thảo đầu tiên của bài viết này (thoát cảo cuối tháng 9 năm 2009) đã được trình bày tại Hội nghị Thông báo Văn hóa 2009 (sáng ngày 03 tháng 12 năm 2009, tại Hà Nội), sau đó, bản rút gọn đã in trong cuốn Thông báo Văn hóa 2009 (Viện Nghiên cứu Văn hóa, Nxb Từ điển Bách khoa, 2010, trang 258-293) với tiêu đề “Đền Cờn và nữ thần Cửa Chúa (Nghệ An) ở thế kỉ XVII trong ghi chép thực địa của giáo sĩ Đắc Lộ”. Công bố lần này là bản đầy đủ (cxg, tháng 2 năm 2010).


Chú thích

[1] Xin lưu ý: Các nhà nghiên cứu Việt Nam không phải linh mục (hay không có liên quan đến công giáo) thì hiện tại hầu như chưa từng biết đến mối quan hệ giữa đền Cờn ở Nghệ An với tư liệu của các giáo sĩ phương Tây (có thể thấy điều này qua phần trình bày tư liệu trong Ninh Viết Giao 2009) .

[2] Hiện tại, chúng tôi mới chỉ có trong tay 3 nghiên cứu lấy từ mạng internet của các vị sau: Trần Minh Công (với hai phiên bản 2005 và 2009), Linh Phong – Hoàng Đình Hiếu (Tư liệu mạng 4), Đỗ Quang Chính (Tư liệu mạng 5). Thông tin về các nghiên cứu khác (Cao Vĩnh Phan, Trương Bá Cần, một bài nghiên cứu khác của Đỗ Quang Chính) đều là chuyển dẫn/tham khảo từ nghiên cứu của Trần Minh Công.

[3] Về niên biểu của Đắc Lộ (cũng như hành trình truyền giáo của ông tại Việt Nam), có thể xem chi tiết trong Peter C. Phan 1998 : xx-xxiii

[4] Xem trong Alexandre De Rhodes 1994a :157.

[5] Trong bài viết này, chúng tôi viết hoa chữ “cửa” trong các cụm từ như “Cửa Cờn” hay “Cửa Hội” (vốn quen được viết là “cửa Cờn”, “cửa Hội”) là để tương thích với lối viết hoa chữ đó trong nguyên bản tư liệu của Đắc Lộ (ví dụ “Cua Cuja”, “Cua Choua”).

[6] “Cao Vĩnh Phan, trong cuốn Lịch sử giáo phận Vinh, xuất bản tại California, năm 1996, trang 43-45, quả quyết là thuyền áp tải giáo sĩ Đắc Lộ đã vào cửa chúa là Cửa Lò ngày nay. Có lẽ tác giả đã nhận ý kiến của thừa sai Hậu (Sajot), một vị thừa sai làm việc ở vùng Cửa Lò vào đầu thế kỷ 20. Trong một bài báo đăng trong Missions Catholiques (…), vị thừa sai này tìm cách chứng minh rằng họ đạo Cửa Lò được thành lập bởi giáo sĩ Đắc Lộ và cửa Lò là cửa Chúa” [chuyển dẫn từ Trần Minh Công 2005, 2009].

[7] “Đỗ Quang Chính, trong La Mission au Viêtnam d’Alexandre de Rhodes, chú thích trang 150: cửa chúa hiện nay chính là cửa Lò, và được định vị trí cách Bến Thủy, Vinh 10 cây số về hướng Bắc” [chuyển dẫn từ Trần Minh Công 2005, 2009].

[8] “Trương Bá Cần, ở chú thích 88, trang 117, Nguyệt San Công Giáo và Dân Tộc, số 53, tháng 5 năm 1999, viết: “… Cửa chúa đây có thể là cửa Lò hay cửa Quèn ngày nay” [chuyển dẫn từ Trần Minh Công 2005, 2009].

[9] Linh Phong – Hoàng Đình Hiếu viết: “Từ cửa Bạng ở Thanh Hóa, thuyền đi qua cửa Chúa (tức Cửa Lò thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ngày nay) để vào biên giới Nghệ An – Bố Chính”[Tư liệu mạng 4].

[10] Về xuất xứ của chữ “Ciüa Canh/Chúa Canh”, trước đây Phạm Đình Khiêm suy đoán có thể là từ “Chúa Công” mà ra, ông viết: “Kính Khoan giao hiếu với Chúa Trịnh, được triều đình Đông Đô phong cho chức Thái úy Thông quốc công, mà giáo sĩ Đắc Lộ gọi là Ciüa Canh, chắc hẳn do lối gọi bình dân Chúa Công” [Phạm Đình Khiêm 1960 : 42]; nhưng Nguyễn Khắc Xuyên lại ngờ rằng có thể là từ chữ “ciucanghe” trong tiếng Bồ Đào Nha, ông viết: “Không hiểu bởi đâu người ta gọi nhà Mạc ở Cao Bằng là Chúa Canh. Có lẽ do người Bồ gọi chúa Cao Bằng là ciucanghe” [Alexandre De Rhodes 1994a: 211].

[11] Tấm bản đồ này vốn nằm ở phần không đánh số trang trong Histoire du royaume de Tunquin [Alexandre De Rhodes 1651b], chúng tôi lấy từ bản chụp trên mạng của sách này tại địa chỉ http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k54392965.image.r=19.f19.pagination# (NP – vue 19 sur 349) và có kiểm chứng thêm ở đường link sau: http://www.loc.gov/rr/asian/guide/guide-southern.html

[12] Ciua Ou được Nguyễn Khắc Xuyên chuyển tự thành Chúa Ông [Alexandre De Rhodes 1994a : 6], Phạm Đình Khiêm xác định đó là Chúa Tiên tức Nguyễn Hoàng [Phạm Đình Khiêm 1960 : 44].

[13] Ciuo Bang được Nguyễn Khắc Xuyên chuyển tự thành Chúa Bằng và xác định là An Bình Vương Trịnh Tùng [Alexandre De Rhodes 1994a : 7, 212].

[14] Đây là trích đoạn từ tấm bản đồ ở Hình 1a.

[15] Theo khảo cứu của Nguyễn Khắc Xuyên, cuốn Phép giảng tám ngày do Đắc Lộ biên sọan trong thời gian ngài bắt đầu giảng đạo ở Đàng Trong, từ năm 1624 tại Hải Phố tức thành phố Hội An ngày nay. Lúc đầu, chữ viết tay gồm hai loại: Chữ Việt, cho các thừa sai để học tiếng Việt mà giảng dạy; Chữ nôm (khi chữ Việt theo mẫu tự La Tinh chưa phổ biến) cho người Việt học giáo lý [chuyển dẫn từ Tư liệu mạng 4 : Chú thích 12]. Bản in lần đầu vào năm 1651 của cuốn này là dạng song ngữ Latinh – Việt.

[16] Ảnh này chúng tôi lấy từ đường link trong Tư liệu mạng 3.

[17] Đây là trích đoạn trang 118 trong Alexandre De Rhodes 1651a.

[18] Trần Minh Công viết như sau: “Theo ý kiến của chúng tôi thì có thể thuyền chở giáo sĩ Đắc Lộ đã ghé vào cửa Lò, nhưng cũng rất có thể là vào cửa Rum (cửa Hội). Tuy nhiên cửa Lò và cửa Rum không phải là “cửa chúa” đích thực như chúng tôi sẽ trình bày sau”.

[19] Đây là trích đoạn trang 10 và 11 (Nghệ An, Hà Tỉnh) trong tư liệu Nhà xuất bản Bản đồ 1997.

[20] (Nhắc lại chú thích 3) Một lịch trình truyền giáo tổng thể của Đắc Lộ có thể xem trong Peter C Phan 1998

[21] Theo Nguyễn Khắc Xuyên, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã nhận thánh Giuse là quan thầy, đấng bảo hộ. Nhà thờ lớn Hà Nội là nhà thờ kính thánh Giuse, lễ ngày 19 tháng 3 (xem Alexandre De Rhodes (Hồng Nhuệ dịch) 1994b : 275 – chú thích 28).

[22] Phạm Đình Khiêm cho rằng Đắc Lộ đã gặp chúa Trịnh lần đầu tiên ở khoảng giữa Phủ Lý và Hưng Yên, ông viết: “”Từ Áo Môn đến Cửa Bạng (Thanh Hóa) ngày 19 tháng 3 năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ theo tàu buôn đến Cửa Đáy, vào sông Hồng Hà để lên Thăng Long, dọc đường khoảng giữa Phủ Lý và Hưng Yên gặp chúa Trịnh thân chinh đi đánh chúa Nguyễn” [Phạm Đình Khiêm 1960 : 62]

[23] Nhóm tác giả Linh Phong – Hoàng Đình Hiếu thì tính cụ thể hơn, là ngày 31 tháng 3 năm 1629 (xem Tư liệu mạng 4).

[24] Tác giả Trần Minh Công tính cụ thể đó là ngày 27 tháng 10 năm 1629, ông viết như sau: “Cuối cùng, giáo sĩ Đắc Lộ và cha Pedro Marquez đã phải xuống tàu buôn của người Bồ ở cửa chúa (cửa Rum ?) ngày 27.10.1629 để đi Kẻ Chợ và sau đó về Macao” (xem Trần Minh Công 2005 và 2009).

[25] Peter C. Phan cũng cho Cửa Bạng trong ghi chép của Đắc Lộ là khu vực Ba Làng ngày nay. Ông viết: “They arrived at Cua Bang (present – day Ba Lang) on March 19, the feast of Saint Joseph” (Họ – chỉ nhóm Đắc Lộ và những người Bồ Đào Nha, cxg chú – đã cập Cửa Bạng (Ba Làng ngày nay) vào ngày 19 tháng 3, đúng ngày lễ Thánh Joseph) [Peter C. Phan 1998 : 48].

[26] Peter C. Phan không cho chúng ta biết rõ xuất xứ và nơi lưu giữ hiện nay của tấm bản đồ này.

[27] Tên “khe Nước Lạnh” vẫn được sử dụng hiện nay. Khe này nằm ở địa phận huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An (xem Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An 2008 b).

[28] Một tài liệu chính thức của Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An mới công bố gần đây cho biết tổng thể như sau: “Sông Hoàng Mai dài 24 km từ huyện Nghĩa Đàn chảy xuống huyện Quỳnh Lưu đổ ra biển tại cửa Lạch Cờn” [Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, 2008b].

[29] Nguyên bản tiếng Ý của cuốn Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài đã được Đắc Lộ cho xuất bản năm 1650 tại Rôma, bản bằng Pháp văn năm 1651, bản bằng Latinh năm 1652. Bản thảo viết tay bằng Latinh hiện còn được lưu tại Văn khố Dòng Tên tại Rôma (ARSI). Bản thảo này có lẽ đã được Đắc Lộ soạn tại Ma Cao vào khoảng năm 1636, tức là sau khi ông đã rời bỏ Đàng Ngoài được khoảng 5 năm. Tập bản thảo này được đánh kí hiệu là Jap-Sin 83-84 [Nguyễn Khắc Xuyên 1960 : 140; Đỗ Quang Chính – Tài liệu mạng 5]. Đỗ Quang Chính còn cho biết chi tiết hơn: “Nhờ có niên hiệu ghi trên bản thảo, chúng ta biết được linh mục Đắc Lộ đã soạn tập này vào năm 1636. Nhưng cuối bản thảo còn có mấy chương viết về tình hình truyền giáo ở Đàng Ngoài đến năm 1646; do đấy, có thể hiểu được rằng, sau năm 1646, Đắc Lộ đã viết thêm mấy chương đó và nơi soạn thảo mấy chương này có lẽ là sau khi tác giả đã về tới La Mã (27-6-1649)” [Đỗ Quang Chính – Tài liệu mạng 5].

[30] Ở bài viết trước (Chu Xuân Giao 2009), chúng tôi đã đưa ra nghi vấn rằng, có thể một bộ phận hoặc cả tiểu mục Tứ vị thánh nương trong Ô châu cận lục là do người đời sau đưa thêm vào, mà không phải của Dương Văn An hay của hai người đồng hương “vô danh” trước ông.

[31] Có một số nhà nghiên cứu (như linh mục Trương Bá Cần – dẫn theo Trần Minh Công) và bạn đọc phổ thông nhầm lẫn, cho rằng Cửa Cờn (hay Cửa Lạch Cờn) là Cửa Quèn (hay Cửa Lạch Quèn). Thật ra, đây là hai cửa biển khác nhau: Cửa Cờn thuộc địa phận xã Quỳnh Phương huyện Quỳnh Lưu ngày nay (tỉnh Nghệ An), còn Cửa Quèn thì thuộc địa phận xã Tiến Thủy huyện Quỳnh Lưu, hai xã này cách nhau khá xa. Trong văn bản Hán Nôm, Cửa Cờn là Càn Hải hay Càn Hải môn, còn Cửa Quèn là Quyền Hải hay Quyền Hải môn.

[32] Xin xem: Chu Xuân Giao 2005, 2006a, 2006b; Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008.

[33] Chúng tôi tạm gọi sử học của Tạ Chí Đại Trường là tân sử học/new history theo định vị vào thập niên 1990 của Peter Burke dành cho học phái Annales khởi xướng từ Pháp; còn bản thân ông có lẽ tự gọi sử học của mình là dã sử/non-offcial history.


https://damau.org/11727/den-con-va-nu-than-cua-chua-nghe-an-o-the-ki-xvii-trong-ghi-chep-thuc-dia-cua-giao-si-dac-lo

2 nhận xét:

  1. Một bài viết rất công phu và cẩn trọng về một vấn đề rất thú vị. Cảm ơn tác giả!
    Tiếc là giờ mới được đọc.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Em cũng xin cảm ơn anh Quế đã thực hiện bản dịch và cho đăng tải tại trang nhà của anh chị. Sau đó, anh bổ sung thêm bài của cụ Nguyễn Đình Đầu cũng rất thú vị !

      Xóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.