Bây giờ, bắt đầu xuất hiện tên của nhà ngoại cảm. Lại trở lại với phóng sự của Hoàng Anh Sướng - một nhà báo rất được một nhà thơ là Trần Đăng Khoa khen ngợi (xem lại các comment ở entry sau).
Chỉ tạm đối sánh với 2 tư liệu trung gian đã dẫn trước (kì 1 và 2 của loạt bài này), cũng có thể thấy ra được những điểm cốt yếu.
Với riêng chi tiết ghi số di động của anh Hoàng Văn Khánh (xem trong bài), cũng đã cho thấy ngay trình của nhà báo.
Chỉ tạm đối sánh với 2 tư liệu trung gian đã dẫn trước (kì 1 và 2 của loạt bài này), cũng có thể thấy ra được những điểm cốt yếu.
Với riêng chi tiết ghi số di động của anh Hoàng Văn Khánh (xem trong bài), cũng đã cho thấy ngay trình của nhà báo.
Từ đây trở xuống là copy nguyên xi một entry đã đưa lên từ năm 2008 trên blog Hoang Anh Suong.
Những chuyện kỳ bí về thế giới tâm linh – Kỳ 9
Tháng Bảy 15, 2008 bởi hasuong
Kỳ 9: Tìm mộ vị lãnh tụ nông dân Hoàng Công Chất
và sự chắp nối kỳ diệu gia phả dòng họ Hoàng Văn
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng
Trong suốt hành trình 15 năm phát tâm nguyện đi tìm những ngôi mộ bị thất lạc giúp đời, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc biệt, đã tìm được khoảng 7.000 hài cốt, trong đó phần lớn là hài cốt liệt sĩ. Đó thực sự là một kỳ tích, đem lại niềm hạnh phúc nghẹn ngào cho hàng vạn người sau nhiều năm đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông. Với chị, mỗi chuyến đi là một kỷ niệm. Mỗi cuộc tìm kiếm hài cốt là cả ngàn những tình tiết ly kỳ, xúc động, huyền bí không thể nào quên. Nhưng, hành trình đi tìm mộ người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất đợt đầu năm 2005 có lẽ ám ảnh chị nhiều nhất. Đó không chỉ là sự ám ảnh bởi sự linh ứng đến kỳ lạ giữa cõi vô hình và hữu hình, giữa cõi âm và dương mà đó còn là sự chắp nối kỳ diệu của rất nhiều chi tộc dòng họ Hoàng sau hơn hai trăm năm dâu bể.
Từ lời sấm truyền trong dòng họ
Một buổi chiều đầu tháng giêng năm 2005, có hai người khách lạ tìm đến nhà Phan Thị Bích Hằng. Người đàn ông mặc bộ Veston chừng 45 tuổi, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Người phụ nữ đi cùng trạc 40, mặt trái xoan, dáng người thanh mảnh, quyền quý. Người đàn ông tự giới thiệu, anh là Hoàng Văn Khánh, chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc công ty Placo và em gái Hoàng Thị Sáu, quê Hải Phòng. Sau một chút bối rối, anh trình bày những uẩn khúc, trăn trở bao năm đè nén trong lòng khiến tâm bất an. Anh kể: Từ hồi còn nhỏ, anh đã từng nghe cha chú, trong nhịp dịp chén thù chén tạc, rung đùi vuốt râu tự hào về dòng dõi, tổ tiên. Nghe đâu, cụ tổ anh là thủ lĩnh nghĩa quân chống lại triều đình Lê – Trịnh. Năm 1770, linh cảm về một ngày đen tối đang đến gần, cụ cho người đưa 3 cháu nội về tổng Cổ Trà Nghi Dương (nay là thôn Ngọc Tỉnh, xã Tân Trào, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng) những mong bảo tồn nòi dống. Có một câu sấm truyền từ đời nọ đến đời kia trong dòng họ Hoàng: “Bao giờ phát phú phát vương. Tầm lại cố hương. Bái tạ tiên đường. Nơi đó có chữ Hoàng gia đại tộc”. Sau này, trước lúc lâm chung, cha anh, rồi người chú ruột, cứ níu chặt tay anh mà dặn dò: “Con gắng tìm cội nguồn tiên tổ”. Lời trăn trối ấy cứ ám ảnh anh Khánh. Có uẩn khúc gì trong lời nói, tự sâu thẳm ánh mắt của cha?
Anh Hoàng Văn Khánh đang thắp hương trước tượng cụ Hoàng Công Chất
Khi trở thành một doanh nhân thành đạt ở Hải Phòng, ngẫm về lời sấm truyền tụng bao đời: “Bao giờ phát phú phát vương”, nhớ đến ánh mắt như van vỉ của cha trước lúc đi xa, anh Khánh quyết chí đi tìm tổ tiên dòng họ. Anh đi khắp nơi, ở đâu có đền thờ họ Hoàng là tìm đến nhưng mãi vẫn không thấy chữ “Hoàng gia đại tộc”, thấy cội nguồn tổ tiên. Một lần về Nam Định công tác, gặp một nhà nghiên cứu văn hóa lão thành, anh trải nỗi lòng mình. Nghe xong, nhà nghiên cứu cười khà: “Có lẽ, cụ tổ họ Hoàng đã run rủi ta làm sứ giả cho anh đây. Anh hãy về thôn Hoàng Xá, xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xem. ở đó, có nhà thờ dòng họ Hoàng Văn to lắm”. Vâng lời, anh Khánh tìm đường về Nguyên Xá, xin được vào thắp hương nhà thờ họ Hoàng. Anh chợt run bắn người khi nhìn thấy bức hoành phi treo chính giữa ban thờ với bốn chữ đại tự viết bằng chữ thảo: “Hoàng gia đại tộc”. Và oà khóc nức nở khi lật giở cuốn gia phả đã ố màu thời gian, thấy ghi chi tộc họ Hoàng Văn ở Hải Phòng. Té ra, cụ tổ của anh chính là người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất. Cụ sinh ra tại Thủ Trì, Sơn Nam, nay là Hoàng Xá, Nguyên Xá, Vũ Thư, Thái Bình. Cụ là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra năm 1739 cùng hai cuộc khởi nghĩa lớn khác của cụ Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He) và cụ Lê Duy Mật.
Nhưng mộ phần cụ Hoàng Công Chất ở đâu? Các con cháu cụ lưu lạc nơi nào? Đã rất nhiều năm anh Khánh cất công đi tìm kiếm di hài của cụ Hoàng Công Chất và mong muốn dựng lại hoàn chỉnh sơ đồ phả tộc mà không thành. Tình cờ, một lần, anh được đọc một tập tài liệu viết về hành trình đi tìm người em gái, vốn là một nữ du kích gan dạ của đội Hoàng Ngân năm xưa, của nguyên Phó thủ tướng chính phủ Trần Phương, dưới sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, đặc biệt là khả năng gọi hồn của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng (Chuyện sẽ kể chi tiết ở phần sau – PV) với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí. Điều đó, thôi thúc anh tìm gặp Bích Hằng, nhờ chị tìm hộ di hài tiên tổ và các chi tộc bị thất lạc.
Ba ngày sau. Vào một đêm mưa dầm sùi sụt, rét cắt da cắt thịt, vừa chợp mắt được một lát, Bích Hằng chợt nghe thấy tiếng vó ngựa, tiếng gươm khua. Chaỵ ra sân mở. Chị giật mình khi thấy trước mặt là một người đàn ông quắc thước, da nâu, trống gươm đứng nhìn chị. Quan sát kỹ, thấy trang phục, tướng mạo đúng là một võ tướng. Xung quanh, có rất nhiều binh lính. Võ tướng cười, bảo: “Cháu đừng sợ. Ta là võ tướng họ Hoàng. Còn đây là quan quân của ta. Cháu đi về với ta đi. Con cháu ta đang mong đợi cháu từng ngày”. Nói đoạn, ông lên ngựa đi. Hình bóng khuất xa rồi mà tiếng cười hiền hậu còn vang mãi.
Bích Hằng choàng tỉnh. Chị sực nhớ đến chiếc các-vi-dít mà hai người khách họ Hoàng ở Hải Phòng để lại chiều hôm nọ. Đọc kỹ, thấy ghi: Hoàng Văn Khánh. Tổng giám đốc Công ty Placo. Trụ sở: Km5, đường Phạm Văn Đồng, Anh Dũng, Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Điện thoại: 0913.24004. Bên tai chị lại văng vẳng lời nhờ cậy thiết tha của vị võ tướng họ Hoàng. Sáng sớm hôm sau, chị chủ động điện thoại cho anh Khánh, hẹn ngày 16 tháng giêng (âm lịch), chị sẽ xuống Hải Phòng tìm giúp.
Đến những tín hiệu cho trước
Đúng hẹn, sáng ngày 16 tháng giêng, Bích Hằng có mặt tại nhà thờ họ Hoàng ở xã Tân Thành, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Đi cùng chị hôm đó, còn có nhà nghiên cứu Quan Lệ Lan, thư ký của Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người). Trước sự chứng kiến, thành tâm của đông đảo con cháu họ Hoàng, Bích Hằng đã vời vong linh của cụ Hoàng Công Chất về trò chuyện. Qua Bích Hằng, cụ bảo: “Những người đi theo triều đình thì coi ta là giặc cỏ. Nhưng nhân dân lại coi ta là anh hùng. Ta vẫn thích sống trong lòng dân hơn. Còn với các con các cháu, ta là giặc cỏ hay anh hùng, điều đó ta không cần quan tâm nữa. Chỉ biết rằng ta là cụ tổ của các con. Trước kia, ta đã cùng các tù trưởng Lò Ngải, Lò Khanh, Lò Thang đánh giặc giữ biên thuỳ. Nay ta đang ở đất châu Điện Biên. Đáng khen các con đã làm được những việc khiến ta thấy được an ủi nơi chín suối, mát mặt với tướng sĩ ba quân”. Anh Khánh chắp tay thành kính, giọng run run: “Thưa tổ! Xin tổ cho chúng con biết, hiện giờ mộ tổ ở đâu”. Cụ Hoàng Công Chất nói (qua Bích Hằng): “Các con cứ lên Thành Bản Phủ. Cứ nơi nào trồng cây đa là có nghĩa quân của ta. Trước kia, nhà Lê Trịnh đã cho quân khai quật mộ ta rồi chặt làm 3 khúc. (Chuyện này, chính sử cũng có nhắc đến). Chân ta, chúng ném xuống sông Nậm Rốn. Đầu, thân thì vứt lăn lóc. Đêm, nghĩa quân của ta lén đi lấy. Thân thì chôn ở gần sông Nậm Rốn nhưng cách đây ít năm, người ta đã ủi đi rồi. Đầu thì vác về gần Thành Bản Phủ, chôn dưới một gốc cây đa. ở đó có một cây thuốc. Khi các con đi tìm ta, sẽ có một người răng vổ gốc Thái Bình ra dẫn đường”.
Đang “thông dịch” cho mọi người nghe, bất chợt, Bích Hằng nhìn thấy một thiếu phụ trẻ người Thái, đứng cạnh cụ Hoàng Công Chất bưng mặt khóc. Lấy làm lạ, Bích Hằng hỏi, cụ Chất bảo: “Đây là liệt nữ Lò Thị Nương, con một vị tù trưởng ở Điện Biên”. Xưa, nàng đi theo cha đánh giặc, cảm phục tài đức của tướng Hoàng Công Chất, nàng tình nguyện làm vợ thứ 4. Sở dĩ cụ Chất gọi bà là liệt nữ vì bà đã hy sinh cho nghĩa quân. Chuyện rằng: trong một lần bị giặc Phẻ truy kích, bà cùng con trai là Hoàng Công Trực đã đánh lạc hướng cho nghĩa quân rút lui. Bắt được hai mẹ con, giặc đã đem bà ra làm mồi nhử. Chúng trói hai người vào chiệc cột gỗ chôn giữa đồng Tông Khao, xung quanh chất củi cao ngập đầu. Nếu tướng Hoàng Công Chất muốn chuộc vợ, con thì phải mở cổng thành. Bằng không, chúng sẽ thiêu cháy. Từ dưới đồng, bà Lò Thị Nương thét to: “Không được mở cổng thành”. Lửa cháy ngùn ngụt. Hai mẹ con bà bị thiêu chết. Xót thương người vợ hiền, cụ Chất cho trồng một cây đa trên mộ nàng. Nơi đây bốn mùa hoa nở. Hoa vàng và hoa đỏ. Cụ bảo: “Đó là những tín hiệu ta cho để các con đi tìm mộ. Khi đi, sẽ có một phụ nữ dân tộc Thái dẫn đường”.
Đi tìm di hài tổ tiên: sự linh ứng đến kỳ lạ
Một tháng sau ngày chiêu hồn cụ Hoàng Công Chất tại nhà thờ họ Hoàng ở Hải Phòng, sáng ngày 29 tháng 3 năm 2005, khoảng 50 người, già trẻ, gái trai đủ các chi ngành cùng nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng lên Điện Biên tìm mộ. Thành Bản Phủ là nơi đoàn đặt chân đầu tiên. Những nghi lễ trang trọng nhất đã được cử hành tại đây. Ông trưởng chi Hoàng Văn Nhương thành kính dâng sớ, cầu xin tổ tiên linh hiển, báo cho con cháu biết nơi tổ yên nghỉ để con cháu được tu sửa, thờ vọng. Lời khấn vừa dứt, sớ chưa kịp hoá bỗng một cơn gió lớn từ đâu ào đến. Và những thanh âm nghe “lách cách, lách cách” như hàng ngàn tiếng gươm khua khiến cả đoàn, đang thành kính chắp tay làm lễ đồng loạt quay lưng lại phía sau. Lại một cơn cuồng phong cuốn bụi mịt mù. Mọi người hốt hoảng chạy ra sân. Một cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt khiến khiến tất cả đứng chết lặng: nền sân gạch đỏ giờ ngập tràn lá xanh. Có những chiếc lá còn non tơ. Tịnh không có một chiếc lá vàng nào. (Giữa xuân, kiếm đâu ra lá vàng?!). Đó là lá của ba cây đa, si, xanh quấn quýt trước đền trút xuống, tương truyền, do chính tay cụ Hoàng Công Chất trồng, như một lời nguyền với non sông giữ tình đoàn kết giữa miền xuôi và miền ngược, thề đòi lại và giữ yên biên cương đất nước. Cây đa là cụ. Cây đề là trời đất. Còn cây si loà xoà gốc rễ là dân tộc Thái. Qua Bích Hằng, cụ bảo, đấy là cụ khóc mừng khi thầy tề tựu đầy đủ con cháu trai gái, dâu rể… lên với tổ. Cụ bảo: Cụ có 4 anh em là Hoàng Văn Phiệt, Hoàng Văn Phí, Hoàng Công Chất và Hoàng Công Tại. Cụ có 3 vợ và có nhiều con. Hoàng Công Toản là con cả. Kế tiếp là Chính, Châu, Thao, Tần, Toản, Túc, Lựu (Trùng khớp với gia phả – PV). Năm 1768, nghĩa quân của cụ bị quân của triều đình nhà Lê – Trịnh đánh tan tác. Con cháu cụ phải chạy ra bản Loong Luống. Hiện vẫn còn ở đấy. Tiên lượng về một ngày đen tối sẽ đến, để bảo tồn nòi giống, cụ cho người em gái là Hoàng Thị Chiên dẫn 3 đứa cháu nội là Cao, Tháo, Thọ về quê, cầu cứu nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He). Trong 3 đứa cháu, Tháo là người có chí nhất. Tháo lúc ấy còn bé lắm. Cụ trao cho Tháo một áo bào tía, một thanh gươm rồi bảo: “Con hãy giữ làm vật tin để dâng lên tướng Nguyễn Hữu Cầu”. Tháo cầm lấy thanh gươm từ tay ông nội. Thanh gươm cao hơn đầu, ôm lấy túi áo bào, vừa khóc vừa nói: “Ông ơi! Cháu sẽ khôi phục lại sự nghiệp của ông”. Nói đến đây, cả nhà anh Khánh khóc ầm lên. Cháu Tháo bé bỏng mà đầy chí khí ngày ấy chính là hậu tổ của anh Khánh. Trong gia phả ghi rõ: Cụ hậu tổ là Hoàng Quí Công, tự Công Tháo”. Anh Khánh vừa khóc vừa kể: Lúc còn sống, cha anh lúc nào cũng giữ khư khư một cái bọc, trong có chiếc áo bào tía và một thanh gươm. Một lần hoả hoạn, chiếc áo bào cháy mất. Cha anh khóc ròng mấy tháng trời vì tiếc. Đó là đồ gia bảo. Cha còn quý hơn cả tính mạng mình.
Sau một hồi làm con cháu trấn tĩnh, cụ Chất bảo: “Thôi! Giờ để ta hướng dẫn các con đến những nơi tổ yên nghỉ”. Cả đoàn bước ra khỏi đền. Từ trên cao phóng tầm mắt ra bốn hướng, anh Khánh reo to: “Cây đa cổ thụ kia rồi”. Nhìn theo phía tay anh chỉ, cách chỗ đứng chừng 500m, thấy một cây đa cổ thụ xoè bóng mát giữa trưa nắng vàng.
Mộ cụ Hoàng Công Chất nằm dưới gốc cây đa
Khánh phăm phăm dẫn đường. Bích Hằng vô cùng ngạc nhiên. Thấy vậy, mọi người mới kể: Cách đây chừng 10 năm, anh Khánh nằm mơ thấy tổ về chỉ đường cho tìm mộ. Tỉnh dậy, anh có kể lại cho gia đình và vẽ lại sơ đồ. Không ngờ, hôm nay, thấy thực địa diễn ra đúng như trong giấc mơ ấy nên anh mới thông thạo đến vậy. Lúc ấy, Bích Hằng mới ngả ngửa người. Chưa hết ngạc nhiên. Khi cả đoàn đứng trước đống mối lớn, dưới gốc đa cổ thụ chừng 200 năm tuổi, Bích Hằng vừa xác định: “đúng mộ cụ đây rồi” thì bất ngờ, từ đâu xuất hiện một người đàn ông răng vổ, bảo: “Đi tìm mộ cụ Hoàng Công Chất phải không? Tôi là Nguyễn Văn Nhân, quê Thái Bình lên đây lập nghiệp lâu rồi. Trước đây, tôi nghe các cụ già ở đây bảo: đây là nơi quân sĩ chôn một phần thi hài của cụ Chất đấy”.
Người đàn ông răng vổ
Như vậy, tín hiệu mà Bích Hằng cho từ Hải Phòng cách đây chừng một tháng: gốc đa cổ thụ, người đàn ông răng vổ quê Thái Bình, đã có kiểm chứng. Nhưng còn tín hiệu thứ 3: cây thuốc? Nhìn khắp lượt, chỉ thấy một cây hoa trắng, gốc cây bị vạc hết vỏ. Hỏi ông Nhân, ông cười bảo: “Cây này chữa sâu răng tốt lắm. Tước một ít vỏ, nhét vào chỗ sâu răng. Ngậm chừng 2-3 lần là khỏi”. Mọi người thở phào.
Cả đoàn lên bản Tông Khao tìm mộ cụ Lò Thị Nương. Hoa tiêu là một chị người Thái ở Chi hội phụ nữ Điện Biên. Xe ô tô chạy rì rì trên con đường đất đỏ, hai bên là ruộng lúa xanh rờn. Đến gần một cái ao, bỗng anh Khánh hô: “Dừng xe lại! Cụ kia rồi”. Vừa xuống xe, anh Khánh lao thẳng vào con đường bé xíu, ngoằn nghèo chuột chạy. Chạy đến lúc bở hơi tai thì dừng lại dưới một gốc đa cổ thụ. Chưa kịp định thần thì cả đoàn chết lặng: Trên thảm cỏ xanh rì, cả một bụi hoa loa kèn đỏ rực còn long lanh hạt sương sớm. Bên cạnh có một cây si, quả to như ngón chân cái, vàng rượi từ gốc đến ngọn.
Khóm hoa loa kèm đỏ trêm mộ Bà Lò Thị Nương
Cả nhà đang thắp hương xì xụp khấn vái thì có một người phụ nữ Thái đi làm đồng, bước lại hỏi: “Chúng mày vào đây để làm gì? ở nơi này, ngày xưa có một cái miếu thờ, có 3 bát hương. Song chỉ có họ Lò mới được vào đây cúng. Còn các họ khác chỉ đứng ngoài xem thôi. Sau này giặc phá hết. Miếu này thiêng lắm đấy”. Nghe vậy, anh Khánh lại khóc oà.
Người đàn bà Thái
Cuộc hội ngộ của các chi tộc họ Hoàng
Tìm được mộ tiên tổ, ước nguyện của anh Khánh đã hoàn thành được một nửa. Nhưng còn các chi tộc họ Hoàng khác? Nhớ đến lời kể của cụ Chất về cuộc chạy loạn của dòng họ Hoàng lên bản Loong Luống năm 1768, anh Khánh quyết định sáng hôm sau đi tìm. Hỏi thăm dân bản, họ bảo: Có bản Loong Luống. Nhưng trước bị lũ lụt nên dân đi hết rồi. Cứ tìm nhà nào họ Hoàng thì vào. Một gợi ý hay nhưng khác nào mò kim đáy bể. Đành nhờ cậu bí thư đoàn xã dẫn đường. Vào nhà họ Hoàng thứ nhất. Cả đoàn không có cảm giác gì. Hỏi quê, đúng Thái Bình. Hỏi ông nội là ai? Không biết. Hỏi bố đẻ là ai? Cũng không biết nốt. Đến nhà họ Hoàng thứ hai, ông Quàng Lả. Vừa thấy anh Khánh bước vào, hai vợ chồng đon đả chạy ra, tay bắt mặt mừng như người thân lâu ngày gặp lại. Linh cảm gì chăng? Ông Quàng Lả tự hào kể: “Các cụ ngày xưa khai thiên lập ấp ở dưới Loong Luống kia kìa. Ông cha ở đấy lâu lắm rồi. Lũ lụt mới chuyển lên đây”. Anh Khánh hỏi: “Sao ông lại là họ Quàng?”. Ông Lả lại cười: “Tao họ Hoàng đấy. Nhưng tiếng Thái, lúc Quàng, lúc Hoàng. Mà này, tao có một thằng cháu họ Hoàng, làm cán bộ tỉnh to lắm. Là cháu nhưng nó hơn tuổi tao nhiều. Nó tên là Xuyên. Nó có cả gia phả đấy”.
Thì ra là ông Hoàng Xuyên, nguyên Phó bí thư tỉnh uỷ Điện Biên. Tìm đến nhà ông Xuyên, anh Khánh xúc động quá. Vốn hàng ngày là người hoạt ngôn mà nay, ngồi trước ông Xuyên cứ lúng búng như gà mắc tóc. Bích Hằng phải trình bày dùm hoàn cảnh, mục đích cuộc gặp gỡ. Hỏi về cuốn gia phả họ Hoàng, lúc đầu ông Xuyên lắc đầu nguây nguẩy: “Tôi đâu có. Đâu biết”. Trong khi bà vợ ngồi cạnh lại cứ tủm tỉm cười, huých nhẹ khuỷu tay vào chồng: “Kìa anh! Đưa cho các cô chú xem đi. Cuốn gia phả dưới hầm ấy”. Đến nước này thì không thể chối được nữa. Ông Xuyên thú nhận: Đúng là trước kia, nhà ông có một cuốn gia phả viết bằng chữ Hán. Tổ tiên ông chính là tướng quân Hoàng Công Chất. Đợt cải cách ruộng đất, sợ bị kết tội là con cháu Then, Phìa thì bị giết cả nhà nên ông nội phải cất dấu dưới hầm. Hồi đi học Trung Quốc về, ông đã đem đốt đi. Ông kể, ngày trước, ở Đền Bản Phủ, mỗi khi đến ngày giỗ cụ Hoàng Công Chất, chỉ mình ông nội được ra lễ. Ông mặc áo vàng, cưỡi ngựa, có lọng che đầu. Hàng chục người hầu đội lễ rất to. Bây giờ Bảo tàng văn hoá còn lưu bức ảnh này. Nói đoạn, ông Xuyên và anh Khánh ôm choàng lấy nhau, khóc nấc lên. Thôi, đúng chúng ta là anh em rồi. Về tuổi tác, ông Xuyên gần gấp đôi tuổi anh Khánh. Nhưng về vai vế dòng họ, cả hai đều là cháu đời thứ 8 của cụ Hoàng Công Chất.
Ngày giỗ của cụ Hoàng Công Chất năm nay, chưa bao giờ con cháu lại tề tựu đông đủ đến thế. Chi tộc họ Hoàng ở Điện Biên về. Chi tộc họ Hoàng ở Hải Phòng xuống. Cùng chi tộc họ Hoàng ở Thái Bình. Tất cả, đều một lòng thành kính hướng về cội nguồn, tiên tổ. Bữa cơm đoàn tụ hôm ấy, đầy ắp tiếng cười và cả những giọt nước mắt hạnh phúc tuôn rơi…
---
Những entry liên quan đã đi trên blog này:
Các nhà ngoại cảm nói chuyện được với người đã chết cách đây mấy trăm năm nên có một thắc mắc nhỏ là: Các nhà ngoại cảm nói chuyện với người đã chết đó bằng ngôn ngữ nào? Cách đây mấy trăm năm ngôn ngữ khác bây giờ, không hiểu là nhà ngoại cảm hiểu được ngôn ngữ xưa, hay những người đã chết kia nói được ngôn ngữ ngày nay?
Trả lờiXóaThêm một thắc mắc nhỏ nữa: Hầu hết các nhà ngoại cảm đều dựa vào kinh của đạo phật ra để thuyết về cõi âm. Người chết mấy trăm năm rồi hồn vẫn còn, không đầu thai sang kiếp khác. Linh hồn mấy người đó có phải là bị phạt không? Vì theo thuyết luân hồi của đạo phật thì sau khi người chết linh hồn phải đầu thai làm kiếp khác.
Hai câu hỏi của bạn rất hay. Có nhà ngoại cảm nào đọc được thắc mắc trên, xin vui lòng trả lời giùm bạn Cu Nỡm.
Xóa