Từ từ rồi ta sẽ thấy một điều sau: có rất nhiều trí thức thời đó đã ủng hộ mạnh cho đại phát kiến "làm chủ tập thể" do cụ Lê Duẩn tìm ra và tuyên bố rằng "Loài
người đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch
sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ
ba là làm chủ tập thể" (theo ghi chép của cụ Nguyễn Ngọc Lanh ở dưới, vào năm 1977 - tức là đêm trước nữa của Đổi Mới). Đó cũng là ngang ngang với thời điểm cụ Tô Hoài viết xong và đem xuất bản cuốn Trái đất tên Người đã giới thiệu hôm trước.
Đổi Mới có "đêm trước Đổi Mới" và "đêm trước nữa của Đổi Mới".
Ở "đêm trước nữa" ấy, là đại phát kiến ngang tìm ra lửa của loài người, đã ra đời tại Việt Nam ta: làm chủ tập thể. Những vị từng du học ở Nga thời kì xã hội chủ nghĩa có tâm sự lại (tôi nghe trực tiếp từ các tiền bối H.V, T.D.H, và D.P.H,... - đều là dân lí luận cả): lúc cụ Lê Duẩn đưa thuật ngữ này, mong xuất khẩu trở lại đất nước của Lê Nin, giới chuyên gia của Nga đều ngạc nhiên vì quá mới, quá tân kì.
Dưới là bài của một vị lão thành, là cụ Nguyễn Ngọc Lanh - cụ tự gửi bài cho BVN.
---
Những entry liên quan đã đi trên blog này:
- Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 4 (về đại phát kiến của Việt Nam "làm chủ tập thể", Nguyễn Ngọc Lanh)
- Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 3 (những kí ức tản mạn của cụ Hoàng Tuấn Phổ ở xứ Thanh)
- Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 2 (đêm 26 tháng 11 năm 1983, truyện của Phùng Gia Lộc)
- Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 2 (đêm 26 tháng 11 năm 1983, truyện của Phùng Gia Lộc)
---
Từ đây trở xuống là bài của cụ Nguyễn Ngọc Lanh, chép nguyên xi từ BVN về.
08/08/2014
Những lý luận trường tồn và những câu nói để đời
Nguyễn Ngọc Lanh
Công, Đức, Ngôn. Và danh hão
Ai
cũng muốn thành công khi lập nghiệp, lập thân. Nhiều người, nhờ tài
năng và nỗ lực, đã đạt được những thành tựu xuất chúng, được hậu thế ghi
nhớ. Triết học phương Đông chia họ thành 3 loại: Lập công (Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi...), lập đức (Chu Văn An, Lãn Ông...) và lập ngôn (Nguyễn
Du, Phạm Quỳnh...). Xin nói ngay: phải để hậu thế đánh giá mới khách
quan. Trong lịch sử, nhiều vị đã "lập danh" (tể tướng, thái sư, vua...)
mà hậu thế chỉ coi là "hư danh". Ở tuổi 80, cái huy hiệu 50 năm và cái
danh hiệu NGND của tôi liệu có trở thành "hão" (như ở Liên Xô, sau khi
chế độ xô viết sụp đổ)?.
Đảng đang cầm quyền, dù
đã 70 năm, vẫn khó đánh giá khách quan về Công và Đức (dù sách giáo
khoa Lịch Sử cứ làm), còn đánh giá về Ngôn có lẽ dễ hơn, vì nó "sờ sờ ra
đó" dưới dạng câu chữ, lời nói, văn bản... Cơ hội lập ngôn thường dành
cho các vị có nhiệm vụ đề xuất (và giảng huấn) lý luận, như tổng bí thư,
trưởng ban tuyên giáo, chủ tịch hội đồng lý luận. Trước tuổi tôi có các
cụ Lê Duẩn, Nguyễn Đức Bình... Sau tuổi tôi có các cụ Nguyễn Phú Trọng,
Tô Huy Rứa, Đinh Thế Huynh... Riêng cụ Đinh Thế Huynh đã lập ngôn ("Việt Nam không có nhu cầu đa nguyên đa đảng") ngay từ khi chưa đủ tuổi để lên "cụ". Quả là khả úy.
Một cách lập ngôn mới?
Đọc một bản khai, có những câu: Họ và tên: Lê A do ông nội đặt. Năm sinh: 1945 nhiều sự kiện. Nơi sinh: Phú Thọ đất tổ...
vân vân, chúng ta sẽ không nghĩ đó là đơn xin việc. Nhưng nếu... đúng
đó là đơn xin việc, người xét đơn sẽ nhớ rất lâu cái đơn này; vì đương
sự đã thêm những tính ngữ – tuy đẹp – nhưng lạc đề. Vậy, một cách "lập
ngôn" là đưa ra những câu với cấu trúc và nội dung buộc mọi người phải
cau mày suy đoán.
Ví dụ, người đứng đầu một tổ chức chính trị, nếu tuyên bố: Chúng ta có chính nghĩa; thì một ẩn ý là: Chúng nó không có chính nghĩa. Nhưng nếu ông ta thêm tính từ (đẹp) vào câu trên, thì thành chuyện khác ngay. Chẳng hạn, câu: Chúng ta có chính nghĩa rạng ngời, sẽ gợi ra ẩn ý là: Chúng nó (cũng) có chính nghĩa (nhưng) chưa/không rạng ngời.
Câu
này đã được VTV đưa lên, nay vẫn tồn tại trên mạng. Hy vọng nó sẽ sống
dai hơn người phát ngôn. Phần tôi, tôi nhớ lâu câu trên, vì khi học tiểu
học (dưới thời thuộc Pháp) đã được các thầy dạy rất kỹ về phân tích ngữ
pháp (analyse grammaticale).
Những hệ thống lý luận để đời và sự kết tinh thành danh ngôn
Lý luận Tam Quyền khá dài, nhưng kết tinh bằng một danh ngôn mà cụ thủ tướng đã sử dụng trong Thông Điệp tân niên 2014. Tôi mong rằng các vị Tổng Bí thư, Tuyên giáo... cũng có những danh ngôn để đời, khiến hậu thế phải nhớ và nhắc mãi.
Bài này chỉ xin nêu sự nghiệp lập ngôn của một số nhà lý luận mà tôi khâm phục, nhờ đọc các tác phẩm của họ khá sớm, thường là ngay sau khi chúng được xuất bản.
- Cụ Lê Duẩn, Tổng Bí thư 16 năm (+ 101 ngày). Có lẽ cụ muốn để đời 2 sự nghiệp:
a) Về Công: đó là Giải phóng miền Nam. Cụ là tác giả chiến lược cách mạng ở miền Nam với tác phẩm Đề cương cách mạng miền Nam. Xin để Lịch Sử đánh giá.
b) Về Ngôn: đó là Hệ thống lý luận về quyền làm chủ tập thể.
Xin những vị hôm nay dưới 60 tuổi hãy hỏi các cụ trên 70 tuổi để biết
họ đã tốn bao giấy mực, công sức, thời gian, tiền của... để thấm nhuần
cả một hệ thống lý luận đồ sộ về làm chủ tập thể.
Một danh ngôn: Ngày 13-3-1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, cụ Lê Duẩn nói:
"Loài
người đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch
sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ
ba là làm chủ tập thể".
Tiếng nói trái chiều: Đại khái, cũng rôm rả như thời nay mọi người đang bàn về thị trường có định hướng.
-
Nhà khoa học Tạ Quang Bửu, trong một hội nghị về Đào tạo sau đại học,
phát biểu rằng "Toán học đã trừu tượng, nhưng khái niệm làm chủ tập thể
còn trừu tượng hơn".
- Câu lưu hành rộng rãi: Làm chủ tập thể là... chẳng ai làm chủ sất.
-
Năm 1975, Tổng thống miền Nam Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho đạo quân Tây
Nguyên (sắp tan vỡ) được "tùy nghi di tản" bị người dân vạch trần bằng
câu tục ngữ: Đó là tổng thống cho phép... mạnh ai nấy chạy. Cùng thời, câu của cụ Lê Duẩn cũng được dân giải thích bằng tục ngữ: Làm chủ tập thể thực chất là "Cha chung không ai khóc"...
- Trái chiều nhất là Đảng ta không thèm nhắc tý gì đến lý luận "làm chủ tập thể" nữa, kể cả trong Cương Lĩnh 1991 (cụ Duẩn mất mới được 5 năm), trong khi đó Cương Lĩnh này khẳng định: “Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đối xử với tiền bối như vậy, mong gì hậu duệ sẽ đối xử phải đạo với các nhân vật hiện thời?
- Cụ Nguyễn Đức Bình,
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc
Học viện Chính trị Quốc gia. Cụ có cách lập luận độc đáo, sáng tạo, để
chứng minh sứ mệnh lãnh đạo của đảng là do lịch sử trao cho. Cụ cho
rằng, giai cấp phong kiến Việt Nam kết thúc sứ mệnh lịch sử kể từ khi
Khởi nghĩa Yên Thế thất bại (1913), phải trao ngọn cờ cho giai cấp tư
sản". Nhưng giai cấp này cũng kết thúc sứ mạng sau khi khởi nghĩa Yên
Bái thất bại (1930). Thế thì, đương nhiên sứ mạng lịch sử được trao cho
giai cấp công nhân. Chỉ có điều... trong Lịch Sử nhân loại, các chế độ
thay thế nhau (Phong kiến - Tư bản – Xã hội Chủ nghĩa) tốn hàng ngàn
năm, nhưng ở Việt Nam, cụ Bình chỉ cho phép diễn ra trong vòng vài ba
chục năm. Sáng tạo đến thế là cùng...
- Cụ Nguyễn Phú Trọng,
cương vị giống cụ Bình, lại thêm chức Tổng Bí thư, nên rất thuận lợi
khẳng định lý luận của mình trong Đảng. Cái khó, là uy tín của Đảng
không còn như xưa. Các giá trị của cách mạng tư sản cứ ào ạt xâm nhập
nước ta, được Đảng đối phó bằng cách gắn cho chúng tính từ “xã hội chủ
nghĩa”. Ví dụ: dân chủ xã hội chủ nghĩa, pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
mái trường xã hội chủ nghĩa... (khá lơ mơ, đến nỗi có ý kiến cần làm rõ cái tính từ này ra).
Nhưng
đến khi Việt Nam phải công nhận kinh tế thị trường – vốn bị coi là "đặc
trưng tư bản" – chúng ta phải thay đổi cách đối phó, sao cho vẫn vào
được WTO, mà vẫn bảo vệ được chủ nghĩa xã hội. Đây là cơ hội để cụ
Nguyễn Phú Trọng lập ngôn.
1- Bài viết chính
Bài gói ghém toàn bộ tư duy của cụ Trọng, có tên: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Quan niệm và Giải pháp phát triển được đăng năm 2003 trên tạp chí Cộng sản. Bốn năm sau (tháng 1-2007) bài này được đăng lại, đúng vào dịp cụ dẫn phái đoàn sang Trung Quốc "trao đổi kinh nghiệm về CNXH và Kinh tế thị trường". Quan điểm hai bên chưa "khớp" nhau, nhưng thống nhất rằng: Kinh tế thị trường có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là bước đột phá trong tư duy lý luận của hai Đảng.
- Đọc bài, ngoài những gì đương nhiên cụ Trọng phải nói, ví dụ đây là mô hình mới trong lịch sử..., là đặc thù của Việt Nam ở thời kỳ quá độ... người ta chú ý tới biện pháp (phần III – Làm thế nào để phát triển được kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?). Té
ra, nó không mới lắm. Ví dụ, kinh tế nhà nước là chủ đạo; và giữ vững
vai trò lãnh đạo của đảng trong kinh tế... Thành tựu kinh tế như hôm nay
không hiểu do đã làm tốt, hay làm chưa tốt, các biện pháp đã nêu.
2- Danh ngôn và vài lời bàn
Câu này tương đương với danh ngôn của cụ Lê Duẩn (về làm chủ tập thể), đã nói ở trên.
- Nhà nước ta không tam quyền phân lập.
Câu này trường tồn trong phạm vi "Đảng còn, nó còn" (muôn năm?).
- “Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng” (VnExpress)
Đây
là sự sắp xếp của Đảng Cộng sản về thứ tự quan trọng của hai văn bản:
Văn bản của 90 triệu người và của 3 triệu người (là con em của 90
triệu). Câu này mới, vì do Tổng Bí thư nói ra miệng, chứ rất lâu trước
đó Đảng đã nói bằng hình tượng rồi (cờ Đảng được đặt cao hơn cờ Tổ
quốc).
- Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa. Câu không mới, đã có người nói trước rồi. Tầm nhìn tới cuối thế kỷ chưa xa lắc.
Nói ngược danh ngôn cũng thành... danh ngôn?
-
Cụ Tổng Bí thư chỉ còn hai năm để tìm tòi tiếp về lý luận và mô hình
trên thực tế, một Ủy viên trung ương, Bộ trưởng, lại nói: Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm. Thôi, đây là chuyện riêng của đảng.
- Chuyện khác: Cụ Lê Quý Đôn (sinh 1726) có câu "Phi trí bất hưng", được dân ta coi là danh ngôn. Một người bên Trung Quốc sinh sau 167 năm, nói một câu ngược lại: "Trí thức không bằng cục phân"... cũng thành "danh ngôn".
Có người bảo, trong hai năm tới nếu cụ Tổng Bí thư... nói ngược lại "danh ngôn" của chính mình, cũng sẽ thành danh ngôn. Chẳng biết có đúng không?
N. N. L.
Tác giả gửi BVN.
---
Trường tồn1
Trả lờiXóa