Thú vị nhất, và vui với mình nhất là tên "Quảng Uyên" giữ được.
1. Quê nhà mình bây giờ là "xã Quảng Uyên". Đọc lại cho rõ: xã Quảng Uyên !
Cái tên "Quảng Uyên" đã có từ rất xa xưa, gắn mãi với định vị "châu Quảng Uyên". Mình viết mãi về "châu Quảng Uyên".
Đến thời hiện đại sau 1945 thì có khi là "huyện Quảng Uyên" rồi có khi thành "huyện Quảng Hòa" (sáp nhập "Quảng Uyên" vào "Phục Hòa"), lại trở lại "huyện Quảng Uyên". Từ tháng 7 năm 2025 thì bắt đầu "xã Quảng Uyên".
Trong lịch sử hơn ngàn năm qua của cái tên "Quảng Uyên", đây là lần đâu tiên có "xã Quảng Uyên".
2. Bây giờ nhìn nhanh thấy có các tên thú vị:
- xã Thục Phán,
- xã Nùng Trí Cao.
3. Nhưng lạ là thấy có hai ông Nguyễn Huệ, vì đã thấy "xã Quang Trung" rồi lại có thêm "xã Nguyễn Huệ".
Từng có học sinh nói: Quang Trung là em trai Nguyễn Huệ.
Lại từng có học sinh reo lên: bây giờ, em mới biết Quang Trung chính là Nguyễn Huệ !
Trong một tỉnh, nên tránh trùng tên xã như vậy, đúng không ?
4. Tiếc là không thấy có tên xã gắn với vương triều Mạc - một vương triều đã gắn bó với Cao Bằng tới gần 1 thế kỉ (1593-1683), có vai trò tạo tác ra "chất Cao Bằng" ngày nay. Ví dụ có thể nghĩ ngay đến một cái tên thân quen xưa nay với người Cao Bằng, xung quanh khu vực kinh thành của nhà Mạc thời kì Cao Bằng trước đây: Đà Quận.
Còn có một cái tên nữa, rất thân thương là "Cao Bình", có "chợ Cao Bình", có "phố Cao Bình", có "trường Cao Bình",... "Cao Bình" là kinh đô của nhà Mạc ở "vương quốc Cao Bằng".
Đà Quận là gắn với "chùa Đà Quận", "chuông Đà Quận" (chuông này hiện là bảo vật quốc gia). Đà Quận là cái tên nhà Mạc đặt ra để tưởng niệm tướng quân Đà Quốc Công Mạc Ngọc Liễn.
Khu vực chùa Đà Quận có chuông Đà Quận được đặt tên là "xã Đà Quận" hay "xã Cao Bình", thì cũng rất thuận lí.
Ghi nhanh vào tháng 6 năm 2025,
Giao Blog
56 đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Cao Bằng năm 2025
Nguồn: Fb Nguyễn Việt Long
Trước 2025, tại Cao Bằng đã có: xã Nguyễn Huệ (huyện Hòa An), xã Quang Trung (huyện Hòa An), xã Quang Trung (huyện Trùng Khánh).
---
Thứ năm, 26/6/2025, 00:00 (GMT+7)
Chi tiết 56 xã, phường của tỉnh Cao Bằng
Từ ngày 1/7, tỉnh Cao Bằng sẽ có 53 xã, 3 phường, trong đó xã rộng nhất là Minh Khai 173,4 km2, nhỏ nhất là phường Nùng Trí Cao 29,31 km2.
Cao Bằng là một trong 11 tỉnh thành không sáp nhập với địa phương khác. Sau khi sắp xếp, tên, diện tích, dân số của 59 xã, phường thay đổi như sau:
| STT | Xã, phường trước sắp xếp | Xã, phường sau sắp xếp | Diện tích (km2) | Dân số (người) |
| 1 | Thạch Lâm, Quảng Lâm | Quảng Lâm | 172,93 | 15.245 |
| 2 | Nam Cao, Nam Quang | Nam Quang | 148,16 | 10.140 |
| 3 | Vĩnh Quang, Lý Bon | Lý Bôn | 173,25 | 11.807 |
| 4 | Pác Miầu, Mông Ân, Vĩnh Phong | Bảo Lâm | 161,82 | 14.198 |
| 5 | Thái Học, Thái Sơn, Yên Thổ | Yên Thổ | 167,67 | 12.810 |
| 6 | Sơn Lập, Sơn Lộ | Sơn Lộ | 97,38 | 5.578 |
| 7 | Hưng Thịnh, Kim Cúc, Hưng Đạo | Hưng Đạo | 122,43 | 9.354 |
| 8 | Bảo Lạc, Bảo Toàn, Hồng Trị | Bảo Lạc | 118,7 | 10.889 |
| 9 | Đức Hạnh, Cốc Pàng | Cốc Pàng | 170,28 | 10.134 |
| 10 | Thượng Hà, Cô Ba | Cô Ba | 134,52 | 8.397 |
| 11 | Phan Thanh, Khánh Xuân | Khánh Xuân | 109,96 | 6.563 |
| 12 | Hồng An, Xuân Trường | Xuân Trường | 122,92 | 5.669 |
| 13 | Đình Phùng, Huy Giáp | Huy Giáp | 133,76 | 7.373 |
| 14 | Yên Lạc, Ca Thành | Ca Thành | 109,85 | 4.684 |
| 15 | Phan Thanh, Mai Long | Phan Thanh | 138,09 | 6.647 |
| 16 | Quang Thành, Thành Công | Thành Công | 140,63 | 5.138 |
| 17 | Hưng Đạo, Hoa Thám, Tam Kim | Tam Kim | 161,81 | 5.864 |
| 18 | Nguyên Bình, Thể Dục, Vũ Minh | Nguyên Bình | 99,73 | 9.278 |
| 19 | Tĩnh Túc, Triệu Nguyên, Vũ Nông | Tĩnh Túc | 86,79 | 5.850 |
| 20 | Trương Lương, Minh Tâm | Minh Tâm | 106,64 | 8.182 |
| 21 | Ngọc Động, Yên Sơn, Thanh Long | Thanh Long | 118,62 | 8.182 |
| 22 | Cần Nông, Lương Thông, Cần Yên | Cần Yên | 144,64 | 10.375 |
| 23 | Thông Nông, Đa Thông, Lương Can | Thông Nông | 94,29 | 9.458 |
| 24 | Xuân Hoà, Quý Quân, Sóc Hà, Trường Hà | Trường Hà | 143,3 | 12.736 |
| 25 | Hồng Sỹ, Ngọc Đào, Mã Ba | Hà Quảng | 112,25 | 10.997 |
| 26 | Thượng Thôn, Lũng Nặm | Lũng Nặm | 97,59 | 7.221 |
| 27 | Nội Thôn, Cải Viên, Tổng Cọt | Tổng Cọt | 100,48 | 6.854 |
| 28 | Đức Long, Dân Chủ, Nam Tuấn | Nam Tuấn | 119,66 | 16.310 |
| 29 | Nước Hai, Đạ Tiến, Hồng Việt | Hoà An | 97,03 | 20.329 |
| 30 | Thịnh Vượng, Bình Dương, Bạch Đằng | Bạch Đằng | 141,61 | 4.808 |
| 31 | Quang Trung, Ngũ Lão, Nguyễn Huệ | Nguyễn Huệ | 146,8 | 9.349 |
| 32 | Quang Trọng, Minh Khai | Minh Khai | 173,4 | 4.437 |
| 33 | Đức Thông, Canh Tân | Canh Tân | 132,36 | 4.513 |
| 34 | Hồng Nam, Thái Cường, Kim Đồng | Kim Đồng | 112,06 | 6.056 |
| 35 | Tiên Thành, Vân Trình, Lê Lai | Thạch An | 113,74 | 7.589 |
| 36 | Đông Khê, Đức Xuân, Trọng Con | Đông Khê | 125,27 | 9.099 |
| 37 | Đức Long, Thuỵ Hùng, Lê Lợi | Đức Long | 106,93 | 5.236 |
| 38 | Tà Lùng, Hoà Thuận, Mỹ Hưng, Đại Sơn | Phục Hoà | 122,7 | 14.339 |
| 39 | Hồng Quang, Cách Linh, Bế Văn Đàn | Bế Văn Đàn | 118,31 | 10.253 |
| 40 | Quảng Hưng, Cai Bộ, Độc Lập | Độc Lập | 102,21 | 8.400 |
| 41 | Quảng Uyên, Phi Hải, Phúc Sen, Chí Thảo | Quảng Uyên | 128,05 | 16.589 |
| 42 | Ngọc Động, Tự Do, Hạnh Phúc | Hạnh Phúc | 126,78 | 15.009 |
| 43 | Quang Vinh, Quang Hán | Quang Hán | 93,61 | 6.918 |
| 44 | Trà Lĩnh, Cao Chương, Quốc Toản | Trà Lĩnh | 74,97 | 10.805 |
| 45 | Quang Trung, Tri Phương, Xuân Nội | Quang Trung | 82,6 | 5.975 |
| 46 | Trung Phúc, Cao Thăng, Đoài Dương | Đoài Dương | 114,48 | 12.536 |
| 47 | Trùng Khánh, Đức Hồng, Lăng Hiếu, Khâm Thành | Trùng Khánh | 125,5 | 17.849 |
| 48 | Chí Viễn, Phong Châu, Đàm Thủy | Đàm Thủy | 114,63 | 12.281 |
| 49 | Ngọc Côn, Ngọc Khê, Phong Nặm, Đình Phong | Đình Phong | 113,77 | 10.778 |
| 50 | Thanh Nhật, Thống Nhất, Thị Hoa | Hạ Lang | 81,13 | 8.091 |
| 51 | Minh Long, Đồng Loan, Lý Quốc | Lý Quốc | 102,18 | 5.966 |
| 52 | Cô Ngân, An Lạc, Kim Loan, Vinh Quý | Vinh Quý | 143,05 | 6.920 |
| 53 | Đức Quang, Thắng Lợi, Quang Long | Quang Long | 130,15 | 5.758 |
| 54 | Sông Hiến, Đề Thám, Hợp Giang, Hưng Đạo, Hoàng Tung | Thục Phán | 55,44 | 41.157 |
| 55 | Ngọc Xuân, Sông Bằng, Vĩnh Quang | Nùng Trí Cao | 29,31 | 19.507 |
| 56 | Tân Giang, Duyệt Trung, Hoà Chung, Chu Trinh, Lê Chung | Tân Giang | 84,26 | 18.204 |
Nằm ở vùng núi Đông Bắc Bộ, Cao Bằng rộng 6.700 km2, dân số hơn 570.000, trong đó dân tộc Tày chiếm gần 41%, Nùng hơn 31%.
Cao Bằng giáp khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) với đường biên giới dài 333 km. Tỉnh có hai cửa khẩu quốc tế với Trung Quốc là Tà Lùng và Trà Lĩnh, cùng hai cửa khẩu song phương Sóc Giang, Lý Vạn.

Thác Bản Giốc. Ảnh: Caobang.gov.vn
GRDP năm 2024 của Cao Bằng ước đạt 25.204 tỷ đồng, trong đó ngành dịch vụ lớn nhất chiếm hơn 56% với hơn 14.200 tỷ đồng. Tỉnh có nhiều điểm du lịch nổi tiếng, nổi bật là Thác Bản Giốc cao 70 m, rộng 300 m, được tạp chí Touropia bình chọn nằm trong top 10 thác nước hùng vĩ nhất thế giới.
Gia Chính
https://vnexpress.net/chi-tiet-56-xa-phuong-cua-tinh-cao-bang-4899839.html?fbclid=IwY2xjawLJ5LdleHRuA2FlbQIxMABicmlkETFPY3Njd2VBRnJDWU1jT2I5AR5pcwX6EcxUhmZv2N_wZYfvhfffy1gal9rFjnpNftqbG-SLG9DTrsHC8BD9kA_aem_m_YlgnkvC0Hra8fqGDIMUQ
...
---
BỔ SUNG
6.
Ngày 26/6/2025, Fb Nguyễn Việt Long
Nguồn bản đồ:
https://vnanet.vn/vi/graphic/chinh-tri-11/56-don-vi-hanh-chinh-cap-xa-cua-tinh-cao-bang-nam-2025-8101132.html?fbclid=IwY2xjawLJ9QJleHRuA2FlbQIxMABicmlkETFJYXBUYjA5SmI2bXo2T2o0AR7OwjoIaK9zIhJGC3baejuamgXtOaGReXg9Z60eWagKQhwYghsqhuazj4PrnA_aem_VMF9fm3NYs3HzWJyZWTYAw
"
"
https://www.facebook.com/nguyen.v.long.3/posts/pfbid0t4vjDmgNjPeefjJ7nAnPD2znXGEETm7hGbtyzVsC6X3gNGyuRgCcELw2MmpwhpAwl
5.
VOV.VN - Tỉnh Cao Bằng đã công bố Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã. Địa phương này dự kiến thành lập 56 đơn vị hành chính cấp xã mới trên cơ sở sắp xếp 161 đơn vị hiện nay.
Tỉnh Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.700,39 km, dân số 573.119 người. Cao Bằng hiện có 10 đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp huyện, trong đó có 9 huyện, 1 thành phố. Toàn tỉnh có 161 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 08 phường, 139 xã, 14 thị trấn. Cao Bằng dự kiến sắp xếp còn 56 đơn vị hành chính cấp xã mới gồm 3 phường và 53 xã. Cụ thể:
Thành phố Cao Bằng trên cơ sở 11 ĐVHC cấp xã trực thuộc sẽ lập thành 3 phường mới gồm:
- Phường Thục Phán (hợp nhất Phường Sông Hiến, phường Đề Thám, phường Hợp Giang, xã Hưng Đạo và xã Hoàng Tung, huyện Hòa An).
- Phường Tân Giang (hợp nhất phường Tân Giang, phường Duyệt Trung, phường Hòa Chung, xã Chu Trinh và xã Lê Chung (huyện Hòa An).
- Phường Nùng Trí Cao (hợp nhất phường Sông Bằng, phường Ngọc Xuân và xã Vĩnh Quang).

Huyện Bảo Lạc trên cơ sở 17 đơn vị hành chính cấp xã thành lập 8 xã mới, gồm:
- Xã Sơn Lộ (hợp nhất xã Sơn Lộ và xã Sơn Lập);
-Xã Hưng Đạo (hợp nhất xã Hưng Thịnh, xã Hưng Đạo và xã Kim Cúc);
-Xã Bảo Lạc (hợp nhất thị trấn Bảo Lạc, xã Bảo Toàn và xã Hồng Trị);
-Xã Cốc Pàng (hợp nhất xã Đức Hạnh (huyện Bảo Lâm) và xã Cốc Pàng (huyện Bảo Lạc);
-Xã Thượng Hà (hợp nhất xã Thượng Hà và xã Cô Ba);
-Xã Khánh Xuân (hợp nhất xã Phan Thanh và xã Khánh Xuân);-
-Xã Xuân Trường (hợp nhất xã Xuân Trường và xã Hồng An);
-Xã Huy Giáp (hợp nhất xã Đình Phùng và xã Huy Giáp).
Huyện Bảo Lâm có 13 đơn vị hành chính cấp xã, thành lập 5 xã gồm:
-Xã Quảng Lâm (hợp nhất xã Quảng Lâm và xã Thạch Lâm);
-Xã Nam Quang (hợp nhất xã Nam Quang và xã Nam Cao);
-Xã Lý Bôn (hợp nhất xã Vĩnh Quang và xã Lý Bôn);
-Xã Bảo Lâm (hợp nhất xã Mông Ân, xã Vĩnh Phong và Thị trấn Pác Miầu);
-Xã Yên Thổ (Hợp nhất xã Yên Thổ, xã Thái Sơn và xã Thái Học).
Huyện Hạ Lang trên cơ sở 13 ĐVHC cấp xã lập mới 4 xã, gồm:
-Xã Hạ Lang (hợp nhất thị trấn Thanh Nhật, xã Thống Nhất và xã Thị Hoa);
-Xã Lý Quốc (hợp nhất xã Lý Quốc, xã Minh Long và xã Đồng Loan);
-Xã Vinh Quý (hợp nhất xã Kim Loan, xã An Lạc, xã Cô Ngân, xã Vinh Quý);
-Xã Thắng Lợi (hợp nhất xã An Lạc, xã Đức Quang và xã Kim Loan).
Huyện Hà Quảng trên cơ sở 21 ĐVHC cấp xã thành lập 7 xã mới, gồm:
-Xã Thanh Long (hợp nhất xã Yên Sơn, xã Ngọc Động và xã Thanh Long);
-Xã Cần Yên (hợp nhất xã Cần Nông, xã Cần Yên và xã Lương Thôn);
-Xã Thông Nông (hợp nhất thị trấn Thông Nông, xã Lương Can và xã Đa Thông);
-Xã Trường Hà (hợp nhất thị trấn Xuân Hòa, xã Quý Quân, xã Sóc Hà và xã Trường Hà);
-Xã Hà Quảng (hợp nhất xã Ngọc Đào, xã Mã Ba và xã Hồng Sỹ);
-Xã Lũng Nặm (hợp nhất xã Lũng Nặm và xã Thượng Thôn);
-Xã Tổng Cọt (hợp nhất xã Tổng Cọt, xã Nội Thôn và xã Cải Viên).
Huyện Hòa An trên cơ sở 15 ĐVHC cấp xã lập thành 4 xã mới, gồm:
-Xã Nam Tuấn (hợp nhất xã Đức Long, xã Dân Chủ và xã Nam Tuấn);
-Xã Hòa An (hợp nhất thị trấn Nước Hai, xã Hồng Việt và xã Đại Tiến);
-Xã Bạch Đằng (hợp nhất Xã Bạch Đằng, xã Bình Dương và xã Thịnh Vượng (huyện Nguyên Bình);
-Xã Nguyễn Huệ (hợp nhất xã Nguyễn Huệ, xã Quang Trung và xã Ngũ Lão).
Huyện Nguyên Bình trên cơ sở 17 ĐVHC cấp xã thành lập 7 xã mới, gồm:
-Xã Ca Thành (hợp nhất xã Ca Thành và xã Yên Lạc);
-Xã Phan Thanh (hợp nhất xã Phan Thanh và xã Mai Long);
-Xã Thành Công (hợp nhất xã Thành Công và xã Quang Thành);
-Xã Tam Kim (hợp nhất xã Hưng Đạo, xã Tam Kim và xã Hoa Thám);
-Xã Nguyên Bình (hợp nhất thị trấn Nguyên Bình, xã Thể Dục và xã Vũ Minh);
-Xã Tỉnh Túc (hợp nhất thị trấn Tĩnh Túc, xã Triệu Nguyên và xã Vũ Nông);
-Xã Minh Tâm (hợp nhất xã Trương Lương (huyện Hòa An) và xã Minh Tâm (huyện Nguyên Bình).
Huyện Quảng Hòa trên cơ sở 19 ĐVHC cấp thành lập 5 xã, gồm:
-Xã Phục Hòa (hợp nhất thị trấn Hoà Thuận, Thị trấn Tà Lùng, xã Mỹ Hưng và xã Đại Sơn);
-Xã Bế Văn Đàn (hợp nhất xã Bế Văn Đàn, xã Cách Linh và xã Hồng Quang);
-Xã Độc Lập (hợp nhất xã Quảng Hưng, xã Độc Lập và xã Cai Bộ);
-Xã Quảng Uyên (hợp nhất thị trấn Quảng Uyên, xã Phi Hải, xã Chí Thảo và xã Phúc Sen);
-Xã Hạnh Phúc (hợp nhất xã Ngọc Động, xã Tự Do và xã Hạnh Phúc);
Huyện Thạch An trên cơ sở 14 ĐVHC cấp xã thành lập 6 xã mới, gồm:
-Xã Minh Khai (hợp nhất xã Minh Khai và xã Quang Trọng);
-Xã Canh Tân (hợp nhất xã Canh Tân và xã Đức Thông);
-Xã Kim Đồng (hợp nhất xã Kim Đồng, xã Thái Cường và xã Hồng Nam (huyện Hòa An));
-Xã Thạch An (hợp nhất xã Lê Lai, xã Vân Trình và xã Tiên Thành (huyện Quảng Hòa);
-Xã Đông Khê (hợp nhất thị trấn Đông Khê, xã Đức Xuân và xã Trọng Con);
-Xã Đức Long (hợp nhất xã Đức Long, xã Thuỵ Hùng và xã Lê Lợi).
Huyện Trùng Khánh trên cơ sở 21 ĐVHC cấp xã thành lập 7 xã mới gồm:
-Xã Quang Hán (hợp nhất xã Quang Hán và xã Quang Vinh);
-Xã Trà Lĩnh (hợp nhất thị trấn Trà Lĩnh, xã Cao Chương và xã Quốc Toản (huyện Quảng Hòa));
-Xã Quang Trung (hợp nhất xã Quang Trung, xã Xuân Nội và xã Tri Phương);
-Xã Đoài Dương (hợp nhất xã Đoài Dương, xã Cao Thăng và xã Trung Phúc);
-Xã Trùng Khánh (hợp nhất thị trấn Trùng Khánh, xã Lăng Hiếu, xã Đức Hồng và xã Khâm Thành);
-Xã Đàm Thủy (hợp nhất xã Đàm Thuỷ, xã Chí Viễn và xã Phong Châu);
-Xã Đình Phong (hợp nhất xã Đình Phong, Ngọc Khê, Ngọc Côn, Phong Nặm).
https://vov.vn/chinh-tri/ten-goi-56-phuong-xa-moi-cua-cao-bang-post1193400.vov#:~:text=To%C3%A0n%20t%E1%BB%89nh%20c%C3%B3%20161%20%C4%91%C6%A1n,3%20ph%C6%B0%E1%BB%9Dng%20v%C3%A0%2053%20x%C3%A3.
4.
Dự kiến sau sáp nhập ở Cao Bằng có tên phường Thục Phán, Nùng Trí CaoCao Bằng - Sau sáp nhập, bộ máy hành chính tại thành phố (cũ) sẽ hình thành 3 phường mới với tên gọi là các nhân vật lịch sử.
Ngày 19.4, ông Nguyễn Thế Hoàn - Chủ tịch UBND thành phố Cao Bằng chia sẻ: "Ngày hôm nay địa phương sẽ đồng loạt tổ chức triển khai lấy ý kiến nhân dân đối với Đề án sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, phường trên địa bàn".
Theo người đứng đầu UBND thành phố, sau sắp xếp địa phương sẽ hình thành 3 phường mới, với các tên gọi là các nhân vật lịch sử hoặc mang nhiều ý nghĩa gắn với quê hương.
Trước đó, trong sáng 18.4, Thành ủy Cao Bằng đã tổ chức hội nghị quán triệt, triển khai lấy ý kiến nhân dân về Đề án sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn thành phố.
Dự hội nghị có lãnh đạo Thành ủy, UBND thành phố, các phòng ban chuyên môn, cùng cán bộ chủ chốt từ 11 xã, phường và đại diện 118 tổ, xóm.
Phát biểu tại hội nghị, Bí thư Thành ủy Cao Bằng Lê Hải Hòa nhấn mạnh việc sắp xếp đơn vị hành chính là bước đi cần thiết nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý và tạo không gian phát triển bền vững cho thành phố.
Theo đề án, 13 xã, phường liền kề (gồm 11 đơn vị của thành phố Cao Bằng và 2 xã thuộc huyện Hòa An) sẽ sáp nhập, hình thành 3 phường mới. Theo đại diện Thành ủy Cao Bằng, phương án sắp xếp, tên gọi phường mới được đại diện các xã phường và tổ dân phố, xóm đồng thuận rất cao.
Cụ thể, phường Thục Phán (trung tâm hành chính - chính trị - thương mại) được hợp nhất từ 5 đơn vị: Hợp Giang, Sông Hiến, Đề Thám, Hưng Đạo và Hoàng Tung. Tên phường gắn với truyền thuyết An Dương Vương, khẳng định vị thế trung tâm của thành phố.
Phường Nùng Trí Cao, gồm Sông Bằng, Ngọc Xuân và Vĩnh Quang gộp lại, đây là cửa ngõ phía Tây thành phố. Tên phường thể hiện sự trân trọng di sản lịch sử - văn hóa các dân tộc, đặc biệt là cộng đồng Tày - Nùng.
Phường Hợp Giang mới, gồm Tân Giang, Hòa Chung, Duyệt Trung, Chu Trinh và Lê Chung, hướng đến phát triển công nghiệp - logistics và đô thị sinh thái khu vực Đông Nam thành phố.
Về 2 nhân vật lịch sử được thành phố Cao Bằng đặt tên cho các phường mới đều có ảnh hưởng rất lớn trong tiến trình lịch sử của dân tộc cũng như văn hóa tập tục địa phương.
Thục Phán (An Dương Vương) là người sáng lập nước Âu Lạc vào khoảng thế kỷ 3 TCN. Thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu đã có thêm nhiều dữ liệu lịch sử chứng minh mối liên hệ mật thiết giữa gốc gác của vua Thục Phán với mảnh đất Cao Bằng.
Nhân vật Nùng Trí Cao sống khoảng năm 1025 - 1055, là một thủ lĩnh người dân tộc Nùng sống ở vùng biên giới Việt - Trung, nay thuộc Cao Bằng và Quảng Tây (Trung Quốc).
Ông nổi bật trong lịch sử với vai trò là một anh hùng dân tộc thiểu số và lãnh tụ của nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại nhà Tống (Trung Quốc) vào giữa thế kỷ 11.
Hiện nay, nhân vật Nùng Trí Cao được tôn vinh trong văn hóa dân gian, đặc biệt tại Cao Bằng và các vùng người Nùng sinh sống, đền thờ ông được lập ở rất nhiều địa phương. Trong tín ngưỡng Việt Nam, ông được xếp hàng Hoàng Bát trong Thập Đại Thánh Hoàng.
https://laodong.vn/xa-hoi/du-kien-sau-sap-nhap-o-cao-bang-co-ten-phuong-thuc-phan-nung-tri-cao-1493760.ldo
3.
Cao Bằng dự kiến còn 53 xã, 3 phường sau sáp nhậpTỉnh ủy Cao Bằng vừa tổ chức Hội nghị lần thứ 68 (mở rộng) với nội dung chính liên quan sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính.
Theo đó, vào chiều 17.4, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cao Bằng tổ chức Hội nghị lần thứ 68, thông qua phương án và dự thảo Đề án sắp xếp đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp xã.
Theo đề án, tỉnh sẽ giảm từ 161 ĐVHC cấp xã hiện nay xuống còn 56 (53 xã và 3 phường), tức giảm 105 đơn vị (gồm 5 phường, 100 xã, thị trấn).
Đây là bước tiếp theo trong lộ trình thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Trung ương về tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Trước đó, giai đoạn 2019-2021, Cao Bằng từng sáp nhập, giảm từ 13 xuống 10 đơn vị cấp huyện và từ 199 xuống 161 đơn vị cấp xã.
Việc sắp xếp nhằm khắc phục tình trạng nhiều xã có quy mô nhỏ, chưa đạt chuẩn về diện tích và dân số, gây phân tán nguồn lực, cồng kềnh bộ máy, trùng lặp nhiệm vụ giữa các cấp chính quyền. Đồng thời, phù hợp với xu hướng chuyển đổi số và chủ trương xây dựng chính quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Đề án sáp nhập, sắp xếp đơn vị hành chính sẽ được lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân trước ngày 21.4.2025.
Quảng Hòa là xã duy nhất ở Đắk Nông thuộc diện biệt lập, chưa phải sáp nhập
Bộ Nông nghiệp và Môi trường hướng dẫn chỉnh lý hồ sơ đất đai sau sáp nhập
Liên tiếp xảy ra cháy rừng tại Cao Bằng
2. Tổng quan về Cao Bằng trước 1/7/2025
Tỉnh Cao Bằng được giới hạn trong tọa độ địa lý từ 22021'21" đến 23007'12" vĩ độ Bắc và từ 105016'15 kinh độ Đông với tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.703,42 km2. Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Quảng Tây nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa với đường biên giới dài hơn 333km; Phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Lạng Sơn; Phía Tây giáp tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang. Trung tâm tỉnh là Thành phố Cao Bằng cách thủ đô Hà Nội 286 km theo đường Quốc lộ 3, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 130 km theo đường Quốc lộ 4A.
Vị trí địa lý tỉnh Cao Bằng
1. Vị trí và lãnh thổ
Cao Bằng là một tỉnh miền núi biên giới, nằm ở phía đông bắc Việt Nam, có vị trí, tầm quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng đối với cả nước. Tọa độ địa lí từ 22021'21” đến 23007'12” vĩ độ Bắc, 105016'15” đến 106050'25” kinh độ Đông. Phía Tây giáp hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Phía Nam giáp hai tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn. Phía Bắc và phía Đông giáp Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) với đường biên giới dài 333,125 km.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.700,39 km2, chiếm 2,02% diện tích cả nước, số dân năm 2022 là 533.086 người (đứng thứ 61 cả nước).
Với vị trí địa lí như trên, Cao Bằng tuy cách xa các trung tâm kinh tế lớn của cả nước và miền Bắc nhưng lại có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thị trường Trung Quốc thông qua phát triển kinh tế cửa khẩu với 02 cửa khẩu quốc tế là Tà Lùng (huyện Quảng Hòa) và Trà Lĩnh (huyện Trùng Khánh), các cửa khẩu chính (hay cửa khẩu song phương) gồm: cửa khẩu Sóc Giang (huyện Hà Quảng), Lý Vạn (huyện Hạ Lang), các cửa khẩu phụ và lối mở biên giới.
Ngoài ra, Cao Bằng còn có các tuyến giao thông đường bộ đi các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang và Thủ đô Hà Nội khá thuận lợi; đồng thời, hiện nay tỉnh đang xúc tiến thực hiện việc đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Đồng Đăng (Lạng Sơn) - Trà Lĩnh (Cao Bằng).
2. Sự phân chia hành chính
Địa danh Cao Bằng được ghi chép trong sử sách từ rất sớm. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, đất Cao Bằng xưa thuộc bộ Vũ Định thời Hùng Vương.
Thời Lý, sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết Cao Bằng là phủ Bắc Bình thuộc đạo Thái Nguyên, có 4 châu là: châu Thái Nguyên (sau này đổi tên thành châu Thạch Lâm), châu Quảng Nguyên, châu Thượng Lang và châu Hạ Lang.
Thời Trần, Cao Bằng chưa là một đơn vị hành chính độc lập trực thuộc Trung ương, mà là một phần của phủ Thái Nguyên.
Thời thuộc Minh, địa bàn tỉnh Cao Bằng ngày nay “là đất các huyện Long Thạch, Thái Nguyên, thuộc phủ Thái Nguyên và các châu Thượng Tư, Hạ Tư, Quảng Nguyên phủ Lạng Sơn”.
Đầu thời Lê sơ, Cao Bằng lúc đó gọi là phủ Bắc Bình trực thuộc Thừa tuyên Thái Nguyên. Năm Cảnh Thống thứ 2 (1499), nhà Lê quyết định tách phủ Cao Bằng ra khỏi Thừa tuyên Thái Nguyên đặt thành trấn Cao Bằng. Từ thời điểm này, Cao Bằng trở thành một đơn vị hành chính độc lập, trực thuộc chính quyền Trung ương.
Thời nhà Mạc lên đóng đô ở Cao Bằng (1592-1677) quản lý cả các vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), nhà Mạc mất, nhà Lê đặt lại trấn Cao Bằng. Thời vua Lê Hy Tông, Cao Bằng được đặt làm trọng trấn, gồm phủ Cao Bằng và 4 châu: Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang.
Đầu thời nhà Nguyễn, trấn Cao Bằng gồm 4 châu (Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang), 27 tổng, 233 xã, thôn, phường, phố, trại, động. Năm 1831, vua Minh Mạng thực hiện cải cách hành chính, đổi trấn Cao Bằng thành tỉnh Cao Bằng. Tỉnh Cao Bằng gồm 1 phủ là Trùng Khánh và 4 châu là Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang, Thạch Lâm. Năm 1834, nhà Nguyễn đổi các châu thành huyện. Năm 1835, lập thêm phủ Hòa An; chia huyện Thạch Lâm làm hai huyện là Thạch An và Thạch Lâm thuộc phủ Hòa An; bỏ chế độ thổ quan, đặt lại chế độ lưu quan. Năm Tự Đức thứ tư (1851), triều đình lại bỏ phủ Hòa An, tỉnh Cao Bằng chỉ còn 1 phủ Trùng Khánh gồm 5 huyện: Thạch Lâm, Thạch An, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang.
Những năm cuối thế kỷ XIX, tỉnh Cao Bằng gồm có phủ Trùng Khánh (với 3 châu: Thượng Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên) và phủ Hòa An (với 3 châu: Thạch Lâm, Thạch An, Nguyên Bình).
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (năm 1858) và xâm chiếm Cao Bằng (năm 1886), nhà Nguyễn vẫn duy trì bộ máy chính quyền để quản lý vùng biên và tích cực thực hiện chế độ lưu quan. Sau đó, thực dân Pháp cai trị Cao Bằng theo chế độ quân quản. Năm 1888, Cao Bằng là một khu. Ngày 06/8/1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định bãi bỏ các quân khu và thiết lập các đạo quan binh1. Cao Bằng trở thành tiểu quân khu thuộc Đạo quan binh 2, gồm 3 tiểu quân khu: Cao Bằng, Bảo Lạc, Bắc Kạn, lỵ sở đạo lỵ đặt tại thị xã Cao Bằng. Từ sau nghị định của Toàn quyền Đông Dương, ngày 16/4/1908 được ban hành, đạo quan binh chia thành các đơn vị hành chính và tư pháp ngang với công sứ các tỉnh dân sự.
Về biên giới lãnh thổ, thực dân Pháp cũng xúc tiến việc điều đình với triều đình Mãn Thanh (Trung Quốc) về đường biên, mốc giới. Các công ước hoạch định biên giới ngày 20/6/1885 và ngày 20/6/1887 đã hình thành địa giới chính thức Việt Nam - Trung Quốc mang tính pháp lý quốc tế có chiều dài 1.463 km với 341 cột mốc. Trên phần đất Cao Bằng giáp Quảng Tây (Trung Quốc) có đường biên dài trên 333 km với 161 cột mốc (trong đó có 117 mốc chính, 44 mốc phụ), là tỉnh có đường biên giới chung dài nhất và cột mốc chung với Trung Quốc nhiều nhất so với các tỉnh biên giới phía Bắc. Đường biên giới hình thành cũng lần lượt ra đời các cửa khẩu; thời thuộc Pháp, Cao Bằng có 7 cửa khẩu.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, cả nước bước sang một giai đoạn lịch sử mới. Chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân ra đời. Năm 1948, Chính phủ quyết định bãi bỏ cấp tổng, phủ, đạo, châu; cấp trên cấp xã và dưới cấp tỉnh gọi chung là huyện. Cao Bằng lúc đó có 11 đơn vị hành chính cấp huyện gồm thị xã Cao Bằng và các huyện: Hòa An, Hà Quảng, Bảo Lạc, Nguyên Bình, Thạch An, Phục Hoà, Hạ Lang, Quảng Uyên, Trùng Khánh, Trấn Biên
Ngày 03/10/1950, Cao Bằng hoàn toàn được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
Ngày 01/7/1956, Cao Bằng cùng các tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang hợp thành Khu tự trị Việt Bắc.
Ngày 27/12/1975, Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ 2 quyết nghị bỏ cấp khu trong hệ thống các đơn vị hành chính; quyết định hợp nhất tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Cao Bằng. Diện tích tỉnh Cao Lạng là: 13.691,25 km2; gồm 20 huyện, thị xã, trong đó có 2 thị xã, 402 xã, phường. Đường biên giới giáp Trung Quốc dài 513 km với 242 cột mốc.
Ngày 29/12/1978, Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ 4 quyết nghị chia tỉnh Cao Lạng thành 2 tỉnh là Cao Bằng và Lạng Sơn. Sáp nhập 2 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã (sau đó huyện Chợ Rã được gọi là huyện Ba Bể) của tỉnh Bắc Thái vào tỉnh Cao Bằng.
Ngày 06/11/1996, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 phê chuẩn tách 2 huyện Ngân Sơn, Ba Bể của tỉnh Cao Bằng về tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh Cao Bằng thời điểm này gồm 11 đơn vị hành chính cấp huyện (01 thị xã, 10 huyện) với 89 xã, phường, thị trấn.
Ngày 18/10/2010, thị xã Cao Bằng được công nhận là đô thị loại III theo Quyết định số 926/QĐ-BXD của Bộ Xây dựng. Ngày 25/9/2012, Thành phố Cao Bằng thuộc tỉnh Cao Bằng được thành lập theo Nghị quyết số 60/NQ-CP của Chính phủ.
Thực hiện Nghị quyết số 864/NQ-UBTVQH14, ngày 09/01/2020 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng và Nghị quyết số 897/NQ-UBTVQH14, ngày 11/02/2020 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và đổi tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng; tỉnh Cao Bằng đã tiến hành sáp nhập huyện Thông Nông vào huyện Hà Quảng, lấy tên là huyện Hà Quảng; sáp nhập huyện Trà Lĩnh vào huyện Trùng Khánh, lấy tên là huyện Trùng Khánh; thành lập huyện Quảng Hòa trên cơ sở sáp nhập huyện Phục Hòa và huyện Quảng Uyên.
Hiện nay, Cao Bằng có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Cao Bằng và 9 huyện: Trùng Khánh, Quảng Hòa, Hạ Lang, Thạch An, Hòa An, Hà Quảng, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Nguyên Bình.
Toàn tỉnh có 161 xã, phường, thị trấn, trong đó có 40 xã, thị trấn biên giới.
Các đơn vị hành chính tỉnh Cao Bằng năm 2022
STT | Các huyện, thành phố | Diện tích (km2) | Số đơn vị hành chính cấp xã | ||
Số xã | Số phường | Số thị trấn | |||
Toàn tỉnh | 6.700,39 | 139 | 8 | 14 | |
1 | Thành phố Cao Bằng | 107,12 | 3 | 8 |
|
2 | Huyện Bảo Lạc | 920,73 | 16 |
| 1 |
3 | Huyện Bảo Lâm | 913,06 | 12 |
| 1 |
4 | Huyện Hà Quảng | 811,18 | 19 |
| 2 |
5 | Huyện Hạ Lang | 456,51 | 12 |
| 1 |
6 | Huyện Hoà An | 605,85 | 14 |
| 1 |
7 | Huyện Nguyên Bình | 837,95 | 15 |
| 2 |
8 | Huyện Quảng Hoà | 668,95 | 16 |
| 3 |
9 | Huyện Thạch An | 691,04 | 13 |
| 1 |
10 | Huyện Trùng Khánh | 688,00 | 19 |
| 2 |
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng
Theo sách địa lí - lịch sử tỉnh Cao Bằng
Vị trí địa lý tỉnh Cao Bằng
1. Vị trí và lãnh thổ
Cao Bằng là một tỉnh miền núi biên giới, nằm ở phía đông bắc Việt Nam, có vị trí, tầm quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng đối với cả nước. Tọa độ địa lí từ 22021'21” đến 23007'12” vĩ độ Bắc, 105016'15” đến 106050'25” kinh độ Đông. Phía Tây giáp hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Phía Nam giáp hai tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn. Phía Bắc và phía Đông giáp Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) với đường biên giới dài 333,125 km.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.700,39 km2, chiếm 2,02% diện tích cả nước, số dân năm 2022 là 533.086 người (đứng thứ 61 cả nước).
Với vị trí địa lí như trên, Cao Bằng tuy cách xa các trung tâm kinh tế lớn của cả nước và miền Bắc nhưng lại có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thị trường Trung Quốc thông qua phát triển kinh tế cửa khẩu với 02 cửa khẩu quốc tế là Tà Lùng (huyện Quảng Hòa) và Trà Lĩnh (huyện Trùng Khánh), các cửa khẩu chính (hay cửa khẩu song phương) gồm: cửa khẩu Sóc Giang (huyện Hà Quảng), Lý Vạn (huyện Hạ Lang), các cửa khẩu phụ và lối mở biên giới.
Ngoài ra, Cao Bằng còn có các tuyến giao thông đường bộ đi các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang và Thủ đô Hà Nội khá thuận lợi; đồng thời, hiện nay tỉnh đang xúc tiến thực hiện việc đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Đồng Đăng (Lạng Sơn) - Trà Lĩnh (Cao Bằng).
2. Sự phân chia hành chính
Địa danh Cao Bằng được ghi chép trong sử sách từ rất sớm. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, đất Cao Bằng xưa thuộc bộ Vũ Định thời Hùng Vương.
Thời Lý, sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết Cao Bằng là phủ Bắc Bình thuộc đạo Thái Nguyên, có 4 châu là: châu Thái Nguyên (sau này đổi tên thành châu Thạch Lâm), châu Quảng Nguyên, châu Thượng Lang và châu Hạ Lang.
Thời Trần, Cao Bằng chưa là một đơn vị hành chính độc lập trực thuộc Trung ương, mà là một phần của phủ Thái Nguyên.
Thời thuộc Minh, địa bàn tỉnh Cao Bằng ngày nay “là đất các huyện Long Thạch, Thái Nguyên, thuộc phủ Thái Nguyên và các châu Thượng Tư, Hạ Tư, Quảng Nguyên phủ Lạng Sơn”.
Đầu thời Lê sơ, Cao Bằng lúc đó gọi là phủ Bắc Bình trực thuộc Thừa tuyên Thái Nguyên. Năm Cảnh Thống thứ 2 (1499), nhà Lê quyết định tách phủ Cao Bằng ra khỏi Thừa tuyên Thái Nguyên đặt thành trấn Cao Bằng. Từ thời điểm này, Cao Bằng trở thành một đơn vị hành chính độc lập, trực thuộc chính quyền Trung ương.
Thời nhà Mạc lên đóng đô ở Cao Bằng (1592-1677) quản lý cả các vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), nhà Mạc mất, nhà Lê đặt lại trấn Cao Bằng. Thời vua Lê Hy Tông, Cao Bằng được đặt làm trọng trấn, gồm phủ Cao Bằng và 4 châu: Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang.
Đầu thời nhà Nguyễn, trấn Cao Bằng gồm 4 châu (Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang), 27 tổng, 233 xã, thôn, phường, phố, trại, động. Năm 1831, vua Minh Mạng thực hiện cải cách hành chính, đổi trấn Cao Bằng thành tỉnh Cao Bằng. Tỉnh Cao Bằng gồm 1 phủ là Trùng Khánh và 4 châu là Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang, Thạch Lâm. Năm 1834, nhà Nguyễn đổi các châu thành huyện. Năm 1835, lập thêm phủ Hòa An; chia huyện Thạch Lâm làm hai huyện là Thạch An và Thạch Lâm thuộc phủ Hòa An; bỏ chế độ thổ quan, đặt lại chế độ lưu quan. Năm Tự Đức thứ tư (1851), triều đình lại bỏ phủ Hòa An, tỉnh Cao Bằng chỉ còn 1 phủ Trùng Khánh gồm 5 huyện: Thạch Lâm, Thạch An, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang.
Những năm cuối thế kỷ XIX, tỉnh Cao Bằng gồm có phủ Trùng Khánh (với 3 châu: Thượng Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên) và phủ Hòa An (với 3 châu: Thạch Lâm, Thạch An, Nguyên Bình).
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (năm 1858) và xâm chiếm Cao Bằng (năm 1886), nhà Nguyễn vẫn duy trì bộ máy chính quyền để quản lý vùng biên và tích cực thực hiện chế độ lưu quan. Sau đó, thực dân Pháp cai trị Cao Bằng theo chế độ quân quản. Năm 1888, Cao Bằng là một khu. Ngày 06/8/1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định bãi bỏ các quân khu và thiết lập các đạo quan binh1. Cao Bằng trở thành tiểu quân khu thuộc Đạo quan binh 2, gồm 3 tiểu quân khu: Cao Bằng, Bảo Lạc, Bắc Kạn, lỵ sở đạo lỵ đặt tại thị xã Cao Bằng. Từ sau nghị định của Toàn quyền Đông Dương, ngày 16/4/1908 được ban hành, đạo quan binh chia thành các đơn vị hành chính và tư pháp ngang với công sứ các tỉnh dân sự.
Về biên giới lãnh thổ, thực dân Pháp cũng xúc tiến việc điều đình với triều đình Mãn Thanh (Trung Quốc) về đường biên, mốc giới. Các công ước hoạch định biên giới ngày 20/6/1885 và ngày 20/6/1887 đã hình thành địa giới chính thức Việt Nam - Trung Quốc mang tính pháp lý quốc tế có chiều dài 1.463 km với 341 cột mốc. Trên phần đất Cao Bằng giáp Quảng Tây (Trung Quốc) có đường biên dài trên 333 km với 161 cột mốc (trong đó có 117 mốc chính, 44 mốc phụ), là tỉnh có đường biên giới chung dài nhất và cột mốc chung với Trung Quốc nhiều nhất so với các tỉnh biên giới phía Bắc. Đường biên giới hình thành cũng lần lượt ra đời các cửa khẩu; thời thuộc Pháp, Cao Bằng có 7 cửa khẩu.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, cả nước bước sang một giai đoạn lịch sử mới. Chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân ra đời. Năm 1948, Chính phủ quyết định bãi bỏ cấp tổng, phủ, đạo, châu; cấp trên cấp xã và dưới cấp tỉnh gọi chung là huyện. Cao Bằng lúc đó có 11 đơn vị hành chính cấp huyện gồm thị xã Cao Bằng và các huyện: Hòa An, Hà Quảng, Bảo Lạc, Nguyên Bình, Thạch An, Phục Hoà, Hạ Lang, Quảng Uyên, Trùng Khánh, Trấn Biên
Ngày 03/10/1950, Cao Bằng hoàn toàn được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
Ngày 01/7/1956, Cao Bằng cùng các tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang hợp thành Khu tự trị Việt Bắc.
Ngày 27/12/1975, Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ 2 quyết nghị bỏ cấp khu trong hệ thống các đơn vị hành chính; quyết định hợp nhất tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Cao Bằng. Diện tích tỉnh Cao Lạng là: 13.691,25 km2; gồm 20 huyện, thị xã, trong đó có 2 thị xã, 402 xã, phường. Đường biên giới giáp Trung Quốc dài 513 km với 242 cột mốc.
Ngày 29/12/1978, Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ 4 quyết nghị chia tỉnh Cao Lạng thành 2 tỉnh là Cao Bằng và Lạng Sơn. Sáp nhập 2 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã (sau đó huyện Chợ Rã được gọi là huyện Ba Bể) của tỉnh Bắc Thái vào tỉnh Cao Bằng.
Ngày 06/11/1996, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 phê chuẩn tách 2 huyện Ngân Sơn, Ba Bể của tỉnh Cao Bằng về tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh Cao Bằng thời điểm này gồm 11 đơn vị hành chính cấp huyện (01 thị xã, 10 huyện) với 89 xã, phường, thị trấn.
Ngày 18/10/2010, thị xã Cao Bằng được công nhận là đô thị loại III theo Quyết định số 926/QĐ-BXD của Bộ Xây dựng. Ngày 25/9/2012, Thành phố Cao Bằng thuộc tỉnh Cao Bằng được thành lập theo Nghị quyết số 60/NQ-CP của Chính phủ.
Thực hiện Nghị quyết số 864/NQ-UBTVQH14, ngày 09/01/2020 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng và Nghị quyết số 897/NQ-UBTVQH14, ngày 11/02/2020 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và đổi tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng; tỉnh Cao Bằng đã tiến hành sáp nhập huyện Thông Nông vào huyện Hà Quảng, lấy tên là huyện Hà Quảng; sáp nhập huyện Trà Lĩnh vào huyện Trùng Khánh, lấy tên là huyện Trùng Khánh; thành lập huyện Quảng Hòa trên cơ sở sáp nhập huyện Phục Hòa và huyện Quảng Uyên.
Hiện nay, Cao Bằng có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Cao Bằng và 9 huyện: Trùng Khánh, Quảng Hòa, Hạ Lang, Thạch An, Hòa An, Hà Quảng, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Nguyên Bình.
Toàn tỉnh có 161 xã, phường, thị trấn, trong đó có 40 xã, thị trấn biên giới.
Các đơn vị hành chính tỉnh Cao Bằng năm 2022
STT | Các huyện, thành phố | Diện tích (km2) | Số đơn vị hành chính cấp xã | ||
Số xã | Số phường | Số thị trấn | |||
Toàn tỉnh | 6.700,39 | 139 | 8 | 14 | |
1 | Thành phố Cao Bằng | 107,12 | 3 | 8 |
|
2 | Huyện Bảo Lạc | 920,73 | 16 |
| 1 |
3 | Huyện Bảo Lâm | 913,06 | 12 |
| 1 |
4 | Huyện Hà Quảng | 811,18 | 19 |
| 2 |
5 | Huyện Hạ Lang | 456,51 | 12 |
| 1 |
6 | Huyện Hoà An | 605,85 | 14 |
| 1 |
7 | Huyện Nguyên Bình | 837,95 | 15 |
| 2 |
8 | Huyện Quảng Hoà | 668,95 | 16 |
| 3 |
9 | Huyện Thạch An | 691,04 | 13 |
| 1 |
10 | Huyện Trùng Khánh | 688,00 | 19 |
| 2 |
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng
Theo sách địa lí - lịch sử tỉnh Cao Bằng
https://caobang.gov.vn/vi-tri-dia-li/vi-tri-dia-ly-937736
1.
Bản đồ hành chính (trước 1/7/2025):
https://caobang.gov.vn/ban-do-hanh-chinh
...
https://khudothi.vn/ban-do-hanh-chinh-tinh-cao-bang-thong-tin-quy-hoach-cao-bang-moi-nhat/
...
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HUYỆN HÒA AN
Đất Hòa An ngày nay là đất Thạch Lâm xưa.Huyện Thạch Lâm đời Lý, Trần và đời Lê sơ là châu Thái Nguyên, lần lượt thuộc các phủ Lạng Sơn, phủ Bắc Bình của trấn Thái Nguyên.Cuối đời Lê Hồng Đức, châu Thái Nguyên đổi là châu Thạch Lâm thuộc phủ Cao Bằng, trấn Thái Nguyên. Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) châu Thạch Lâm đổi làm huyện Thạch Lâm; năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) triều đình nhà Nguyễn cho rằng tỉnh Cao Bằng chỉ có một phủ và năm huyện, đất đai khá rộng, nên quyết định đặt thêm phân phủ để chia sẻ bớt công việc. Vua Minh Mệnh sai trích lấy hai huyện là huyện Thạch Lâm và Thạch An, đặt phủ Hòa An, lỵ phủ Hòa An đặt ở xã Nhượng Bạn từ đây có tên Hòa An. Tri phủ Hòa An có chức trách kiêm lý huyện Thạch Lâm và thống hạt huyện Thạch An. Năm Tự Đức thứ tư (1851) triều đình lại bỏ phủ Hòa An. Tỉnh Cao Bằng chỉ còn một phủ là Trùng Khánh gồm năm huyện: Thạch Lâm, Thạch An, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang. Thời Pháp thuộc, từ năm 1905, huyện Thạch Lâm đổi là phủ Hòa An. Theo sách “Danh mục các làng xã Bắc Kỳ” của Ngô Vi Liễn, xuất bản tại Hà Nội năm 1928, tỉnh Cao Bằng gồm: 01 phủ, 08 châu, 33 tổng, 230 xã. Phủ Hòa An gồm 07 tổng, 54 xã (An Lại: 06 xã; Cao Bằng: 07 xã; Hà Đàm: 05 xã; Nhượng Bạn: 11 xã; Tĩnh Oa: 09 xã; Tượng Yên: 11 xã; Xuân Sơn: 05 xã). Những năm sau cách mạng, phủ Hòa An đổi thành huyện Hòa An. Đất Hòa An ngày nay chiếm đại bộ phận châu Thạch Lâm thời Minh Mệnh.
Từ năm 1954 đến 2002, huyện Hoà An gồm thị trấn Nước Hai và 24 xã (Dân Chủ, Nam Tuấn, Đức Long, Bình Long, Đức Xuân, Ngũ Lão, Đại Tiến, Bế Triều, Hồng Việt, Hoàng Tung, Trương Lương, Công Trừng, Hưng Đạo, Đề Thám, Bạch Đằng, Bình Dương, Nguyễn Huệ, Trưng Vương, Quang Trung, Chu Trinh, Lê Chung, Hà Trì, Hồng Nam, Vĩnh Quang). Năm 1971, Thị xã Cao Bằng mở rộng địa giới, đã sáp nhập các xóm: Nà Chướng, Nà Lắc, Nà Rụa, Nà Hoàng, Nà Gà, Nà Phía, Nà Đoỏng, Mỏ Muối, Khuổi Tít (thuộc xã Lê Chung); Vằng Ngà, Nà Cạn (thuộc xã Quang Trung); Giả Ngẳm, Gia Cung, Nà Pế, Nà Lum, Thắc Thúm (thuộc xã Vĩnh Quang); Nà Toòng, Nà Cáp (thuộc xã Đề Thám); Nà kéo (thuộc xã Ngũ Lão) vào thị xã Cao Bằng.
Năm 2002, xã Đề Thám được nhập vào thị xã Cao Bằng và đến năm 2010, các xã: Hưng Đạo, Vĩnh Quang, Chu Trinh cũng được nhập vào thị xã Cao Bằng. Từ tháng 10 năm 2010, sau khi điều chỉnh, huyện Hòa An còn có 21 đơn vị hành chính, gồm một thị trấn (thị trấn Nước Hai) và 20 xã (Dân Chủ, Nam Tuấn, Đức Long, Bình Long, Đức Xuân, Ngũ Lão, Đại Tiến, Bế Triều, Hồng Việt, Hoàng Tung, Trương Lương, Công Trừng, Bạch Đằng, Bình Dương, Nguyễn Huệ, Trưng Vương, Quang Trung, Lê Chung, Hà Trì, Hồng Nam).
Từ tháng 01 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 864/NQ-UBTVQH14 ngày 10/01/2020 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng, theo đó huyện Hoà An có 15 đơn vị hành chính gồm 01 thị trấn (thị trấn Nước Hai) và 14 xã (Dân Chủ, Nam Tuấn, Đức Long, Ngũ Lão, Đại Tiến, Hồng Việt, Hoàng Tung, Trương Lương, Bạch Đằng, Bình Dương, Nguyễn Huệ, Quang Trung, Lê Chung, Hồng Nam), cụ thể sáp nhập: xã Công Trừng vào xã Trương Lương; sáp nhập xã Hà Trì vào xã Quang Trung; sáp nhập xã Trưng Vương vào xã Nguyễn Huệ; sáp nhập một phần diện tích, dân số của xã Bế Triều, Đức Long, Bình Long và Hồng Việt vào thị trấn Nước Hai; sáp nhập phần diện tích và dân số còn lại của xã Bình Long vào xã Hồng Việt; sáp nhập xã Đức Xuân và phần diện tích, dân số còn lại của xã Bế Triều vào xã Đại Tiến).
https://hoaan.caobang.gov.vn/qua-trinh-phat-trien
...
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN Xã Quang Trung nằm ở phía Đông nam thuộc huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng cách trung tâm huyện 28km. Phía Bắc giáp xã Ngũ Lão và Nguyễn Huệ; Phía Đông giáp xã Nguyễn Huệ - Hòa An và xã Ngọc Động - Quảng Hòa; Phía Nam giáp xã Hồng Nam, xã Chu Trinh - TP Cao Bằng; Phía Tây giáp Phường Sông Bằng, Phường Duyệt Trung -TP Cao Bằng. Với tổng diện tích đất tự nhiên là: 4.845,57ha. Trong đó đất nông nghiệp: 4222,13 ha; đất phi nông nghiệp 532,86 ha; đất chưa sử dụng 90,58ha..... Địa hình xã phân theo
Test đăng tin bài
ewrewrr
Kế hoạch Phát triển kinh tế xã hội năm 2024
Kế hoạch Phát triển kinh tế xã hội năm 2024
KINH TẾ XÃ HỘI
ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ -XÃ HỘI Đặc điểm xã hội Xã có 10 xóm với tổng số 595 hộ với 2.644 nhân khẩu, bao gồm 5 dân tộc anh em cùng sinh sống (Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh). trong đó: dân tộc Kinh 2 khẩu chiếm 0,07%; Tày 1.472 khẩu, chiếm 55,25%; Nùng 72 khẩu, chiếm 2,75; Mông 1.105 khẩu, chiếm 41,47%; Dao 13 khẩu, chiếm 0,48%; trong 10 xóm, có 03 xóm hoàn toàn dân tộc Mông. Đến cuối năm 2022 thực hiện rà soát, khảo sát còn 308 hộ nghèo chiếm 51,2%; Hộ cận nghèo 77 chiếm 12,8%.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ
Xã Quang Trung nằm ở phía Đông nam thuộc huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng cách trung tâm huyện 28km. Phía Bắc giáp xã Ngũ Lão và Nguyễn Huệ; Phía Đông giáp xã Nguyễn Huệ - Hòa An và xã Ngọc Động - Quảng Hòa; Phía Nam giáp xã Hồng Nam, xã Chu Trinh - TP Cao Bằng; Phía Tây giáp Phường Sông Bằng, Phường Duyệt Trung -TP Cao Bằng. Địa hình xã phân theo 3 dạng: - Dạng địa hình thung lũng bằng: Nằm dọc theo trục đường Nà Cạn – Phan Thanh – Hà Trì, vùng đất này tương đối bằng phẳng, thích hợp với trồng lúa, màu và cây công nghiệ
https://quangtrung.hoaan.caobang.gov.vn/gioi-thieu-chung
...
Vinh danh
[sửa | sửa mã nguồn]Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một con đường ở Thủ đô Hà Nội, nối từ đầu phía Bắc cầu Vĩnh Tuy đi qua trung tâm thương mại Aeon Long Biên đến chân cầu vượt Vĩnh Tuy. Tại trung tâm thành phố Cao Bằng cũng có một con phố mang tên ông. Tại huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng cũng có một ngôi trường THPT mang tên Đàm Quang Trung.
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0m_Quang_Trung
...
1- Vị trí
Trùng Khánh là một huyện miền núi nằm ở phía đông bắc tỉnh Cao Bằng, Việt Nam.
Huyện lỵ của huyện là thị trấn Trùng Khánh, cách thành phố Cao Bằng 58 km và cách thành phố Hà Nội 310 km theo tỉnh lộ 206. Huyện có 2 cửa khẩu quốc gia với Trung Quốc là Cửa Khẩu Trà Lĩnh ở thị trấn Trà Lĩnh, Cửa Khẩu Pò Peo ở xã Ngọc Côn và các đường tiểu ngạch khác.
Huyện Trùng Khánh có vị trí địa lý:
- Phía bắc giáp Quảng Tây, Trung Quốc.
- Phía nam giáp huyện Hòa An và huyện Quảng Hòa.
- Phía đông giáp huyện Hạ Lang.
- Phía tây giáp huyện Hà Quảng.
Huyện Trùng Khánh có diện tích 688,01 km2, dân số năm 2019 là 70.424 người, mật độ dân số đạt 102 người/km2
2 – Hành chính
Huyện Trùng Khánh có 21 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Trùng Khánh (huyện lỵ), Trà Lĩnh và 19 xã: Cao Chương, Cao Thăng, Chí Viễn, Đàm Thủy, Đình Phong, Đoài Dương, Đức Hồng, Khâm Thành, Lăng Hiếu, Ngọc Côn, Ngọc Khê, Phong Châu, Phong Nặm, Quang Hán, Quang Trung, Quang Vinh, Tri Phương, Trung Phúc, Xuân Nội.
3 - Lịch sử
Huyện Trùng Khánh là vùng đất cổ, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tên gọi Trùng Khánh đã được đề cập từ khá sớm trong sử sách.[3]
Thời kỳ nhà Lý (1010-1225) có tên gọi là Tư Lang. Đến thời kỳ nhà Trần (1225-1400) vẫn mang tên gọi như trước.
Đời thuộc Minh, chia Tư Lang làm Thượng Tư Lang và Hạ Tư Lang. Thời nhà Lê đổi làm Thượng Lang. Vào thời kỳ nhà Lê (Lê Thánh Tông), niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) thì phủ Cao Bằng còn thuộc thừa tuyên Thái Nguyên, gồm 4 châu, trong đó châu Thượng Lang (Trùng Khánh ngày nay) có 29 xã. Thượng Lang từ lúc đó đến thời kỳ nhà Mạc (1592-1677) kéo dài đến năm 1802-1820.
Thời vua Gia Long thì châu Thượng Lang được ghi rõ hơn, trong sách "Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX" có ghi rằng: châu Thượng Lang có 4 tổng, 35 xã, thôn; trong đó tổng Lăng Yên có 13 xã, thôn; tổng Nga Ổ có 9 xã, thôn; tổng Ỷ Cống có 9 xã, lũng; tổng Dương Châu có 6 xã.
Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), đổi tên phủ Cao Bằng thành phủ Trùng Khánh.
Năm Tự Đức thứ 4 (1831), sau cải cách hành chính, đổi trấn làm tỉnh (1831), đổi châu làm huyện (1834) thì tỉnh Cao Bằng có 1 phủ là phủ Trùng Khánh và 5 huyện. Huyện Thượng Lang thời kỳ này có 4 tổng với 37 xã, thôn.
Những năm cuối thế kỷ XIX, Cao Bằng có phủ Trùng Khánh và phủ Hòa An, trong đó phủ Trùng Khánh có 3 châu là: Thượng Lang, Hạ Lang và Quảng Uyên.
Đầu thế kỷ XX, tỉnh Cao Bằng đổi tên thành Đạo quan binh thứ nhì, gồm phủ Hòa An (phủ lỵ ở Nước Hai) với 7 châu, miền đông vẫn gồm phủ Trùng Khánh, gồm 3 châu. Châu Thượng Lang có châu lỵ đặt ở Trùng Khánh phủ.
Năm 1928, theo cuốn "Danh mục các làng xã Bắc Kỳ" xuất bản tại Hà Nội, thì Cao Bằng có 1 phủ, 38 tổng, 230 xã; khi đó châu Thượng Lang có 6 tổng, 42 xã. Tổng Lăng Yên 11 xã, tổng Nga Ổ 5 xã, tổng Phong Châu 6 xã, tổng Phong Đằng 7 xã, tổng Trà Lĩnh 7 xã, tổng Ỷ Cống 6 xã.
Năm 1942, tổng Trà Lĩnh tách khỏi phủ Trùng Khánh, lập thành châu Trấn Biên.
Năm 1945, tổng Phong Đằng tách khỏi phủ Trùng Khánh và nhập vào châu Hạ Lang.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, phủ Trùng Khánh đổi tên thành huyện Trùng Khánh thuộc tỉnh Cao Bằng.
Sau năm 1975, huyện Trùng Khánh có thị trấn Trùng Khánh (huyện lỵ, tên bản địa là Co Sàu) và 24 xã: Cảnh Tiên, Cao Thăng, Chí Viễn, Đàm Thủy, Đình Minh, Đình Phong, Đoài Côn, Đức Hồng, Đức Quang, Khâm Thành, Kim Loan, Lăng Hiếu, Lăng Yên, Lý Quốc, Minh Long, Ngọc Chung, Ngọc Khê, Phong Châu, Phong Nặm, Quang Thành, Thân Giáp, Thắng Lợi, Thông Huề, Trung Phúc.
Ngày 8 tháng 10 năm 1980, giải thể xã Quang Thành, địa bàn nhập vào các xã Đình Phong, Chí Viễn, Phong Châu.
Ngày 10 tháng 6 năm 1981, thành lập xã Đồng Loan trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của các xã Lý Quốc, Minh Long và Thắng Lợi; điều chỉnh một phần diện tích và dân số của xã Minh Long vào xã Lý Quốc; điều chỉnh một phần diện tích và dân số của xã Chí Viễn vào xã Đàm Thủy.
Ngày 1 tháng 9 năm 1981, chuyển 6 xã: Minh Long, Lý Quốc, Đức Quang, Thắng Lợi, Kim Loan, Đồng Loan về huyện Hạ Lang vừa tái lập.
Ngày 13 tháng 12 năm 2007, thành lập xã Ngọc Côn trên cơ sở điều chỉnh 2.367,63 ha diện tích tự nhiên và 2.226 nhân khẩu của xã Ngọc Khê.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết số 864/NQ-UBTVQH14. Theo đó:
- Sáp nhập xã Đình Minh vào thị trấn Trùng Khánh
- Sáp nhập xã Cảnh Tiên vào xã Đức Hồng
- Sáp nhập xã Lăng Yên vào xã Lăng Hiếu
- Sáp nhập xã Ngọc Chung vào xã Khâm Thành
- Hợp nhất 3 xã Thông Huề, Đoài Côn, Thân Giáp thành xã Đoài Dương.
Sau khi điều chỉnh, huyện Trùng Khánh có thị trấn Trùng Khánh và 13 xã: Cao Thăng, Chí Viễn, Đàm Thủy, Đình Phong, Đoài Dương, Đức Hồng, Khâm Thành, Lăng Hiếu, Ngọc Côn, Ngọc Khê, Phong Châu, Phong Nặm, Trung Phúc.
Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết số 897/NQ-UBTVQH14. Theo đó:
- Sáp nhập 219,63 km² diện tích tự nhiên và 20.257 người của huyện Trà Lĩnh vừa giải thể (gồm thị trấn Hùng Quốc và 6 xã: Cao Chương, Quang Hán, Quang Trung, Quang Vinh, Tri Phương, Xuân Nội) vừa giải thể vào huyện Trùng Khánh.
- Đổi tên thị trấn Hùng Quốc thành thị trấn Trà Lĩnh thuộc huyện Trùng Khánh.
Huyện Trùng Khánh có 2 thị trấn và 19 xã như hiện nay.
4 - Địa hình
Về địa hình, huyện Trùng Khánh có độ cao trung bình từ 600-800 m so với mặt nước biển; có cấu trúc địa hình đa dạng, phức tạp, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Xen giữa những dãy núi đá là những thung lũng bằng phẳng, được kiến tạo bởi thiên nhiên và bao trí tuệ, công sức khai phá của nhân dân các dân tộc từ nhiều đời, đã tạo nên những cánh đồng, ruộng rẫy trù phú, như các vùng Ngọc Khê, Đình Phong, Chí Viễn, Trung Phúc, Đàm Thủy, Phong Nặm, Lăng Hiếu, Phong Châu, Đức Hồng, Cao Thăng,…Nét đặc trưng của địa hình Trùng Khánh là giữa các thung lũng bằng phẳng có những ngọn núi đá, núi đất sừng sững, nhấp nhô với nhiều hình dạng, tiêu biểu là vùng Ngọc Khê (thuộc xã Ngọc Khê) dọc sông Quây Sơn, được dân gian ca ngợi là vùng “Hà lục sơn thủy hữu tình”.
Huyện Trùng Khánh còn có những dãy núi đá cao, chạy dọc biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, ở phía Bắc và Đông Bắc, tựa hồ một phên dậu, bức tường thành che chắn. Trong những dãy núi đó cao nhất là ngọn Giang Mũ, thuộc xã Ngọc Khê, với độ cao trên 873 m. Phía Nam và Tây Nam là địa hình chuyển tiếp của cao nguyên miền Đông (thuộc đới Hạ Lang trong kiến tạo địa chất thuộc vùng đất có nhiều khoáng sản quý như măng gan, bôxít, thạch anh, ngọc bích,…), cao dần từ Nam lên Bắc.
5 – Khí hậu
Do điều kiện vị trí địa lý và địa hình, huyện Trùng Khánh chịu nhiều ảnh hưởng của khí hậu á nhiệt đới; thường chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi gió mùa, chủ yếu là gió mùa Đông Bắc. Mùa Đông, độ ẩm thấp, khô hanh và rét buốt; mùa Hè nóng bức, chỉ mát dịu về ban đêm. Khí hậu hai mùa nóng lạnh rõ rệt. Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 10, kéo dài đến hết tháng 5 năm sau. Nửa đầu mùa lạnh là thời kỳ khô hanh, ban ngày nhiệt độ ấm áp, nhưng ban đêm nhiệt độ thường thấp, với độ chênh lệch giữa ngày và đêm từ 5-100C; cuối mùa lạnh thường có mưa phùn, tiết trời âm u, độ ẩm cao; chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm khoảng 4-50C. Tháng 12 và tháng giêng hàng năm thường có gió mùa Đông Bắc tràn về, nên đây thường là những tháng lạnh nhất, có sương muối, nhiệt độ có lúc xuống dưới 00C. Sương muối thường xuyên xảy ra từng đợt từ 1-2 ngày, đôi khi lên tới 4-5 ngày. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9. Nhiệt độ cao nhất trong tháng 5 và tháng 6, trung bình lên tới 360 C. Sau tháng 7 nhiệt độ giảm dần, trung bình khoảng từ 20-250C. Vào khoảng giữa tháng 4 và tháng 5, do sự chuyển tiếp giữa mùa nóng và mùa lạnh, nên hàng năm dễ xảy ra mưa đá.
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500mm-1900mm. Có những năm mưa nhiều, thường gây lũ lụt cục bộ; ở các vùng thượng nguồn, đất ruộng và rẫy dễ bị rửa trôi bạc màu, gây hư hại cho cây cối, mùa màng, ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của nhân dân.
6 - Hệ thống sông ngòi
Trong hệ thống sông suối, Trùng Khánh có hai con sông chính: sông Bắc Vọng và sông Quây Sơn.
Sông Bắc Vọng, bắt nguồn từ Trung Quốc, chạy qua địa phận tỉnh Cao Bằng có độ dài 77 km, chảy ra phía Đông các huyện Trà Lĩnh, vào Trùng Khánh qua các xã Trung Phúc, Thông Huề, Đoài Côn, Thân Giáp và chảy sang huyện Hạ Lang, ra huyện Quảng Uyên, Phục Hoà, hợp lưu với sông Bằng Giang rồi chảy sang Trung Quốc. Do chảy qua các vùng đá vôi của cao nguyên miền Đông, quá trình nước chảy đá mòn, bị xâm thực dữ dội qua những mùa mưa lũ tràn ngập, tạo nên những cánh đồng nhỏ hẹp ở ven sông suối, bề mặt của những cánh đồng hoặc nương rẫy lô nhô những mỏm đá nổi, đá ngầm, gây khó khăn cho việc làm đất, gieo trồng các loại cây lương thực. Độ dốc trung bình của sông Bắc Vọng khoảng 0,0090, lưu lượng nước bình quân 25m3/giây; có nhiều quãng sông hiểm trở, nhiều thác ghềnh.
Sông Quây Sơn có hai nhánh chính đều bắt nguồn từ Trung Quốc, chiều dài khoảng 76 km. Nhánh lớn nhất chảy qua xã Ngọc Khê; nhánh thứ hai, còn gọi là sông Tà Pè, chảy theo hướng Đông Nam, qua xã Phong Nậm, Ngọc Khê, hợp lưu với nhánh chính tại Khả Mong, xã Ngọc Khê, chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, Đàm Thủy qua huyện Hạ Lang rồi chảy sang Trung Quốc. Lòng sông tuy không rộng nhưng sâu, nước chảy xiết, độ dốc bình quân là 0,010, có nhiều thác ghềnh như thác Khoang (Thoong Khoang), xã Ngọc Khê, cao 10 m; thác Gót (Thoong Gót) xã Chí Viễn, cao trên 20 m. Đặc biệt là thác Bản Giốc, xã Đàm Thủy, có độ cao trên 50 m; thác có 2 nhánh: nhánh bên phải dòng nước đổ thẳng xuống vực, nhánh bên trái dòng nước hạ dần thành ba bậc, nối tiếp nhau thành một dòng chảy, do độ dốc lớn, dòng chảy đổ xuống vực sâu, tung bọt trắng xóa và bay lưng chừng núi, hơi nước bốc lên, tạo những màn sương mù huyền ảo, như những dải lụa trắng vắt ngang sườn núi, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.
Do điều kiện địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, nên phần lớn các con sông, con suối bắt nguồn từ phía Tây Bắc chảy theo hướng Đông Nam qua các vùng núi đá vôi, dọc các con sông (Bắc Vọng, Quây Sơn,…) có nhiều thác ghềnh, nước chảy xiết. Lợi dụng sức nước, nhân dân đã làm những “cọn” nước đưa nước từ sông, suối lên độ cao từ 5-10 m cung cấp nước tưới cho hàng trăm ha lúa và các loại cây trồng khác, hoặc dùng giã gạo,…
Các dòng sông lớn như Quây Sơn, Bắc Vọng và nhiều suối, ao, hồ là nguồn lợi thủy sản dồi dào. Diện tích mặt nước toàn huyện là 56,9 ha, chiếm 1,87% diện tích tự nhiên. Nơi đây có nhiều loại cá quý, có giá trị kinh tế cao như cá chiết (có con nặng tới chục kilôgam), cá chép, cá trầm xanh, cá chuối, ba ba,… Đặc biệt là cá trầm hương (ở vực Lũng Đính; nay thuộc xã Đình Phong), thơm ngon nổi tiếng nhất vùng. Cá nặng chừng 1-2 kilôgam, vẩy trắng, gần mang có một vòng vẩy điểm màu xanh cửu long. Đây là loại cá đặc sản của huyện Trùng Khánh.
Hàng năm, nhân dân trong vùng dọc các con sông Bắc Vọng, Quây Sơn và những suối lớn nhỏ đã đánh bắt hàng chục tấn tôm, cá các loại, phục vụ sinh hoạt của nhân dân địa phương.
7 - Đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản
Tổng diện tích đất nông nghiệp của Trùng Khánh là 38.798,40 ha, với nhiều cánh đồng màu mỡ lớn nhỏ. Dọc theo sông Quây Sơn là những cánh đồng trải dài, màu mỡ, như: cánh đồng xã Ngọc Khê, dài gần 10 km, rộng 2 km, đặc biệt là cánh đồng xã Đình Phong do phù sa dòng sông Quây Sơn bồi đắp, rất màu mỡ. Người dân quanh vùng thường lưu truyền câu ca “Quỳnh Lâu Lũng Đính đa hào phú” chính là để chỉ sự trù phú của dân cư vùng đất này. Bên cạnh đó còn có các cánh đồng Chí Viễn, Đàm Thủy. Dọc theo sông Bắc Vọng là những cánh đồng xã Trung Phúc, Thông Huề, Thân Giáp,…Ngoài ra còn có các cánh đồng lúa dựa vào nguồn nước tưới chủ yếu là các con suối và nước tự nhiên, như: Lăng Hiếu, Lăng Yên, Phong Châu, Bồng Sơn, Cao Thăng, Đức Hồng, Đoài Côn. Những cánh đồng lúa trên là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu cho nhân dân huyện Trùng Khánh.
Tài nguyên rừng của Trùng Khánh rất phong phú. Rừng và đất rừng có 29.325,04 ha, chiếm 62,56% diện tích đất đai toàn huyện. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý như: nghiến, quý lát, thông…, các loại động vật như: hổ, báo, gấu, sơn dương, lợn rừng, hươu, nai, khỉ, vượn, cầy vòi… các loại chim họa mi, gà rừng, chim gáy… Các loại lâm thổ sản: nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân. Cây ăn quả gồm các loại như mận, lê, cam, quýt, đào. Đặc biệt, hạt dẻ là một loại đặc sản ở Trùng Khánh, rất thơm ngon, đã trở thành sản phẩm hàng hóa có giá trị trên thị trường trong nước và quốc tế.
Dưới lòng đất có nhiều loại khoáng sản, trung bình cứ 14,5 km2 có 1 điểm khoáng sản, trong đó có nhiều loại kháng sản quý như măng gan, bô xít, thạch anh,... Đá ngọc bích có nhiều ở Bản Piên xã Phong Châu; đá có độ bền, đẹp (từng được khai thác làm vật liệu góp phần xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh). Măng gan có nhiều ở các xã Lăng Hiếu, Phong Châu, Đình Phong, Thân Giáp. Trong những năm 1940, Nhật đã khai thác những mỏ than lộ thiên ở Hiếu Lễ, Phong Châu, Ngọc Khê…, mỏ diêm tiêu ở Bản Quan (xã Phong Châu).
Về giao thông, Trùng Khánh là huyện biên giới, có tuyến tỉnh lộ đi cửa khẩu Pò Peo (nay thuộc xã Ngọc Côn) dài trên 20km và đường Trùng Khánh - Bằng Ca (Hạ Lang) dài 38km; Trùng Khánh - Trà Lĩnh dài 26km. Trước năm 1930, hệ thống đường giao thông ở Trùng Khánh rất lạc hậu, đi lại khó khăn, chủ yếu là đi bộ và ngựa thồ.
Quê hương Trùng Khánh được thiên nhiên ưu đãi: có núi, sông, đồng ruộng, nương rẫy, khoáng sản, động thực vật phong phú. Đó là những tiềm năng vô cùng to lớn, nếu được đầu tư, khai thác hợp lý, sẽ tạo cho Trùng Khánh những điều kiện thuận lợi lớn để phát triển nhanh và bền vững.
https://trungkhanh.caobang.gov.vn/gioi-thieu-chung
---










Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.