Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

24/08/2013

Trần Đại Sỹ và tác phẩm : 6 - Học thuyết biên giới (với Nguyễn Bá Mão và Đào Tam Tỉnh)

Tôi chưa có bài của tác giả Nguyễn Bá Mão đã đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ An, tựa như là vào năm 2007-2008 gì đó. Theo giới thiệu của Đào Tam Tỉnh ở dưới đây, thì bài đó của Nguyễn Bá Mão thực hiện việc tóm tắt tư liệu mà ông Trần Đại Sỹ cung cấp. Đào Tam Tỉnh không cho biết số tạp chí đã đăng bài của Nguyễn Bá Mão (số mấy, tháng mấy năm nào). 




Từ đây trở xuống là bài của Đào Tam Tỉnh trên báo Nghệ An (đã đăng từ năm 2008)

---
Về lai lịch một vị tướng được tôn vinh ở Đền Miệu



(Cập nhật lúc 16:22'  6/6/2008)
Đền Độc Lôi, còn gọi là Đền Miệu, thờ một vị tướng quân thời nhà Lý có công đánh giặc Tống và Chiêm Thành, Ai Lao. Đền được nhân dân lập để thờ ông khi ông đang sống. Để làm sáng rõ thêm công tích và sự nghiệp vị thần Độc Lôi, chúng tôi xin cung cấp một số tài liệu quý mới phát hiện được.

Tài liệu chữ Hán "Bách thần sự tích" (sự tích 100 vị thần) ở xứ Nghệ, trang 4, có ghi về đền thờ và vị thần Độc Lôi.Thần tích này được ghi chép vào cuối triều Nguyễn. Thần được thờ chính miếu ở Đền Miệu (dưới chân núi Độc Lôi). Người dân ở hai xã Hữu Biệt (nay là xã Nam Giang) và xã Trường Cát (nay là xã Nam Cát) cùng có trách nhiệm phụng thờ. Đền Độc Lôi bị bom Mỹ đánh tan, rất may một số đồ tế khí, tượng, được dân hai xã đưa về hai ngôi đền xã Nam Giang và Nam Cát để thờ. Đáng chú ý, trong các di vật còn lại ở "Chỉ Thiện đàn" (còn gọi là Đền Mĩ Thiện), còn lưu một số bản sắc phong cho vị thần Độc Lôi họ Phạm.

Qua các tài liệu trên, chúng ta chỉ biết thần núi Độc Lôi là Phạm Lãnh binh, tức Lãnh binh họ Phạm, chưa rõ tên thật của Thần, chức vụ của thần là Lãnh binh Phiếu Kị uý, Thượng tướng quân Uy liệt hầu. Thần rất linh thiêng, được sắc phong với nhiều mĩ tự, trợ hiệu để phù hộ cho nhân dân và bảo vệ quốc gia.

Rất may, gần đây có ông Trần Đại Sỹ, một người Việt đang sống ở nước ngoài, là đoàn viên, rồi Trưởng đoàn đoàn trao đổi Y học Pháp - Hoa, nhiều năm công tác tại Trung Quốc. Ông đã có công đi các thư viện lớn ở Trung Quốc để đọc các tài liệu sử học nước nhà, nhất là thời Lý chống Tống. Ông đã gặp hầu hết các gia đình có các nhân vật quan trọng liên quan đến cuộc chiến tranh Tống - Việt để xin đọc gia phả, tài liệu. Ông đã được đọc 2 cuốn nhật ký hành quân của 2 tướng Tổng chỉ huy cuộc xâm lăng Đại Việt (1076- 1077): Quách thị Nam chinh của Quách Quỳ và Triệu thị chinh tiễu Giao Chỉ ký của Triệu Tiết. Ông Nguyễn Bá Mão tóm lược lai lịch của vị thần Độc Lôi, được ghi chép trong các tài liệu do ông Trần Đại Sỹ cung cấp (đã đăng trong Tạp chí Văn hoá Nghệ An gần đây). Chúng tôi xin khái quát lại như sau:

Thần tên thật là Phạm Trọng Y (1052 -1077), chưa rõ quê quán (?). Cha là Phạm Trọng Khâm, mẹ là Quách Thị Phương. Ông mồ côi cha mẹ lúc 7 tuổi, được cậu đưa về nuôi và đổi tên là Quách Y. 10 tuổi cậu mất, ông bơ vơ phải đi ăn xin độ nhật tại Thăng Long. Ông kết thân làm anh em với 6 người khác cùng cảnh ngộ: Trần Di (Vũ Thư, Thái Bình), Dương Minh, Triều Thu (Cao Xá, Nghệ An), Mai Cầm (Vạn Phần, Nghệ An), Ngô Ức (Đường Lâm, Sơn Tây), Tạ Duy (An Lĩnh, Thanh Hoá). Họ được nhà sư Minh Không nhận làm đệ tử và gửi cho Hoàng tử Lý Chiêu Văn làm con nuôi. Họ được Vương Phụ Hoàng của Hoàng tử dạy cho văn võ song toàn. Họ tập luyện ở Hồ Tây và lặn giỏi như giao long. Họ lại được Ỷ Lan phu nhân Lê Thị Yến Loan nhận làm con nuôi và được giới thiệu tài năng với nhà vua. Vua đã ban cho họ mỹ hiệu là "Tây Hồ thất kiệt". Quách Quỳ ghi trong Quách Thị Nam chinh về 7 ông là "Giao Long thất quái" và sách Triệu Thị Chinh Tiễu Giao Chỉ ký lại gọi họ là "Giao Chỉ thất Long". "Tây Hồ Thất Kiệt" đã tập hợp được 500 thiếu niên cùng khổ, đem nuôi dạy họ thành đội quân có bản lĩnh, bơi lội dưới nước như rái cá, có tài thuỷ chiến. Vua Lý Thánh Tông đã ban cho họ mỹ hiệu "Giao Long Tây Hồ". Năm 1069, đội Giao Long theo 7 vị hộ tống Vua Lý Thánh Tông bình Chiêm, lập nhiều công trong các trận Nam Giới, Nhật Lệ, Thi Nại, Phan Rang. Trở về, 7 vị được phong tước bá, giữ chức Đô Thống, mỗi vị được chỉ huy hiệu Thiên Tử Bình. Phạm Trọng Y được giao chỉ huy hiệu Thiên Tử Bình Bổng Thánh. Ỷ Lan thần phi hỏi vợ cho 7 vị, hỏi cho Phạm Y tiểu thư Phạm Phương Tiên, con quan Kinh lược Ân và Sứ trấn Thanh Hoa Phạm Nhật Chiêu.

Một lần dẫn quân đi đánh Chiêm Thành, Phạm Trọng Y cho quân dừng nghỉ ở Rú Miệu. Vùng Rú Miệu lúc ấy rừng rậm hoang vu, có nhiều thú dữ, ông đã cho quân dùng nỏ lớn mã não, hoàng thạch tiêu diệt hết đàn chó sói, cứu nạn cho dân. Dân biết ơn, đã lập đền thờ sống ông ở Rú Miệu.

Năm 1075, để chặn trước âm mưu cướp nước ta, Vua Lý đã cho quân vượt biên giới tấn công các châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch của nước Tống. "Tây Hồ Thất Kiệt" đã theo Lý Thường Kiệt Bắc chinh, lập được công lớn. Bảy vị cùng được phong Đại tướng quân tước hầu. Phạm Trọng Y được phong Minh uy Đại tướng quân, tước Minh Tâm hầu và vợ là Nhất phẩm phu nhân.

Năm 1076, bảy vị cùng quân sĩ đánh trả quân Tống những trận kinh thiên động địa ở trận tuyến sông Như Nguyệt, buộc quân địch phải rút lui. Cả 7 vị và phu nhân "Tây Hồ Thất Kiệt" đều hy sinh oanh liệt ngay tại trận tuyến!

Sau khi hết giặc, bảy vị được truy phong tước Đại Vương, các phu nhân được phong Quận chúa và được triều đình truyền lập đền thờ. Ông Phạm Trọng Y được truy phong Minh uy Lôi trấn Đại Vương và phu nhân được truy phong Trang Thanh Quận Chúa. Nhà vua cho lập đền thờ ông ở Rú Miệu và ban ruộng cho nhân dân địa phương để hương khói.

Đền Độc Lôi sơn thần Phạm Trọng Y bị san phẳng từ lâu, nhưng khu nền di tích còn lại phía trước bãi đá cũ và gần Cầu Miệu, cần được xây dựng lại để tôn vinh một nhân vật có công lao với dân tộc, đất nước. Ông Tổng Giám đốc hãng Bia Sài Gòn, chủ đầu tư Nhà máy bia Cầu Miệu, đã có dự định cho xây dựng lại Đền Miệu. Đấy là việc làm cần được ủng hộ!


Đào Tam Tỉnh - Thư viện Nghệ An




---
PHỤ LỤC: Bản trên website của Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An

Thêm tài liệu quý về thần Độc Lôi
 
  Ngày đăng tin : 11/26/2008

Đền Độc Lôi, còn gọi là đền Miệu, thờ một vị tướng quân thời nhà Lý có công đánh giặc Tống và Chiêm Thành, Ai Lao. Đền được dân lập để thờ ông khi ông đang sống. Để làm sáng rõ thêm công tích và sự nghiệp vị thần Độc Lôi, chúng tôi xin cung cấp một số tài liệu quý mới phát hiện được...

Đền Độc Lôi, còn gọi là đền Miệu, thờ một vị tướng quân thời nhà Lý có công đánh giặc Tống và Chiêm Thành, Ai Lao. Đền được dân lập để thờ ông khi ông đang sống. Để làm sáng rõ thêm công tích và sự nghiệp vị thần Độc Lôi, chúng tôi xin cung cấp một số tài liệu quý mới phát hiện được.

Tài liệu chữ Hán "Bách thần sự tích" (sự tích 100 vị thần ở xứ Nghệ) trang 4 có ghi về đền thờ và thần Độc Lôi như sau:
"Độc Lôi sơn Phạm Lãnh binh phiếu kị Thượng tướng quân uy liệt hầu Đại vương Thượng đẳng thần: Miếu nhất sở tại Nam Đường huyện, Hữu Biệt xã dữ Trường Cát xã đồng phụng tự. Nguyên Lý triều tướng Đề binh thảo tặc. Hoàn chí y xã Sơn cước, nhẫn thiên thượng thanh lôi thanh, đằng sâm nhị huyền. Quan quân lập miếu phụng tự, hiệu Độc Lôi thần dĩ sự tấu thanh phong vi linh thánh phúc thần. Chi Lê triều đoan công tiến tiễu Trấn Ninh mật đảo khắc tiệp. Tấn phong vi đại vương Phúc thần lịch triều cụ hữu sắc phong, phụng lĩnh quốc tế".

Thần tích này được ghi chép vào cuối triều Nguyễn. Thần được thờ chính miếu ở đền Miệu (dưới chân núi Độc Lôi). Người dân ở hai xã Hữu Biệt (nay là xã Nam Giang) và xã Trường Cát (nay là xã Nam Cát) cùng có trách nhiệm phụng thờ. Đền Độc Lôi bị bom Mỹ đánh tan, rất may một số đồ tế khí, tượng, được dân hai xã đưa về hai ngôi đền xã Nam Giang và Nam Cát để thờ. Đáng chú ý trong các di vật còn lại ở "Chỉ Thiện đàn" (còn gọi là đền Mĩ Thiện) còn lưu các bản sắc phong cho vị thần Độc Lôi họ Phạm. Sắc phong có nội dung được phiên âm như sau:
Sắc thứ nhất:
Sắc Độc Lôi sơn Phạm lãnh binh, phiếu kị úy Thượng tướng quân uy liệt hầu, An dũng kinh trí linh thanh, phù cảm hiển ứng minh đạt anh nghị trinh liệt trung dung huệ hòa hùng kiện tĩnh nan, Khuông Quốc hộ dân hậu đức chí nhân, cương nghị, chính dũng hùng lược, quả đoạn, vĩ tích, phong công Dương vũ phù tạc tế thế yên dân, bảo cảnh, vệ quốc, triệu tường dụ hậu, Tá trị phụ quốc trợ uy phù vân hùng lược, quan cổ trợ thắng anh linh tổng đạt, tái thống dị mưu hàm khánh truyền viễn thi hậu Đại vương, tam quan dựng tú ngũ nhạc trừ tinh, tí dân đa hãn chi công, dân sinh, khang thọ, hộ quốc kỳ trì, chi lực quốc thế tôn ninh từ điển, bối tồn thùy chương, bí vi xung nhân, quang thụ thiền truyền kim.
Tự vương tiến phong: Đại vị lễ hữu đăng trật ứng nhất thế gia phong, khả gia phong Độc Lôi sơn Phạm Lãnh binh, Phiếu kị úy, Thượng tướng quân uy liệt hầu, an dũng hinh trí linh thánh hồ cảm hiển ứng, minh đạt, anh nghị trinh liệt trung dung, huệ hòa hùng kiện tĩnh nan; khuông quốc hộ dân, hậu đức chí nhân, cương nghị chính dũng hùng lược quả đoạn vĩ tích; phong công dương vũ phù tạc tế thế an dân, bảo cảnh, vệ quốc, triệu tường dụ hậu, tá trị Phụ Quốc trợ uy, phù vận hùng lược, quan cổ trợ thắng anh linh tổng dạt, tái thống di mưu hàm khánh truyền viễn thi phù hưu anh vũ trung chính đại vương cố sắc.
Vĩnh Khánh ngũ niên (1733), thập nhất nguyệt, sơ thập nhật.

Sắc thứ hai:
Sắc Độc Lôi sơn Phạm lãnh binh, Phiếu kị úy, Thượng tướng quân, uy liệt hầu, An dũng hinh trí linh thánh, phù cảm hiển ứng, minh đạt anh nghị, trinh liệt trung dung huệ hòa, hùng kiện tĩnh nan, khuông quốc hộ dân, hậu đức chí nhân liệt nghị chính dũng, hùng lược, quả đoản, vĩ tích phong công, Dương vũ phù tạc tế thế, yên dân, bảo cảnh, vệ quốc triệu tường dụ hậu, Tá trị Phụ Quốc trợ uy phù vận, anh lược quan cổ trợ thắng, anh linh tổng đạt, tái thống dị mưu hàm khánh, truyền viễn thi hậu, hiển đức phù hưu, anh vũ trung chính, quả nghị, linh diệu, đại vương tú chung, hà hải, anh dục, sơn xuyên, tại thượng tường tường đại hãn hoạn tai chi lực quyết linh trạc trạc, thần bảo dân hộ Quốc chi công tướng hữu ký đa cổn sùng hợp tuấn vi.
Tư vương tiến phong:
Vương vị lâm cư chính phủ tôn phù. Tông xã hồng đồ lễ hữu đăng trật, ứng gia phong mĩ tự, khả gia phong Độc Lôi sơn Phạm lãnh binh Phiếu kị úy, Thượng tướng quân uy liệt hầu, an dũng hinh trí, linh thánh phù cảm, hiển ứng minh đạt, anh nghị trinh liệt, trung dung huệ hòa, anh kiện tĩnh nan, khuông quốc hộ dân, hậu đức chí nhân, cương nghị chính dũng, hùng lược, quả đoạn, vĩ tích phong công, Dương vũ phù tạc tế thế, an dân, bảo cảnh vệ quốc triệu tường, dụ hậu, Tá trị Phụ Quốc trợ uy phù vận, anh lược quan cổ trợ thắng, anh linh tổng đạt, tái thống dị mưu hàm khánh, truyền viễn thi hậu hiển đức phù hưu, anh vũ trung chính quả nghị, linh diệu thông huyền, hoằng tế đại vương cố sắc.
Cảnh Hưng nhị thập bát niên (1767), bát nguyệt, sơ bát nhật.
Qua cả 3 tài liệu trên, chúng ta chỉ biết thần núi Độc Lôi là Phạm Lãnh binh, tức Lãnh binh họ Phạm, chưa rõ tên thật của Thần. Chức vụ của Thần là Lãnh binh Phiếu Kị úy, Thượng tướng quân Uy liệt hầu. Thần rất linh thiêng được sắc phong với nhiều mĩ tự, trợ hiệu để phù hộ cho nhân dân và bảo vệ quốc gia.
Rất may gần đây có ông Trần Đại Sỹ, một người Việt đang sống ở nước ngoài, từ năm 1978 đến năm 1995 là đoàn viên, rồi Trưởng đoàn Đoàn trao đổi Y học Pháp - Hoa và nhiều năm công tác tại Trung Quốc. Ông đã có công đến các thư viện lớn ở Trung Quốc để đọc các tài liệu sử học nước nhà, nhất là thời Lý chống Tống. Ông đã gặp hầu hết các gia đình có các nhân vật quan trọng liên quan đến cuộc chiến tranh Tống - Việt để xin đọc gia phả, tài liệu. Ông đã được đọc 2 cuốn nhật ký hành quân của 2 tướng Tổng chỉ huy cuộc xâm lăng Đại Việt (1076-1077): "Quách thị Nam chinh"của Quách Quỳ và "Triệu thị chinh tiễu Giao Chỉ ký" của Triệu Tiết. Ông Nguyễn Bá Mão đã tóm lược lai lịch của vị thần Độc Lôi được ghi chép trong các tài liệu do ông Trần Đại Sỹ cung cấp (đã đăng trong Tạp chí Văn hóa Nghệ An) chúng tôi xin khái quát lại như sau:
Thần tên thật là Phạm Trọng Y (1052-1077), chưa rõ quê quán, cha là Phạm Trọng Khâm, mẹ là Quách Thị Phương. Ông mồ côi cha mẹ lúc 7 tuổi, được cậu đưa về nuôi và đổi tên là Quách Y. 10 tuổi cậu mất, ông bơ vơ phải đi ăn xin độ nhật tại Thăng Long. Ông kết thân làm anh em với 6 người khác cùng cảnh ngộ là: Trần Di (Vũ Thư, Thái Bình), Dương Minh, Triều Thu (Cao Xá, Nghệ An), Mai Cầm (Vạn Phần, Nghệ An), Ngô ức (Đường Lâm, Sơn Tây), Tạ Duy (An Lĩnh, Thanh Hóa). Họ được nhà sư Minh Không nhận làm đệ tử và gửi cho Hoàng tử Lý Chiêu Văn làm con nuôi. Họ được Vương Phụ Hoàng của Hoàng tử dạy cho văn võ song toàn. Họ tập luyện ở Hồ Tây và lặn giỏi như Giao long. Họ lại được Ỷ Lan phu nhân Lê Thị Yến Loan nhận làm con nuôi và được giới thiệu tài năng với nhà vua. Vua đã ban cho họ mỹ hiệu là "Tây Hồ thất kiệt". Quách Quỳ ghi trong "Quách Thị Nam chinh" về 7 ông là "Giao Long thất quái" và sách"Triệu Thị Chinh Tiễu Giao Chỉ ký" lại gọi họ là "Giao Chỉ thất Long". Tây Hồ Thất Kiệt đã tập hợp được 500 thiếu niên cùng khổ, đem nuôi dạy họ thành đội quân có bản lĩnh bơi lội dưới nước như rái cá, có tài thủy chiến. Vua Lý Thánh Tông đã ban cho họ mỹ hiệu "Giao Long Tây Hồ". Năm 1069, đội Giao Long theo 7 vị hộ tống vua Lý Thánh Tông bình Chiêm, lập nhiều công trong các trận Nam Giới, Nhật Lệ, Thi Nại, Phan Rang. Trở về, 7 vị được phong tước bá, giữ chức Đô Thống, mỗi vị được chỉ huy hiệu Thiên Tử Bình. Phạm Trọng Y được giao chỉ huy hiệu Thiên Tử Bình Bổng Thánh. Ỷ Lan thần phi hỏi vợ cho 7 vị, hỏi cho Phạm Y tiểu thư Phạm Phương Tiên, con quan Kinh lược Ân và Sứ trấn Thanh Hoa Phạm Nhật Chiêu.
Một lần dẫn quân đi đánh Chiêm Thành, Phạm Trọng Y cho quân dừng nghỉ ở Rú Miệu. Vùng rú Miệu lúc ấy rừng rậm hoang vu có nhiều thú dữ, ông đã cho quân dùng nỏ lớn mã não, hoàng thạch tiêu diệt hết đàn chó sói, cứu nạn cho dân. Dân biết ơn đã lập đền thờ sống ông ở Rú Miệu.
Năm 1075, vua Lý đã cho quân vượt biên giới tấn công các Châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch để chặn trước âm mưu cướp nước ta của nước Tống. Tây Hồ Thất Kiệt đã theo Lý Thường Kiệt Bắc chinh, lập được công lớn. Bảy vị cùng được phong Đại tướng quân tước hầu. Phạm Trọng Y được phong Minh uy Đại tướng quân, tước Minh Tâm hầu và vợ là Nhất phẩm phu nhân.
Năm 1076, bảy vị cùng quân sĩ đánh trả quân Tống những trận kinh thiên động địa ở trận tuyến sông Như Nguyệt, buộc quân địch phải rút lui. Cả 7 vị và phu nhân "Tây Hồ Thất Kiệt" đều hy sinh oanh liệt ngay tại trận tuyến.
Sau khi đánh thắng giặc, bảy vị được truy phong tước Đại Vương, các phu nhân được phong Quận chúa và được triều đình truyền lập đền thờ. Ông Phạm Trọng Y được truy phong Minh uy Lôi trấn Đại Vương và phu nhân được truy phong Trang Thanh Quận Chúa. Nhà vua cho lập đền thờ ông ở rú Miệu và ban ruộng cho nhân dân địa phương (Mạc điền) để hương khói thờ ông.
Đền thờ Độc Lôi sơn thần Phạm Trọng Y bị san phẳng từ lâu, nhưng khu nền di tích còn lại phía trước bãi đá cũ và gần cầu Miệu, cần được xây dựng lại để tôn vinh một nhân vật có công lao với dân tộc, đất nước./.

Những entry liên quan đã đi trên blog này:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.