Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

25/10/2014

Văn nghệ thứ Bảy : Hoa hồng của thời gian (thơ Bắc Đảo, 2003)

Bài thơ, như giới thiệu vào năm 2007 của dịch giả, thì được Bắc Đảo viết năm 2003. Lúc ấy, thi sĩ Trung Hoa đang tha hương nơi đất khách.


Trích lời bình của dịch giả (từ đây trở xuống là lấy về từ tạp chí Da Màu, tôi mạo muội tỉa bớt những chỗ dịch giả chú giải thêm, để cho gọn gàng, dễ đọc hơn):

"Âm hưởng chính của thơ Bắc Đảo khi còn ở Trung Quốc là tiếng day dứt đòi giác ngộ, đòi ruồng bỏ tù hãm để “vươn khải ra biển lớn”.Cứ tưởng rằng, cuối thập niên 1980, khi đã tuông ra khỏi rừng người “trên đại lộ” trong đêm trường đằng đẵng bao năm, để hòa được vào với biển lớn, thì tiếng thơ ông sẽ chuyển màu, dần nhích sang gam sáng và bớt lạnh. Nhưng không. Nó càng da diết thêm, càng sắc và lạnh hơn. Khối u hoài bất định và sâu thẳm vốn dĩ trong tâm nhà thơ có lẽ vô phương phẫu giải, và, vô hình chung cuộc sinh tồn ở chốn “tha hương” của thân phận ngoại kiều, vĩnh viễn vô trú xứ, đang làm nó mưng mủ. Nhà thơ cô đơn giữa biển người tự do. Ông đã gắng hòa vào biển người ấy, rồi lại, tự nép mình vào con hẻm hiu hiu gió lạnh, đâu đó bốc lên mùi cỏ úa, và rũ màu lá khô rớt xuống từ “cây đại cổ thụ” sừng sững ở bên kia đại dương 
"



Bắc Đảo
Ái Vân Quốc giới thiệu và chuyển ngữ


Bản dịch tiếng Việt:

Hoa hồng của thời gian

khi người gác cổng lịm vào giấc ngủ sâu
em quay trở lại cùng với gió mưa cuồng bạo
già héo đi trong vòng tay ôm là
hoa hồng [của] thời gian

khi đường chim [bay] giới định khung trời
em ngoái lại trông chiều nhá nhem
hiện nổi lên trong tiêu vong là
hoa hồng của thời gian

khi dao uốn cong trong nước
em xéo lên tiếng sáo [] qua cầu
khóc rống lên trong mưu mô hiểm độc là
hoa hồng của thời gian
  
khi [vừa] vẽ phác ra đường chân trời
em liền bị đánh thức bởi tiếng chiêng đồng [khua lên] ở đằng đông
nở xòe ra trong tiếng vọng là
hoa hồng của thời gian 

trong gương [sẽ] mãi mãi là phút giây này
phút giây này thông hướng ra cửa tái sinh
cửa ấy mở hướng ra biển lớn
[và hướng về phía] hoa hồng của thời gian


Nguyên tác tiếng Trung:

(đăng trong tạp chí Kim thiên, số 63, tức số 4 năm 2003)

時間的玫瑰

當守門人沉睡
你和風暴一起轉身
擁抱中老去的是
時間的玫瑰

當鳥路界定天空
你回望那落日
消失中呈現的是
時間的玫瑰

當刀在水中折彎
你踏笛聲過橋
密謀中哭喊的是
時間的玫瑰

當筆畫出地平線
你被東方之鑼惊醒
回聲中開放的是
時間的玫瑰

鏡中永遠是此刻
此刻通向重生之門
那門開向大海
時間的玫瑰








---



BỔ SUNG




Bản chép những bản dịch của Ái Vân Quốc trên Da Màu (chép ngày 20/12/2016)

Năm 2006

"

Hoa hồng của thời gian

 ♦ 0 bình luận ♦ 16.12.2006

Trên damau số 13 [ra ngày 2.12.2006], chúng tôi đã giới thiệu cùng bạn đọc về Bắc Đảo (北岛/Bei Dao), một trong những gương mặt thi ca quan trọng nhất của Trung Quốc đương đại, và trích dịch một chùm gồm 4 bài tiêu biểu theo phương án dịch thơ do avq đề xướng. Bốn bài ấy là thơ Bắc Đảo thời kì còn ở trong nước, trích trong tập Bắc Đảo thi tuyển北岛诗选 [1986, bản dịch tiếng Anh là The August Sleepwalker]. Lần này, vẫn trong mạch tiếp nối phương án avq, xin trình làng bản dịch 1 bài mới, với mục đích giúp bạn đọc cảm nhận không khí hiện tại của bầu trời thơ Bắc Đảo từ khi định cư ở nước ngoài.

Hoa hồng của thời gian đăng trên tạp chí văn học Kim thiên, số 63, tức số 4 năm 2003, hiện có bản dịch tiếng Anh, Đức, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kì, và tiếng Việt (trước avq, có bản chuyễn ngữ của Lê Đình Nhất-Lang qua trung gian Anh văn, đã đăng trên Tiền Vệ).

Kim thiên今天(Jintian/Today/Ngày nay) được Bắc Đảo và nhóm bạn văn cùng chí hướng cho ra mắt năm 1978 tại Bắc Kinh. Từ đó cho đến cuối thập niên 1980, Kim thiên là tạp chí văn học ngoài luồng, từng bị đình bản, sau khi Bắc Đảo ra nước ngoài cư trú, đã được phục san, một năm 4 số (xuân, hạ, thu, đông), nay đã đến số 75. Tòa soạn từng di chuyển nhiều nơi, nay đóng tại Thousand Oaks, California (Hoa Kì), với hình thức là công ty, chủ biên vẫn là Bắc Đảo, giám đốc là Đàm Gia (譚嘉/Tan Jia), chủ nhiệm là Vương Thụy Nghệ (王瑞芸/Wang Rui-yun).


Âm hưởng chính của thơ Bắc Đảo khi còn ở Trung Quốc là tiếng day dứt đòi giác ngộ, đòi ruồng bỏ tù hãm để “vươn khải ra biển lớn” [trích bài thơHoa hồng của thời gian].Cứ tưởng rằng, cuối thập niên 1980, khi đã tuông ra khỏi rừng người “trên đại lộ” [chữ dùng trong bài Mài dao] trong đêm trường đằng đẵng bao năm, để hòa được vào với biển lớn, thì tiếng thơ ông sẽ chuyển màu, dần nhích sang gam sáng và bớt lạnh. Nhưng không. Nó càng da diết thêm, càng sắc và lạnh hơn. Khối u hoài bất định và sâu thẳm vốn dĩ trong tâm nhà thơ có lẽ vô phương phẫu giải, và, vô hình chung cuộc sinh tồn ở chốn “tha hương” [chữ dùng trongbài Lộ ca; bản dịch Việt của avq xin xem trong Tạp chí Thơ số 32 – mùa xuân 2007] của thân phận ngoại kiều, vĩnh viễn vô trú xứ, đang làm nó mưng mủ. Nhà thơ cô đơn giữa biển người tự do. Ông đã gắng hòa vào biển người ấy, rồi lại, tự nép mình vào con hẻm hiu hiu gió lạnh, đâu đó bốc lên mùi cỏ úa, và rũ màu lá khô rớt xuống từ “cây đại cổ thụ” [chữ dùng trong bài Mài dao] sừng sững ở bên kia đại dương [về các khái niệm vô trú xứ, lưu vong trong văn học thế kỉ 20 và đầu thế kỉ 21, với tư liệu bằng tiếng Việt, có thể tham khảo bài viết ngắn “Lưu vong như một phạm trù mỹ học” của Nguyễn Hưng Quốc đăng trên Tiền Vệ  không kể đôi chỗ có phần gượng ép, thì có thể nói, tác giả đã vận dụng tương đối thành công các lí thuyết mới nhất của văn học và nhân loại học văn hóa vào một tiểu luận tổng quan về văn học Việt Nam hải ngoại ba thập niên qua].

[Tokyo, 12.2006, avq]



PHẦN ĐỌC CHÍNH
(bản chuyển ngữ chính của avq từ Trung văn)
Hoa hồng của thời gian
khi người gác cổng lịm vào giấc ngủ sâu
em quay trở lại cùng với gió mưa cuồng bạo
già héo đi trong vòng tay ôm là
hoa hồng [của] thời gian
khi đường chim [bay] giới định khung trời
em ngoái lại trông chiều nhá nhem
hiện nổi lên trong tiêu vong là
hoa hồng của thời gian
khi dao uốn cong trong nước
em xéo lên tiếng sáo [] qua cầu
khóc rống lên trong mưu mô hiểm độc là
hoa hồng của thời gian
khi [vừa] vẽ phác ra đường chân trời
em liền bị đánh thức bởi tiếng chiêng đồng [khua lên] ở đằng đông
nở xòe ra trong tiếng vọng là
hoa hồng của thời gian
trong gương [sẽ] mãi mãi là phút giây này
phút giây này thông hướng ra cửa tái sinh
cửa ấy mở hướng ra biển lớn
[và hướng về phía] hoa hồng của thời gian
PHẦN ĐỌC THÊM
1. Các bản chuyển ngữ phụ
Bản 1
Hoa hồng [chính là] thời gian
khi người gác cổng ngủ lịm đi
em quay trở lại cùng với gió mưa cuồng bạo
già đi trong vòng tay ôm là
hoa hồng thời gian
khi đường chim bay giới định bầu trời
em ngoái lại trông hoàng hôn
bày nổi lên trong tiêu vong là
hoa hồng thời gian
khi dao bẻ cong trong nước
em đạp lên tiếng sáo để qua cầu
khóc gào trong mưu mô hiểm độc là
hoa hồng thời gian
khi vừa vẽ ra đường chân trời
em liền được đánh thức bởi tiếng la đồng nổi lên ở phía đông
mở cửa ra trong âm thanh vang vọng là
hoa hồng thời gian
trong gương sẽ mãi mãi là phút giây này
phút giây này thông hướng ra cửa tái sinh
cửa ấy mở hướng ra biển lớn
và hướng về phía hoa hồng thời gian
Bản 2
Hoa hồng của {thuộc về/là/chính là/nở trong} thời gian
khi người gác cổng {bảo vệ} ngủ {lịm/mê} say tít
em {bạn/mày/cậu/thượng đế/quỉ sứ/diêm vương…} quay trở lại {quay gót lại} cùng với gió mưa cuồng bạo {mưa gió ầm ầm/cuồng loạn}
già {úa/héo} đi trong vòng tay ôm là
hoa hồng {ngọc đỏ/ngọc hồng} [của/là/thuộc] thời gian
khi đường chim [bay/sải] giới định bầu {khung} trời
em ngoái lại trông trời nhá nhem {mặt trời lặn/hoàng hôn}
hiện {trình/bềnh} nổi lên trong tiêu vong {hủy/mất} là
hoa hồng của thời gian
khi dao {đao} uốn cong {dưới} trong nước
em đạp {dẫm/xéo} lên tiếng sáo [] qua cầu
khóc {tru/gào} rống lên trong mưu mô hiểm độc là
hoa hồng của thời gian
khi [vừa] vẽ {phác/vạch/kẻ} ra đường chân trời
em liền được {bị} đánh thức {tỉnh thức} bởi tiếng chiêng {la} đồng {nổi lên/gióng lên/khua lên} ở phía đông
lan dãn {mở khải/khai phóng/khuếch lớn} trong tiếng {âm/âm thanh} dội {vọng} lại là
hoa hồng của thời gian
trong gương [sẽ] mãi mãi là giờ phút {phút giây/sát na/khoảnh khắc} này
{phút giây này sẽ mãi mãi lưu lại/còn lại trong gương}
phút giây này thông hướng ra cửa {hóa kiếp} tái sinh
cửa ấy mở hướng ra biển lớn
[và hướng ra/ra phía/về phía/đó chính là] hoa hồng của thời gian
2. Nguyên bản Trung văn
(đăng trong tạp chí Kim thiên, số 63, tức số 4 năm 2003)
時間的玫瑰
當守門人沉睡
你和風暴一起轉身
擁抱中老去的是
時間的玫瑰
當鳥路界定天空
你回望那落日
消失中呈現的是
時間的玫瑰
當刀在水中折彎
你踏笛聲過橋
密謀中哭喊的是
時間的玫瑰
當筆畫出地平線
你被東方之鑼惊醒
回聲中開放的是
時間的玫瑰
鏡中永遠是此刻
此刻通向重生之門
那門開向大海
時間的玫瑰
3. Phiên âm Hán Việt
Thời gian đích mai côi
đương thủ môn nhân trầm thụy
nhĩ hòa phong bạo nhất khởi chuyển thân
ủng bão trung lão khứ đích thị
thời gian đích mai côi
đương điểu lộ giới định thiên không
nhĩ hồi vọng na lạc nhật
tiêu thất trung trình hiện đích thị
thời gian đích mai côi
đương đao tại thủy trung chiết loan
nhĩ đạp địch thanh quá kiều
mật mưu trung khốc khảm đích thị
thời gian đích mai côi
đương bút họa xuất địa bình tuyến
nhĩ bị đông phương chi la kinh tỉnh
hồi thanh trung khai phóng đích thị
thời gian đích mai côi
kính trung vĩnh viễn thị thử khắc
thử khắc thông hướng trùng sinh chi môn
na môn khai hướng đại hải
thời gian chi mai côi
4. Bản chuyển ngữ khác [i]
4.1. Bản tiếng Anh của Eliot Weinberger, dịch từ nguyên bản Trung văn

The Rose of Time
when the watchman fa
you turn back with the storm
to grow old embracing is
the rose of time

when bird roads define the sky
you look behind at the sunset
to emerge in disappearance is
the rose of time

when the knife is bent in water
you cross the bridge stepping on flute-songs
to cry in the conspiracy is
the rose of time

when a pen draws the horizon
you’re awakened by a gong from the East
to bloom in echoes is
the rose of time

in the mirror there is always this moment
this moment leads to the door of rebirth
the door opens to the sea
the rose of time
(Translated from Chinese by Eliot Weinberger)

4.2. Bản tiếng Việt của Lê Đình Nhất-Lang, đã đăng trên Tiền Vệ, dịch từ bản tiếng Anh của Eliot Weinberger
Bông hồng của thời gian
khi người gác đêm ngủ gật
ta quay lại với cơn bão
già đi trong vòng ôm là
bông hồng của thời gian
khi những đường chim định hình bầu trời
ta nhìn phía sau về hoàng hôn
trồi lên trong mù tăm là
bông hồng của thời gian
khi con dao bị bẻ cong trong nước
ta băng qua cầu bước trên những khúc sáo
khóc trong âm mưu là
bông hồng của thời gian
khi một ngọn bút vẽ chân trời
ta bị đánh thức bởi tiếng kẻng từ phương Ðông
nở ra trong âm vọng là
bông hồng của thời gian
trong gương luôn có khoảnh khắc này
khoảnh khắc này dẫn tới cánh cửa hồi sinh
cánh cửa mở ra biển
bông hồng của thời gian
4.3. Bản tiếng Đức củaWolfgang Kubin, dịch từ nguyên bản Trung Văn
Die Rose der Zeit
Wenn die Wächter tief schlafen
machst Du kehrt und mit dir der Orkan
Was die Umarmung flieht, ist
die Rose der Zeit
Wenn der Weg der Vögel den Himmel bestimmt
schaust du zur Abendsonne zurück
Was schwindend erscheint, ist
die Rose der Zeit
Wenn Messer sich im Wasser krümmen
überquerst du auf Flötentönen Brücke um Brücke
Was verborgen klagt, ist
die Rose der Zeit
Wenn Stifte Horizonte malen
wirst du vom Gong im Osten geweckt
Was widerhallend sich öffnet, ist
die Rose der Zeit
Einem Spiegel bleibt ewig dieser Moment
der Moment auf dem Weg zum Tor der Wiedergeburt
Dieses Tor öffnet sich dem Meer
der Rose der Zeit
(Aus dem Chinesischen von Wolfgang Kubin)

Chú thích
(do chưa biết chắc chắn các bản tiếng Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kì dịch trực tiếp từ Trung văn hay qua trung gian, đồng thời, lượng bạn đọc Việt Nam sành hai thứ tiếng này chưa nhiều, nên tạm lược, chưa đưa vào đây)
[i] Lời ngỏ cùng các dịch giả Eliot Weinberger, Lê Đình Nhất-Lang, Wolfgang Kubin: xin cho phép chúng tôi sử dụng lại vào đây các bản dịch (Anh, Việt, Đức) của các vị. (avq)

http://damau.org/archives/13817
"








Năm 2006

"

thử nghiệm một cách trình bày dịch phẩm thơ


Thơ Bắc Đảo qua bản chuyển ngữ từ Trung văn của Ái Vân Quốc
Bốn bài trong “Bắc Đảo thi tuyển”(1986):
Mài dao
Tiếng quêHương âm
Trả lờiHồi đáp
Nghệ thuật thơ

Bắc Đảo北岛/Bei Dao (1949 – ) là một trong những gương mặt quan trọng nhất của thi ca Trung Quốc đương đại, nhân vật trung tâm của phái đổi mới. Một cây bút trữ tình độc đáo tân kì, ngân lên tiếng day dứt của một tâm thế khi dứt khoát đòi ruồng mê vượt sang bờ giác, ấy rồi, khi lại tự nguyện lìa giác để chìm lún vào mê. Cuộc du hành trầm mặc tưởng như không cùng giữa hai bờ mê – giác, từ trực cảm dẫn/níu người và nhấn chính mình vào những vỉa tầng sâu hút của triết lí nhân sinh.
Ông nguyên tên là Triệu Chấn Khai赵振开/Zhao Zhenkai, quê gốc ở Hồ Châu 湖州 tỉnh Chiết Giang浙江, sinh trưởng tại Bắc Kinh. Năm 1969 là công nhân ngành xây dựng, sau làm việc trong công ty. Cuối thập niên 1980, ra nước ngoài cư trú.
Bắt đầu viết thơ từ năm 21 tuổi, các tập chính có “Trát kí thành thái dương太阳城札记/ Taiyang cheng zhaji”(1978, Notes from the City of the Sun), “Bắc Đảo thi tuyển北岛诗选/Bei Dao shi xuan”(1986, The August Sleepwalker). Năm 1978 đồng sáng lập tạp chí văn học “Kim thiên今天/Jintian”(Today/Ngày nay), sau khi định cư tại nước ngoài, cho phục san “Kim thiên” (tòa soạn tại Thousand Oaks, California), và hiện vẫn tiếp tục là chủ bút. Thơ ông đã được dịch sang khoảng 25 thứ tiếng.
Có thể tham khảo lời giới thiệu bằng tiếng Việt về Bắc Đảo, và bản dịch một số bài thơ của ông đã đăng trên website của nhóm Tiền Vệ (qua trung gian là các bản dịch Pháp văn hay Anh văn). [Tokyo, 11.2006, avq]
∮ Về ý nghĩa các kí hiệu sử dụng trong bản chuyển ngữ
(do avq đặt, bắt đầu áp dụng vào/từ việc chuyển ngữ thơ của Bắc Đảo)
[chữ nghiêng] Dấu móc vuông, chữ bên trong viết/để nghiêng
{chữ nghiêng} Dấu cánh cung, chữ bên trong viết/để nghiêng
¶, ¶……¶ Dấu báo vắt dòng
1, 2,3… Số nhỏ đánh ở đầu các dòng thơ
1. [chữ nghiêng], Dấu móc vuông, chữ bên trong viết/để nghiêng: Từ/nhóm từ bên trong dấu này được thêm vào cho rõ nghĩa theo cảm thức tiếng Việt, được đọc liền mạch với các từ/nhóm từ đứng trước đó hay sau đó (ngoài dấu móc vuông).
Ví dụ 1: phát hiện [thấy]
Trường hợp này sẽ đọc thành: “phát hiện thấy”
Ví dụ 2: tịnh không [một] tiếng
Trường hợp này sẽ đọc thành: “tịnh không một tiếng”
2. {chữ nghiêng}, Dấu hai cánh cung úp vào nhau, chữ bên trong viết/để nghiêng: Từ/nhóm từ bên trong dấu này được đọc với nghĩa là tương đương hay thay thế được với các từ/nhóm từ đứng trước đó hay sau đó (ngoài dấu cánh cung).
Ví dụ 1: là biển {rừng} cây
Trường hợp này đọc thành: “là biển cây”, hoặc, “là rừng cây”
Ví dụ 2: đang nương {men} theo
Trường hợp này đọc thành: “đang nương theo”, hoặc, “đang men theo”
3. ¶, ¶……¶, tạm gọi là dấu báo vắt dòng: Báo hiệu câu thơ được vắt qua 2 hay nhiều dòng. Dấu hiệu này được thấy rõ trong nguyên ngữ (ở đây là Trung văn).
Ví dụ 1, về trường hợp vắt qua 2 dòng:
đám người trên đại lộ 
là biển {rừng} cây ở bên trong tủ kính bày hàng cự đại

Ví dụ 2, về trường hợp vắt qua nhiều dòng:
tôi nhìn chiếc kim trên đĩa máy hát đang nương {men} theo
đường tròn vòng tuổi của một cây đại cổ thụ
lướt hướng vào tâm
4. 1, 2,3…, Số nhỏ đánh ở đầu các dòng thơ: Các số này sẽ tiện dụng cho đối sánh với nguyên bản và phân tích (phân tích mở rộng nghĩa) của các dòng thơ trong môi trường tiếng Trung, hay với các bản dịch lại từ các tiếng khác (như với bản dịch Việt từ tiếng Pháp của Diễm Châu, từ tiếng Anh của Cù An Hưng, Đinh Linh, Lê Đình Nhất – Lang… )
∮ Về ý nghĩa của các bản chuyển ngữ phụ
Bên cạnh bản chuyễn ngữ chính, mỗi bài sẽ có thêm các bản chuyển ngữ phụ. Các bản phụ tồn tại song song với nhau, và, với bản chuyển ngữ chính, như những “đồng sáng tác” của người đọc/người dịch thơ. Tùy ý thích, độc giả có thể chỉ xem Phần đọc chính, mà bỏ qua, không cần xem Phần đọc thêm của mỗi bài.
∮ Về ý nghĩa của các bản phiên âm Hán Việt trong dịch thơ Bắc Đảo
Không soạn bản pin-in tiếng Bắc Kinh hiện đại vì không tiện dụng trong/cho phân tích thơ Bắc Đảo sau này. Lựa chọn phiên âm Hán Việt là do nguyên nhân sâu xa trong cảm thức tiếng Việt, và quan hệ của tiếng Việt và tiếng Hán đọc theo lối Hán Việt. Có nhiều người làm văn chương Việt Nam sử dụng và phân tích từ/thơ Hán Việt rất giỏi mặc dù không hề biết chữ Hán hay tiếng Bắc Kinh hiện đại, tuy vậy, cũng có người thì là “suy diễn Hán Việt” một cách quá “vô tư”



PHẦN ĐỌC CHÍNH
(bản chuyển ngữ chính của avq)

[1] Mài dao
tôi mượn ánh sáng yếu mờ của buổi sớm tinh sương để mài dao
phát hiện thấy sống dao dần vẹt
lưỡi dao thì lại rất cùn
mặt trời vụt lóe
đám người trên đại lộ
là biển cây ở bên trong tủ kính bày hàng cự đại
tịnh không một tiếng ầm ào
tôi nhìn mũi kim trên đĩa máy hát đương nương theo
đường tròn vòng tuổi của một cây đại cổ thụ
lướt hướng vào tâm

[2] Tiếng quê{Hương âm}
tôi nói tiếng Tàu với chiếc gương
một công viên có mùa đông của riêng mình
tôi thả nhạc lên
mùa đông không có nhặng xanh
tôi thung dung sục cà-fê
nhặng xanh không hiểu thế nào là tổ quốc
tôi thêm vào một xíu đường
tổ quốc là một loại hương âm
tôi từ đầu bên kia đường dây điện thoại
nghe thấy sự hoảng {sợ} loạn của chính tôi
vậy nên chúng tôi đã mê {} sâu

[3] Trả lời{Hồi đáp}
thấp hèn là giấy thông hành của kẻ thấp hèn,
cao thượng là lời văn khắc trên bia mộ của của người cao thượng,
nhìn kìa, trong khung trời mạ kền này,
nổi {trôi} đầy bóng ngược cong queo của người chết
kỉ băng hà: đã qua rồi,
[] cớ sao: mọi chỗ, vẫn đều là băng {chìm} trôi ?
Mũi Hảo Vọng: đã phát hiện rồi,
[] cớ sao: trong Biển Chết, ngàn buồm vẫn [cạnh] đua nhau ?
tôi bước lên thế giới này,
chỉ mang theo giấy, dây chão và cái bóng [mình],
để: ở trước tòa,
đọc to lên những lời bị phán quyết.
nói cho cậu biết nhé, thế giới ơi,
tôi – không – tin !
dù cho dưới chân người có một ngàn tên thách đấu,
thì hãy tính tôi là kẻ thứ một ngàn lẻ một.
tôi không tin trời là thứ màu xanh lam,
tôi không tin tiếng rền của sấm,
tôi không tin mộng là thứ {ảo} giả,
tôi không tin {cái/người} chết không báo ứng.
nếu nhất định biển sẽ chọc vỡ đê như số đã định,
thì hãy cho nước chát {mặn} xối ồ vào tim tôi,
nếu nhất định đất liền sẽ thăng lên như mệnh đã an,
thì hãy cho loài người chọn lại đỉnh sinh tồn.
vòng xoay mới, và sao sao nhấp nhánh
đang giăng đầy bầu trời không {nắp} vung,
đó là chữ viết tượng hình có năm ngàn tuổi,
đó là con ngươi {mắt} chăm chắm nhìn của người vị lai.

[4] Nghệ thuật thơ
căn nhà rộng đại mà tôi trú thuộc này
chỉ còn sót lại một chiếc bàn, xung quanh
là sình bùn lầy đầm ngút ngát
trăng sáng từ những góc độ khác nhau chiếu rọi tôi
giấc mộng với bộ xương giòn vẫn đứng nguyên ở
mãi xa, khung giàn giáo chưa buồn dỡ đi
vẫn còn vết chân nhoét bùn trên giấy trắng
con cáo đã được chăm bẵm bao năm này
ngoe ngẩy đuôi đỏ như lửa
ca ngợi tôi, sát thương tôi
đương nhiên, vẫn còn có em, ngồi đối mặt tôi
chớp lòa lóe vào trời thanh nắng trong bàn tay em
biến thành củi khô, và hóa tro tàn


PHẦN ĐỌC THÊM
(gồm: 1.các bản chuyển ngữ phụ của avq, 2. nguyên bản, 3. phiên âm Hán Việt, 4. bản chuyển ngữ của dịch giả Việt Nam khác – nếu có)
[1] Mài dao (磨刀/Ma đao)
1. Các bản chuyển ngữ phụ
Bản 1
Mài dao
tôi mượn ánh sáng yếu mờ của buổi sớm tinh sương để mài dao
phát hiện sống dao dần vẹt
lưỡi dao thì lại rất cùn
mặt trời vụt lóe
đám người trên đại lộ
là rừng cây ở bên trong tủ kính bày hàng cự đại
tịnh không tiếng ầm ào
tôi nhìn mũi kim trên đĩa máy hát đang nương theo
đường tròn vòng tuổi của một cây đại cổ thụ
lướt hướng tâm
Bản 2
tôi mượn ánh sáng yếu mờ của buổi sớm tinh sương để mài dao
phát hiện [thấy] sống dao dần vẹt {mỏng/mảnh}
lưỡi dao thì lại rất cùn
mặt trời vụt lóe [một cái]
đám người trên đại lộ
là biển {rừng} cây ở bên trong tủ kính bày hàng cự đại
tịnh không [một] tiếng ầm ào [cơ giới]
tôi nhìn mũi kim trên đĩa máy hát đang {đương} nương {men} theo
đường tròn vòng tuổi của một cây đại cổ thụ
lướt hướng [vào] tâm
Bản 3
tôi mượn ánh sáng yếu mờ của buổi sớm tinh sương để mài dao
phát hiện thấy sống dao dần vẹt
lưỡi dao thì lại rất cùn
mặt trời vụt lóe [một cái rồi vội tắt ngấm]
đám người trên đại lộ
là biển {rừng} cây ở bên trong tủ kính bày hàng cự đại
tịnh không [một] tiếng ầm ào [cơ giới]
tôi nhìn mũi kim trên đĩa máy hát đương nương {men} theo
đường tròn vòng tuổi của cây một đại cổ thụ
lướt hướng vào tâm
Bản 4
1 tôi mượn ánh sáng yếu mờ của buổi sớm tinh sương để mài dao
2 phát hiện thấy sống dao dần vẹt
3 lưỡi dao thì lại rất cùn
4 mặt trời vụt lóe
5 đám người trên đại lộ
6 là biển {rừng} cây ở bên trong tủ tủ kính bày hàng cự đại
7 tịnh không [một] tiếng ầm ào [cơ giới]
8 tôi nhìn mũi kim trên đĩa máy hát đương nương {men} theo
9 đường tròn vòng tuổi của một cây đại cổ thụ
10 lướt hướng vào tâm
2. Nguyên bản Trung văn
Chính bản
磨刀
我借清晨的微光磨刀
发现刀背越来越薄
刀锋仍就很钝
太阳一闪
大街上的人群
是巨大的橱窗里的树林
寂静轰鸣
我看见唱头正沿着
一棵树椿的年轮
滑向中心
Phụ bản
1 我清晨的微磨刀
2 发现刀背越来越薄
3 刀锋仍就很钝
4 太阳
5 大街上的人群
6 是巨大的橱窗里的树林
7 寂静轰鸣
8 我看见唱头正沿着
9 一棵树椿
10 滑向中心
3. Phiên âm Hán Việt
Chính bản
Ma đao
ngã tá thanh thần đích vi quang ma đao
phát hiện đao bối việt lai việt bạc
đao phong nhưng tựu ngận độn
thái dương nhất thiểm
đại nhai thượng đích nhân quần
thị cự đại đích chu song đích thụ lâm
tịch tĩnh oanh minh
ngã khán kiến xướng đầu chính duyên trước
nhất quả thụ xuân đích niên luân
hoạt hướng trung tâm
Phụ bản
1 ngã  thanh thần đích vi quang ma đao
2 phát hiện đao bối việt lai việt bạc
3 đao phong nhưng tựu ngận độn
4 thái dương nhất thiểm
5 đại nhai thượng đích nhân quần
6 thị cự đại đích chu song đích thụ lâm
7 tịch tĩnh oanh minh
8 ngã khán kiến xướng đầu chính duyên trước
9 nhất quả thụ xuân đích niên luân
10 hoạt hướng trung tâm
4. Bản chuyển ngữ khác
(bản của Diễm Châu từ Pháp văn, đã đăng trên Tiền Vệ)
Chính bản
MÀI DAO
Dưới ánh sáng buổi đầu ngày tôi mài một con dao
sống dao mảnh lần đi
lưỡi dao vẫn cùn nhụt
mặt trời lấp lánh
Đám đông trên đại lộ
là rừng của một tủ kính bày hàng bao la
im lặng âm ỉ
tôi đã thấy mũi kim trên đĩa hát
theo những đường vòng của thân cây
lướt vào trung tâm những vòng ấy
Phụ bản
1 Dưới ánh sáng buổi đầu ngày tôi mài một con dao
2 sống dao mảnh lần đi
3 lưỡi dao vẫn cùn nhụt
4 mặt trời lấp lánh
5 Đám đông trên đại lộ
6 là rừng của một tủ kính bày hàng bao la
7 im lặng âm ỉ
8 tôi đã thấy mũi kim trên đĩa hát
9 theo những đường vòng của thân cây
10 lướt vào trung tâm những vòng ấy
[2] Tiếng quê{Hương âm}(乡音/Hương âm)
1. Các bản chuyển ngữ phụ
Bản 1
Tiếng quê{Hương âm}
tôi nói tiếng Tàu {Trung} với {vào} chiếc gương
một công viên có mùa đông của {cho} riêng mình {riêng nó}
tôi thả {mở/bật} nhạc {âm nhạc} lên {ra}
mùa đông không có nhặng {ruồi} xanh
tôi thung dung {chậm trề/uể lười} sục {hầm/nấu/đun/sôi} cà-fê
nhặng xanh không hiểu thế nào là tổ quốc
tôi đã thêm{nêm} [vào] một {chút} xíu đường
tổ quốc là một loại hương âm {tiếng quê}
tôi, từ {} đầu bên kia đường dây điện thoại
nghe thấy sự hoảng {sợ} loạn của [chính] tôi
{ở một đầu đường dây điện thoại, tôi
đã nghe thấy sự hoảng sợ của chính tôi }
vậy nên {thế là/bởi thế} chúng tôi đã mê {} sâu {vực sâu}
Bản 2
tôi nói tiếng Tàu {Trung} với {vào} chiếc gương
một công viên có mùa đông của {cho} riêng mình {riêng nó}
tôi thả {mở/bật} nhạc {âm nhạc} lên {ra}
mùa đông không có nhặng {ruồi} xanh
tôi thung dung {chậm trề/uể lười} sục {hầm/nấu/đun/sôi} cà-fê
nhặng xanh không hiểu thế nào là tổ quốc
tôi đã thêm{nêm} [vào] một {chút} xíu đường
tổ quốc là một loại hương âm {tiếng quê}
tôi, từ {} đầu bên kia đường dây điện thoại
nghe thấy sự hoảng {sợ} loạn của [chính] tôi
{ở một đầu đường dây điện thoại, tôi
đã nghe thấy sự hoảng sợ của chính tôi}
vậy nên {thế là/bởi thế} chúng tôi đã mê {} sâu {vực sâu}
Bản 3
tôi nói tiếng Tàu với {vào} chiếc gương
một công viên có mùa đông của {cho} riêng mình
tôi thả nhạc lên {ra}
mùa đông không có nhặng xanh
{tôi đem nhạc thả vào mùa đông không có nhặng xanh}
{tôi thả vào tiếng nhạc một con nhặng xanh mà mùa đông không có}
tôi thung dung sục cà-fê
nhặng xanh không hiểu thế nào là tổ quốc
tôi thêm vào một xíu đường
tổ quốc là một loại hương âm {tiếng quê}
tôi, từ đầu bên kia đường dây điện thoại
nghe thấy sự hoảng {sợ} loạn của chính tôi
vậy nên chúng tôi đã mê {} sâu
{thế là lũ chúng tôi mê lú ở dưới vực sâu}
Bản 4
1 a tôi nói tiếng Tàu với {vào} chiếc gương
2 một công viên có mùa đông của {cho} riêng mình
3 b tôi thả nhạc lên
4 mùa đông không có nhặng xanh
5 c tôi thung dung sục cà-fê
6 nhặng xanh không hiểu thế nào là tổ quốc
7 d tôi thêm vào một xíu đường
8 tổ quốc là một loại hương âm {tiếng quê}
9 tôi, từ đầu bên kia đường dây điện thoại
10 nghe thấy sự hoảng loạn của chính tôi
11 vậy nên chúng tôi đã mê {} sâu
2. Nguyên bản Trung văn
Chính bản
乡音
我对着镜子说中文
一个公园有自己的冬天
我放上音乐
冬天没有苍蝇
我悠闲地煮着咖啡
苍蝇不懂得什么是祖国
我加了点儿糖
祖国是一种乡音
我在电话线的另一端
听见了我的恐惧
于是我们迷上了深渊
Phụ bản
1 我对着镜子说中文
2 a 一个公园有自己的冬天
3 我放上音乐
4 b 冬天没有苍蝇
5 我悠闲地煮着咖啡
6 c 苍蝇不懂得什么是祖国
7 我加了点儿糖
8 d 祖国是一种
9 我在电话线的另一端
10 听见了我的恐惧
11 于是我们迷上了深渊
3. Phiên âm Hán Việt
Chính bản
Hương âm
ngã đối trước kính tử thuyết Trung văn
nhất cá công viên hữu tự kỉ đích đông thiên
ngã phóng thượng âm nhạc
đông thiên một hữu thương dăng
ngã du nhàn địa chử trước gia phi
thương dăng bất đổng đắc thập ma thị tổ quốc
ngã gia liễu điểm nhi đường
tổ quốc thị nhất chủng hương âm
ngã tại điện thoại tuyến đích lánh nhất đoan
thính kiến liễu ngã đích khủng cụ
vu thị ngã môn mê thượng liễu thâm uyên
Phụ bản
1 ngã đối trước kính tử thuyết Trung văn
2 a nhất cá công viên hữu tự kỉ đích đông thiên
3 ngã phóng thượng âm nhạc
4 b đông thiên một hữu thương dăng
5 ngã du nhàn địa chử trước gia phi
6 c thương dăng bất đổng đắc thập ma thị tổ quốc
7 ngã gia liễu điểm nhi đường
8 d tổ quốc thị nhất chủng hương âm
9 ngã tại điện thoại tuyến đích lánh nhất đoan
10 thính kiến liễu ngã đích khủng cụ
11 vu thị ngã môn mê thượng liễu thâm uyên
4. Bản chuyển ngữ khác
(bản của Diễm Châu từ Pháp văn, đã đăng trên Tiền Vệ)
Chính bản
GIỌNG BẢN THỔ
Tôi nói tiếng Tầu trước tấm gương
một công viên có nỗi buồn riêng của nó
tôi để nhạc
không có ruồi vào mùa đông
trầm tư tôi chế cà-phê
giống ruồi mù tịt về chữ tổ quốc
tôi thêm một chút đường
tổ quốc, cái âm giọng khó giải này
Ở đầu kia của dòng chữ
tôi nghe chính nỗi kinh hoàng của tôi
Phụ bản
1 Tôi nói tiếng Tầu trước tấm gương
2 a một công viên có nỗi buồn riêng của nó
tôi để nhạc
4 b không có ruồi vào mùa đông
5 trầm tư tôi chế cà-phê
6 c giống ruồi mù tịt về chữ tổ quốc
7 tôi thêm một chút đường
8 d tổ quốc, cái âm giọng khó giải này
9 Ở đầu kia của dòng chữ
10 tôi nghe chính nỗi kinh hoàng của tôi
[3] Trả lời{Hồi đáp}(回答/Hồi đáp)
1. Các bản chuyển ngữ phụ
Bản 1
Trả lời{Hồi đáp}
thấp hèn {bỉ lậu/ dơ dáy} là giấy thông hành của kẻ {đứa/người} thấp hèn {dơ dáy},
cao thượng là lời văn khắc {minh văn} trên bia mộ của của người {đứa/kẻ} cao thượng,
nhìn {đi }kìa, trong khung {bầu} trời mạ {vàng} kền này,
[đã] nổi [trôi] đầy bóng gập cong {cong queo/khúc gấp} [in ngược lên] của người chết
Kỉ {thời kì} Băng Hà: đã qua rồi,
vì sao: mọi {nơi} chỗ đều là băng {chìm} trôi ?
Mũi Hảo Vọng {Cape of Good Hope}: đã phát hiện,
vì sao: trong Biển Chết {Dead Lake} ngàn buồm {thuyền} đua {tranh} nhau ?
trên cái thế giới mà tôi đã đến này,
{tôi bước lên vào cái thế giới này}
chỉ mang theo {bên mình} giấy, dây [trói/thừng/chão] và cái bóng,
để {}: ở trước tòa {thẩm phán/pháp đình},
{tuyên đọc} đọc {dõng dạc/lớn} to những {vài/ít} lời {tiếng/thanh âm} bị phán quyết.
{để đọc to lên những lời bị phán quyết trước tòa}
nói [cho] cậu {mày/bạn} biết nhé, thế giới [ơi]
tôi {tớ/mình/tao} – không – tin [tưởng] !
dầu cho dưới chân người {mày/bạn} có một ngàn người thách đấu,
thì hãy điểm danh cho tôi làm{kẻ/đứa/thằng} thứ một ngàn lẻ một.
tôi không tin trời là xanh {lam},
tôi không tin tiếng rền {dội} của sấm,
tôi không tin mộng là giả {ảo/hão},
tôi không tin {cái/sự/người} chết không báo ứng.
nếu [hệt] như trong tiền {mặc/thiên/số} định, nhất định biển sẽ chọc {xối/táng/húc} vỡ đê,
thì hãy cho nước {mặn} chát ồ {nhồi/tọng} vào trong tim tôi,
nếu nhất định đất liền sẽthăng {bay/nhô/vồi} lên,
thì hãy cho loài người {nhân loại} chọn lại đỉnh sinh tồn {đỉnh cao sinh tồn/đỉnh cao để sinh tồn}.
vận hội {vần/vòng xoay} mới và sao sao {tinh tú/đẩu} nhấp nhánh {chớp nháy/chớp}
đang {giăng/chăng/treo đầy} trang hoàng bầu trời không có nắp {vung} đậy,
đó {đấy} là chữ viết {văn tự} tượng hình [] năm ngàn {năm} tuổi,
đó {đấy} là con ngươi {đồng tử/mắt} chăm chắm nhìn của [những] người vị lai.
Bản 2
thấp hèn là giấy thông hành {hộ chiếu} của {đứa} kẻ thấp hèn,
cao thượng là lời văn khắc trên bia mộ của của {đứa} người cao thượng,
nhìn {đi }kìa, trong khung trời mạ kền này,
nổi đầy bóng [ngược] gập cong của người chết
kỉ băng hà: đã qua rồi,
cớ sao: mọi chỗ, đều là băng {chìm} trôi ?
mũi hảo vọng: đã phát hiện,
cớ sao: trong biển chết, ngàn buồm đua {tranh} nhau ?
trên cái thế giới mà tôi đã đến này,
{tôi bước lên cái thế giới này}
chỉ mang theo giấy, dây [chão] và cái bóng,
để {}: ở trước tòa,
đọc {lớn} to những {vài} lời bị phán quyết.
{để đọc to lên những lời bị phán quyết trước tòa}
nói [cho] cậu biết nhé, thế giới [ơi]
tôi – không – tin [tưởng] !
dầu {} cho dưới chân người {mày/bạn} có một ngàn người{tên/đứa} thách đấu,
thì hãy điểm danh cho tôi làm kẻ {đứa/thằng} thứ một ngàn lẻ một.
tôi không tin trời là thứ {màu} xanh {lam},
tôi không tin tiếng rền {dội} của sấm,
tôi không tin mộng là {cái} thứ giả {ảo},
tôi không tin {cái/sự/người} chết không báo ứng.
nếu [hệt] như trong số đã đặt, nhất định biển sẽ chọc {húc} vỡ đê,
thì hãy cho nước {mặn} chát {nhồi} ồ vào trong tim tôi,
nếu nhất định đất liền sẽ thăng {bay} lên,
thì hãy cho loài người {nhân loại} chọn lại {đỉnh cao} đỉnh sinh tồn.
vận hội {vòng xoay} mới và sao sao {tinh tú/đẩu} nhấp nhánh {chớp chớp}
đang {treo đầy} trang hoàng bầu trời không có nắp {vung} đậy,
đó {đấy} là chữ viết {văn tự} tượng hình [] năm ngàn {năm} tuổi,
đó {đấy} là con ngươi {mắt} chăm chắm nhìn của [những] người vị lai.
Bản 3
1 thấp hèn là giấy thông hành của {đứa} kẻ thấp hèn,
cao thượng là lời văn khắc trên bia mộ của của {đứa} người cao thượng,
nhìn {đi }kìa, trong khung trời mạ kền này,
nổi đầy bóng [ngược] gập cong của người chết
2 Kỉ Băng Hà: đã qua rồi,
vì sao: mọi chỗ, đều là băng {chìm} trôi ?
Mũi Hảo Vọng: đã phát hiện,
vì sao: trong Biển Chết, ngàn buồm đua {tranh} nhau ?
3 trên cái thế giới mà tôi đã đến này,
{tôi bước lên cái thế giới này}
chỉ mang theo giấy, dây [chão] và cái bóng,
để {}: ở trước tòa,
đọc {lớn} to những {vài} lời bị phán quyết.
{ để đọc to lên những lời bị phán quyết trước tòa}
4 nói [cho] cậu biết nhé, thế giới [ơi]
tôi – không – tin [tưởng] !
dầu {} cho dưới chân người {mày/bạn} có một ngàn người{tên/đứa} thách đấu,
thì hãy điểm danh cho tôi làm kẻ {đứa/thằng} thứ một ngàn lẻ một.
5 tôi không tin trời là thứ {màu} xanh {lam},
tôi không tin tiếng rền {dội} của sấm,
tôi không tin mộng là {cái} thứ giả {ảo},
tôi không tin {cái/sự/người} chết không báo ứng.
6 nếu [hệt] như trong số đã đặt, nhất định biển sẽ chọc {húc} vỡ đê,
thì hãy cho nước {mặn} chát {nhồi} ồ vào trong tim tôi,
nếu nhất định đất liền sẽ thăng {bay} lên,
thì hãy cho loài người {nhân loại} chọn lại {đỉnh cao} đỉnh sinh tồn.
7 vận hội {vòng xoay} mới và sao sao {tinh tú/đẩu} nhấp nhánh {chớp chớp}
đang {treo đầy} trang hoàng bầu trời không có nắp {vung} đậy,
đó {đấy} là chữ viết {văn tự} tượng hình [] năm ngàn {năm} tuổi,
đó {đấy} là con ngươi {mắt} chăm chắm nhìn của [những] người vị lai.
2. Nguyên bản Trung văn
Chính bản
回答
卑鄙是卑鄙者的通行证,
高尚是高尚者的墓志铭,
看吧,在那镀金的天空中,
飘满了死者弯曲的倒影。
冰川纪过去了,
为什么到处都是冰凌?
好望角发现了,
为什么死海里千帆相竞?
我来到这个世界上,
只带着纸、绳索和身影,
为了在审判前,
宣读那些被判决的声音。
告诉你吧,世界
我–不–相–信!
纵使你脚下有一千名挑战者,
那就把我算作第一千零一名。
我不相信天是蓝的,
我不相信雷的回声,
我不相信梦是假的,
我不相信死无报应。
如果海洋注定要决堤,
就让所有的苦水都注入我心中,
如果陆地注定要上升,
就让人类重新选择生存的峰顶。
新的转机和闪闪星斗,
正在缀满没有遮拦的天空。
那是五千年的象形文字,
那是未来人们凝视的眼睛。
Phụ bản
1 卑鄙是卑鄙者的通行证,
高尚是高尚者的墓志铭,
看吧,在那镀金的天空中,
飘满了死者弯曲的倒影。
2 冰川纪过去了,
为什么到处都是冰凌?
好望角发现了,
为什么死海里千帆相竞?
3 我来到这个世界上,
只带着纸、绳索和身影,
为了在审判前,
宣读那些被判决的声音。
4 告诉你吧,世界
我–不–相–信!
纵使你脚下有一千名挑战者,
那就把我算作第一千零一名。
5 我不相信天是蓝的,
我不相信雷的回声,
我不相信梦是假的,
我不相信死无报应。
6 如果海洋注定要决堤,
就让所有的苦水都注入我心中,
如果陆地注定要上升,
就让人类重新选择生存的峰顶。
7 新的转机和闪闪星斗,
正在缀满没有遮拦的天空。
那是五千年的象形文字,
那是未来人们凝视的眼睛。
3. Phiên âm Hán Việt
Chính bản
Hồi đáp
ti bỉ thị ti bỉ giả đích thông hành chứng,
cao thượng thị cao thượng giả đích mộ chí minh,
khán ba, tại na độ kim đích thiên không trung,
phiêu mãn liễu tử giả loan khúc đích đảo ảnh.
Băng Xuyên kỉ quá khứ liễu,
vị thập ma đáo xứ đô thị băng lăng ?
Hảo Vọng giác phát hiện liễu,
vị thập ma Tử Hải lí thiên phàm tương cạnh ?
ngã lai đáo giá cá thế giới thượng,
chỉ đái trước chỉ, thằng sách hòa thân ảnh,
vị liễu tại thẩm phán tiền,
tuyên độc na ta bị phán quyết đích thanh âm.
cáo tố nhĩ ba, thế giới
ngã – bất – tương – tín !
túng sử nhĩ cước hạ hữu nhất thiên danh khiêu chiến giả,
na tựu bả ngã toán tác đệ nhất thiên linh danh.
ngã bất tương tín thiên thị lam đích,
ngã bất tương tín lôi đích hồi thanh,
ngã bất tương tín mộng thị giả đích,
ngã bất tương tín tử vô báo ứng.
như quả hải dương chú định yếu quyết đê,
tựu nhượng sở hữu đích khổ thủy đô chú nhập ngã tâm trung,
như quả lục địa chú định yếu thượng thăng,
tựu nhượng nhân loại trùng tân tuyển trạch sinh tồn đích phong đỉnh.
tân đích chuyển cơ hòa thiểm thiểm tinh đẩu,
chính tại chuế mãn một hữu giá lan đích thiên không.
na thị ngũ thiên niên đích tượng hình văn tự,
na thị vị lai nhân môn ngưng thị đích nhãn tình.
Phụ bản
1 ti bỉ thị ti bỉ giả đích thông hành chứng,
cao thượng thị cao thượng giả đích mộ chí minh,
khán ba, tại na độ kim đích thiên không trung,
phiêu mãn liễu tử giả loan khúc đích đảo ảnh.
2 Băng Xuyên kỉ quá khứ liễu,
vị thập ma đáo xứ đô thị băng lăng ?
Hảo Vọng giác phát hiện liễu,
vị thập ma Tử Hải lí thiên phàm tương cạnh ?
3 ngã lai đáo giá cá thế giới thượng,
chỉ đái trước chỉ, thằng sách hòa thân ảnh,
vị liễu tại thẩm phán tiền,
tuyên độc na ta bị phán quyết đích thanh âm.
4 cáo tố nhĩ ba, thế giới
ngã – bất – tương – tín !
túng sử nhĩ cước hạ hữu nhất thiên danh khiêu chiến giả,
na tựu bả ngã toán tác đệ nhất thiên linh danh.
5 ngã bất tương tín thiên thị lam đích,
ngã bất tương tín lôi đích hồi thanh,
ngã bất tương tín mộng thị giả đích,
ngã bất tương tín tử vô báo ứng.
6 như quả hải dương chú định yếu quyết đê,
tựu nhượng sở hữu đích khổ thủy đô chú nhập ngã tâm trung,
như quả lục địa chú định yếu thượng thăng,
tựu nhượng nhân loại trùng tân tuyển trạch sinh tồn đích phong đỉnh.
7 tân đích chuyển cơ hòa thiểm thiểm tinh đẩu,
chính tại chuế mãn một hữu giá lan đích thiên không.
na thị ngũ thiên niên đích tượng hình văn tự,
na thị vị lai nhân môn ngưng thị đích nhãn tình.
4. Bản chuyển ngữ khác
(bản của Đinh Linh từ Anh văn, đã đăng trên Tiền Vệ)
Chính bản
CÂU TRẢ LỜI
Sự tồi bại là mật mã của kẻ vô lại.
Danh dự là văn bia người liêm sỉ.
Nhìn—bầu trời mạ đang tràn ngập
Phản ảnh dập dờn của cổ nhân.
Họ bảo thời đại băng hà đã qua.
Sao băng đá vẫn còn khắp nơi?
Mũi Hảo Vọng đã được phát hiện.
Sao ngàn cánh buồm dành Biển Chết?
Tôi đến thế gian này với không gì
Ngoài giấy, dây thừng và cái bóng,
Để công bố trước sự phán xét
Một giọng nói đã bị phán xét:
Nghe đây, thế gian, tôi—không—tin!
Nếu ngươi đã chà đạp 1.000 kẻ thù,
Hãy cho tôi làm kẻ 1.001.
Tôi không tin bầu trời màu xanh.
Tôi không tin những lời sấm nói.
Tôi không tin giấc mơ là ảo tưởng.
Tôi không tin cái chết không báo thù.
Nếu có ngày biển chọc thủng đê,
Hãy cho nước mặn tràn tim tôi.
Nếu có ngày đất nhô từ biển,
Chúng ta sẽ sống trên đỉnh.
Trái đất xoay. Một chòm sao lóng lánh
Trang hoàng một bầu trời tang hoang:
Đấy là những hình tượng từ 5.000 năm,
Là những con mắt tương lai soi xét.
Phụ bản
1 Sự tồi bại là mật mã của kẻ vô lại.
Danh dự là văn bia người liêm sỉ.
Nhìn—bầu trời mạ đang tràn ngập
Phản ảnh dập dờn của cổ nhân.
2 Họ bảo thời đại băng hà đã qua.
Sao băng đá vẫn còn khắp nơi?
Mũi Hảo Vọng đã được phát hiện.
Sao ngàn cánh buồm dành Biển Chết?
3 Tôi đến thế gian này với không gì
Ngoài giấy, dây thừng và cái bóng,
Để công bố trước sự phán xét
Một giọng nói đã bị phán xét:
4 Nghe đây, thế gian, tôi—không—tin!
Nếu ngươi đã chà đạp 1.000 kẻ thù,
Hãy cho tôi làm kẻ 1.001.
5 Tôi không tin bầu trời màu xanh.
Tôi không tin những lời sấm nói.
Tôi không tin giấc mơ là ảo tưởng.
Tôi không tin cái chết không báo thù.
6 Nếu có ngày biển chọc thủng đê,
Hãy cho nước mặn tràn tim tôi.
Nếu có ngày đất nhô từ biển,
Chúng ta sẽ sống trên đỉnh.
7 Trái đất xoay. Một chòm sao lóng lánh
Trang hoàng một bầu trời tang hoang:
Đấy là những hình tượng từ 5.000 năm,
Là những con mắt tương lai soi xét.
[4] Nghệ thuật thơ (诗艺/Thi nghệ)
1. Các bản chuyển ngữ phụ
Bản 1
Nghệ thuật thơ
căn nhà rộng đại mà tôi trú thuộc này
chỉ còn sót lại một chiếc bàn, xung quanh
là sình bùn ngút ngát
trăng sáng từ những giác độ khác nhau chiếu rọi tôi
những mộng với bộ xương giòn tơi vẫn đứng y nguyên ở
mãi xa, khung giàn giáo chưa buồn dỡ đi
vẫn còn vết chân nhoét bùn trên giấy trắng
{từ những góc độ khác nhau trăng sáng chiếu rọi vào những giấc mơ với bộ xương giòn của tôi, và những giấc mơ ấy vẫn còn đứng y nguyên ở tít xa}
con cáo đã được chăm bẵm bao năm này
ngoe ngẩy đuôi đỏ như lửa
ca ngợi tôi, sát thương tôi
đương nhiên, vẫn còn có em, ngồi đối mặt tôi
chớp lòa lóe vào: trời thanh nắng trong bàn tay em
biến thành củi khô, và hóa tro tàn
{điện lóe/lia lên bầu trời trong xanh  bầu trời ấy lại đang nằm trong bàn tay em  đã biến thành củi khô, và hóa thành tro}
Bản 2
căn nhà rộng {cự} đại mà tôi {thuộc vào} trú thuộc này
chỉ còn sót lại một chiếc bàn, xung quanh
là sình bùn lầy đầm {bùn lầy} ngút ngát {bất tận/vô biên}
trăng sáng từ những giác độ khác nhau chiếu {vào} rọi tôi
những giấc mộng, với bộ xương giòn, vẫn đứng y nguyên ở
mãi xa, khung giàn giáo [xây dựng] chưa buồn dỡ đi {tựa như còn chưa tháo đi}
vẫn còn vết chân nhoét {dính/đẵm} bùntrên giấy trắng
{giấc mộng có khung xương giòn vẫn đứng y nguyên ở mãi xa
khung giàn giáo chưa buồn dỡ đi vẫn còn vết chân dính bùn trên giấy trắng}
con cáo [hồ li] này đã được chăm {nuôi} bẵm bao năm
ngoe ngẩy {vẩy vẩy} đuôi đỏ như lửa
ca ngợi tôi, sát thương tôi
{con mèo đã chăm bẵm bao năm hóa cáo này
đương vờn cái đuôi đỏ rực như lửa
ca ngợi tôi, rồi lại sát thương tôi}
đương nhiên {dĩ nhiên/hiển nhiên}, vẫn còn có em {mày/bạn/cậu}, ngồi đối {trước} mặt tôi
chớp lòa lóe vào: trời thanh nắng trong bàn tay em {mày/bạn/cậu}
biến thành củi khô, và hóa tro tàn
{chớp của bầu trời trong xanh chiếu rọi vào trong bàn tay em, rồi nó biến thành củi khô, và hóa thành tro}
Bản 3
1 căn nhà rộng đại mà tôi trú thuộc này
2 chỉ còn sót lại một chiếc bàn, xung quanh
3 là sình bùn lầy đầm ngút ngát
4 trăng sáng từ những giác độ khác nhau chiếu rọi tôi
5 giấc mộng với bộ xương giòn vẫn đứng y nguyên ở
6 mãi xa, khung giàn giáo chưa buồn dỡ đi
7 vẫn còn vết chân nhoét bùn trên giấy trắng
8 con chồn này đã được chăm bẵm bao năm
9 ngoe ngẫy đuôi đỏ như lửa
10 ca ngợi tôi, sát thương tôi
11 đương nhiên, vẫn còn có em, ngồi đối mặt tôi
12 chớp lòa lóe vào trời thanh nắng trong bàn tay em ¶
13 ¶ biến thành củi khô, và hóa tro tàn
2. Nguyên bản Trung văn
Chính bản
诗艺
我所从属的那所巨大的房舍
只剩下桌子,周围
是无边的沼泽地
明月从不同角度照亮我
骨骼松脆的梦依然立在
远方,如尚未拆除的脚手架
还有白纸上泥泞的足印
那只喂养多年的狐狸
挥舞着火红的尾巴
赞美我,伤害我
当然,还有你,坐在我的对面
炫耀于你掌中的晴天的闪电
变成干柴,又化为灰烬
Phụ bản
1 我所从属的那所巨大的房舍
2 只剩下桌子,周围
3 是无边的沼泽地
4 明月从不同角度照亮我
5 骨骼松脆的梦依然立在
6 远方,如尚未拆除的脚手架
7 还有白纸上泥泞的足印
8 那只喂养多年的狐狸
9 挥舞着火红的尾巴
10 赞美我,伤害我
11 当然,还有你,坐在我的对面
12 炫耀于你掌中的晴天的闪电
13 变成干柴,又化为灰烬
3. Phiên âm Hán Việt
Chính bản
Thi nghệ
ngã sở tòng thuộc đích na sở cự đại đích phòng xá
chỉ thặng hạ trác tử, chu vi
thị vô biên đích chiểu trạch địa
minh nguyệt tòng bất đồng giác độ chiếu lượng ngã
cốt cách túng thúy đích mộng y nhiên lập tại
viễn phương, như thượng vị triệt trừ đích cước thủ giá
hoàn hữu bạch chỉ thượng nê nính đích túc ấn
na chỉ uy dưỡng đa niên đích hồ li
huy vũ trước hỏa hồng đích vĩ ba
tán mĩ ngã, sát thương ngã
đương nhiên, hoàn hữu nhĩ, tọa tại ngã đích đối diện
huyễn diệu vu nhĩ chưởng trung đích tình thiên đích thiểm điện
biến thành can sài, hóa thành khôi tận
Phụ bản
1 ngã sở tòng thuộc đích na sở cự đại đích phòng xá
2 chỉ thặng hạ trác tử, chu vi
3 thị vô biên đích chiểu trạch địa
4 minh nguyệt tòng bất đồng giác độ chiếu lượng ngã
5 cốt cách túng thúy đích mộng y nhiên lập tại
6 viễn phương, như thượng vị triệt trừ đích cước thủ giá
7 hoàn hữu bạch chỉ thượng nê nính đích túc ấn
8 na chỉ uy dưỡng đa niên đích hồ li
9 huy vũ trước hỏa hồng đích vĩ ba
10 tán mĩ ngã, sát thương ngã
11 đương nhiên, hoàn hữu nhĩ, tọa tại ngã đích đối diện
12 huyễn diệu vu nhĩ chưởng trung đích tình thiên đích thiểm điện
13 biến thành can sài, hóa thành khôi tận
4. Bản chuyển ngữ khác
(bản của Diễm Châu từ Pháp văn, đã đăng trên Tiền Vệ)
Chính bản
NGHỆ THUẬT THI CA
Cái bàn
ấy những gì còn lại
của chốn ở bao la này nơi tôi cư ngụ
chung quanh những đầm lầy hút mắt
ánh trăng
phóng lên tôi những soi rọi khác nhau
mộng mơ còn dựng nơi xa xăm ấy
chiếc bóng mong manh những dàn gióng đã từ bỏ
những vết bùn nhơ này trên trang giấy trắng
con hồ-ly đã kiên trì nuôi dậy đó
hướng về tôi phe phẩy chiếc đuôi đỏ rực
nói với tôi những lời tán dương hoặc hăm dọa
thế rồi cố nhiên còn có em
ngồi trước mặt tôi
những ánh chớp biếc xanh lấp lánh trong tay em
biến thành củi khô tan thành tro than
Phụ bản
1 Cái bàn
2 ấy những gì còn lại
3 của chốn ở bao la này nơi tôi cư ngụ
4 chung quanh những đầm lầy hút mắt
5 ánh trăng
6 phóng lên tôi những soi rọi khác nhau
7 mộng mơ còn dựng nơi xa xăm ấy
8 chiếc bóng mong manh những dàn gióng đã từ bỏ
9 có
10 những vết bùn nhơ này trên trang giấy trắng
11 con hồ-ly đã kiên trì nuôi dậy đó
12 hướng về tôi phe phẩy chiếc đuôi đỏ rực
13 nói với tôi những lời tán dương hoặc hăm dọa
14 thế rồi cố nhiên còn có em
15 ngồi trước mặt tôi
16 những ánh chớp biếc xanh lấp lánh trong tay em
17 biến thành củi khô tan thành tro than
——————-
Nếu không có bản in trên giấy, thì trên mạng toàn cầu, bạn có thể dễ dàng tìm thấy nguyên bản tiếng Trung những bài thơ tiêu biểu của Bắc Đảo (bao gồm 4 bài trên), chẳng hạn website sau:

bài đã đăng của ái vân quốc


"
http://damau.org/archives/13273

1 nhận xét:

  1. BỔ SUNG




    Bản chép những bản dịch của Ái Vân Quốc trên Da Màu (chép ngày 20/12/2016)

    Năm 2006

    "
    Hoa hồng của thời gian

    Bắc Đảo ♦ 0 bình luận ♦ 16.12.2006

    Trên damau số 13 [ra ngày 2.12.2006], chúng tôi đã giới thiệu cùng bạn đọc về Bắc Đảo (北岛/Bei Dao), một trong những gương mặt thi ca quan trọng nhất của Trung Quốc đương đại, và trích dịch một chùm gồm 4 bài tiêu biểu theo phương án dịch thơ do avq đề xướng. Bốn bài ấy là thơ Bắc Đảo thời kì còn ở trong nước, trích trong tập Bắc Đảo thi tuyển北岛诗选 [1986, bản dịch tiếng Anh là The August Sleepwalker]. Lần này, vẫn trong mạch tiếp nối phương án avq, xin trình làng bản dịch 1 bài mới, với mục đích giúp bạn đọc cảm nhận không khí hiện tại của bầu trời thơ Bắc Đảo từ khi định cư ở nước ngoài.

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.