Một bài quan trọng, không thể bỏ qua khi nói về gia đình và văn hóa Việt Nam. Kết quả của khoảng 15 năm làm điều tra điền dã ở Việt Nam, lại với nền tảng khoảng 30 năm điền dã ở các vùng khác trong khu vực Đông Á. Bản dịch tiếng Việt của BTC hội thảo hiện nay thì dùng tạm.
Vào tháng 2 năm 2010, tức khoảng 7 năm về trước, có một hội thảo về đề tài phụ nữ được tổ chức tại Huế. Khi ấy, nhà dân tộc học/nhân loại học văn hóa Nhật Bản Suenari Michio (nguyên Giáo sư Đại học Tokyo, nguyên Giáo sư Đại học Toyo) đang điều tra điền dã dài hạn tại Huế. Ông đã tham gia hội thảo ấy.
Vào tháng 2 năm 2010, tức khoảng 7 năm về trước, có một hội thảo về đề tài phụ nữ được tổ chức tại Huế. Khi ấy, nhà dân tộc học/nhân loại học văn hóa Nhật Bản Suenari Michio (nguyên Giáo sư Đại học Tokyo, nguyên Giáo sư Đại học Toyo) đang điều tra điền dã dài hạn tại Huế. Ông đã tham gia hội thảo ấy.
Bản tiếng Việt bài tham luận của ông dưới đây là tài liệu dịch vội từ bản tiếng Anh dùng trong hội thảo, được một học giả Việt Nam cùng tham gia hội thảo đưa lên blog vào năm đó (blog Chi).
Từ đây trở xuống là chép nguyên về từ blog Chi.
---
GS.TS Michio Suenari
Bài tham luận tại Hội thảo " Phụ nữ Việt Nam trong di sản văn hóa dân tộc" tại Huế ngày 21/2/2010
Giới thiệu
Trong bài này, tôi muốn bàn về tục thờ Bà cô ( Linh hồn của một phụ nữ thuộc thế hệ trước bị chết sớm không có con thờ tự) để thấy rằng tín ngưỡng này có những đặc điểm độc đáo ở các xã hội vùng Đông Á và là một hiện tượng chủ yếu trong việc xem xét sức mạnh tinh thần của các linh hồn người chết và người sống, về sự khác nhau trong tục thờ cúng tổ tiên, chính và thứ (1), về ảnh hưởng của thế lực siêu nhiên đến vận may rủi, hoặc về việc quan sát quá trình thay đổi trong các phong tục thờ nữ thần.
1. Tục thờ Bà cô ở Việt Nam
Một nhà quan sát người Việt có thể dễ dàng nhận thấy niềm tin rằng một bà cô mang lại ảnh hưởng mạnh mẽ để bảo vệ các anh em của bà và các con cháu họ, trong khi đó bà cũng có thể là nguồn gốc của vận rủi đối với họ, một khi bà cảm thấy họ lơ là, thiếu tôn kính đối với bà
Trong nguồn gốc của tín ngưỡng này, Bà cô có một vị trí đối lập với tư tưởng Khổng Giáo mà trong đó linh hồn của người nữ chỉ được các con trai bên nội thờ cúng, cho dù nguyên tắc này đã được nới lỏng rất nhiều ở Việt Nam. Tuyệt vọng bởi vị trí mâu thuẫn của mình, bà ứng xử theo cả hai cách: như một người bảo hộ các thành viên bên nội của bà và như một vong hồn bà cô giận dữ không có chỗ trên bàn thờ tổ tiên của gia đình bà. Cho dù bà cũng là một dạng "tổ tiên", ý thức của bà về cách đối xử phi lý đã khiến bà có những ứng xử liều lĩnh như bắt trẻ em của thành viên trong gia đình.
Vì thế, người ta đặt một bát hương thờ bà trên một bàn thờ ở bức tường bên của gian chính ở miền Bắc Việt Nam, và bàn thờ trong một cái am nhỏ trên sân nhà ở miền Trung Việt Nam. Họ thường cũng cho bà những lễ vật trang trọng vào ngày kị và vào các dịp lễ khác. Một số gia đình còn cúng hàng ngày, hoặc vào các ngày 1 và 15 âm lịch hàng tháng.
Bà cô cũng được thờ ở nhà thờ của dòng tộc. Một cái am nhỏ được đặt ở trên sân của nhà thờ họ dành cho linh hồn của những người nữ chết sớm. Khi mối quan hệ dòng tộc đã trở nên cách xa, ký ức của mỗi người về họ cũng biến mất và chỉ còn lại một đối tượng để kính trọng theo thế thứ chung của bà cô như " Bà cô đệ nhị, tam hoặc tứ chánh hệ".
Sự tiết lộ về Bà cô thường được báo qua việc nhập hồn của một người lên đồng (shaman), trong khi điều này cũng có thể xuất hiện trong giấc mơ của con cháu.
Nội dung của điều tiết lộ này hầu hết đều là những vấn đề cụ thể trong cuộc sống hàng ngày như: gây ra bệnh tật, hoặc tai nạn và cho thấy cách để hóa giải. Theo Nho giáo, thường là tổ tiên bên nội sẽ đem lại sự che chở chung.
Mặt khác, anh em của cha (thúc bá) được gọi là ông mãnh (người nam chết sớm) và được thờ theo bà cô, nhưng sức mạnh tinh thần được người ta cho rằng không mạnh bằng bà cô. Nguyên nhân có thể do đó là một thành viên nam của dòng bên nội và mức độ phi thường không được chú ý bằng bà cô, cho dù ông này cũng có chung những đặc điểm với Bà cô như bị chết sớm và không có con cháu thờ phụng.
GS.TS Michio Suenari đang trình bày tham luận tại Hội thảo
2. Tục thờ những người con gái chưa chồng của người Trung Quốc gốc Hán ở Đài Loan
Trong số những người Trung Quốc gốc Hán ở Đài Loan, Nho giáo đã từng là một quy chuẩn đầu tiên mang lại một chuẩn mực về ứng xử xã hội, cho dù những điều kiện về biên giới để phát triển những vùng đất mới có người nhập cư và thời kỳ người Nhật kiểm soát trong nửa thế kỷ đã đem lại một số thay đổi. Linh hồn của những phụ nữ thành viên trong gia đình chỉ được con cháu trai bên họ nội thờ phụng. Đối với gia đình mẹ đẻ của họ, người ta không những không thể thờ phụng những người chết trẻ, mà còn cả những người hồi tôn sau khi lấy chống vì li dị hoặc vì chồng chết mà lại không có con trai(2).
Vì thế, linh hồn của những người con gái chưa chồng hoặc đã lấy chồng mà không có con trai sẽ không có chỗ để thờ sau khi chết. Cho dù một số may mắn có được bài vị trong nhà thờ của cha mẹ thì đó cũng chỉ là những trường hợp ngoại lệ. Hầu hết họ đều phải lang thang như những con ma đói gây bất hạnh cho những người sống mà họ gặp, không cần phải suy xét. Để cầu xin tránh khỏi chuyện này và để cha mẹ đỡ cảm thấy thương xót đối với cô con gái bất hạnh, một đám cưới được tổ chức cho cô với một chú rể sống hoặc chết để làm vơi dịu sự nuối tiếc và cô đơn của cô.
Những nghi lễ này được tổ chức chỉ cho một số ít những người chết bất hạnh vì hầu hết những hồn ma được xoa dịu bằng tiền giấy vàng mã và áo quần có viết tên người nhận ở thế giới bên kia trong một cuộc lễ lớn được tổ chức vào dịp Tết Vu lan hoặc một cuôc lễ quy mô lớn ở nhà thờ hoặc đền miếu. Không có lễ nào dành cho một người nữ được đặc biệt nhớ đến và thờ phụng như Bà cô ở Việt Nam (3).
Ở Okinawa hoặc ở Nhật ngày xưa, cho dù nói chung người ta rất sợ linh hồn của những người chết bất đắc kì tử vì quyền năng tinh thần mạnh mẽ của họ, nhưng chúng ta không chỉ tìm thấy động tác bảo vệ đối với những người có quan hệ cụ thể mà còn thấy có khái niệm về một người nữ đang còn sống có ảnh hưởng tinh thần đối với anh em trai của họ.
Chẳng hạn cho dù có vai trò đặc biệt đối với họ hàng, đặc biệt là đối với dòng họ bên ngoại, họ vẫn còn có tầm ảnh hưởng rộng và mang ý nghĩa tôn giáo vững chắc. Ông cậu bên ngoại (anh em trai của mẹ) được cho là người họ hàng được tôn kính nhất, như trong ngạn ngữ: " Trên trời có Ngọc Hoàng, dưới đất có ông cậu". Ông ngoại đã cho con gái một loạt tặng vật, bắt đầu từ một số lượng lớn của hồi môn khi cưới, quà tặng khi hai vợ chồng về thăm nhà, vào ngày sinh của đứa cháu ngoại vào lễ đầy tháng của cháu, vào dịp thôi nôi, vào ngày cưới của cháu... cho dù ý nghĩa của lời cầu chúc đã được chứa đựng trong những tặng vật này,(4)người ta khó mà tìm thấy ở đây những yếu tố của sức mạnh ma thuật. Và mối quan hệ với bà con bên ngoại đã được cải đổi cùng với sự thay đổi của các thế hệ.
3.Nghi lễ dành cho con gái chưa chồng của Hàn Quốc.
Tân Nho giáo được đưa vào Hàn Quốc, người Hàn theo các luật lệ của nó trung thành đến mức người ta có thể thấy truyền thống của Nho giáo ở đây rõ hơn là ở Trung Quốc. (5) Một cô con gái chưa chồng thì không được thờ một cách chính thức sau khi chết. Người ta tin rằng linh hồn của cô sẽ biến thành một con ma nguy hiểm. Chỉ có shaman giáo mới có thể xoa dịu được nó. Đám cưới ma ( đám cưới linh hồn của cả hai người đã chết trẻ) được xem là để làm nguôi sự hận thù của cô và mở đường để người con trai nuôi thờ phụng một cách chính thức (6).
Chúng ta có thể thấy trường hợp của Hàn Quốc giống với người Trung Quốc gốc Hán ở Đài Loan về điểm Nho giáo là nguyên lý cơ bản của xã hội, nhưng khác ở chỗ mức độ tuân thủ chặt chẽ hơn và nghi lễ làm nguôi cơn giận của hồn ma được tổ chức theo cách của shaman giáo hơn là cách của Phật giáo hoặc Đạo giáo. Shaman giáo của Hàn Quốc giúp Nho giáo cứu vớt những linh hồn ở vị trí ngoại vi mà Nho giáo đã bỏ qua. Vì thế nó không chỉ chú trọng vào việc làm nguôi sự hận thù của linh hồn những cô gái chưa chồng mà còn giúp cả những linh hồn khác ở phạm vi rộng hơn. Người ta khó nhận ra năng lực tinh thần giữa một người nữ còn sống và anh em trai của họ ( hoặc cháu trai, cháu gái của họ). Ông ngoại (hoặc cậu) được cho là có mối quan hệ "ngọt ngào hơn" đối với cháu, ngược với những bà con bên nội. Nhưng chúng ta không thể tìm thấy ảnh hưởng của sức mạnh tinh thần giữa họ với nhau.
Sau cái chết của bà con bên ngoại, người cháu ngoại không phải tiếp tục thờ cúng họ. Chỉ trong trường hợp ngoại lệ, ông ngoại có thể được cháu ngoại trai thờ phụng, trong trường hợp ông này không có con trai.
Từ những trường hợp trên, rõ ràng là chúng khó có thể nhận ra những đặc điểm tương đồng giữa tục thờ Bà cô ( khái niệm ảnh hưởng về mặt tinh thần của người nữ chưa chồng đối với các anh em trai và con cái của họ) với phong tục ở người Trung Quốc gốc Hán cũng như ở Hàn Quốc, cho dù cả ba cộng đồng này đều có chung nền văn hóa Nho giáo ở Đông Á. Hơn nữa, chúng ta có thể thấy trường hợp tương tự về khái niệm năng lực tinh thần của chị em gái ảnh hưởng đến anh em trai của họ ở Nhật Bản ngày xưa. Cho dù nó khác với trường hợp ở Việt Nam là người con gái đó còn sống cũng có một năng lực như vậy, người ta không thể phủ nhận sự tương đồng gần gũi trong niềm tin về năng lực tinh thần mạnh mẽ để bảo vệ con cháu bên nội của họ.
4.Niềm tin về năng lực tinh thần của một người nữ đối với anh em trai của bà ở Okinawa
Ở Okinawa người ta tin rằng một người nữ có một sức mạnh bảo vệ anh em trai của cô về mặt tinh thần. Cô đưa cho anh một chiếc khăn tay hoặc một ít đồ tùy thân như một thứ bùa hộ mệnh khi anh bắt đầu một chuyến đi dài hoặc khi ra trận.
Với những trường hợp khác, Mabuchi (1955) đã ghi lại như sau:
- Trong nghi lễ gieo hạt, một người chị em gái hoặc một người cô ( chị em gái của cha) được mời cắt một cái bánh gạo trong gian thờ tổ tiên. Trong nghi lễ của mùa thu hoạch kê, một người con gái của gia đình giữ vai trò chính trong việc sửa soạn lễ vật cúng thần linh và tổ tiên.
- Các chị em gái cũng giữ vai trò chủ đạo trong nghi lễ của thợ rèn, những người trước đây làm ra vũ khí và nông cụ.
- Ở làng Sido đảo Yonaguni, một lễ hội được tổ chức vào tháng Tám để cầu mong sức khỏe cho đàn ông. Người ta tin rằng chỉ có người chị em gái hoặc người dì mới có thể làm cho việc thờ cúng có kết quả. Nếu một người đàn ông quá già để còn có chị em gái, một người con gái, hoặc cháu gái có thể giữ vai trò này.
- Thời xưa, ở đảo Yonaguni, một người chị em gái trao chiếc khăn tay cho anh em trai thì nói:" nhớ vật này chính là tôi", khi người này bắt đầu chuyến đi.
Khi một người đàn ông ra trận, người chị em gái của anh cầu mong anh gặp may mắn trong chiến trận. Người ta ghi lại một trường hợp người chị em gái cắt một ít tóc của mình và đặt lên bàn thờ để cầu khấn thần linh. Sau đó, cô bỏ vào chiếc túi " thắt lưng ngàn mũi khâu" (7)
- Một người em trai phải thể hiện sự tôn trọng của mình đối với chị em gái: anh không được ngủ duỗi thẳng chân về phía chị em gái và không được bước qua đồ đạc của cô, đặc biệt là chiếc giỏ làm việc của cô. Người ta tin rằng anh có thể sẽ gặp vận rủi nếu anh phạm phải những điều kiêng kị đó.
Có trường hợp ít xảy ra hơn là một người chị em gái dùng quyền năng tinh thần nguyền rủa người anh em trai của mình, câu chuyện truyền thuyết sau được lưu truyền ở đảo Taketomishima.
- Ngày xưa , sống ở trên đảo có một người anh trai làm việc chăm chỉ và một cô em gái ngoan đạo. Người anh trai đối xử với em gái một cách thô bạo, cho cô ăn cám thay vì bánh gạo vào lễ gieo hạt. Người em gái nói với anh cô: "Nếu anh không tôn trọng em của anh, linh hồn của cô sẽ nổi giận". Nhưng anh ta chẳng bao giờ nghe theo lời của cô. Cuối cùng cô nổi giận và ném cái bay vào người anh, cây trên đảo bay sang đảo Obama bên cạnh. Kết quả là gây ra thiếu nước, họ không thể tiếp tục trồng trọt trên cánh đồng lúa nước, trong khi dân cư trên đảo Obama lại có thể canh tác lúa nước.
Dựa trên mối quan hệ cá nhân với các anh trai, năng lực tinh thần của người chị em gái được mở rộng đến những người đàn ông trong họ hàng bên nội xa hơn, đến các bà dì ở thế hệ cao tuổi hơn, hoặc đến các cháu gái ở thế hệ trẻ hơn. Nếu người ta không tìm được một người bà con nữ, anh ta có thể tìm kiếm bà con khác hệ, tìm ở các anh enm chú bác hoặc trong trường hợp nào đó, vợ của cậu cũng thay được cho một người chị em gái. ( Mabuchi 1955:143).
Vai trò của linh hồn bảo hộ đối với anh em trai của họ được mở rộng thành vai trò của bà thầy cùng trong một nhóm phụ hệ hoặc trong một làng. Nó mang đến một sự phân chia đàn ông thành người lãnh đạo thế tục và phụ nữ thành người lãnh đạo về tôn giáo. Ở Okinawa sự phân chia này có thể được nhận thấy trong nhóm họ hàng theo phụ hệ, trong một làng và trong mối quan hệ giữa nhà vua và người nữ chủ đứng đầu tôn giáo của triều đại.
5. Sức mạnh tinh thần của người phụ nữ Nhật Bản xưa.
Về sức mạnh tinh thần của một người nữ đối với anh em trai của cô, chúng ta cũng có thể tìm thấy trong thần thoại của Nhật Bản thời cổ. Yamata Takeru là một Hoàng tử con vua có khả năng chiến đấu phi thường. Không lâu sau cuộc chinh phục của anh ở những nước phía Tây, cha anh lệnh cho anh chinh phục các nước phía Đông, vì ông sợ con ông có thể sẽ giết ông sau khi giết mấy người anh kém cỏi của mình. Trước khi đi chinh phục, anh gặp người cô của mình là công nương Yamato và bày tỏ nỗi đau lòng của mình trước cách đối xử của cha. Bà trao cho anh một thanh kiếm và một túi đá lửa. Sau khi thắng trận anh lâm vào một cuộc tấn công bất ngờ của kẻ thù đang bao vây anh bằng cách đốt cháy cánh đồng cỏ. Bị cô lập, anh cắt cỏ xung quanh mình bằng cây kiếm và đốt một đống lửa bằng cách đánh đá lửa, những thứ này đã cứu anh thoát chết và thiêu cháy kẻ thù. Mặc dù đây là một truyền thuyết và có thể không phải là một sự kiện lịch sử, chúng ta cũng có thể liên tưởng đến sự hiện diện của khái niệm về sức mạnh tinh thần của người chị em gái hoặc người cô, dì đối với anh em trai, cháu trai của mình ở Nhật Bản thời xưa.
Yanagita Kunio (1927) có những ví dụ tương tự ở Okinawa Nhật bản như là mối quan hệ của công chúa Tamayori với Hoàng tử Tmayory, thể chế Ituki no miya" mà trong đó, những công chúa chưa lập gia đình phụng sự việc thờ thần ở đền Ise là ngôi đền đứng đầu của đạo Shinto Nhật Bản. Ông cũng ngờ rằng câu nói thường được nghe : Nếu một cô con gái được gần gũi thờ phụng thần linh, cô sẽ có ít khả năng lập gia đình" có thể là dấu tích của thể chế này. Ông cũng tìm thấy từ : Onari" ( chị/em gái) trong tiếng Okinawa cũng được dùng như một từ mang ý nghĩa " con gái của một nhóm cấy ghép" trong một bài ca trồng lúa ở Nhật Bản.
Lời cuối
Tôi đã chỉ ra rằng tục thờ Bà cô và Onari có điểm tương đồng cơ bản là người bảo hộ cho các anh em trai, cho dù bà cô là linh hồn của những chị em gái đã chết và Onari là một người chị em gái còn sống. Đặc điểm này sẽ là hiện tượng giá trị không chỉ cho thấy vị trí độc đáo của người phụ nữ Việt Nam trong nghiên cứu về phụ nữ ở Đông Á mà còn mang đến những quan điểm sau đây:
Quyền năng của phái nữ được thực thi và thường áp đảo quyền lực trong xã hội Nho giáo nơi mà trật tự chính thống được xây dựng dựa trên nguyên tắc nam quyền.
- Khái niêm về sức mạnh tinh thần của phái nữ sẽ làm tăng thêm quyền năng của Nữ thần.
- Nó cung cấp đầu mối để diễn giải vị thần kì lạ là Thánh Mẫu ( ở Việt Nam) và để suy ra quá trình hình thành của vị thần này.
- Một tổ chức xã hội có thể được phân tích rõ hơn bằng việc dùng quyền lực siêu nhiên của nữ giới như một điểm chính yếu
Nó cung cấp một ví dụ điển hình về người phụ nữ có vai trò lãnh đạo rtrong lĩnh vực tôn giáo, trong khi đàn ông có quyền lực thế tục, quyền lực xã hội.
Một hệ thống quan hệ họ hàng có thể được hiểu rõ hơn bằng việc xem xét ảnh hưởng tôn giáo của phụ nữ. Chẳng hạn, Mabuchi (1968) đã có một nghiên cứu so sánh dựa trên những dữ liệu điền dã của ông ở thổ dân Formosan và Okinawa, nhấn mạnh ảnh hưởng của phụ nữ về mặt tinh thần. Ông đã trình bày hai kiểu mô hình: Kiểu của người Indonesia và kiểu của người châu Đại dương; kiểu của người Indonesia tương ứng với hệ xã hội phụ hệ có khuynh hướng thờ cúng tổ tiên với nhóm quan hệ họ hàng vững chắc và kiểu của người chấu Đại Dương tương ứng với xã hội có quan hệ họ hàng theo khuynh hướng bản thể cá nhân. Nó cũng cung cấp khả năng phân tích một xã hội không có hệ thống họ hàng theo phụ hệ.
Chú thích:
1.Tổ tiên chính là những người cao tuổi bên họ nội ( cha, anh chị em của cha, ông nội) có cái chết bình thường theo cách nghĩ của Nho giáo, trong khi tổ tiên thứ là những người chết sớm mà không có con trai để lo thờ cúng họ sau khi chết hoặc chết bất đắc kì tử.
2.Mặc dù có quy chuẩn này, thường thì cha mẹ viết tên người con gái đã chết của họ. Tôi đã thấy sự phạm quy này khi tôi nghiên cứu điền dã. Nhưng đây chỉ là trường hợp ngoại lệ bình thường.
3.Trường hợp nữ thần Matzu nổi tiếng là trường hợp ngoại lệ duy nhất. Chuyện kể rằng bà mơ thấy con thuyền của cha bà bị đắm và đã cố gắng cứu cha và anh.Bà không cứu được anh vì bà đã thức dậy trước khi vớt được tới người anh. Người ta có thể tìm thấy sức mạnh siêu nhiên của một người phụ nữ đối với bà con bên nội trong motif của câu chuyện. Có thể cần có bằng chứng rõ hơn để chứng minh sự tồn tại của khái niệm năng lực tinh thần của người nữ trong số những người bình thường.
4. Chẳng hạn như ông đóng một cái đinh sắt vào tặng vật, cầu mong hai vợ chồng có nhiều con.
5. Nguyên nhân của sự du nhập Nho giáo cơ bản có thể xuất phát từ hệ thống phân chia đẳng cấp được danhds giá bởi sự tuân thủ chuẩn mực của Nho giáo.
6.Choe (1994:282-285) đã thu thập dữ liệu về các nghi lễ cúng " tổ tiên không có con cháu thờ phụng" Trong 24 trường hợp, chỉ có 6 trường hợp là con trai chưa vợ ( bao gồm 3 người chết trong chiến tranh) không có ai là con gái chưa chồng.
7.Một người lính ra trận được tặng một mảnh vải trắng mà trên đó chị em gái hoặc người vợ của anh đã ngàn người phụ nữ cùng góp mỗi người một mũi khâu thành một chiếc bùa hộ mệnh để tránh được hiểm nguy trong chiến trận. phong tục này vẫn còn truyền lại cho đến cuối chiến tranh Thái Bình Dương ( là một phần của chiến tranh thế giới II diễn ra ở vùng biển Thái Bình Dương và vùng Viễn đông vào khoảng 1944-1945)
Tài liệu tham khảo bằng tiếng Nhật, nên không thể ghi lại được.
---
BỔ SUNG
.
1. Tin về hội thảo năm đó
1. Tin về hội thảo năm đó
Vừa qua, Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên - Huế đã phối hợp với Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam và Công ty cổ phần văn hóa du lịch Huyền Trân tổ chức Hội thảo khoa học “Phụ nữ Việt Nam trong di sản văn hóa dân tộc”. Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã đến tham dự Hội thảo.
Mục đích của Hội thảo nhằm đánh giá đích thực những sự kiện, quá trình lịch sử phản ánh về người phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ và vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong di sản văn hóa. Qua đó, để thế hệ hôm nay học tập, phát huy truyền thống tốt đẹp này trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt là đối với tỉnh Thừa Thiên - Huế, vùng đất có bề dày văn hóa lịch sử. Đây là một trong những chương trình trọng điểm của lễ hội đền Huyền Trân 2010 và là hoạt động mở đầu cho năm 2010, năm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của quốc gia, nhiều hoạt động văn hóa lễ hội diễn ra khắp cả nước để hướng về kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Với hơn 20 tham luận về nhiều chủ đề, nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau về vai trò của người phụ nữ trong từng giai đoạn của lịch sử đất nước như phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước và giải phóng dân tộc thời cổ trung đại; Vai trò phụ nữ Việt Nam trong lịch sử ngoại giao thời hiện đại; Vai trò người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế… cho đến những nghiên cứu mang tính đối sánh về người phụ nữ trong tín ngưỡng giữa Việt Nam và Nhật Bản - Quyền linh của người phụ nữ: Tín ngưỡng thờ bà cô ở Việt Nam và Onari ở Okinawa – Nhật Bản của GS.TS Michio Suenari đến từ đại học Tokyo.
Hội thảo là dịp để các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước gặp gỡ trao đổi và làm rõ hơn vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa Huế, những đóng góp của các thế hệ phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…
MH
http://www.vtr.org.vn/hoi-thao-khoa-hoc-%E2%80%9Cphu-nu-viet-nam-trong-di-san-van-hoa-dan-toc%E2%80%9D.html
2 nhận xét: