Bây giờ bổ sung các ý kiến mới xuất hiện. Có một số ý kiến cũ là lấy lại (ví dụ của cụ Nguyễn Đình Chú từ Tạp chí Hán Nôm năm 2005).
Kể ra không nên đặt ý kiến của giới chuyên gia (Nguyễn Đình Chú, Đoàn Lê Giang,...) bên cạnh ý kiến của giới bình dân (Hiệu Minh,...). Nhưng tạm gom về một chỗ ở đây cho tiện, mà cũng để tham khảo chung.
---
1. Đoàn Lê Giang
PGS Đoàn Lê Giang tạm kết tranh luận dạy chữ Hán trong trường phổ thông
04/09/2016 07:56 GMT+7
- “Tôi thuộc những người đánh giá rất cao vai trò của ngôn ngữ và văn hóa đối với sự trường tồn của dân tộc mà đề nghị như thế. Tôi tin rằng: Tiếng Việt còn thì văn hóa ta còn, văn hóa ta còn thì nước ta còn” – PGS. TS Đoàn Lê Giang.
Khi phát biểu trong Hội thảo ở Viện Hán Nôm (27/8/2016) tôi có nói: 6 năm trước tôi đã từng có tham luận đề nghị dạy chữ Hán trong nhà trường để giữ gìn tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, tuy nhiên nếu nói trong tình hình bây giờ thì rất khó.
Sau khi VietNamNet đăng tải bài viết có trích ý kiến của tôi, sợ mọi người không hiểu hết ý nên tôi phải đưa nguyên văn bài tham luận của tôi trình bày trong Hội thảo "Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập quốc tế" (2010), bài viết có tên "Khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường - một phương pháp quan trọng để giữ gìn tiếng Việt và văn hoá Việt Nam".
Sau đó 2 bài viết ấy lan truyền rất mạnh trên các mạng xã hội với nhiều ý kiến trái chiều, gay gắt. Nay, tôi xin nói rõ suy nghĩ của tôi ở đây với mong muốn những người ngoài chuyên môn cũng hiểu được:
Chữ Hán là gì?
Chữ Hán là chữ được sinh ra từ nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, vào nước ta từ đời Hán (đầu CN), được các thế hệ cha ông ta Việt hóa nó, đọc bằng âm Hán Việt (tương tự như Hàn Quốc có âm Hán Hàn, Nhật Bản có âm Hán Hòa (Onyomi).
Chữ Hán đã tạo nên 60-70% vốn từ vựng tiếng Việt. Ví dụ: Hà Nội hoàn thành chỉnh trang đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc, thì có lẽ 100% là từ gốc Hán các thời khác nhau.
Có người nói với tôi nên dùng chữ Nho cho khỏi lầm. Dùng cũng được, nhưng nó không chuẩn, vì chữ ấy không chỉ dùng trong các văn bản Nho, mà cả Phật, Đạo hay những loại văn hóa khác.
Có người nói nên dùng chữ Hán Nôm. Tôi thì không dùng vì trên đời không có chữ đó, mà chỉ có chữ Hán và chữ Nôm.
Vậy chữ Hán là nói tắt của chữ Hán cổ đọc theo âm Việt. Cách nói này rất phổ biến, và được giới nghiên cứu mặc nhiên thừa nhận.
Vậy chữ Hán không phải là tiếng Hán, càng không phải Trung văn.
Tại sao chúng ta phải học chữ Hán?
Vì 2 lý do chính:
Thứ nhất, chúng ta muốn hiểu sâu được tiếng Việt thì chúng ta cần biết gốc gác nó ra sao, tra cứu nó thế nào.
Ví dụ: từ Minh Tâm, nghĩa là sáng lòng, vì chữ Minh là sáng. Nhưng học trò thắc mắc thế U Minh thì là gì, sáng tối à? Không, “Minh” trong trường hợp này lại là “Tối”. U Minh là mờ mịt. Học trò lại hỏi: Thế Đồng Minh là cùng sáng à? Không, Đồng Minh là cùng phe, vì nó xuất phát từ nghĩa: cùng hội thề. Vì chữ Minh là Thề.
Vậy làm thế nào để cô giáo trả lời học sinh những câu hỏi ấy, làm thế nào cho học sinh không hỏi cô mà cũng biết được.
Có hai cách:
1. Học âm Hán Việt, tự tra từ điển tiếng Việt. Đa số những người giỏi tiếng Việt hiện nay đều hình thành bằng con đường ấy. Nhưng thực ra họ cũng không thật tự tin vì từ ngữ thì vô bờ, sai đúng lẫn lộn, người ta không thể tự tin hoàn toàn được.
2. Học chữ Hán để có ấn tượng là chữ Hán rất nhiều từ đồng âm, nhiều nghĩa khác nhau. Sau đó biết cách tra từ điển. Từ điển chữ Hán có nhiều loại, rất phức tạp, phải học để có một chút vốn liếng mới tra được. Bằng cách này người ta có thể tự tra cứu, tự học tiếng Việt suốt đời.
Lý do thứ 2, học chữ Hán để cho chúng ta hiểu được văn hóa Việt Nam, chúng ta cảm thấy gắn bó với ông cha. Vì từ trước khi bỏ chữ Hán hoàn toàn vào đầu Thế kỷ XX, toàn bộ di sản văn hóa Việt Nam được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm (một thứ chữ được hình thành từ chữ Hán). Chúng ta học chữ Hán để chúng ta hiểu sâu tiếng Việt, từ đó có thể hiểu được vốn văn hóa Việt Nam.
Văn hóa cổ dù có được dịch ra tiếng Việt, như các công trình của Lê Quý Đôn chẳng hạn, nếu không có vốn chữ Hán nhất định, đọc vẫn rất khó hiểu.
Đọc Truyện Kiều, nếu có biết chữ Hán, chữ Nôm thì mới hiểu thấu đáo cái hay của nó. Chúng ta nếu có biết chút ít chữ Hán thì đến các di tích văn hóa (đình chùa miếu mạo), nhìn một tập thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng ta không thấy xa lạ, không thấy mình là "những đứa con thất cước của giống nòi" (chữ của Hoài Thanh).
Sâu xa hơn, chúng ta là người VN, trong văn hóa chúng ta có một phần văn hóa Đông Á. Chúng ta coi trọng gia đình, sống cần kiệm, đề cao đức liêm chính, hiếu kính, hiếu học...Tất cả những điều ấy có xấu không, có nên bỏ không, và có bỏ được không? Tôi không nói phương Tây không có điều ấy, đạo đức phương Tây được hình thành từ Thiên chúa giáo và văn hóa truyền thống của họ, còn đạo đức chúng ta thì từ văn hóa bản địa và văn hóa Đông Á (Nho, Đạo thuộc về văn hóa Hán, Phật thì gốc Ấn Độ).
Những điều ấy được các bậc hiền triết phương Đông nói rất hay và từ rất sớm, các sách vỡ lòng chữ Hán ngày xưa vừa dạy chữ, vừa dạy người thông qua các sách đó rất thú vị và dễ nhớ. Vậy chúng ta có nên học một chút tinh hoa từ đó qua sách chữ Hán nhập môn không?
Nếu chúng ta chỉ lo đuổi theo phương Tây và bằng lòng với ngôn ngữ chat, tin nhắn, với loại văn bản lổn nhổn tiếng Anh lẫn tiếng Việt thì rõ ràng đó là nguy cơ cho sự trong sáng của tiếng Việt và mai một văn hóa truyền thống.
Học chữ Hán có dễ không?
Dễ mà khó. Nếu học để trở thành học giả uyên thâm dịch được sách vở cổ thì rất khó, nhưng học để biết một số chữ, để biết tra từ điển Hán Việt, từ đó có thể tự học tiếng Việt suốt đời thì rất dễ. Vì người học chỉ học có 2 kỹ năng: đọc, viết, mà không phải học kỹ năng nghe, nói. Đồng thời học chữ Hán như xem tranh, như học ghép hình rất dễ nhớ và thú vị.
Tôi muốn tổ chức một nhóm biên soạn một cuốn "Vui học chữ Hán" để dạy cho học sinh cấp 2 (như kiểu nhóm Phan Thị làm ở đằng sau bộ truyện tranh (kiểu manga) "Thần đồng đất Việt", mỗi tập vài chữ). Trong thực tế học sinh chuyên văn Phổ thông năng khiếu hàng năm đều có học mấy chục tiết chữ Hán, các em học rất thú vị và tiến bộ rõ rệt khi sử dụng từ Hán Việt và học văn học cổ điển VN.
Ai là người dạy chữ Hán?
Có đấy, các khoa ngữ văn ở HN, TP.HCM, Huế đều có sinh viên Hán Nôm, học viên cao học Hán Nôm, và các sinh viên Văn học cũng được học hơn 100 tiết chữ Hán cơ sở và nâng cao.
Dạy chữ Hán trong nhà trường như thế nào?
Có nhiều cấp độ khác nhau. Học sinh THCS học 1 tiết/ tuần trong môn Ngữ văn theo kiểu "Vui học chữ Hán" - chữ Hán bằng hình ảnh. Dạy thế này rất dễ, thầy cô có một chút vốn Hán Nôm đều dạy được. Nếu trường không có thầy cô biết Hán Nôm thì bài ấy là tự chọn, thích thì tự học, không thì thôi. Lên THPT thì HS chuyên ban KHXH có thể tự chọn học sách chữ Hán cơ sở trong môn Ngữ văn, sách này có thể tự học vì nhìn chung môn chữ Hán đều có thể dễ dàng tự học. Nếu học sinh có hứng thú thì có thể học tiếp lên chuyên ngành ở ĐH. Có thể hình dung môn chữ Hán như môn tiếng Latin ở các trường tinh hoa ở Mỹ và châu Âu.
Ghi chú thêm: học chữ Hán không ảnh hưởng gì đến tiếng Anh là ngoại ngữ bắt buộc hay các ngoại ngữ khác: Pháp, Nhật, Trung. Mỗi môn này theo tôi phải học từ 8-12 tiết/ tuần.
Đại khái tôi đề nghị và hình dung việc học chữ Hán trong trường phổ thông như thế. Nhưng ít ai đọc hết tham luận của tôi. Hơn nữa tham luận của tôi được trình bày trong hội thảo chuyên ngành, nhiều kiến thức được coi là đương nhiên, nhiều tiền giả định bị lược bỏ, nhiều kết luận đã lược bỏ lập luận... nên người đọc phải có kiến thức cơ sở một chút mới hiểu đúng. Trên mạng đa số người ta chỉ đọc cái tít báo rồi nhảy dựng lên. Đa số không phân biệt được chữ Hán với tiếng Hán, tiếng Trung. Không phân biệt được từ Hán Việt, ngành Hán Nôm, hay "từ" với "chữ" Hán…
Thế nhưng ai cũng có ý kiến: đọc rồi cũng nói, không đọc cũng nói, biết cũng nói, không biết cũng nói, biết dở dở ương ương cũng nói. Tất nhiên có rất nhiều người hiểu biết, phân tích, trình bày một cách có lý lẽ, người thì nhiệt liệt đồng tình, người thì đồng tình có mức độ, người thì nêu ra những khó khăn hay điều kiện để chủ trương ấy thành khả thi…
Nói cho công bằng, đề nghị đưa chữ Hán giảng dạy trong nhà trường thì tôi không phải là người đầu tiên hay duy nhất. Nếu không kể các thời trước thì chừng hơn 10 năm nay đã có nhiều người đề nghị, như GS Cao Xuân Hạo (nhà ngữ học hàng đầu VN thế kỷ XX) đề nghị học chữ Hán xuất phát từ tính ưu việt của nó; GS Nguyễn Đình Chú (nhà ngữ văn hàng đầu) đề nghị học chữ Hán vì tính quan trọng của nó đối với môn ngữ văn; GS Nguyễn Cảnh Toàn (GS toán học, thứ trưởng Bộ GD trước đây) đề nghị học chữ Hán vì chữ Hán giúp hình thành các thuật ngữ khoa học dễ dàng, chặt chẽ và giúp hiểu rõ văn hóa VN…
Tôi thì đứng từ điểm nhìn các nước văn hóa chữ Hán: Nhật, Hàn, Đài Loan (không phải TQ) - những nước vừa phát triển hiện đại vừa giữ gìn ngôn ngữ và bản sắc dân tộc của họ mà để đề nghị học chữ Hán (Hán Việt), nhằm làm sao giữ gìn, phát triển tiếng Việt và văn hóa VN. Tôi thuộc những người đánh giá rất cao vai trò của ngôn ngữ và văn hóa đối với sự trường tồn của dân tộc mà đề nghị như thế. Tôi tin rằng: Tiếng Việt còn thì văn hóa ta còn, văn hóa ta còn thì nước ta còn.
- PGS. TS Đoàn Lê Giang
2. Ngô Đức Thịnh
GS Ngô Đức Thịnh: "Tôi chọn tiếng Anh chứ không học chữ Hán"
Hoàng Đan |
"Trẻ giờ học quá nhiều, trong khi học chữ Hán rất nặng nhọc nên nếu bắt học thì không cần thiết. Chưa kể, một dân tộc đang hội nhập mà lại học chữ cũ như thế thì không đánh đổi...".
Không đánh đổi...
Ý kiến cho rằng, muốn dùng tiếng Việt trong sáng thì học sinh phổ thông phải học chữ Hán, do vậy, cần phải đưa chữ Hán Nôm vào dạy sớm cho học sinh đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều.
Trao đổi với chúng tôi, Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam cho hay, đúng là chữ Hán và Hán Nôm có nhiều thứ hay, quan trọng, nhưng cá nhân ông không đồng tình với việc bắt học sinh phải học chữ này.
Theo GS Thịnh, chữ Hán và Hán Nôm là vấn đề rất lớn, quan trọng của lịch sử dân tộc. Bởi nó là sự tích lũy của nhiều thế kỷ văn minh dân tộc Việt nên nếu chúng ta không giữ gìn nó sẽ có thể mất đi, khiến lịch sử, văn hóa dân tộc bị thiếu hụt.
"Tất nhiên, học được chữ Hán, Hán Nôm là tốt vì nó gắn với lịch sử của chúng ta, nhưng mà đặt vấn đề dạy chữ Hán, Hán Nôm cho tất cả các cấp học phổ thông, chưa nói đến dạy như thế nào thì nó sẽ không thực tế.
Trẻ em bây giờ học quá nhiều rồi, trong khi để học chữ Hán, Hán Nôm rất nặng nhọc nên nếu bắt học thì theo tôi là không cần thiết.
Chưa kể, một dân tộc với dân số lớn, đang hội nhập như chúng ta mà học lại chữ cũ như thế thì không đánh đổi...", GS Thịnh nói.
Ông Thịnh cũng nêu rõ việc cho rằng học chữ Hán, Hán Nôm để giữ sự trong sáng của tiếng Việt là không chính xác.
"Để giữ trong sáng của tiếng Việt thì không phải. Rõ ràng, sự tiếp thu vốn từ của chữ Hán làm cho tiếng Việt có độ sâu và tất cả những gì chữ Hán có được là trên cơ sở định hình hóa văn hóa Trung Hoa, tạo nên sự lâu bền hơn.
Nhưng nếu chúng ta đi vào con đường học chữ Hán để bảo giữ trong sáng tiếng Việt như vậy thì sẽ càng làm cho văn hóa Việt Nam phụ thuộc và việc sử dụng ngôn từ của thế hệ hiện tại có thể sẽ rối rắm hơn ", ông nhìn nhận.
Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam cũng đánh giá, đúng là ở một số khía cạnh thì người học chữ Hán, Hán Nôm có sự phát triển tốt hơn, sử dụng ngôn ngữ hiện đại của tiếng Việt chuẩn, chính xác, sâu sắc hơn.
"Nhưng để đổi lấy việc con em chúng ta phải mang vác một ngoại ngữ nặng nhọc, ghê gớm hơn thì không nên.
Chưa kể, cuộc sống bây giờ là lựa chọn, mình phải lựa chọn phương án nào tốt nhất cho mình.
Chúng ta đã lựa chọn, sử dụng chữ quốc ngữ (tiếng Việt - PV) nhiều thế kỷ nay và đưa nó vào hội nhập rất tốt thì không thể nào bắt những người sau phải đi học chữ Hán, Hán Nôm là những chữ cũ trước đây.
Trong lúc tiếng Anh là ngôn ngữ chung của hội nhập thì với hệ thống chữ Hán, Hán Nôm như vậy rất khó cho chúng ta hội nhập", ông bày tỏ.
Trước câu hỏi, nếu chọn giữa học tiếng Anh và chữ Hán, Hán Nôm ông sẽ chọn lựa thế nào, ông Thịnh trả lời:
"Tất nhiên, nếu học, tôi sẽ chọn học tiếng Anh chữ không học chữ Hán. Bởi, tiếng Anh sẽ giúp cho việc hội nhập được tốt và đây là tương lai của dân tộc chúng ta...".
Cần dứt bỏ văn hóa ngoại vi
Theo nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, thời gian trước đây cũng đã có những ý kiến đề xuất phải dạy, học tiếng Hán, Hán Nôm, tuy nhiên, việc làm rõ học như thế nào đã không làm rõ được.
"Như tôi đã nói, có học chữ Hán, Hán Nôm cũng tốt nhưng nếu dạy đại trà thì nó không thực tế chút nào cả và còn gây khó khăn.
Còn thực tế có một vấn đề quan trọng mà nên thấy rõ đó là hiện nay, chúng ta đang là ngoại vi của văn hóa Trung Hoa nên cần sớm dứt bỏ điều này để đi vào thế giới hiện đại. Nhật Bản đã làm điều này từ thời Minh Trị - Duy Tân, sau đó đến Hàn Quốc.
Tuy nhiên, chúng ta lại chưa làm được điều này...", vị này chia sẻ.
Về thông tin ở Nhật người tốt nghiệp phổ thông phải biết ít nhất 1.945 chữ Hán, đến hết ĐH thì phải biết khoảng 3.000 chữ, Trung Quốc cũng yêu cầu số lượng tương tự, Hàn Quốc thì hết phổ thông, học sinh phải biết khoảng 1.000 chữ, GS Ngô Đức Thịnh khẳng định, ở Việt Nam không cần như vậy.
Bởi theo ông, đối với chữ Nhật và Hàn Quốc thì bên cạnh sự sáng tạo của họ vẫn có sự tiếp thu vốn từ rất cơ bản của chữ Hán.
"Như đối với lịch sử của tiếng Nhật thì ngoài sự sáng tạo thì có sự tiếp thu vốn từ rất cơ bản của chữ Hán cho nên họ quy định như vậy là có lý đối với bản thân sự phát triển nền văn hóa, chữ viết của họ", ông phân tích.
Nếu được đề xuất ý kiến thì theo ông Thịnh, đối với việc dạy chữ Hán, Hán Nôm chỉ nên thực hiện ở một số bộ phận để có thể nắm rõ, tiếp thu thứ tiếng này mà thực chất là tiếp thu, nghiên cứu văn hóa, lịch sử dân tộc ở một thời kỳ đã qua.
Từ việc nắm rõ, nghiên cứu chữ Hán, Hán Nôm sẽ dịch, chuyển văn minh đó thành văn minh chữ quốc ngữ để nhân dân tiếp thu, kế tục.
"Còn như tôi đã nói, nếu chọn học chữ Hán, Hán Nôm để đánh đổi với việc học tiếng Anh, tiếng Pháp... để hội nhập thì quả thực không thể đánh đổi được và chúng ta hãy nghĩ đến việc giải ngoại vi của văn hóa đó đi...", GS Thịnh nêu thêm.
PGS.TS Đoàn Lê Giang lên tiếng
Trong bài viết với tựa đề "Lời tạm kết cho cuộc tranh luận dạy chữ Hán trong trường phổ thông" đăng trên tờ Nhịp cầu thế giới online, PGS.TS Đoàn Lê Giang đã có những phản hồi sau khi đề xuất dạy chữa Hán được đưa ra gây xôn xao dư luận.
Ông cho hay, đề xuất này đã được đưa ra từ cách đây 6 năm, trong hội thảo ở Viện Hán Nôm hôm 27/8 ông chỉ nhắc lại, sau đó 1 vài ý tưởng của ông đã được báo giới trong nước tường thuật đưa lên mạng.
Sợ nhiều độc giả chưa hiểu hết ý của mình, ông đã phải đưa nguyên văn bài tham luận của ông đã trình bày trong Hội thảo "Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập quốc tế" (2010).
Bài viết đó có tên "Khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường - một phương pháp quan trọng để giữ gìn tiếng Việt và văn hoá Việt Nam".
Xin lược trích ý kiến của PGS.TS Đoàn Lê Giang đăng trên Nhịp cầu thế giới online:
"Trên mạng đa số người ta chỉ đọc cái tít giật gân và tường thuật sơ lược... rồi "nhảy dựng" lên. Có người còn nhắn tin, gửi email riêng cho tôi gọi mày tao, dọa nạt như tôi có tư thù gì với họ.
Có người gửi email đến hạch sách: ông còn dám giữ ý kiến nữa không? (đến khi tôi gửi mấy bài đính kèm, nói ông đọc đi rồi mới trao đổi, người ấy đọc xong bèn "meo" lại: tôi không đồng tình hết, nhưng ông nói có lý. Rồi thôi!).
Ồn ào đến mấy ngày, lưu truyền trên rất nhiều trang FB cá nhân, và cả blog, website danh tiếng.
Người ta chỉ nghe cái tít thôi, có người còn rút tít xuyên tạc để dễ chửi: "Học tiếng Hán để cứu sự sụp đổ của Tiếng Việt" rồi vu cho tôi chủ trương quay lại dùng chữ Hán chữ Nôm thay cho chữ quốc ngữ La Tinh (!).
Thế rồi cứ hè nhau, đọc nhau rồi chửi, lại nhân đó mà trút mọi bực dọc xã hội, chửi hết những người có bằng cấp, giáo sư... hệt như những người chưa hề đến trường bao giờ.
Tất nhiên có rất nhiều người hiểu biết, phân tích, trình bày một cách có lý lẽ, người thì nhiệt liệt đồng tình, người thì đồng tình có mức độ, người thì nêu ra những khó khăn hay điều kiện để chủ trương ấy thành khả thi, v.v...
Nói cho công bằng, đề nghị đưa chữ Hán giảng dạy trong nhà trường thì tôi không phải là người đầu tiên hay duy nhất.
Tôi thì đứng từ điểm nhìn các nước văn hóa chữ Hán: Nhật, Hàn, Đài Loan (không phải Trung Quốc) - những nước vừa phát triển hiện đại vừa giữ gìn ngôn ngữ và bản sắc dân tộc của họ mà để đề nghị học chữ Hán (Hán - Việt), nhằm làm sao giữ gìn, phát triển tiếng Việt và văn hóa Việt Nam.
Tôi thuộc những người đánh giá rất cao vai trò của ngôn ngữ và văn hóa đối với sự trường tồn của dân tộc mà đề nghị như thế. Tôi tin rằng: Tiếng Việt còn thì văn hóa ta còn, văn hóa ta còn thì nước ta còn".
3. Nguyễn Hữu Đạt
Hoàng Đan |
"Việc đề xuất dạy chữ Hán là thiếu căn cứ khoa học, sẽ gây tác hại khôn lường cho nhiều thế hệ, không chỉ gây ra tổn hại kinh tế mà còn đè lên vai trẻ gánh nặng quá sức chịu đựng".
"Thiếu căn cứ khoa học"
Xung quanh ý kiến về việc có cần dạy chữ Hán cho học sinh phổ thông hay không, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, Chủ nhiệm Bộ môn Việt ngữ học, Khoa Ngôn ngữ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH QGHN).
PV: Vừa qua, có một số ý kiến cho rằng, muốn dùng tiếng Việt trong sáng thì học sinh phổ thông phải học chữ Hán. Do vậy, cần phải đưa chữ Hán Nôm vào dạy sớm cho học sinh. Cá nhân PGS có đánh giá như thế nào về ý kiến này?
PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt: Tôi rất kính trọng những người giỏi, am hiểu chữ Hán, chữ Hán Nôm nhưng tôi không đồng tình với ý kiến trên.
Trước hết, chúng ta muốn dạy cho con em chữ gì thì phải xem mục đích của việc dạy nó để làm gì? Rất nhiều người có sự nhầm lẫn đáng tiếc, cứ cho rằng, dạy tiếng Hán là giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nhưng tôi cho rằng, đó là sai lầm.
Bởi họ chưa hiểu được bản chất của vấn đề. Đầu tiên, ta phải hiểu, chữ Hán là chữ của dân tộc nào, của ngôn ngữ nào? Và tại sao phải học chữ Hán mới dùng tiếng Việt được một cách trong sáng?
Chữ Hán vốn là chữ của dân tộc Hán chứ không phải là chữ của người Việt sáng tạo ra. Đây là loại chữ tượng hình, phức tạp và cho đến bây giờ, người Trung Quốc cũng không dạy chữ Hán văn ngôn mà dạy chữ Hán bạch thoại.
Có nghĩa là họ dùng loại chữ Hán giản thể, có cấu tạo đơn giản và dễ nhớ hơn chữ Hán ngày xưa. Vậy tại sao ta lại đặt vấn đề bắt con em ta phải học thứ chữ đã thành tử ngữ ấy? Thật quá vô lý!
Muốn phát triển thế hệ trẻ thì phải nâng cao năng lực ngoại ngữ của họ, giúp họ có phương tiện tiếp xúc với thế giới. Học sinh ngữ như tiếng Anh, Nga, Pháp… hoặc tiếng Trung hiện đại mới là nhu cầu cần thiết.
Chữ Hán có phải là sinh ngữ không? Xin thưa là không. Nó có phải là sản phẩm của tư duy người Việt không? Xin thưa là không.
Ai cũng biết rằng, trong lịch sử do chiến tranh, đô hộ, tiếp xúc văn hóa với phương Bắc mà ở Việt Nam, chữ Hán có một địa vị quan trọng trong việc lưu giữ các tài liệu cổ như văn bia, đình chùa, miếu mạo… Thậm chí ta còn có một nền văn học cổ được viết bằng văn tự Hán.
Thời phong kiến, trí thức Việt Nam được đào tạo theo kiểu giáo dục "văn chương cử tử" theo cách của người Trung Quốc, tức muốn làm quan lại, nho sĩ của thời đại phong kiến thì phải học chữ Hán.
Tuy nhiên, cách đây 7,8 thế kỷ, các bậc đại trí thức Việt Nam đã nhận ra mối hiểm họa lâu dài của dân tộc khi không có chữ viết riêng nên mới sáng tạo ra loại chữ của mình là chữ Nôm.
Theo các tài liệu nghiên cứu thì người có công đầu tiên là cụ Hàn Thuyên Nguyễn Sĩ Cố (thế kỷ XIII). Về sau chữ Nôm còn được phát triển đa dạng ở các vùng miền. Chữ Nôm ở miền Bắc khác chữ Nôm ở miền Nam…
Chẳng hạn cùng là chữ " Tay" có nơi lấy "bộ thủ" kết hợp với chữ "tây", có nơi lại kết hợp với chữ "tư"…thành ra, muốn biết chữ Nôm thì trước hết lại phải biết chữ Hán.
Chữ Nôm là sản phẩm của người Việt: dùng nguyên liệu chữ Hán để chế tác ra văn tự mới của mình theo qui luật ngôn ngữ của tiếng Việt. Vì thế, ngay cả người Trung Quốc cũng không đọc được chữ Nôm. Đó là một thực tế.
PV: Nếu học chữ Hán là sai lầm, vậy theo thầy, chúng ta nên dạy gì cho các em học sinh để giữ sự trong sáng của tiếng Việt?
PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt: Như tôi đã nói ở trên, chữ Hán là chữ của dân tộc khác, là của quá khứ. Hiểu biết nó chỉ có lợi trong nghiên cứu chứ không có lợi cho việc giao tiếp bằng tiếng Việt hiện đại.
Cá nhân tôi thấy có điều đáng bàn là để hiểu tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ta lại rất cần dạy từ Hán Việt cho học sinh. Chìa khóa ở chỗ này. Từ Hán Việt chứ không phải là chữ Hán mới là mục tiêu cần dạy cho học sinh.
Từ Hán Việt là gì? Là các từ có nguồn gốc từ tiếng Hán du nhập vào Việt Nam, nhưng được dùng theo cách của người Việt Nam từ cách phát âm, dùng nghĩa…
Đây là vốn từ ngữ phong phú góp phần làm nên sự giàu có, tinh tế của tiếng Việt. Nhưng dạy từ Hán Việt và dạy chữ Hán là 2 vấn đề hoàn toàn khác nhau mà đa số mọi người lầm lẫn trộn nó làm một.
Việc đề xuất dạy chữ Hán trong nhà trường là một hướng suy nghĩ thiếu căn cứ khoa học, sẽ gây ra nhiều tác hại khôn lường cho nhiều thế hệ bởi nó gây ra nhiều tổn hại kinh tế và đè lên vai trẻ thơ một gánh nặng quá sức chịu đựng.
Chưa kể, việc đề xuất dạy chữ Hán sẽ lại làm nảy sinh thêm một lượng lớn cán bộ, như giáo viên giảng dạy cho hàng chục ngàn trường phổ thông… Nó sẽ đè nặng lên ngân sách của Nhà nước trong khi không mang lại lợi ích phát triển kinh tế xã hội.
Đa phần bạn học chữ Hán Nôm viết tiếng Việt kém hơn học các ngoại ngữ khác
PV: Từ thực tế quá trình giảng dạy, tiếp xúc với những học trò học tiếng Hán Nôm, thầy có đánh giá như thế nào về năng lực của họ so với những người không học?
PGS. TS Nguyễn Hữu Đạt: Thực tế qua 40 năm giảng dạy ở trường Đại học, tôi dạy rất nhiều thế hệ học sinh Hán Nôm thì thấy, cũng có những người rất giỏi nhưng đa phần các bạn học chữ Hán Nôm thì viết tiếng Việt thường kém hơn các bạn học các sinh ngữ như tiếng Anh, Nga, Pháp…
Thậm chí có giáo sư nổi tiếng ngành Hán Nôm viết một cuốn chuyên luận mà nhà thơ Trần Mạnh Hảo đọc xong phải viết một bài phê phán gọi là giáo sư không "rành" tiếng Việt đăng trên báo Người Hà Nội cách đây vài năm.
Trước đây, ở khoa Ngữ Văn của trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (cũ) có một thầy giỏi chữ Hán thuộc hạng nhất nhì nước mà ai cũng gọi là cây từ điển bởi thầy có thể giải nghĩa được tất cả các chữ Hán một cách làu làu, thông tuệ. Vốn chữ Hán của thầy không mấy ai sánh được.
Nhưng viết một văn bản tiếng Việt hiện đại thì thầy bối rối vô cùng, thậm chí diễn đạt còn sai nữa…Điều đó, chứng tỏ, học chữ Hán là một cản trở lớn đối với tư duy tiếng Việt hiện đại.
Nguyên nhân của việc này chính là do chữ Hán Nôm là chữ tượng hình, nhiều nét, nhiều chữ nên người học phải trầm ngâm, suy nghĩ, phải nhớ, phải học… mất rất nhiều thời gian trong khi tiếng Việt hiện đại - chữ Quốc ngữ lại giản tiện về nét viết nên thông thoáng, tư duy nhanh hơn nhiều.
PV: Có ý kiến cho rằng, ở Nhật, người tốt nghiệp phổ thông phải biết ít nhất 1.945 chữ Hán, đến hết ĐH thì phải biết khoảng 3.000 chữ. Trung Quốc cũng yêu cầu số lượng tương tự. Hàn Quốc thì hết phổ thông, học sinh phải biết khoảng 1.000 chữ. Chỉ có Việt Nam là không đặt ra yêu cầu này?
PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt: Tôi nghĩ là đây là hai vấn đề khác nhau, cách đi của mỗi nước khác nhau và phải xem xét bởi đang có sự nhầm lẫn.
Người Việt dùng chữ Quốc ngữ là thứ văn tự được xây dựng theo hệ chữ cái La-tinh từ thế kỷ thứ 17, gọi là chữ viết ghi âm, nhưng người Hàn Quốc và người Nhật hiện nay vẫn dùng chữ khối vuông - loại chữ tượng hình.
Chữ khối vuông của Hàn và Nhật mượn nét của chữ Hán vẫn còn nhiều, thậm chí nhiều chữ vẫn để nguyên theo chữ Hán như hai chữ "Nhật Bản" chẳng hạn. Vì vậy, họ có yêu cầu phải biết bao nhiêu chữ để đọc văn bản hiện đại của họ.
Còn chữ chúng ta là chữ La – tinh chẳng có liên quan gì đến nét chữ của chữ Hán thì cần gì phải bắt con em ta nhớ hàng nghìn chữ để khổ ra và không có tích sự gì cả. So sánh như thế là râu ông nọ cắm cằm bà kia, ông chẳng bà chuộc chữ không phải là so sánh trên cơ sở khoa học.
Cũng cần nói thêm, ở Nhật hay Hàn Quốc họ phát triển đâu phải do chữ Hán, mà là do họ tiếp xúc sớm với văn minh phương Tây.
Nếu áp dụng theo cách Nhật Bản hay Hàn Quốc, ta có thể theo cách thế này: người tốt nghiệp phổ thông phải biết ít nhất 1.945 từ Hán Việt, đến hết ĐH thì phải biết khoảng 3.000 từ Hán Việt.
Nhất thiết, chúng ta không nên lấy con trẻ của mình ra làm cuộc thí nghiệm. Không cẩn thận, chính chúng ta sẽ dẫn con mình đến chỗ khốn đốn nếu học chữ Hán.
Trong tương lai, theo chiến lược của Nhà nước, chúng ta dùng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai giống như Singapore. Phấn đấu được như vậy là rất tốt. Nếu bắt học trò học thêm chữ Hán nữa thì có phải là quá nặng và rất quá sức với lớp trẻ không?
Còn nếu có dạy chữ Hán thì chỉ cũng nên dạy ở một số trường đại học trong một số chuyên ngành thôi. Hãy làm một thống kê thử xem, bao thế hệ sinh viên ngành Ngữ văn học chữ Hán suốt cả 3 - 4 năm nhưng đến nay số thực tế sử dụng được chữ Hán là mấy, thì sẽ rõ ngay.
Tôi cũng xin cung cấp thêm, khi tôi sang giảng dạy ở Trung Quốc thì PGS.TS Phùng Siêu, ở Bộ môn Việt ngữ học, trường ĐH Ngoại ngữ Thượng Hải cũng nói là người Trung Quốc từ năm 60 đã có nhiều Hội nghĩ bàn về cách La-tinh hóa chữ Hán nhưng không được.
Trong khi ta lại muốn làm ngược lại. Chả lẽ ta muốn quay ngược bánh xe lịch sử sao?
4. Hiệu Minh
Đề xuất dạy chữ Hán: Hãy để học sinh Việt Nam được tự lựa chọn
Hiệu Minh |
Với học sinh tại Việt Nam nên để các cháu lựa chọn tự nhiên. Cháu nào thích khoa học kỹ thuật nên chọn tiếng Anh hay Pháp. Mê văn hóa phương Đông thì tiếng Trung hay Nhật...
Vốn chữ Nho của tôi từ thuở thò lò mũi xanh là mấy từ trong Tam Thiên Tự (3000 chữ) "Thiên trời, địa đất, từ cất, tồn còn…", dù chẳng biết chữ "Thiên" viết thế nào, "Tử chết" và "Tử con" khác nhau ra sao. Cứ nghĩ học cái chữ này chẳng có tương lai.
Sau này mới biết, trong 10 ngôn ngữ dùng thông dụng trên thế giới thì tiếng Trung đứng số 1 với hơn một tỷ người nói, tiếng Anh đứng thứ 2 với gần 800 triệu, tiếng Tây Ban Nha đứng hàng thứ 3 với gần 500 triệu, và tiếng Nhật đứng thứ 10 bằng dân số Nhật gần 130 triệu.
Trên internet tiếng Anh đứng đầu với 536 triệu người, tiếng Trung đứng thứ 2 với 444 triệu, tiếp đó mới là Tây Ban Nha với 153 triệu và tiếng Nhật chỉ có gần 100 triệu, trong một thế giới 7 tỷ người.
Như vậy, theo số đông thì nên học tiếng Trung để du lịch và làm ăn với hàng xóm, nhưng để hội nhập xa, tiếng Anh nên là lựa chọn.
Nước Nhật với chữ tượng hình đang thay đổi
Trong lúc tại Việt Nam đang tranh cãi về ý kiến của PGS Đoàn Lê Giang muốn dùng tiếng Việt trong sáng học sinh phải học chữ Hán, thì cách Hà Nội khoảng 5 giờ bay tại Tokyo, chính phủ nước này đang đưa chiến lược dạy tiếng Anh trong trường.
Đầu tháng 8-2016, thủ tướng Shinzo Abe đã công bố kế hoạch phổ biến rộng rãi tiếng Anh cho các em từ tuổi lên 8 thay vì 10 tuổi như trước đây, tập trung vào đọc, viết và ngữ pháp.
Người Nhật cũng giống người Trung Quốc không cần ngoại ngữ cũng có thể phát triển kinh tế có thứ hạng toàn cầu. Và họ có lý. Trung Quốc có nền kinh tế thứ 2 và Nhật sau một bậc.
Tới sân bay Narita du khách vui vì gặp người giúp mang hành lý lên xe bus, lái taxi lịch sự, dịch vụ hoàn hảo với những cái cúi gập lưng tưởng chừng gẫy cả xương sống, nhưng hỏi vài câu tiếng Anh thì bắt đầu thất vọng.
Trong các nước G7, Nhật đứng hạng chót trong xếp hạng nói tiếng Anh. Bộ trưởng phát biểu cứ tưởng tiếng Nhật có nhiều từ giống tiếng Anh.
Năm 2015, điểm trung bình TOEFL của người Nhật đứng thứ 70 trong 120 quốc gia, thấp nhất trong các nước Đông Á, chỉ hơn Lào và Campuchia.
Giáo sư Hideyuki Takashima của đại học Tokyo cho rằng, nước Nhật cần tiếng Anh để hiểu các nền văn hóa khác và nhờ đó có thể lan tỏa văn hóa Nhật. Đối với chính phủ thì tiếng Anh giúp phát triển kinh tế và hội nhập.
Công cuộc toàn cầu hóa đã làm cho nước Nhật bị bỏ lại phía sau do việc làm bị Trung Quốc và Ấn Độ chiếm. Muốn gượng dậythì phải học ngoại ngữ.
Nhiều công ty Nhật đã bắt đầu chú trọng ngoại ngữ. Sony đòi hỏi các nhân viên phải biết giải thích về sản phẩm bằng tiếng Anh. Honda dự định tới năm 2020 sẽ chuyển đổi sang ngoại ngữ.
Dù văn hóa đóng kín của người Nhật sẽ tiếp tục trên đất nước này với chữ tượng hình nhưng hội nhập với thế giới thì chỉ còn cách đi theo trào lưu của thế giới.
Các nhà khoa học dự đoán 80% dân Nhật không cần tiếng Anh vẫn sống tốt. Nhưng với xu hướng người già nhiều, lao động trẻcó trình độ cao thiếu, thủ tướng Shinzo Abe không thể hài lòng với những dòng tượng hình nếu không thêm tiếng Anh phía dưới.
Chữ Hán Nôm và văn hóa Việt
Trung Quốc có nền văn hóa đồ sộ 5000 năm lịch sử, ảnh hưởng đến mọi ngõ ngách của thế giới. Người Hoa đi cư khắp nơi và để lại những China Town, khu người Hoa và chính họ cũng hòa nhập với người bản địa.
Với 1000 năm đô hộ của phương Bắc, Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn bởi văn hóa Trung Hoa, từ phong tục tập quán, chùa chiền miếu mạo, tới cả chữ viết.
Khi tìm tên cho đứa con đầu lòng, tôi thích chữ MINH vì trong chữ Nho thì MINH (明) bao gồm hai chữ mặt trời (日)và mặt trăng (月).Mặt trời sáng ban ngày, trăng sáng ban đêm. MINH là sáng cả đêm lẫn ngày thì chắc chắn rất sáng.
Từ đó, tôi thấy chữ Nho có những giá trị phong phú, nếu không hiểu thật đáng tiếc. Thăm đền chùa, tôi hay hỏi các vị sư chủ trì về các chữ viết trên câu đối và thích thú khi nghe giải thích ý nghĩa của từng chữ.
Chữ Nho là một phần không thể thiếu của người Việt. Để mai một hay trường tồn phụ thuộc vào các nhà văn hóa và lãnh đạo có tầm nhìn.
Lựa chọn thế nào?
Ngày nay Trung Quốc với số dân gần 1,4 tỷ, nền kinh tế thứ 2 thế giới, sự phát triển mà phương Tây vừa nể vừa lo ngại.
Thấy người Mỹ học tiếng Trung để tìm việc ở Bắc Kinh thì phải hiểu đó là sự hội nhập. Tháng 9 năm ngoái, TT Obama công bố muốn có 1 triệu người Mỹ biết tiếng Trung vì cho rằng, hai quốc gia muốn hợp tác tốt thì phải có con người cụ thể biết tiếng của nhau.
PGS Giang kêu gọi dạy Hán Nôm trong trường là một ý tốt. Hiểu được di sản cha ông để lại sẽ tìm được ngọc trong đá cho quốc gia phát triển.
Đất nước đang khủng hoảng niềm tin, văn hóa bị xô lệch từ Á sang Âu, từ Nga sang Trung cho tới Nhật, việc nhận biết mình là ai, đâu là thế mạnh, thì chắc chắn phải hiểu nguồn gốc. Chữ Hán Nôm là một công cụ.
Về đối ngoại, hàng xóm lúc vui, lúc buồn, lúc thân tình, lúc thù hận, nếu hiểu người ta thì dễ sống hơn là phủ nhận. Cách tốt nhất để không bị lệ thuộc Trung Quốc, lan tỏa ngược văn hóa Việt hay hợp tác win win thì nên biết đối tác như người Nhật đang học tiếng Anh.
Con trai của tôi hiện đang học PTTH tại Mỹ. Nhớ có lần giải thích cho cháu về chữ MINH. Không rõ cháu có hiểu, nhưng khi vào lớp 8, cháu đã chọn tiếng Trung là một ngoại ngữ. Trong trường, học sinh được lựa các môn mà các cháu cho là thế mạnh và có đam mê. Thích lịch sử thì học nhẹ toán, thích IT có thể bớt môn sinh vật.
Với học sinh tại Việt Nam cũng nên để những lựa chọn tự nhiên cho các cháu. Cháu nào thích khoa học kỹ thuật nên chọn tiếng Anh hay Pháp. Mê văn hóa phương Đông thì tiếng Trung hay Nhật là những ngôn ngữ đáng học. Mê lịch sử, văn hóa cổ chọn nghiên cứu Hán Nôm.
Nếu được lựa như menu trong nhà hàng thì phụ huynh và học sinh sẽ biết học cho sự đam mê và khởi nguồn cho sáng tạo.
Để có sự trong sáng của tiếng Việt thì nên Việt hóa thay vì dùng các từ bị Hán hóa một cách vô thức. Và không thể bắt bọn trẻ ngồi nhai từng chữ rắc rối như thế hệ cách đây nửa thế kỷ"Thiên trời địa đất...".
5. Chu Mộng Long
Học chữ Hán: Tại sao không?
03/09/2016 09:09 GMT+7
- Không chỉ chữ Hán, mà theo tôi, những ngôn ngữ của những nền văn hóa lớn đều rất cần phải học nếu có điều kiện: như tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Hindi…
Nhưng vì sao PGS. Đoàn Lê Giang đặt vấn đề phải đưa chữ Hán vào trong chương trình phổ thông? Và vì sao ý kiến này bị phản đối đông hơn là được ủng hộ?
Do bài viết của PGS. Đoàn Lê Giang không nói rõ, chữ Hán như là tiếng Việt được sử dụng cả mấy ngàn năm, trước khi chúng ta sử dụng chữ Latin thay thế, chứ không phải là một ngoại ngữ (tiếng Trung) như có người hiểu nhầm.
Chữ Hán hiện nay không chỉ tồn tại như một công cụ để giao tiếp hàng ngày (giúp người ta dùng đúng một số lượng khổng lồ từ và ngữ Hán – Việt) mà còn là công cụ để hiểu biết toàn bộ di sản văn hóa của cha ông. Nói cách khác, nó cũng là công cụ giao tiếp, nhưng là giao tiếp lớn hơn nhu cầu thực dụng: giao tiếp giữa xưa và nay, giữa con cháu với cha ông.
Một thực tế là số lượng người hiểu biết chữ Hán ngày càng ít đi và các di sản quá khứ ngày càng mai một nếu chỉ còn bảo tồn cái vỏ vật chất. Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu, chuyển những di sản vật chất thành tinh thần, bởi vì chỉ nhờ nó mới lưu giữ đầy đủ những gì mà các di sản vật chất không thể lưu giữ trường tồn được.
Tôi hiểu những người phản đối PGS. Đoàn Lê Giang là những người mang định kiến ghét Tàu.
Họ cực đoan đến mức, những gì có liên quan đến Trung Quốc đều nên tẩy chay.
Và vì định kiến, nên tai hại thay là rất nhiều người trên mạng xã hội đã vội vàng chụp mũ PGS. Đoàn Lê Giang là “tay sai của Tàu”, âm mưu “Hán hóa người Việt lần nữa”?! Họ không cần biết PGS. Đoàn Lê Giang là ai, sẵn sàng ném đá cho hả giận để chứng tỏ mình yêu nước, yêu giống nòi!
Yêu nước, yêu giống nòi gắn liền với ý thức độc lập, tự chủ là đúng rồi. Nhưng yêu nước, yêu giống nòi lại càng không thể đoạn tuyệt với ngàn năm văn hiến của tổ tiên.
Học một ngôn ngữ khác không đồng nghĩa với bị nô dịch. Thiếu hiểu biết mới đi đến nguy cơ bị nô dịch.
Cá nhân tôi đã từng phản đối sự phục hưng Nho giáo, ở sự lợi dụng, biến tấu một học thuyết toàn trị của quá khứ để phục vụ cho một nhóm người hiện tại có quyền lực (cả trong gia đình lẫn xã hội) lúc nào cũng nhân danh Lễ trị để thống trị kẻ khác.
Nhưng tôi cũng không bao giờ phản đối văn hóa Hán (rộng hơn văn hóa Nho giáo) với những tinh hoa mà dân tộc đã từng và buộc phải chịu ảnh hưởng, trong đó có chữ Hán. Cần và nên đưa vào trường học, ngay ở giáo dục phổ thông là đúng. Còn liều lượng thế nào phải bàn thêm.
Chẳng hạn, có thể không nhất thiết học chữ Hán như một môn học riêng (dễ bị hiểu nhầm là ngoại ngữ bắt buộc) mà tích hợp vào trong phần học văn bản ngữ văn trung đại do giáo viên ngữ văn đảm nhiệm.
Thay bằng học bản dịch với những nội dung tán sáo tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước… đến nhàm chán như hiện nay là yêu cầu tiếp cận nguyên tác.
Có một thực tế là sinh viên ngành ngữ văn có học Hán Nôm với dung lượng không ít, học tốt chứ không hẳn hoàn toàn khó học, nhưng khi ra trường lại không hề sử dụng. Mà ngôn ngữ không được mang ra sử dụng thì, hoặc là ngay tại trường đại học, việc dạy và học hoàn toàn đối phó, khi ra trường vốn chữ từng được học bị rơi rớt dần, cuối cùng là sự lãng phí đáng tiếc trong đào tạo.
Mục đích quan trọng của việc học chữ Hán ở phổ thông là tạo hứng thú cho người học, từ đó tìm kiếm, phát hiện những năng lực nghiên cứu văn hóa cổ để đào tạo chuyên sâu và nâng cao thành chuyên ngành về sau.
Nhân chuyện hiểu nhầm xem chữ Hán là một ngoại ngữ, tại một trường đại học vừa rồi cũng đã từng xảy ra một cuộc tranh cãi tương tự.
Đúng ra là một vụ kiện tụng về bằng cấp chuyên ngành của một giảng viên dạy Hán Nôm. Nguyên đơn cho rằng, người này không đảm bảo yêu cầu về bằng cấp chuyên môn để có thể dạy môn học này, vì không có bằng thạc sĩ, hay tiến sĩ Hán Nôm.
Tổ thanh tra lại kết luận nội dung tố cáo này là đúng, với lí do xem đó như là một ngoại ngữ!
Tôi phải gặp hiệu trưởng yêu cầu thu hồi ngay lập tức bản kết luận thiếu hiểu biết này.
Rằng Hán Nôm được giảng dạy tại Khoa Ngữ văn chỉ là một môn học của ngành Ngữ văn chứ không phải là một chuyên ngành. Nó không là ngoại ngữ mà là chữ viết và văn bản của cha ông trước thế kỉ 20.
May mà hiệu trưởng nghe ra và cho thu hồi bản kết luận. Tôi nói thêm, nếu kết luận sai trái kia được mang ra thực thi, thì ở Việt Nam không có ai đủ tư cách giảng dạy môn học này. Và chẳng lẽ bỏ hẳn cái môn học đang giúp cho người học hiểu biết về quá khứ của cha ông?
Bỏ qua những thói quen hàm hồ quy chụp PGS Đoàn Lê Giang hay bất cứ ai chỉ cần một câu bênh vực Hán hoặc Tàu là “Hán nô”, “Tàu cộng”, tôi chỉ trao đổi với những ý kiến nghiêm túc mang tính trái chiều về việc có nên hay không nên dạy học chữ Hán ở nhà trường phổ thông.
Xin phép được nói thẳng, không phải luận điểm nào trong bài viết của PGS Đoàn Lê Giang cũng đảm bảo thuyết phục hoặc được hiểu đúng, cho nên có nhiều ý kiến trái chiều là lẽ hiển nhiên. Điều này đã có một số người viết. Tôi chỉ nói thêm một ý, giá như, về cái việc bỏ học chữ Hán từ khi có kí tự Latin, PGS Đoàn Lê Giang nên nói đó là một điều đáng tiếc thì câu chuyện có vẻ nhẹ nhõm hơn.
Chữ Hán không là ngoại ngữ mà là tiếng Việt trước thế kỉ 20 gắn liền với nền văn hóa Hán mà cha ông ta đã sử dụng. Có điều kiện học tốt món này là để hiểu biết và bảo tồn di sản cha ông chứ không nô dịch ai cả. Còn lúc này, tôi chỉ có thể nói gọn một câu, rằng các lão sư của chúng ta do nuối tiếc quá khứ, tức tiếc của, mà nổi hứng lên đòi đưa vào nhà trường phổ thông, đòi từ tiểu học nữa cơ, chứ sự thật là bất khả!
Bởi vì lẽ đơn giản: Ai sẽ đứng ra dạy chữ Hán mà các lão sư muốn sang vậy? Có đến mươi năm đào tạo rồi mà ngành giáo dục còn chưa có đủ lực lượng để dạy tiếng Anh cho có chất lượng thì lấy đâu ra giáo viên dạy Hán – Nôm?
|
Chu Mộng Long
6. Nguyễn Đình Chú (đã đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 2 năm 2005)
1. Chữ Hán là của Trung Hoa, chữ Hán được du nhập vào Việt Nam cùng với cuộc xâm lăng của nhà Hán đối với Việt Nam ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Con đường đến với Việt Nam của chữ Hán không quang minh chính đại, nhưng thực tế chữ Hán cũng đã thành một thứ văn tự từng có vai trò tiên phong khai mở, phát triển văn hóa Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam nói riêng. Thử nghĩ, trong quá khứ dằng dặc hơn ngàn năm từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ thứ XIII tính đến khi Việt Nam bắt đầu có chữ Nôm, nếu không có chữ Hán vào thì văn hóa Việt Nam, văn học viết Việt Nam có gì để con cháu hôm nay khám phá, biểu dương, tự hào, và không có chữ Hán thì làm gì có chữ Nôm. ở đây, cần thấy rằng chữ Hán đã đến với Việt Nam theo hai (chứ không phải một) quan hệ: quan hệ với cuộc xâm lăng nhà Hán và sau đó còn gắn bó với các cuộc xâm lăng tiếp theo của cả triều đại phong kiến Trung Hoa trên đất nước ta; nhưng còn có quan hệ thuộc quy luật tự thân của văn hóa, trong đó có sự lan toả ảnh hưởng, cũng có thể nói là sức nâng đỡ của một nền văn hóa lớn với các nền văn hóa bé trong phạm vi một khu vực - mà quan hệ này là điều tất yếu và cần thiết. Chẳng phải vì thế mà nhiều người đã cho rằng chữ Hán là của Trung Hoa, nhưng chữ Hán cũng là của khu vực trong đó có Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, …
2. Chữ Hán trong nền văn hóa Việt Nam đã tồn tại theo quy luật thăng trầm, thịnh suy. ở thời Bắc thuộc, nó đã phát triển đủ để lưu lại cho ngày nay một số trước tác, dịch phẩm liên quan đến Phật học, một số thơ văn. Đến thời tự chủ, trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, chữ Hán đã đóng vai trò công cụ hàng đầu của nền văn hóa văn học bác học của Việt Nam. Nó là văn tự chính trong các lãnh vực văn hóa Việt Nam: hành chính, giáo dục, thi cử, lễ nghi, văn học. Dù dân tộc ta đã tạo ra chữ Nôm, nhưng chữ Nôm vẫn lệ thuộc chữ Hán trên phương diện cấu tạo, và văn hóa chữ Nôm vẫn chưa lấn át được văn hóa chữ Hán dưới thời đại phong kiến. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, cùng với sự đổi thay của hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chế độ phong kiến bị thay thế bằng chế độ thực dân nửa phong kiến kéo theo tình trạng văn hóa phong kiến Việt Nam vốn mang tính chất khu vực bị thay thế bằng văn hóa tư sản, kế nữa là văn hóa vô sản vốn mang tính chất toàn cầu. Do đó chữ Hán cùng với nền Hán học cổ truyền không kém hào quang đã lâm vào cảnh tàn cuộc. Năm 1915, ở Bắc Kỳ bỏ thi chữ Hán sau lần thi cuối cùng. Năm 1918, ở Trung Kỳ cũng là khoa thi Hương chữ Hán cuối cùng. Khoa thi Hội cuối cùng là năm 1919. ở Nam Kỳ thì việc bỏ thi chữ Hán đã diễn ra ngay sau ngày bị mất vào tay thực dân Pháp. Sau khi bỏ thi cử chữ Hán, trong các nhà trường Pháp Việt, từ cấp học tiểu học bậc hai (lớp đệ nhất, lớp đệ nhị, lớp nhất) đến cấp học cao tiểu (primaire supérieur), vẫn có dạy chữ Hán (caractères chinois) mỗi tuần 2 tiết, trong cảnh “chơi đồ cổ” mà cả thầy lẫn trò nói chung chẳng ai muốn chơi nữa. Mặc dù không phải không có người sau này có một trình độ Hán học vốn lại nhờ chính những giờ khai tâm chữ Hán từ đó. Cũng cần nói thêm trước năm 1945, trong một số gia đình có truyền thống Hán học, các cụ vẫn dạy chữ Hán cho con cháu. Thậm chí, có nơi còn có trường học chữ Hán được mở trong một số gia đình mà học sinh không chỉ là con em của gia đình đó, mà còn là con em trong làng xã.
Sau cách mạng Tháng Tám, trong khu vực kháng chiến, ở bậc trung học cấp II (nay là trung học cơ sở THCS), tại nhiều trường vẫn học chữ Hán, mỗi tuần 3 tiết, nhưng sau đó thì bỏ. Đặc biệt đến năm 1950, khi có cải cách giáo dục thì chữ Hán ra rìa hoàn toàn. Sau này, ở phổ thông trung học (PTTH) có học Trung văn, là chữ Hán nhưng đọc theo âm Trung Quốc hiện đại, không phải là âm Hán cổ nữa; vả chăng giữa Hán cổ và Hán hiện đại, ngữ nghĩa, cú pháp cũng có sự khác nhau không ít. Có người giỏi Trung văn hiện đại mà vẫn hiểu sai văn Hán cổ, chính là vì lẽ đó.
3. Chuyện đã diễn ra trong quá khứ là vậy, nhưng suy nghĩ của con người, nhất là với các bậc thức giả, lại không bao giờ dừng một chỗ. Gần đây, trong dư luận xã hội, kể cả trên sách báo, đã có ý kiến đề xuất là cần dạy lại chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam. Lý do đề xuất này chính bắt đầu từ chỗ biết rằng: trong kho từ vựng tiếng Việt, số lượng từ gốc Hán mà từ đó gọi là Hán Việt, chiếm hơn 70%. Cho nên bỏ học chữ Hán là dẫn đến tình trạng người Việt Nam hiện nay hiểu sai ngữ nghĩa tiếng Việt rất nhiều. Không riêng gì dân chúng, mà cả đến các nhà văn, các vị Tiến sĩ, Viện sĩ cũng không ít người hiểu sai từ Hán Việt. Có nhà thơ đã viết trên báo giải thích “ý tại ngôn ngoại” là “ý ở trong, lời ở ngoài” (trong khi nghĩa của nó là: ý nằm ngoài lời). Có Viện sĩ trong buổi nói chuyện tại Thư viện quốc gia đụng đến hai chữ “chiết tỏa” đã giải thích là “tỏa rộng ra” (!)… Chúng ta còn có thể kể ra nhiều dẫn chứng cho việc không biết chữ Hán nên đã hiểu sai, nói sai, viết sai tiếng Việt hiện đại. Và đó là lý do để đề xuất vấn đề: cần dạy chữ Hán trong nền giáo dục phổ thông cơ sở và trung học Việt Nam hiện nay. Tất nhiên, điều này cách đây mươi mười lăm năm, và gần đây, cũng đã có chút khởi động. Cụ thể: ở chương trình Văn - tiếng Việt bậc PTTH trước cuộc cải cách 1990 đã có 4 tiết học về từ Hán Việt (lớp 12). Riêng với chương trình Ngữ văn PTCS đang và sắp qua giai đoạn thí điểm thì đã có sự quan tâm về việc dạy từ Hán Việt ngay từ lớp 6 với hai hình thức: thứ nhất, đối với một số bài thơ chữ Hán (ví dụ Nam quốc sơn hà…), cùng với việc phiên âm, dịch nghĩa, có thêm việc giải thích từng từ Hán việt; thứ hai, quy định số lượng từ Hán Việt cần học một cách chính khóa là 50 cho các lớp 6, 7 và trên 50 cho các lớp 8, 9. Cuối các sách giáo khoa đều có bảng từ Hán Việt được học chính thức của từng năm.
4. Với ý thức muốn đưa chữ Hán và chút ít khởi động như trên, thiết tưởng đã đến lúc cần đặt vấn đề học chữ Hán trong nền giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay một cách thấu đáo, có bài bản, có chủ trương kế hoạch hẳn hoi. Nhưng, muốn làm được điều đó, lại trước hết cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc học chữ Hán là thế nào trong việc xây dựng nên văn hóa Việt Nam hiện đại và tương lai.
4.1. Hãy trở lại vấn đề bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ. Đúng là từ lâu rồi, hình như người Việt Nam ta đã thống nhất với quan niệm rằng: dù chữ Quốc ngữ không phải do người Việt Nam ta sáng tạo ra, mà đó là sản phẩm của các cố đạo phương Tây nhằm tạo công cụ truyền giáo, nhưng sau đó, dưới chế độ thực dân, người Việt Nam ta đã vượt qua thời kì không chấp nhận đi đến chấp nhận và coi đó là chữ viết của nước mình (Quốc ngữ), bởi nó có lợi ích rất lớn trong việc dân chủ hóa nền văn hóa Việt Nam so với chữ Hán ngày trước. Đó là quan niệm tưởng như không có điều gì phải bàn nữa. Tuy nhiên gần đây, nhà ngôn ngữ học có tên tuổi Cao Xuân Hạo lại có quan niệm gần như trái ngược, khi ông cho rằng việc nước ta bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là một điều mất mát lớn. Quan điểm này đã bị nhà báo Nguyễn Hoàng Sơn công kích khá quyết liệt trên tạp chí Văn nghệ quân đội (2003). Vậy chúng ta nên hiểu thế nào cho thỏa đáng trước sự kiện bỏ chữ Hán thay bằng chữ Quốc ngữ ?
Trước hết, phải thấy rằng: việc bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là hiện tượng xảy ra trong cuộc đụng độ giữa hai khu vực Đông Tây. Trong cuộc đụng độ này, có vấn đề liên quan đến chữ viết của khu vực phương Đông, trong đó có chuyện la tinh hóa hay không? Thực tế tại phương Đông, ở nước này nước khác, ít nhiều có chuyện la tinh hóa chữ viết, nhưng rút cục cho đến nay, không một nước nào đi theo con đường la tinh hóa chữ viết truyền thống của mình. Nhật Bản trước sau vẫn dùng chữ Hán để viết cả văn Hán lẫn quốc văn với hai cách đọc: Hán âm (Kan - on) và Quốc âm (Go - on). Ví dụ: với chữ “sơn” 山, cách đọc Kan - on là “san”, còn Go - on là “yama”. Triều Tiên, Hàn Quốc trước sau vẫn dùng chữ viết của nước mình là Hangeul do vua Sejong phát minh vào thế kỷ XV, mà trước đó họ cũng dùng chữ Hán như người Việt Nam (Hán Hàn). Trung Quốc cũng có lúc muốn la tinh hóa nhưng rút cục đã thôi hẳn. Các nước khác trong khu vực từng dùng chữ Hán không đâu la tinh hóa. Chỉ một Việt Nam ta làm thế, để rồi được cái gì và không được cái gì ? ý kiến của ông Cao Xuân Hạo không phải là không có lý, mà điều này ngay từ năm 1918, ông chủ bút Nam Phong - Phạm Quỳnh - trong bài Chữ Nho với văn quốc ngữ có nói: “Chắc ngày nay Nho học đã nhiều phần quá cũ rồi, không hợp thời nữa. Nhưng cũ là về phần hình thức mà thôi, còn phần cốt cách tinh thần, còn cái gốc đạo đức của Nho học thì cùng với núi sông mà sống mãi muôn đời. Ta nên bỏ là bỏ phần hình thức phiền toái, còn phần cốt cách tinh tuý phải giữ lấy, vì nước ta còn có mặt trên địa cầu là còn phải nhờ cái tinh thần cố hữu ấy mới sống được. Nhưng muốn giữ tinh thần ấy mà bỏ hẳn chữ Hán là biểu hiện của tinh thần ấy thì sao được”(1). Ngược thời gian lên cuối thế kỷ XIX, chúng ta còn thấy nhà duy tân tiên phong và lỗi lạc Nguyễn Trường Tộ trong Tế cấp bát điều, trong khi chủ trương xây dựng chữ Quốc ngữ mới cho đất nước, đã không lấy chữ Quốc ngữ do các cố đạo phương Tây sáng tạo mà sau này cả nước dùng. Ông chủ trương lấy ngay chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt. Ví dụ: viết 飲 食 (ẩm thực) nhưng đọc là “ăn uống”. Đúng là chúng ta cần suy nghĩ trước hiện tượng Nguyễn Trường Tộ vốn là người theo đạo Thiên chúa lại đã được trực tiếp tiếp xúc với phương Tây, có tư tưởng duy tân rất mực cấp tiến, mà vẫn không chấp nhận chữ Quốc ngữ la tinh hóa, kể cả chữ Nôm mà ông cha ta đã xây dựng từ các thành tố của chữ Hán.
Đúng là chuyện bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ la tinh hóa là chuyện không đơn giản khi nghĩ đến cái được cái mất trong sự phát triển của văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XX trở đi. Điều đã có thể nói và cần nói là: việc bỏ chữ Hán quả đã ít nhiều cắt đứt với văn hóa truyền thống ngàn năm trước đó. Có điều kiện so sánh Việt Nam ta với Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, trên phương diện đối với văn hóa truyền thống xưa, liên quan đến yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho muôn đời, hẳn là sẽ rõ vấn đề hơn.
4.2. Để rõ vấn đề hơn, thử so sánh chữ Hán và chữ Quốc ngữ la tinh hóa xem sao. Từ lâu, hình như tuyệt đại đa số người Việt Nam ta đều thấy chữ Quốc ngữ la tinh hóa tiện lợi hơn hẳn chữ Hán. Với chữ Hán, chỉ một thiểu số người Việt Nam chiếm lĩnh được. Học chữ Hán phải “thập niên đăng hỏa” (mười năm đèn sách). Trong khi với chữ Quốc ngữ, người sáng dạ chỉ dăm bữa là xong, người tối dạ cũng chỉ ba bốn tháng là được. Chữ Quốc ngữ đã giúp đất nước ta dân chủ hóa được nền văn hóa văn học. Mấy điều đó quả thật không thể chối cãi. Tuy nhiên, đã đến lúc phải so sánh chữ Quốc ngữ với chữ Hán một cách khoa học hơn, cặn kẽ hơn. Cũng lại nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo trong bài viết Chữ Tây và chữ Hán thứ chữ nào hơn ? (Bán nguyệt san Kiến thức ngày nay, 1989) đã cho ta biết: trên thế giới từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, người châu Âu thường yên trí rằng mình dùng chữ viết ABC - thứ chữ ghi âm - là hợp lý nhất, khoa học nhất. Nhưng từ những năm 30 của thế kỷ XX, sau những công trình của trường ngữ học Prague nêu rõ những chức năng và yêu cầu của ngôn ngữ viết khiến cho nó khác với ngôn ngữ nói thì quan điểm chữ viết ghi âm là “khoa học nhất” đã phải nhường chỗ cho quan điểm “tổ hợp âm” của chữ viết, nhất là từ thập niên 70 trở lại đây. Để chứng minh tính ưu việt của lối chữ viết “tổ hợp âm”, năm 1978, một nhóm ngữ học Mỹ đã làm thí nghiệm, mở một số lớp gồm trẻ em khuyết tật bị chứng Alexia (chứng bệnh không học chữ được) bằng cách dạy cho chúng học tiếng Anh nhưng đều được viết bằng chữ Hán. Ví dụ: câu “He came to a high mountain” được viết bằng chữ Hán là 他 到 及 一 高 山 (tha đáo cập nhất cao sơn), thì sau 1 năm, các em đọc và viết được 1600 từ đơn và về khả năng hấp thụ tri thức tỏ ra không đần độn chút nào. Thậm chí, kết quả học tập của chúng lại có phần trội hơn các em học tiểu học bằng chữ ABC. Điều này có liên quan đến bộ não, trong đó với loại trẻ khuyết tật, công năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn công năng của bán cầu bên trái (tri giác phân tích). Để chứng minh tính ưu việt của hiện tượng này, người ta còn xét đến cơ chế của việc đọc chữ, và thấy rằng khi đọc, người biết chữ thành thục không hề đánh vần. Họ nhận ra các từ qua diện mạo chung của chúng không khác gì khi nhận ra một vật, một người quen không phải bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết (mắt rồi mũi, rồi miệng, rồi tai...) mà nhận ra ngay tức khắc toàn thể diện mạo của vật hay người đó. Tâm lý học hiện đại đã từ hiện tượng đó mà đưa ra khái niệm “diện mạo tổng quát”, được gọi là Gestalt. Cái gestalt càng gọn ghẽ (pregrant) thì việc nhận dạng “tức khắc” càng dễ dàng và tự nhiên. Về phương diện này, chữ Hán hơn hẳn lối chữ ABC. Chính từ quan điểm trên mà năm 1985, trong cuốn sách nổi tiếng Le nouvean monde sinisé (Thế giới Hán hóa ngày nay) Léon Vandermeersch đã khẳng định sở dĩ các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore phát triển thành những “con rồng” được chính là vì họ vẫn dùng chữ Hán.
Riêng Cao Xuân Hạo lại còn từ kết quả nghiên cứu cấu trúc ngữ âm mà đi đến những kết luận khoa học có liên quan tới vấn đề đang nói ở đây. Theo Cao Xuân Hạo: “tiếng Việt có một cấu trúc ngữ âm khác hẳn các thứ tiếng châu Âu” nên “âm vị học của phương Tây (vốn là nền tảng lý thuyết của cách viết ABC) không thể đem ứng dụng để nghiên cứu và phân tích những thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Việt, hay những thứ tiếng chắp dính như tiếng Nhật, hay những thứ tiếng “có sườn phụ âm” như tiếng Ả rập, tiếng Do Thái… Nó chỉ có giá trị và hiệu lực đối với các ngôn ngữ biến hình”. “Chữ viết ABC vốn phản ánh cái cấu trúc ấy, khó lòng thích hợp với tiếng Việt và cách tri giác của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ của họ” vốn thuộc loại hình “ngôn ngữ âm tiết tính, trong đó âm tiết là một đơn vị có cương vị ngôn ngữ học minh xác, lại không thể phân tích ra thành những “âm tố” có cương vị tương đương, trong khi các thứ tiếng châu Âu, chính âm tố mới có cương vị của những đơn vị ngôn ngữ (âm vị) còn âm tiết lại không có cương vị ngôn ngữ học gì ?”. Từ quan điểm trên đây, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo cho rằng: “việc học chữ Hán không thể không được đưa vào chương trình trung học”. Ông còn cho biết thêm: “hiện nay, nhiều người trong đó có cả những nhà ngôn ngữ học phương Tây đã thấy rõ những ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn tiên đoán chỉ vài ba mươi năm nữa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc. Theo họ, đến lúc ấy, cái hàng rào ngôn ngữ (barrières linguistiques) xưa nay vẫn ngăn cách các dân tộc sẽ bị vô hiệu hóa và đến lúc ấy nhân loại sẽ giao tiếp với nhau dễ dàng gấp trăm lần so với hiện nay”. Điều dự báo này có thành hiện thực hay không ? Xin chờ thời gian. Chỉ biết rằng người ta xem ra rất đề cao chức năng của chữ Hán. Vậy người Việt Nam ta nghĩ gì trước dự báo đó ?
4.3. Chung quanh vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chủ trương coi trọng từ thuần Việt, hạn chế từ Hán Việt. Đây cũng là vấn đề có liên quan tới thái độ đối xử với chữ Hán mà tưởng như đã được giải quyết xong xuôi, đâu vào đấy, không còn gì phải bàn thêm. Nhưng thực ra, ở đây vẫn có những điều cần được tường minh hơn, nếu không sẽ bất lợi cho việc xây dựng phát triển tiếng Việt nói riêng, văn hóa Việt nói chung. Có hai vấn đề đáng nói:
4.3.1. Thế nào là từ thuần Việt ? và Hán Việt ? Từ thuần Việt theo quan niệm thông thường là những từ do chính người Việt (dân tộc Việt) sáng tạo ra từ đầu, chứ không bắt nguồn từ tiếng nói của một dân tộc hay một tộc người khác. Nếu thế thì cũng khó nói đến từ thuần Việt theo định nghĩa đó. Bởi lẽ tiền thân của tiếng Việt hiện đại là tiếng Việt Mường, mà tiếng Việt Mường lại là một chi của tiếng Môn - Khmer. Tất nhiên ở đây cần phân biệt hai hiện trạng ngôn ngữ (état de langue): tiếng Việt - Mường khi còn là một chi của tiếng Môn - Khmer và tiếng Việt - Mường khi đã tách khỏi tiếng Môn - Khmer. Hiện trạng sau là “thuần Việt Mường”. Với từ gốc Hán thì phức tạp hơn, vì ở đây có liên quan tới cuộc xâm lăng nhà Hán và giữa Việt Nam với Trung Hoa luôn luôn vẫn là hai quốc gia khác nhau (trong đó chủ nghĩa Đại Hán lại thường xuyên lấn át, bắt nạt Việt Nam) do đó mà trong tâm lý người Việt Nam dễ có mặc cảm xa cách thậm chí đối lập với tiếng Hán. Nhưng về khách quan, theo quy luật giao lưu ngôn ngữ, thực tế tiếng Hán và cũng là chữ Hán đã gia nhập kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt với cái tên là Hán Việt. Hán Việt không phải là Hán hoàn toàn, Hán Việt là của Việt. Nó chiếm hơn 70% vốn từ tiếng Việt như ta đã biết. Sao lại cứ phải kì thị với nó, thậm chí là muốn bài trừ nó để sinh ra cái chuyện “phi công” thì nói “người lái”, “không phận” thì nói là “vùng trời”, “hải phận” thì nói là “vùng biển”, “nữ du kích” thì gọi là “du kích gái”…, mà thực ra là có thể dùng cả hai, thậm chí có trường hợp muốn thay nhưng thay không được, hoặc thay thì chỉ dở hơn thôi.
4.3.2. Vị trí, giá trị của từ Hán Việt trong ngôn ngữ tiếng Việt. Tâm lý kì thị từ Hán Việt ít nhiều đã bỏ quên, không nhận rõ hết tính năng, tính trội của từ Hán Việt trên hai phương diện ngữ pháp và tu từ:
- Về ngữ pháp: cũng theo Cao Xuân Hạo, cách kết cấu từ Hán Việt theo kiểu “trật tự ngược” (phụ chính) hơn hẳn kiểu “trật tự xuôi” (chính phụ) trong từ thuần Việt. Ví dụ: “xạ thủ nam” thì chỉ có thể hiểu một nghĩa người bắn là đàn ông, Còn “người bắn nam” thì có thể hiểu 2, 3 cách: người bắn là đàn ông, người bắn tên Nam, người bắn anh Nam. Mối quan hệ cú pháp giữa các từ Hán Việt chặt chẽ này rất cần cho việc xây dựng thuật ngữ chuyên môn. Trong vốn thuật ngữ khoa học, kỹ thuật hiện nay ở nước ta, số lượng thuật ngữ Hán Việt chiếm phần chủ yếu chính là nhờ tính chặt chẽ đó trong cú pháp từ Hán Việt.
- Về tu từ: các từ Hán Việt thực tế đã tạo ra phong cách, sắc thái ngữ nghĩa trang trọng, cổ kính, bác học, mà nếu thiếu chúng thì quả thật vẻ đẹp ngôn ngữ tiếng Việt, văn chương tiếng Việt sẽ sút kém đi một phần rất đáng kể. Thử tưởng tượng: “Hội phụ nữ Việt Nam” mà chuyển thành “Hội đàn bà Việt Nam”, “Hội con gái Việt Nam”; “nữ Thủ tướng Ấn Độ” mà chuyển thành “Thủ tướng gái Ấn Độ”, “nữ đồng chí” mà chuyển thành “đồng chí gái”, “nữ giáo sư” mà chuyển thành “giáo sư gái”… thì buồn cười biết bao.
5. Tất cả những gì được trình bày trên đây là nhằm đi đến kiến nghị “cần khẩn trương khôi phục chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam”. Nhưng khôi phục như thế nào? Có mấy vấn đề cần bàn:
5.1. Học chữ Hán là chỉ học từ Hán Việt đã được phiên âm, hay học bằng chính văn tự Hán? Rõ ràng là học bằng chính văn tự Hán thì có lợi hơn vì tận dụng được chức năng “tổ hợp âm” như trên đã nói. Nhưng thực tế, với thực trạng giáo dục Việt Nam vốn đã bỏ học chữ Hán từ lâu mà nay đặt ra yêu cầu đó thì khó thực hiện, nhất là liên quan đến vấn đề đào tạo giáo viên chữ Hán lại không đơn giản chút nào. Nên chăng là thế này: sắp tới nếu phân ban làm 2: A (gồm các ngành khoa học tự nhiên) và B (gồm các ngành khoa học xã hội) thì ở ban A sẽ học từ Hán Việt đã được phiên âm bằng chữ Quốc ngữ, ở ban B sẽ học từ Hán Việt bằng chữ Hán hẳn hoi, mà có thể buổi đầu chưa thể làm đại trà, nhưng phải có kế hoạch từng bước tiến tới đại trà trong ban B này. Nếu tôi không lầm thì trước 1950, tại một số trường chuyên khoa (như chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng lúc còn ở Hà Tĩnh), với ban cổ điển (tương đương với ban B này) vẫn có giờ cổ văn, trong đó có học chữ Hán. Và ở miền Nam trước 1975, với một loại trường phổ thông nào đó, vẫn có giờ chữ Hán. Xin các vị có trách nhiệm và hiểu biết lịch sử giáo dục kiểm tra, bổ chính cho.
5.2. Học chữ Hán từ bậc học nào? Từ THCS lên PTTH ? Hay chỉ đến PTTH mới học? Theo tôi nên từ bậc THCS, mỗi tuần 1 tiết, cứ thế cho hết bậc PTTH. Thời gian của tiết học này sẽ lấy ở quỹ thời gian của phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn, dù chương trình Ngữ văn đã đi theo hướng tích hợp. Chẳng những thế mà còn phải lợi dụng tính năng của việc tích hợp. Với yêu cầu tích hợp này, ngay ở phần Văn cũng phải coi trọng việc dạy nghĩa từ Hán Việt trong các giờ giảng văn, chẳng riêng gì với văn học cổ mà cả ở văn học hiện đại. Mà việc này cũng cần được chương trình hóa, có định mức, định lượng hẳn hoi như sách giáo khoa Ngữ văn THCS thí điểm và sắp chính thức áp dụng đã và đang tiến hành.
5.3. Vừa qua, được cơ quan truyền thông đại chúng cho biết trong luật sửa đổi về giáo dục mà Quốc hội sẽ thông qua có đặt vấn đề đưa việc học chữ Hán vào lại nhà trường phổ thông (Nhật Bản, Hàn Quốc đều có dạy chữ Hán ở trường phổ thông). Tôi cũng mong rằng cả xã hội, đặc biệt là các bậc thức giả của đất nước cần lên tiếng ủng hộ quan điểm tích cực, giàu ý nghĩa đó để dự kiến trên đây trở thành chính thức trong luật sửa đổi về giáo dục được Quốc hội thông qua. Và nếu đã thành luật thì phải gấp rút xây dựng chương trình và vạch kế hoạch đào tạo giáo viên một cách khẩn trương, trong đó có việc tăng cường bộ môn chữ Hán tại các trường Đại học Sư phạm và xây dựng bộ môn chữ Hán tại các trường Cao đẳng Sư phạm trong cả nước.
N.Đ.C
CHÚ THÍCH:
(1) Phạm Quỳnh: Luận giải văn học và triết học. Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2003, tr.56.
.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.