---
GS Hoàng Xuân Phú, Viện toán học - Viện Hàn lâm khoa học công nghệ Việt Nam cho rằng những con số mà Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước đã công bố khiến bất kỳ nhà khoa học thực thụ nào cũng đều phải… sững sờ!
Khoa học giáo dục Việt Nam nằm đâu trên bản đồ khoa học thế giới?
GS Hoàng Xuân Phú chia sẻ:
Dựa vào số liệu thống kê đã được đăng tải về mức độ công bố trên các tạp chí quốc tế thuộc hai danh sách mang tên ISI (tên mới là Web of Science) và Scopus của đợt xét công nhận chức danh PGS và GS năm 2016, tôi đã thu được những con số rất đáng ngạc nhiên.
Với nhóm ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ, bình quân số bài ISI/Scopus của 411 người được công nhận chức danh PGS và GS chỉ là 5,76 bài/người. Còn với nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn thì bình quân số bài ISI/Scopus của 237 người được công nhận chức danh PGS và GS chỉ là 0,19 bài/người. Đó là chưa kể 7 GS và 48 PGS của nhóm ngành khoa học an ninh và khoa học quân sự không có bài ISI/Scopus nào.
|
Xét hai ngành giáo dục học và tâm lý học, là hai ngành có ảnh hưởng lớn tới việc hoạch định chính sách giáo dục nước nhà, thì thấy có quá ít công trình được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín, mặc dù cơ hội để công bố (tức số lượng tạp chí quốc tế) là khá nhiều.
Ngành giáo dục học có 272 tạp chí ISI, nhưng tất cả 34 PGS và GS được phong năm 2016 của ngành này gộp lại chỉ có mỗi 1 bài ISI/Scopus. Ngành tâm lý học có khoảng 540 tạp chí ISI, năm 2016 có 11 người được phong PGS và GS, nhưng tất cả gộp lại cũng chỉ có 1 bài ISI/Scopus.
Như vậy, năm 2016, hai ngành giáo dục học và tâm lý học có 3 người được phong GS và 42 được phong PGS, nhưng cả 45 người ấy gộp lại chỉ có 2 bài báo ISI/Scopus! Số liệu này nói lên điều gì? Đa số các nhà khoa học trong hai ngành tâm lý học và giáo dục học công tác ở đâu? Có lẽ, với vị thế ấy, họ có tác động không nhỏ trong việc đặt ra các tiêu chuẩn cho chức danh PGS và GS ở nước ta.
Cần sự sòng phẳng
Thưa giáo sư, có ý kiến còn cho rằng khoa học xã hội và nhân văn có sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị riêng, không thể bắt buộc có công bố quốc tế ngay mà chỉ khuyến khích. Quan điểm của giáo sư thì sao?
GS Hoàng Xuân Phú: Thực lòng tôi không muốn bàn nhiều về việc cần bao nhiêu bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế khi xét công nhận GS hay PGS, vì điều này phụ thuộc vào đặc thù của từng ngành. Bản thân tôi làm việc trong lĩnh vực toán học, nên tôi chỉ muốn thảo luận về tiêu chuẩn dành cho ngành toán. Còn ý kiến về mấy tiêu chuẩn chung cho mọi ngành thì tôi đã trình bày trong một văn bản góp ý gửi cho ban soạn thảo dự thảo quy định tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư góp rồi.
TIN LIÊN QUAN
Những nghịch lý về giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam
Theo PGS Nguyễn Ngọc Châu, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, ở Việt Nam hiện tồn tại nhiều nghịch lý về giáo sư, phó giáo sư, chẳng hạn như nghịch lý giáo sư 'dởm' xét cho ứng viên giáo sư thật.
Tuy nhiên, nếu như thực sự có một nhà khoa học nào đó cho rằng khoa học xã hội và nhân văn có sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị riêng, không thể bắt buộc có công bố quốc tế ngay mà chỉ khuyến khích, thì tôi thấy không ổn. Những người có quan điểm như vậy hãy trả lời một cách sòng phẳng mấy câu hỏi sau: Họ đã hoàn thành những sứ mệnh hay nhiệm vụ chính trị gì? Họ đã giúp chế độ, giúp chính quyền tránh hay khắc phục những sai lầm chính trị nào?
|
Nếu chỉ là minh họa cho chính sách hay tuyên truyền cho chế độ, cho chính quyền thì chẳng cần đến các nhà khoa học, mà chỉ cần huy động bộ máy tuyên truyền là đủ. Còn chức năng muôn thuở của các nhà khoa học là phát minh và phát hiện ra những cái mới. Vậy họ đã phát minh hay phát hiện ra những cái gì và thành tích ấy có đủ để lập luận rằng họ không cần công bố quốc tế hay không?
Nhưng nhiều nhà khoa học cho rằng khoa học xã hội và nhân văn vì những lý do đặc thù nên khó đăng bài trên các tạp chí quốc tế?
Không phải ngành nào trong nhóm ngành khoa học xã hội cũng đều khó đăng bài trên tạp chí quốc tế. Hai ngành mà tôi dẫn số liệu ở trên là giáo dục học và tâm lý học đều là những ngành có tính quốc tế rất cao.
Hoặc luật học, ai dám bảo nó không có tính quốc tế cao? Tôi lấy ví dụ đơn giản như đề tài nên hay không nên hiến định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nếu có bài báo khoa học nghiên cứu vấn đề ấy, dù thể hiện quan điểm ủng hộ hay phản đối, thì đều dễ được các tạp chí quốc tế nhận đăng. Thế giới cũng muốn hiểu thêm về Việt Nam chứ. Nếu như tạp chí khoa học quốc tế không nhận đăng thì do bài viết không đạt tiêu chuẩn khoa học mà thôi.
Hoặc ngôn ngữ học cũng là một ngành có tính quốc tế cao.
Vậy mà thành tích công bố quốc tế ở hai ngành này của ta thế nào? Luật học có 141 tạp chí ISI, năm 2016 được phong 2 GS và 13 PGS; ngôn ngữ học có 199 tạp chí ISI, năm 2016 được phong 10 PGS. Nhưng tất cả 25 người được phong GS, PGS thuộc hai ngành này không có một bài báo nào trong các tạp chí ISI/Scopus!
Quay trở lại câu chuyện “nhiệm vụ chính trị” mà chúng ta vừa nói ở trên. Theo tôi, nếu các nhà khoa học muốn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị thì càng cần phải có công bố quốc tế. Vì việc khẳng định và nâng cao uy tín quốc tế của bản thân là nhiệm vụ tối thiểu của các nhà khoa học. Không thể nói rằng mình làm nhiệm vụ chính trị và đại diện cho đất nước, mà lại để mặc cho uy tín của bản thân trên trường quốc tế ở tầm quá thấp.
Hơn nữa, nếu xét từ góc độ nhiệm vụ chính trị, thì rất cần có các công trình khoa học được công bố trên tạp chí quốc tế uy tín để phân tích, lý giải các chủ trương, đường lối, chính sách được ban hành.
Xin cảm ơn GS!
Quý Hiên
http://thanhnien.vn/giao-duc/nghich-ly-giao-su-pho-giao-su-sung-so-truoc-nhung-con-so-824619.html
Giáo sư 'rởm' xét duyệt giáo sư thật
Thứ Hai, ngày 10/04/2017, 16:00
http://danviet.vn/tin-tuc/giao-su-rom-xet-duyet-giao-su-that-760384.html
PGS.TS Nguyễn Ngọc Châu, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, vừa đưa ra những nghịch lý về giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam.
Nhiều người không dạy cũng chẳng nghiên cứu vẫn mang hàm GS, PGS . Ảnh minh họa.
Theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Châu, nghịch lý thứ nhất là bổ nhiệm GS, PGS để lấy danh hay vinh danh một người chứ không phải để người được bổ nhiệm GS, PGS thực thi nhiệm vụ nghiên cứu giảng dạy. Bởi vì, việc bổ nhiệm chức danh GS, PGS không xuất phát từ nhu cầu của trường ĐH, viện nghiên cứu.
Thứ hai, Việt Nam có số lượng GS, PGS được bổ nhiệm vào loại nhiều ở các nước châu Á, đặc biệt so với các nước Đông Nam Á, nhưng vẫn không có ĐH nào được xếp hạng top 300 của châu Á (theo Higher Education năm 2017). Trong khi đó, hầu hết nước Đông Nam Á khác như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, thậm chí Philippines đều có ĐH xếp hạng top 300 châu Á.
Thứ ba, GS, PGS ở Việt Nam mang danh cả đời. Ở các nước trên thế giới, GS, PGS chỉ là vị trí giảng dạy, nghiên cứu, khi về hưu hoặc chuyển sang việc khác thì thôi chức danh GS, PGS.
Thứ tư, nhiều người không dạy cũng chẳng nghiên cứu vẫn mang hàm GS, PGS.
Thứ năm, người về hưu vẫn đăng ký GS, PGS - chuyện lạ chỉ có ở Việt Nam.
Thứ sáu, nhiều GS, PGS được bổ nhiệm nhưng chỉ 30% có thể đạt chuẩn quốc tế (theo GS Đỗ Trần Cát, nguyên Tổng thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước). Thực tế, nếu tính chuẩn GS, PGS quốc tế phải có 50-100 công bố trên tạp chí thuộc danh sách ISI, số đạt chuẩn còn ít hơn nhiều.
Thứ bảy, nhiều GS, PGS nhưng ít sản phẩm khoa học. Ở các nước, mỗi năm, GS, PGS thường có trung bình 10 công bố/sáng chế; ở Việt Nam trung bình mỗi năm 5-10 GS/PGS mới có 1 công bố ISI.
Thứ tám, yêu cầu nhiều chuẩn nhưng chất lượng vẫn thấp. Quy định chuẩn xét đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS ở Việt Nam vào loại nhiều chuẩn và phức tạp nhất thế giới nhưng mỗi năm xét được 500-600 GS, PGS mà đa số không đạt chuẩn quốc tế.
Nếu áp đúng tiêu chí GS, PGS Việt Nam, GS Ngô Bảo Châu chắc chắn cũng không đạt chuẩn GS Việt Nam (vì ông đâu có đủ ít nhất 20 điểm công trình quy đổi, chưa đủ hướng dẫn chính thành công 2 tiến sĩ, chưa có sách, cũng chưa đủ thâm niên và số giờ dạy mỗi thâm niên).
Mặt khác, PGS.TS Nguyễn Ngọc Châu cũng cho rằng chỉ ở Việt Nam mới xét GS, PGS bằng tổng những số vô cảm: Điểm bài báo + điểm sách + điểm hướng dẫn nghiên cứu sinh + số giờ giảng dạy + thâm niên giảng dạy + tỷ lệ phiếu yêu/ghét. Tất cả xếp hàng ngang, chỉ cần một trong các tiêu chí trên không đủ theo quy định thì không đạt GS, PGS.
Cùng một bài báo trên một tạp chí nhưng tính điểm khác nhau ở các hội đồng khác nhau.
Để được xét GS, PGS, các ứng viên phải chuẩn bị 3 bộ hồ sơ xét đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS. Đối với các ứng viên có nhiều bài báo công bố, nhiều sách, nhiều đề tài, nhiều hợp đồng giảng dạy..., bộ hồ sơ có thể nặng đến 50 kg.
Để được xét GS, PGS, các ứng viên phải vượt qua 3 cấp hội đồng: Hội đồng Chức danh GS cơ sở, Hội đồng Chức danh GS ngành/liên ngành và Hội đồng Chức danh GS Nhà nước.
Giáo sư "rởm” xét cho ứng viên GS thật. GS “rởm” ở đây là giáo sư không đạt chuẩn quốc tế, không có kinh nghiệm nghiên cứu và công bố quốc tế lại đi thẩm định cho ứng viên đạt chuẩn quốc tế.
Theo Nghiêm Huê (Tiền Phong)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.