Đồng Khánh địa dư chí (chữ Hán: 同慶地輿志), còn gọi là Đồng Khánh địa dư chí lược (chữ Hán: 同慶地輿志略) là bộ sách địa chí chính thống của Quốc gia viết bằng chữ Hán.
Bộ sách được vua Đồng Khánh ra sắc chỉ sai làm, bắt đầu từ khoảng tháng 5 năm 1887 và được hoàn thành trong khoảng thời gian từ đó cho đến mấy năm đầu đời Thành Thái.
Nguyên bản gồm 25 tập chép tay (có tài liệu ghi là 27 tập), ghi lại địa lý các tỉnh trong cả nước (chỉ gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ) thời Đồng Khánh (1886-1888). Mỗi tỉnh gồm các mục: vị trí, giới hạn, số huyện, tổng, xã, thôn, phường, số đinh, binh lính, ruộng đất, thuế khóa, phong tục, thổ sản, khí hậu, núi sông, đường sá, đồn lũy, đền miếu, cổ tích, kỹ nghệ. Ngoài ra, mỗi quyển có bản đồ huyện, phủ, tỉnh, tổng cộng 314 bức.
Sau khi hoàn thành, sách được lưu giữ tại Nội các của triều đình Huế. Khoảng những năm đầu thế kỷ XX, Viện Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội được phép mượn bản đó để sao chép ra một bản đưa vào sưu tập thư tịch Hán Nôm của Viện này, đánh ký hiệu A.537. Bản sách này hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Năm 2003, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viễn Đông Bác cổ Học viện của Pháp hợp tác xuất bản bộ sách này. Nhóm làm việc gồm ba người: Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thọ, Giáo sư Philippe Papin và nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nguyên.
Sách xuất bản in màu, khổ lớn, để trong hộp bìa cứng, cả bộ gồm ba tập, nặng tới 13 kg.
1- Địa danh TIÊN HƯƠNG có từ bao giờ? Và vì sao mà có?
TỈNH NAM ĐỊNH - HUYỆN VỤ BẢN có tên địa danh xã Tiên Hương.
Phần chú thích chỉ rõ: "Xã Tiên Hương: Đầu Nguyễn về trước là xã An Thái. Từ Năm Tự Đức 15 (1862) kiêng húy Ngãi Vương Nguyễn Phúc THÁI, đổi là xã Tiên Hương".
Như vậy, tên gọi TIÊN HƯƠNG chỉ có từ năm 1862. Lý do có tên TIÊN HƯƠNG là vì phải đổi từ AN THÁI. An THÁI phải đổi vì kiêng húy chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc THÁI.
Trước đó, từ đời LÊ, xã AN THÁI bao gồm cả làng VÂN CÁT. Sau đó làng VÂN CÁT tách ra làm xã riêng từ trước khi có địa danh TIÊN HƯƠNG.
Mục Danh lam thắng cảnh của toàn bộ huyện VỤ BẢN chỉ có các di tích sau được kể:
1- Miếu Lý Nhân Tông.
2- Đền Trần Thái Tông.
3- Đền Lương Trạng nguyên (Lương Thế Vinh)
4- Đền Liễu Hạnh phu nhân
5- Chùa Tiên Sơn.
6- Chùa Nộn Sơn.
7- Đền Phạm Tướng quân (Phạm Ngũ Lão).
Mục ĐỀN LIỄU HẠNH, sách ghi rõ ở xã VÂN CÁT. Và sau đó nói như lời chú thêm rằng: “Ở xã Tiên Hương cũng có đền thờ, rất có danh tiếng”.
Nguyên văn chữ Hán là "Tiên Hương xã diệc hữu từ", chữ "diệc" nghĩa là “cũng”. Chữ "cũng" hàm ý là kể nèo vào, như là lời chú thích mà thôi, chiếu cố mà kể thêm chứ không đáng chú ý gì! Cách viết văn của các cụ là vậy.
Như thế là đã rõ! Nơi Thánh Mẫu Liễu Hạnh sinh ra chính là Vân Cát. Vì sinh ra ở Vân Cát, nên lấy tên địa danh để đặt tên thần luôn, gọi là Nữ thần Vân Cát / Vân Cát thần nữ. Chắc Thánh Mẫu cũng tiên lượng về sau có kẻ truyền đời rắp tâm sửa GIẤY KHAI SINH (Nơi sinh) của Mẫu; xuyên tạc và làm sai lạc lịch sử Thánh Mẫu, nên Ngài đã chốt NƠI SINH vào tên của mình.
Đồng Khánh Địa Dư chí là sách do VUA sai viết, kẻ nào chép láo dâng lên vua thì sẽ mắc tội dối vua, tức là tội KHI QUÂN (nặng thì sẽ chém đầu), vì thế tỉnh thần Nam Định phải chép thật trung thực chứ không thể sàm tấu!
Lạy Mẫu Anh linh! Sự linh thiêng của Thánh Mẫu thật là vi diệu, mà chúng con chỉ thỉnh thoảng mới được Mẫu khai mở cho một chút.
Tối 13 tháng Bảy năm Quý Mão (28/8/2023)
Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện
cẩn ghi.
Tác giả bài viết: Tiến sĩ NGUYỄN HỮU TÂM
(Viện Sử học)
TÓM TẮT
Bài viết trình bày khái quát về Quốc sử quán triều Nguyễn và đóng góp của Cao Xuân Dục với trọng trách là Tổng tài Quốc sử quán. Theo tác giả bài viết, Cao Xuân Dục đã phụng sự hết lòng cho vương triều Nguyễn; đã góp phần đáng kể vào việc biên soạn bộ Đại Nam thực lục và các bộ sách khác như Đại Nam liệt truyện chính biên, Đại Nam nhất thống chí, Quốc triều hương khoa lục.
Từ khóa: Cao Xuân Dục, Quốc sử quán, Triều Nguyễn, Đại Nam.
1. Khái quát về Quốc sử quán triều Nguyễn
Triều Nguyễn (1802-1945) là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử dân tộc ta. Tính từ khi triều Nguyễn cáo chung đến nay (2013) mới được 68 năm. Tuy thời gian chưa dài, nhưng đã có nhiều hội nghị khoa học, công trình nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá về vương triều này ở trong nước cũng như nước ngoài.
Tồn tại trong gần một thế kỷ rưỡi, triều Nguyễn với những thành tựu đạt được trên nhiều lĩnh vực đã tạo cho mình những nét đặc trưng, trong đó văn hóa và sử học là những điểm nổi bật nhất. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: ”Không có thời kỳ nào, văn hóa phát triển như thời Nguyễn. Tám mươi năm sách vở sáng tác bằng, thậm chí còn nhiều hơn mấy trăm năm trước. Những nhà tư tưởng của thời Nguyễn cao hơn những nhà tư tưởng trước. Có thể nói sự phát triển văn hóa dưới thời Nguyễn tương đương với sự thống nhất của quốc gia. Sự thống nhất về chính trị thúc đẩy sự phát triển văn hóa rất nhiều. Đó là thành tích của triều Nguyễn”(1); “Phải xác định rằng công tác sử học dưới triều Nguyễn đã được thực hiện kết quả, và đó là một đóng góp to lớn của triều Nguyễn vào đời sống văn hóa, nghiên cứu khoa học của nước nhà, mà đến tận ngày nay vẫn còn phát huy tác dụng tốt đẹp”(2).
Giới nghiên cứu lịch sử khi đánh giá đóng góp to lớn trên lĩnh vực văn hóa – sử học của triều Nguyễn, đều phải nhắc đến Quốc sử quán – cơ quan biên soạn lịch sử của vương triều này.
Chúng ta đều biết các vua triều Nguyễn rất có ý thức coi trọng lịch sử. Gia Long là vị vua đầu tiên của triều Nguyễn, tuy bận trăm công ngàn việc để xây dựng, ổn định vương triều mới được khởi dựng, nhưng ông cũng chú ý ngay đến lịch sử, cho thành lập Sử cục vào năm 1811. Tháng 6 cùng năm 1811, Gia Long lại đưa ra việc biên soạn sách Quốc triều thực lục. Đây chính là tiền thân của bộ Đại Nam thực lục sau này. Sử chép: “Tân Mùi, Gia Long thứ 10 (1811), tháng 6… bàn soạn sách Quốc triều thực lục. Triệu Thị trung Học sĩ là Phạm Thích, Đốc học Sơn Nam thượng là Nguyễn Đường, Đốc học Hoài Đức là Trần Toản về Kinh, sung chức Biên tu ở Sử cục. Lại thấy Lê Duy Thanh là người Duyên Hà có văn học, cũng triệu về Kinh, rồi cho chức Đông các Học sĩ”(3). Tiếp theo, triều đình lại ban ra Chiếu chỉ để các địa phương trong toàn quốc thu thập, sưu tầm các thư tịch cũ, điển tích để phục vụ cho việc viết Quốc triều thực lục(4). Tháng 12 năm 1811, Gia Long sau khi duyệt xem Bản Phàm lệ soạn sử do Thị trung Học sĩ Vũ Trinh soạn thảo đã cử “Nguyễn Văn Thành giữ chức Tổng tài, Phạm Như Đăng làm Phó”(5).
Sử cục triều Gia Long tuy ra đời, nhưng cơ cấu tổ chức, số lượng nhân sự còn chưa hoàn thiện, vì vậy hoạt động biên soạn sử học vẫn chưa được đẩy mạnh. Chúng ta cần ghi nhận những thành tựu ban đầu của cơ quan này, chỉ trong vòng hơn 1 năm rưỡi (từ đầu năm 1811 đến tháng 7 năm 1812) đã biên soạn thành công bộ Hoàng Việt luật lệ thường gọi là bộ luật Gia Long gồm 22 quyển, 398 điều, được đưa ra thi hành vào tháng 8 năm 1815(6).
Minh Mệnh lên ngôi, kế thừa di chí của vua cha, tháng 5 năm 1820 đã cho lập Quốc sử quán. Minh Mệnh nhấn mạnh tình hình thực tế dưới triều Gia Long: ”Hoàng khảo Thế tổ Cao Hoàng đế ta (chỉ vua Gia Long)… nghĩ tìm thực lục, nhưng muôn việc nên không kịp làm, sử chức vẫn còn bỏ thiếu”(7). Quốc sử quán ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết trong giai đoạn xây dựng và củng cố chính quyền họ Nguyễn. ”Triều Nguyễn ngay từ khi lên cầm quyền (1802) đã chú trọng tới công việc viết sử, xem sử học là vũ khí văn hóa quan trọng góp phần ổn định và củng cố lòng người sau một thời kỳ nội chiến kéo dài, trên cơ sở đó củng cố vai trò và uy thế của dòng họ‘‘(8).
Sử học là một công cụ tôn vinh dòng họ Nguyễn, khẳng định tính ”chính thống” của triều Nguyễn, tạo ra tiền đề để vương triều Nguyễn thống trị đất nước. Mặt khác, triều Nguyễn muốn đưa sử học thành cầu nối để cố kết chặt chẽ với tầng lớp Nho học, đặc biệt là những cựu thần triều Lê đang có tư tưởng ”hoài Lê” chống đối lại triều Nguyễn, nhằm sử dụng họ trở thành nhân tố nòng cốt xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế.
Quốc sử quán được thành lập dưới triều Minh Mệnh năm 1820(9) và tiếp tục hoàn thiện vào các triều Thiệu Trị, Tự Đức. Đúng tròn 01 năm sau khi được thành lập, vào tháng 5 năm 1821, Minh Mệnh lệnh cho Sử thần trong Quốc sử quán biên soạn bộ sách Đại Nam thực lục phần Tiền biên. Sử chép:” Sai quan soạn sách Liệt thánh thực lục (tức là bộ Đại Nam thực lục tiền biên). Vua rất để ý việc soạn thuật”(10). Sách Liệt thánh thực lục gồm 13 quyển viết về giai đoạn lịch sử của 9 chúa Nguyễn bao gồm 220 năm, bắt đầu từ Thái tổ Gia Dụ hoàng đế (Nguyễn Hoàng) vào trấn thủ Thuận Hóa năm Mậu Ngọ (1558) đến năm Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế (Nguyễn Phú Thuần hay Nguyễn Phúc Hân) mất (1777).
Bộ Đại Nam thực lục phần Chính biên gồm 7 kỷ, 502 quyển, lần lượt được biên soạn dưới các triều Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883)… và cuối cùng là triều Bảo Đại (1926-1945). Nội dung bắt đầu từ giai đoạn Nguyễn Ánh đánh nhau với triều Tây Sơn (1778-1892) cho đến hết triều vua Khải Định năm 1925. Bản dịch Đại Nam thực lục của Viện Sử học công bố từ năm 1962 đến 1978 (trong vòng 16 năm) xuất bản thành 38 tập, đến năm 2004 – 2007 được sửa chữa, tái bản in thành 10 tập. Nội dung gồm Đại Nam thực lục tiền biên và Đại Nam thực lục chính biên từ đệ nhất kỷ đến đệ lục kỷ (tức là từ năm 1558 đến năm 1888, thời gian kéo dài 330 năm) gồm 463 quyển(11). Như vậy còn lại Đệ lục kỷ phụ biên (12) viết về giai đoạn vua Thành Thái (từ tháng 1-1889 đến 7-1907) và vua Duy Tân (tháng 7-1907 đến tháng 3-1916) và Đệ thất kỷ chính biên viết về triều Khải Định (1916-1925) chưa được công bố, mới còn dạng bản thảo viết tay đang lưu trữ tại nước Pháp.
Tuy chưa được xuất bản toàn bộ bản dịch tiếng Việt, nhưng Đại Nam thực lục (gồm hai phần Tiền biên và Chính biên do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn) đã thâu tóm được lịch sử của đất nước trong 367 năm, bắt đầu từ chúa Nguyễn Hoàng vào Nam dựng nghiệp đến hết triều vua Khải Định (1916- 1925) được thể hiện trên 502 quyển của bộ sách. Thời gian biên soạn kéo dài tới 117 năm, từ khi bắt đầu biên soạn bộ Liệt Thánh thực lục năm Minh Mệnh 2 (1821) đến lúc hoàn thành Đệ thất kỷ chính biên vào năm Bảo Đại 13 (1938). Nếu tính từ khi Gia Long lệnh soạn Đại Nam thực lục năm 1811, thì bộ sách trên phải mất 127 năm biên soạn. Đây là một công trình sử học viết bằng chữ Hán đồ sộ nhất, tốn kém nhất, huy động số lượng nhân sự nhiều nhất và mất nhiều thời gian biên soạn nhất so với các công trình khác của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Ngoài ra, Quốc Sử quán còn biên soạn Khâm định Việt sử thông giám cương mục (gọi tắt là Cương mục) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua Tự Đức (1848-1883). Bộ sách này ghi chép lại toàn bộ diễn biến của lịch sử Việt Nam từ thời Hùng vương dựng nước cho đến cuối thế kỷ XVIII (năm 1789). Các bộ sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên và Chính biên), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Minh Mệnh chính yếu, Đồng Khánh, Khải định chính yếu, cùng các bộ Địa chí lịch sử như Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí (triều Tự Đức), Đại Nam nhất thống chí (triều Duy Tân), Đồng Khánh địa dư chí lược… đều do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn.
Có thể khẳng định, với 125 năm tồn tại (1820-1945), Quốc sử quán triều Nguyễn đã đạt được những thành tựu lớn lao, đóng góp tích cực cho nền sử học Việt Nam trong cả quá khứ lẫn hiện tại và tương lai. Quốc sử quán đã để lại những công trình sử học và địa lý đồ sộ, có giá trị khoa học to lớn. Sự ra đời của Quốc sử quán triều Nguyễn đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử sử học Việt Nam thời phong kiến.(11)
2. Cao Xuân Dục với trọng chức Tổng tài Quốc sử quán
Cao Xuân Dục tên tự là Tử Phát, hiệu là Long Cương, sinh năm 1842 ở xã Thịnh Khánh (sau đổi là Thịnh Mỹ), huyện Đông Thành (nay là Diễn Châu), tỉnh Nghệ An, mất ngày 21 tháng 4 năm Quý Hợi (tức 5/8/1923), hưởng thọ 81 tuổi. Cao Xuân Dục nổi tiếng thông minh từ nhỏ, khi theo học được thầy dạy yêu mến, gả cho con gái. Nhưng về đường khoa cử, Cao Xuân Dục lại khá lận đận, muộn mằn, mãi đến năm ông 34 tuổi (1876) mới đỗ Cử nhân, năm sau đi thi Hội lại bị trượt. Từ sau đó trở đi, Cao Xuân Dục không tiếp tục con đường cử tử nữa, mà bước chân vào chính trường với chức quan đầu tiên là Hậu bổ Quảng Ngãi. Sau đó ông lần lượt thăng trải các chức vụ: từ Tri huyện đến Hàn lâm viện Biên tu, được điều về Kinh đô Huế làm việc tại bộ Hình, Nha Thương bạc năm 1882, được cử vào Phái bộ Trần Đình Túc ra Hà Nội thương thuyết với quân Pháp đang chiếm đóng Bắc Kỳ; tiếp theo, lại giữ chức Án sát, Bố chánh tỉnh Hà Nội, Hải phòng sứ Hải Dương, Tuần phủ Hưng Yên, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, Thự hiệp biện Đại học sĩ, Tổng tài Quốc sử quán, Thượng thư Bộ Học, Phủ chính Đại thần… Năm 1908, ông được phong hàm Thái tử Thiếu bảo và đến năm 1909 được thăng tước An Xuân tử. Năm 1913 ông xin về hưu với hàm Đông các Đại học sĩ.
Có thể nhận thấy con đường quan chức của Cao Xuân Dục khá hanh thông và hiển đạt, lý do chính xuất phát từ năng lực bản thân cùng tinh thần mẫn cán trong công việc của ông đã thuyết phục các vị quan bề trên và nhận được sự cảm tình quý mến của những bạn đồng liêu trong triều. Trong quá trình làm quan, nhiều lần ông đã được sự trọng dụng tín nhiệm của các đại thần ở địa phương như Bố chánh Trà Quý Bình, Tuần phủ Đoàn Khắc Nhượng và sau này là các trọng thần trong triều như Khâm sai Đại thần Trần Đình Túc… Vào năm Thành Thái thứ 9 (năm 1898), Cao Xuân Dục vui mừng khi được vua Thành Thái ban Chỉ Dụ giữ chức Hiệp biện Đại học sĩ và sung làm Phó Tổng tài Quốc Sử quán(13). Ông đã làm Bài biểu tạ đội ơn thực thụ Hiệp biện sung Sử quán Mông thực thụ Hiệp biện sung Sử quán tạ biểu, trong đó Cao Xuân Dục cho biết mình được triều đình sắp xếp vào hàng ngũ Sử quan với chức trách quản lý biên soạn lịch sử: Phù danh liệt Sử quan, chức tư Sử ký (14).
Chính vì đã xác định được chỗ đứng và trách nhiệm trong vương triều, cho nên Cao Xuân Dục đưa ra tiêu chí chung của một Sử quan cần có nếu muốn theo đuổi sự nghiệp biên soạn lịch sử:
Muốn suốt đời gắn bó phải có đủ tam trường,
Không bao quát Sử, Kinh lấy gì thông kim cổ(15).
Ông khiêm tốn tự nhận mình là một người không có tài học thông kim bác cổ, sợ rằng chức vụ cao mà không làm được việc gì sẽ phải xấu hổ với bạn đồng liêu. Ông đau đáu suy tư bản thân chưa có công trạng trong biên soạn sử, nguyện sẽ hết lòng phấn đấu với chức trách mới này: Mỗi vị sử thạnh vô trạng đồ giải dĩ cùng niên, nghĩa là: Một niềm nghĩ làm sử chưa có công tích gì, phải cần cù chăm chỉ quanh năm(16).
Quá trình 10 năm tại Quốc sử quán, có lẽ là thời gian mà Cao Xuân Dục đắc ý nhất trong cuộc đời làm quan của mình. Vì vậy, trong bản Tấu xin về trí sĩ, ông rất tự hào với những năm tháng được tham gia biên soạn Quốc sử. Ông cảm thấy mãn nguyện khi viết ra những dòng tâm huyết của một đại thần từng giữ chức Tổng tài Quốc sử quán đã làm trọn chức trách, tận tâm với công việc biên soạn, chủ trì nhiều bộ sử triều Nguyễn: “Đến năm Thành Thái thứ 9 (1898), được đội ơn thuyên chuyển về Kinh. Ở Quốc sử quán trong 10 năm giữ việc văn chương bút mực. May sao biên soạn xong được 3 Kỷ: Đệ Tứ, Đệ Ngũ và Đệ Lục của bộ Chính biên (tức là Đại Nam thực lục chính biên Đệ Tứ kỷ, Đệ Ngũ kỷ và Đệ Lục kỷ), rồi sau đó Chính biên Liệt truyện (tức Đại Nam Chính biên Liệt truyện), Đại Nam nhất thống chí lần lượt thành sách đệ dâng tiến lãm. Hoàn thành xong những bộ sử này thì mái đầu đã thêm nhiều tóc bạc”(17).
Tuy mang một tinh thần nhiệt thành với công việc biên soạn lịch sử như vậy, song Cao Xuân Dục cũng gặp không ít trở ngại trong quá trình làm việc tại Quốc sử quán. Chúng ta đều biết, Cao Xuân Dục tham gia chính sự vào thời kỳ quân Pháp đang tiến hành xâm lược nước ta, từng bước ép buộc triều Nguyễn phải nhường quyền quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia, Việt Nam đang dần trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Vì vậy, hoạt động sử học của Quốc sử quán cũng bị những quy định khống chế chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế của triều Nguyễn đương thời. Điều này được thể hiện rất rõ trong các bộ sách do Quốc sử quán chủ trì thời kỳ này, như Đại Nam thực lục phần Đệ lục kỷ chính biên, Đệ lục kỷ phụ biên và Đệ thất kỷ chính biên hay Đồng Khánh dư địa chí… Nội dung của bộ địa chí được biên soạn dưới triều vua Đồng Khánh đề cập đến Bắc Kỳ và Trung Kỳ (từ Cao Bằng đến Bình Thuận), mà không hề đề cập đến vùng đất phía nam, vì lúc này Nam Kỳ đang thuộc quyền cai trị của thực dân Pháp.
Đại Nam thực lục đệ lục kỷ chính biên do Cao Xuân Dục làm Tổng tài viết về thời kỳ vua Hàm Nghi (1885) và vua Đồng Khánh (1886-1888) cũng không tránh khỏi sự hạn chế bởi thời cuộc khi biên soạn nội dung của bộ sách. Phần Phàm lệ của kỷ này được các Sử quan phụ trách Quốc sử quán viết rõ nguyên tắc biên soạn chính: “Nay chép từ ngày 10 tháng 8 năm Hàm Nghi nguyên niên (1885) đến cuối tháng 12 năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), phàm liên quan đến tất cả chính sự, chế độ, có điều gì mới định, hoặc thay đổi… phải chép ở tiết đầu thì hết thảy phỏng theo cách chép ở hai kỷ đệ tứ, đệ ngũ mà chép”(18). Nhưng ngay đoạn văn dưới lại cho biết nguyên nhân việc bổ sung thêm năm dương lịch và giữ nguyên niên hiệu triều Thanh như sau: ”Các kỷ trở về trước (tức Tiền biên đến đệ ngũ kỷ), dưới chỗ biên năm đều có chua niên hiệu nhà Đại Thanh, để cho liên quan với nhau. Nay chép,… năm Hàm Nghi nguyên niên trở về sau, sự thể so với kỷ trước khác hẳn, nước ta cùng với nước Đại Thanh không quan thiệp nữa. Duy chỉ cùng nước Pháp chính là quan thiết. Nhưng nước Đại Thanh cũng là nước lớn ở phương Đông, lại cùng nước ta liền nhau, nên hãy còn chép như cũ, để biết các đời. Còn dưới chỗ biên năm ấy, trước hết chua Tây giáng sinh mấy năm, sau đến niên hiệu Đại Thanh năm thứ mấy, đó là tùy thời mà đổi lệ”(19).
Sự can thiệp sâu hơn của thực dân Pháp trong những năm đầu thế kỷ XX đối với hoạt động của Quốc sử quán được minh chứng bằng các công trình của Quốc sử quán biên soạn trong giai đoạn này. Bộ Đại Nam nhất thống chí do Cao Xuân Dục làm Tổng tài được viết trong thời vua Duy Tân (1907-1916) chỉ viết về các tỉnh thuộc Trung Kỳ, còn Nam Kỳ và Bắc Kỳ thuộc phạm vi thực dân Pháp quản lý nên không đưa vào.
Nội dung của Đệ lục kỷ phụ biên và đặc biệt là Đệ thất kỷ chính biên chủ yếu tập trung viết về quan hệ giữa triều đình Huế với thực dân Pháp, đại diện là Toàn quyền, Thống sứ… Phần quan hệ với triều Thanh, Trung Quốc không được đề cập, thậm chí niên hiệu của các vua triều Thanh cũng không được ghi bên dưới nữa. Điều 6 phần Phàm lệ của Đệ thất kỷ chính biên quy định nhằm đề cao hơn vai trò của nước Pháp, mỗi khi có sự kiện liên quan đến nhà vua, cùng các nhân vật trọng yếu của nước Pháp đều cho phép được viết đài (tức là viết cao lên so với các dòng chữ thường khác)(20). Điều 7 Phàm lệ bổ sung việc viết nguyên ngữ Pháp văn bên dưới chữ Hán phiên âm: ”Nếu gặp tên người, tên đất của nước Đại Pháp đã dùng chữ Hán để viết như Toàn quyền Ba Lăng, Khâm sứ Lê Phong, tên đất như Ba Lê, Li Ông, nay xin chú thêm nguyên chữ Pháp ở dưới để tiện tra cứu”(21). Cho nên khi đọc bản chữ Hán viết tay viết về triều Khải Định (1916-1925), chúng ta bắt gặp không ít các Sử thần của Quốc sử quán chú thêm nguyên chữ Pháp bằng bút mực. Thí dụ: viên Khâm sứ tại Kinh thành phiên âm chữ Hán là Sa Lê, chú bên dưới là Charles, Khâm sứ đại thần phiên âm chữ Hán là Lô Mạc San, bên dưới chú là Le Marchant de Trigon(22).
Đương thời, tầng lớp Nho học của triều Nguyễn đã có ý thức rút gọn các bộ sách của Quốc sử quán như Cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí..., tạo thuận tiện cho những ai muốn nghiên cứu và đọc hiểu lịch sử dân tộc và triều Nguyễn. Vì vậy, đã có nhiều tác phẩm được xuất hiện như: Việt sử thông giám khảo lược của Nguyễn Thông, Khâm định Việt sử cương mục tập yếu của Nguyễn Sư Hoàng, Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng, Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng(23). Tất cả các sách trên đều dựa vào Khâm định Việt sử thông giám Cương mục để giản lược, giải thích rõ thêm từng lĩnh vực được phản ánh trong Cương mục, nhằm mục đích có thể đưa bộ sách phổ cập tới nhiều người, cho nên được xếp vào những tác phẩm thuộc hệ phái của Cương mục(24).
Sau khi được giữ chức vụ Phó Tổng tài Quốc sử quán năm 1898, Cao Xuân Dục đã cùng với các Sử thần triều Nguyễn tham gia biên soạn Đệ tứ kỷ, Đệ ngũ kỷ của bộ Đại Nam thực lục. Phần Tiền biên đến Chính biên đệ tam kỷ đã được khắc in năm 1879, đến năm 1899 lại chuẩn bị in khắc Đệ tứ kỷ. Trước thực trạng các bản in ra từ trước vẫn được cất giữ cẩn thận trong kho kín của triều đình, không cho phép người ngoài vào sao chép, năm 1899, Cao Xuân Dục đã làm một bản Tâu xin được truyền bá rộng rãi bộ sách này (Nghĩ thỉnh công truyền Thực lục)(25), trong đó ông cho biết, ngay đến bản thân đương là đại thần giữ trọng chức Phó Tổng tài mà ”thần cũng chưa dám tự tiện đem đọc, từ đó thì biết hạng thần dân khác tất làm sao mà tới sự nghiệp thành tựu sáng ngời đó được”(26). Ông cũng có nguyện vọng được sao chép một bản để làm ”gia bảo”(27).
Vào năm Thành Thái 16 (1904), Đại Nam thực lục đệ lục kỷ chính biên được hoàn thành, Tổng tài Cao Xuân Dục cùng các đại thần Quốc sử quán đã trình tâu nhà vua ngự lãm, đến năm Duy Tân thứ ba (1909) được khắc in. Như vậy, Đại Nam thực lục từ Tiền biên đến Đệ lục kỷ chính biên đã được in khắc xong vào năm 1909. Bản dịch toàn bộ phần này được Viện Sử học cho công bố mà chúng tôi đã trình bày ở phần trên. Số lượng 463 quyển chữ Hán của bộ sách đã khiến cho việc lưu truyền rộng rãi trong hệ thống quan lại triều Nguyễn cũng đã vô cùng khó khăn. Người dân muốn tìm đọc để hiểu nội dung của bộ sách cũng gần như không tưởng.
Năm 1908, triều đình giao cho Cao Xuân Dục, đứng đầu nhóm biên soạn trong Tu thư cục tiến hành rút gọn bộ Đại Nam thực lục (từ Tiền biên đến đệ lục kỷ chính biên) theo ý chỉ của vua Duy Tân. Bộ sách này được mang tên Quốc triều sử toát yếu gồm 7 quyển chia thành 2 phần: Quốc triều Tiền biên toát yếu (1 quyển) và Quốc triều Chính biên toát yếu (6 quyển). Mục đích của việc biên soạn sách Toát yếu cũng nhằm công bố cho đông đảo người đọc có thể tiếp cận được bộ sử tóm tắt của triều Nguyễn. Sách Quốc triều sử toát yếu do Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục soạn vào năm Duy Tân 2 (1908) là tóm
lược của bộ Đại Nam Thực Lục (Tiền biên, Chính biên) từ năm 1558 đến khi Thành Thái lên ngôi năm 1889.
Nội dung của phần Tiền biên toát yếu (1 quyển) lược biên các sự kiện chủ yếu trong Đại Nam thực lục tiền biên (12 quyển) viết về 9 đời chúa Nguyễn, từ chúa Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần, tức từ năm 1558 đến năm 1777.
Phần Chính biên toát yếu (6 quyển) được chia ra như sau:
Quyển I: Lược biên từ lúc Nguyễn Ánh khởi binh ở Gia Định năm 1778 đến 1801 (tức là giai đoạn trước khi vua Gia Long lên ngôi).
Quyển II: Lược biên triều vua Gia Long (1802-1820).
Quyển III: Lược biên triều vua Minh Mệnh (1820-1840).
Quyển IV: Lược biên triều vua Thiệu Trị (1841-1847).
Quyển V: Lược biên triều vua Tự Đức (1848-1883).
Quyển VI: Lược biên các triều vua Hiệp Hòa (1883), Kiến Phúc (1883- 1884), Hàm Nghi (1884-1885), Đồng Khánh (1886-1888)(28).
Theo thống kê của giới nghiên cứu, bộ Đại Nam thực lục (gồm Tiền biên và Chính biên đến Đệ lục kỷ) có 463 quyển, gồm 26.534 tờ(29), mỗi tờ gồm 9 dòng, mỗi dòng khoảng 21 chữ Hán, tổng cộng ước 5.014.026 chữ Hán, bản dịch ra tiếng Việt (chỉ tính 9 tập chính văn (Tập 1-9) không kể 1 tập sách dẫn (Tập 10) cũng có đến 8.500 trang, tổng cộng là 5.168.000 chữ. Với số lượng hàng vạn trang chữ Hán như trên, nhóm biên soạn Tu thư cục do Tổng tài Cao Xuân Dục chủ trì nỗ lực tiến hành viết thành một bộ sách giản lược 7 quyển, tổng cộng 541 tờ, tờ 2 trang, trang 8 dòng, chữ Hán viết chân phương rõ ràng. Một bộ sử rút gọn bằng gần 1/50 bản chính mà vẫn phản ánh được những nội dung chủ yếu cần thể hiện, đây thực sự là một kỳ công của nhóm biên soạn(30). Quốc triều sử toát yếu nhằm mục đích rút gọn, phổ thông, dùng làm giáo trình lịch sử triều Nguyễn để cho học trò đi thi, tuy vậy cũng vẫn được viết theo thứ tự niên đại. Vì vậy, học giả Trần Văn Giáp cho rằng: ”Bộ sử này là bộ sử tiếp theo bộ (Khâm định) Việt sử thông giám cương mục”(31).
Ngoài 02 bộ sách trên do Cao Xuân Dục chủ trì trong thời gian giữ chức Tổng tài Quốc sử quán, ông còn chủ biên các bộ sách khác như Đại Nam liệt truyện chính biên, Đại Nam nhất thống chí, Quốc triều hương khoa (32).
Quả thật, phân biệt rạch ròi những phần nào do chính Cao Xuân Dục trước tác trong những bộ sách mà ông giữ trọng trách Tổng tài là một điều vô cùng khó khăn và chắc chắn không thể thực hiện được. Chỉ biết rằng Tổng tài không chỉ là người đứng đầu cơ quan biên soạn lịch sử của triều đình, phụ trách toàn bộ quá trình biên soạn một công trình quốc gia mà còn phải trực tiếp chỉ đạo từ giai đoạn sưu tầm tư liệu đến khi bản thảo lần cuối để trình vua ngự lãm, phê duyệt (Khâm định). Vì vậy, Tổng tài có quan hệ mật thiết đối với toàn bộ đội ngũ biên tập như Toản tu, Biên tu, Khảo hiệu, Thư thủ… Tổng tài cùng với Phó Tổng tài, Toản tu hợp thành Hội đồng chỉ đạo trực tiếp biên soạn Quốc sử. Có thể khẳng định dấu ấn của Tổng tài được lưu lại trên từng trang viết của bộ sử. Cho nên, vai trò của Tổng tài rất quan trọng, có một tác dụng không nhỏ trong quá trình chuẩn bị tư liệu, xây dựng Đề cương, Phàm lệ, biên soạn bản thảo, sửa chữa, bổ sung, hoàn chỉnh. Tổng tài là những đại thần có phẩm hàm cao, xuất thân từ những người đỗ thứ bậc cao trong các kỳ thi Hội, thi Đình, có thâm niên công tác, đạo đức, uy tín, được các quan trong triều nể trọng. Khi lựa chọn người giữ chức Tổng tài ở các triều đại Việt Nam hay Trung Quốc, đều phải do đương kim Hoàng đế trực tiếp xem xét, bổ dụng.(30)
Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn thường là những đại thần hàm Nhất phẩm kiêm nhiệm. Thí dụ như: Phan Thanh Giản là Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Hộ bộ Thượng thư, kiêm lĩnh Quốc Tử Giám sung Cơ mật viện đại thần, Nguyễn Hữu Độ là Cần chính điện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện Đại thần… Bản thân Cao Xuân Dục đương thời là Hiệp biện Đại học sĩ kiêm quản Quốc tử giám, tước An Xuân nam, hơn nữa, ông lại là một sử quan có thâm niên kinh nghiệm, từng là Toản tu, rồi Phó Tổng tài tham gia biên soạn, chỉnh lý Đệ tam kỷ, Đệ tứ kỷ của Đại Nam thực lục. Cho nên, vua Tự Đức hoàn toàn tin tưởng ở năng lực, phẩm hạnh cùng lòng nhiệt tình trong việc làm sử của Cao Xuân Dục. Theo chúng tôi, ông được trao chức Tổng tài Quốc sử quán lúc độ tuổi hoa giáp (tròn 60 tuổi) vào năm 1902 (Xin xem thêm phân tích trong chú thích 13 của bài viết này – NHT).
Nội dung và cách thể hiện trong các tác phẩm mà Cao Xuân Dục với trách nhiệm Tổng tài cũng không thể vượt qua khuôn mẫu chung của triều đình phong kiến quy định và sự kiểm soát ngặt nghèo của phía Pháp. Tuy vậy, với cách điều hành khéo léo và phong cách viết riêng vẫn làm nổi bật tinh thần yêu nước, tôn trọng truyền thống dân tộc, lịch sử khách quan của người chủ biên và nhóm biên soạn. Chúng ta có thể đưa ra những minh chứng trong sách Quốc triều sử toát yếu phần viết về phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta, các nhân vật lịch sử trong giai đoạn chống Pháp xâm lược (như Phan Đình Phùng, Nguyễn Cao, Nguyễn Tri Phương(33)).
Quốc triều hương khoa lục, ”trên phương diện sử học… là một tác phẩm có giá trị đặc biệt, với ghi chép khá chính xác và có hệ thống về toàn bộ 47 khoa thi Hương triều Nguyễn bao gồm cả quy định, thể thức, kết quả thi cử lẫn danh sách cụ thể, tiểu sử vắn tắt của hơn 5.000 người đậu Cử nhân ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX”(34). Tác phẩm đó cũng đã có những trang, dòng viết thể hiện tình cảm đồng tình của chủ biên đối với những trí thức Nho học chống Pháp như Nguyễn Hữu Huân, Lê Trung Đình… hay với các chí sĩ yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu…
Tất nhiên, những ghi chép đó có thể chưa thỏa mãn việc tìm hiểu sâu sắc về cuộc đời, sự nghiệp cũng như đánh giá khách quan về các nhân vật lịch sử từng đỗ đạt. Nhưng cũng không thể đòi hỏi một vị Tổng tài như Cao Xuân Dục sống trong bối cảnh lịch sử rối ren dưới thời đại phong kiến với sự kiểm soát gắt gao của chính quyền thuộc địa Pháp viết ra toàn bộ chân thật lịch sử được. Giới sử học nước nhà cần đánh giá cao thái độ tích cực bảo vệ truyền thống sử học một cách uyển chuyển, khôn khéo của Tổng tài Cao Xuân Dục.
Sau một thời gian tham gia chính sự, Cao Xuân Dục làm bản Tấu trình xin về hưu trí (Cẩn tấu vi tương trần khẩn trí sự) dâng lên vua Duy Tân năm thứ 7 (1913). Ông tổng kết cuộc đời hoạn lộ trong 36 năm 6 tháng của mình với quá trình thăng trải nhiều trọng chức tại các địa phương và trong triều. Bất kỳ ở một cương vị nào, ông cũng luôn nhắc nhủ mình phải hoàn thành việc chăm lo dân chúng, tránh phạm vào những sai lầm lớn ảnh hưởng đến triều đình: ”Đã nhiều phen ra Nam vào Bắc… Phụng sự trải mấy triều vua gửi gắm lo toan phương diện. Vào lúc đương thời, thời cuộc gian khó mà công việc lớn lao, trách nhiệm nặng nề mà tài hèn sức yếu. Nên trong khi ngăn chặn giặc dã, chăm sóc dân lành, chỉ giữ được mình không phạm lỗi lớn…”(35).
Nếu trên phương diện quốc gia, Cao Xuân Dục là một ”lương thần” (bề tôi tài giỏi) phụng sự hết lòng cho vương triều Nguyễn, thì trong gia tộc, ông là một “nghiêm phụ” (người cha nghiêm khắc), là tấm gương tiêu biểu đã rèn giũa dạy dỗ, bồi dưỡng các em cùng các con cháu hiển đạt. Dòng họ Cao ở Diễn Châu là một danh gia vọng tộc nổi tiếng xứ Nghệ, với nhiều người thành danh trong quan trường và khoa cử, trong đó người khởi nguồn là Cao Xuân Dục(36). Đặc biệt trên lĩnh vực sử học, ông cùng người con trai là Cao Xuân Tiếu đã góp phần đáng kể vào bộ Đại Nam thực lục. Cao Xuân Dục giữ vai trò Tổng tài phụ trách Phần đệ lục kỷ chính biên, thì Cao Xuân Tiếu đương nhiệm Thượng thư cũng được sung vào đội ngũ sử quan với chức trách Toản tu, tham gia biên soạn phần tiếp theo là Đệ lục kỷ phụ biên (37).
Trong lịch sử sử học Việt Nam, hai cha con cùng làm Quốc sử cho một vương triều là điều hiếm thấy. Vào thời Lê – Trịnh có Nguyễn Hoàn và con trưởng là Nguyễn Sá đồng thời được cử vào biên tập sách Quốc sử tục biên. Sử chép: Mùa thu năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), Chúa (Trịnh Sâm) sai làm Quốc sử, (vì) từ năm Vĩnh Trị thứ nhất (1676) về sau chưa có (Quốc sử) tục biên. Chúa bèn sai Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Vũ Miên kiêm chức Tổng tài và các Nho thần làm Toản tu: Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn, Nguyễn Sá đều dự làm Quốc sử (38). Gia đình Cao Xuân Dục là trường hợp thứ hai ”phụ tử kế thế” (cha con nối đời) dự vào đội ngũ Sử quan soạn Quốc sử. Đây cũng là niềm vinh dự lớn lao đáng tự hào của dòng họ Cao ở Diễn Châu, Nghệ An.
_________
(1) Trần Văn Giàu (1992), “Vài nhận xét về thời nhà Nguyễn”, Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.18.
(2) Trần Văn Giàu (1992), “Vài nhận xét về thời nhà Nguyễn”, Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.21.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.816.
(4) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.816-817.
(5) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr.828. Bộ Hoàng Việt luật lệ đã được Viện Sử học cho công bố vào năm 2009, cùng với bộ Quốc triều hình luật (tức bộ luật Hồng Đức triều Lê Thánh Tông) là hai bộ cổ luật duy nhất còn lại đến nay của các triều đại phong kiến Việt Nam. Xem thêm: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2009), Cổ luật Việt Nam: Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
(6) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr.807, 842, 905.
(7) Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.63.
(8) Đinh Xuân Lâm (1992), “Vũ Phạm Khải, nhà sử học yêu nước có quan điểm tiến bộ”, Kỷ yếu Hội nghị tưởng niệm danh nhân Vũ Phạm Khải (1872-1992), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
(9) Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr.66.
(10) Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr.133.
(11) Chúng tôi không rõ căn cứ vào đâu, học giả Trần Văn Giáp trong sách “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam” khi giới thiệu về bộ Đại Nam thực lục lại viết rằng, bộ sách này gồm 560 quyển (tr.129). Chúng tôi đã trực tiếp thống kê theo 6 Kỷ của Đại nam thực lục do chính Trần Văn Giáp cung cấp và qua bản chữ Hán, bản dịch, tổng cộng cũng chỉ có được 463 quyển. Nếu cộng thêm cả Đệ lục kỷ phụ biên (29 quyển) và Đệ thất kỷ chính biên (10 quyển) đang ở dạng bản thảo chữ Hán chép tay thì tổng cộng cũng chí có 502 quyển. Có lẽ học giả Trần Văn Giáp đã viết nhầm từ 502 quyển thành 560 quyển. Các tác giả sau này khi sử dụng tư liệu của sách trên, đã không kiểm tra lại mà vẫn để nguyên tổng số 560 quyển. Nhân đây xin được đính chính lại (NHT).
(12) Gần đây, Cao Tự Thanh đã cho công bố bản dịch Đại Nam thực lục Đệ lục kỷ phụ biên (do Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ ấn hành, Tp.Hồ Chí Minh, 2011).
(13) Có nhiều tác giả cho rằng vào năm 1898, Cao Xuân Dục đã được nhận chức Tổng tài Quốc sử quán (ngay trong nguyên chú Biểu tạ đội ơn thực thụ Hiệp biện sung Sử quán, Cao Xuân Dục cũng ghi: Phụng mệnh sung làm Tổng tài ở Quốc Sử quán). Trong bộ Đại Nam thực lục Chính biên đệ ngũ kỷ, phần lời Tâu của Tổng tài và Toản tu Quốc sử quán (năm 1900) cùng phần Danh sách tên và chức tước Tổng tài, Phó Tổng tài (1902) có chép: Tổng tài là Thái tử Thiếu phó, Đông các Đại học sĩ sung Kinh diên giảng quan, kiêm quản Quốc tử giám Trương Quang Đản. Phó Tổng tài có 3 người là: Nguyễn Thuật, Hoàng Hữu Xứng và Hiệp biện Đại học sĩ, kiêm quản Quốc tử giám, tước An Xuân nam Cao Xuân Dục. Như vậy, theo chúng tôi, vào năm 1898 Cao Xuân Dục mới chỉ chính thức (thực thụ) được giữ chức Hiệp biện Đại học sĩ và được sung làm Quốc sử quán Phó Tổng tài, đến năm 1902 mới được ban Quốc sử quán Tổng tài để chỉ đạo biên soạn Đại Nam thực lục Chính biên đệ lục kỷ (năm 1902), và sau này là các bộ Đại Nam nhất thống chí (năm 1906), Quốc triều sử toát yếu (Tiền biên và Chính biên) (năm 1908)… Chúng tôi không rõ phần nguyên chú về Quốc sử quán Tổng tài vốn có phải của Cao Xuân Dục hay đã chép thiếu hoặc được chỉnh sửa từ Phó Tổng tài thành Tổng tài, xin được đưa ra như một nghi vấn (NHT).
(14) Cao Xuân Dục, Long Cương văn tập, nguyên văn chữ Hán, tr. 409.
(15) Cao Xuân Dục, Long Cương văn tập, tr. 146.
(16) Cao Xuân Dục, Long Cương văn tập, tr. 147.
(17) Cao Xuân Dục, Long Cương văn tập, tr. 151.
(18) Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 9, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.163.
(19) Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 9, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr.163.
(20) Đại Nam thực lục chính biên, đệ thất kỷ chính biên, Ký hiệu VIET/A HIST.10.(1), Bản viết tay chữ Hán, bản scan lưu tại Viện Sử học, tờ 3a.
(21) Sđd, tờ 3b.
(22) Sđd, tr. 34.
(23) Nguyễn Hữu Tâm (2011), “Quan điểm sử học của Đặng Xuân Bảng qua bộ Việt sử cương mục tiết yếu”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4.
(24) Nguyễn Hữu Tâm (2010), “Khiếu Năng Tĩnh – người viết bài Tựa sách Khâm định Việt sử cương mục tập yếu”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2 (406), tr. 28-35.
(25) Cao Xuân Dục, Long Cương văn tập, nguyên văn chữ Hán, tr. 317-318.
(26) Cao Xuân Dục, Long Cương văn tập, tr.42-43.
(27) Cao Xuân Dục, Long Cương văn tập, tr.43.
(28) Tác giả Chương Thâu đã nhầm khi viết “Quyển VI: việc từ Hiệp Hòa đến khi Khải Định mất, Thành Thái lên ngôi 1889”. Thực ra năm 1888 vua Đồng Khánh mất, chứ không phải là vua Khải Định mất. Xem thêm: Chương Thâu Tổng tài Cao Xuân Dục và bộ sách Quốc triều Chính biên toát yếu”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, 1998, tr.36.
(29) Lưu Xuân Ngân-Vương Tiểu Thuẫn-Trần Nghĩa chủ biên (2002), Việt Nam Hán Nôm văn hiến mục lục đề yếu, Thượng sách, Sở nghiên cứu Văn Triết thuộc Viện nghiên cứu Trung Ương Đài Loan xuất bản, tr.33. (Trung văn).
(30) Chương Thâu (1998), Tổng tài Cao Xuân Dục và bộ sách Quốc triều Chính biên toát yếu, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, tr. 33-40.
(31) Trần Văn Giáp (1970), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam, tập 1, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội, tr.259.
(32) Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam, tập 1, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội, tr. 276.
(33) Chương Thâu (1998), “Tổng tài Cao Xuân Dục và bộ sách Quốc triều Chính biên toát yếu”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, tr. 33-40.
(34) Cao Xuân Dục (1998), Quốc triều hương khoa lục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.17. Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch, Cao Tự Thanh hiệu đính và giới thiệu.
(35) Cao Xuân Dục (2012), Long Cương văn tập, Nxb Lao Động, Trung tâm văn hóa Đông Tây, Hà Nội, tr. 150-151, Nguyễn Văn Nguyên dịch, chú, (Xin cảm ơn gia đình ông Cao Xuân Trứ đã cung cấp tư liệu).
(36) Chương Thâu (2005), “Cao Xuân Dục, nhà văn hóa lớn thời cận đại”, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Diễn Châu, 1380 năm Diễn Châu (627-2007), Nghệ An, tr.255.
(37) Đại Nam thực lục chính biên, Đệ lục kỷ phụ biên, Ký hiệu VIET/A HIST.9.(1), Bản viết tay chữ Hán, bản scan lưu tại Viện Sử học, tờ 6b.
(38) Đại Việt sử ký tục biên (1676 – 1789) (1991), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 397
Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) – 2013
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Thư ngỏ gửi ông Cao Xuân Tứ
(Muộn còn hơn không)
Vẫn chuyện chủ khảo Cao Xuân Dục Nguyễn Thị Chân Quỳnh Vì mục lực kém tôi không đọc được trên mạng nên đến bây giờ, cuối tháng 3/2009, tôi mới được một người chuyển cho bài "Sờ râu các cụ khảo quan" của ông Cao Xuân Tứ (CXT), viết từ năm 2002, phê bình tôi sau khi đọc bài "Vì sao tôi nghiên cứu Khoa cử" của tôi (Hợp Lưu số 63, năm 2002).
Bài dài tới 13 trang, chia làm 5 phần, song chỉ ba phần đầu có liên quan đến tôi, phản bác ý kiến của tôi là Quốc Triều Hương Khoa Lục (HKL), mà tác giả là Cao Xuân Dục, đã chép sai. Dựa vào ảnh của Salles chụp lễ Xường danh trường Hà Nam khoa Đinh Dậu, mà Daney in lại một phần trong Quand les Francais découvraient l'Indochine (Khi người Pháp khám phá ra Đông Dương) tôi chứng minh CXD mới là Chủ khảo trường Hà Nam khoa Đinh Dậu (1897) chứ không phải là Chủ khảo khoa Giáp Ngọ (1894) như HKL đã chép.
Sau đây xin trích lại những ý chính của ông CXT :
- "muốn bàn chuyện khoa cử ngày xưa trước hết mình cũng cần tí vốn liếng chữ Hán (để tra khảo sách Hán Nôm qua văn bản gốc mỗi khi cần) ít ra như cỡ ông Trần văn Tích (...) Nếu không biết chữ Tàu, chữ Nôm thì nhờ người khác đọc hay dịch hộ, chẳng chết ai..."
- "Nhà học giả nhận xét rằng theo HKL thì CXD là chủ khảo kỳ thi Hương năm Giáp Ngọ 1894 ở Nam Định, trong khi những hình ảnh của Selles chụp nhân dịp xướng danh khoa Đinh Dậu 1897 (...) in lại trong sách của Daney lại có sự hiện diện của CXD ở đấy (mà theo bà Nguyễn Thị Chân Quỳnh là với tư cách chủ khảo kỳ thi Hương này). Như vậy, theo bà, HKL (mà tác giả là CXD) đã chép nhầm về khoa thi do chính tác giả làm chủ khảo (...) Sự hiện diện của ông (CXD) trong lễ Xướng danh khoa 1897 chỉ có tính cách nghi lể trên cương vị quan đầu tỉnh (tổng đốc Nam Định-Ninh Bình) chứ không phải với tư cách chủ khảo khoa thi Hương này. Để kiểm tra, khi nhìn những bức ảnh in lại trong sách của Daney chỉ có cái ảnh CXD (ông Tây ghi là le tong doc, đúng quá) đứng một mình trơ trọi, có lọng che là...CXD (...) Còn trong số mấy ông khảo quan ngồi trên ghế cao lêu nghêu không có ông nào là CXD cả cho dù có lấy kính lúp xem lòi cả tròng (...) cũng chịu thua không tìm đâu ra cụ Cao".
- Nếu muốn tìm hiểu sự thật thì "Khó gì, mở cuốn HKL ra xem thì thấy rành rọt chủ khảo khoa này là Đồng Sĩ Vịnh, Phó Chủ khảo là Nguyễn Quán. Trong số mấy ông ngồi trên ghế cao lêu khêu hoặc ăn yến chắc là có hai ngài này (...) Có một ông diện mạo oai vệ, đầu chít khăn, phải chăng là Hoàng Cao Khải, Kinh Lược Sứ Bắc kỳ ? Xin nhờ Sherlock Holmes An Nam nào điều tra hộ".
- " bà học giả đã quên hay chưa đọc tiểu sử CXD", nhưng ông đã đến Viện Hán Nôm đọc "An Xuân Nam CXD lý lịch" và đọc "Notices nécrologiques S.E. CXD" của Charles Patris trong Bulletin des Amis du Vieux Hue, 1923, nên biết năm 1897 CXD đang làm Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình ắt không thể đồng thời làm Chủ khảo trường Nam được.
- "...mong rằng các nhận xét cụ thể, kinh nghiệm "thực địa", chút khơi mào về tư liệu có thể mở ra hướng nghiên cứu mới".
Tuy ông CXT chỉ điểm những chỗ "sai lầm" cho tôi song lại mở đầu bằng câu :"Thân gửi tác giả Sự muôn năm cũ" (tức BS Trần văn Tích), và sau khi cho biết ông đã đi các Thư viện để đọc bản gốc chữ Hán ông kết thúc bài với câu :"Cũng may mà mình mù Hán tịt Nôm".
Xin trả lời ông CXT :
Rất tiếc là những "cao luận" của ông chưa thuyết phục được tôi, tôi vẫn giữ y nguyên kết luận bài "Ai là Chủ khảo trường Hà Nam khoa Đinh Dậu ?" (Thế Kỷ 21, số 2, 1989) : CXD chính là Chủ khảo trường Hà Nam khoa Đinh Dậu (1897) chứ không phải Chủ khảo khoa Giáp Ngọ (1894) như HKL đã chép.
Dưới đây là những lý do khiến tôi không phục những "cao luận" của ông CXT :
1- Ảnh : Trông gà hóa cuốc : Salles không phải là Daney
Ông CXT nhận xét :"Sự hiện diện của CXD trong lễ Xướng danh khoa 1897 chỉ có tính cách nghi lễ trên cương vị quan đầu tỉnh (tổng đốc Nam Định-Ninh Bình) chứ không phải với tư cách chủ khảo (...) Xem ảnh của Daney chỉ có cái ảnh CXD (ông Tây ghi là le tong doc, đúng quá) đứng một mình trơ trọi, có lọng che là... CXD (ảnh 1, tr 92) ...còn trong số mấy ông khảo quan ngồi trên ghế cao lêu nghêu không có ông nào là CXD cả cho dù có lấy kính lúp xem lòi cả tròng (...) cũng chịu không tìm đâu ra cụ Cao (...) Dễ hiểu thôi, ai mà chẳng biết mấy khi quan đầu tỉnh lại được cử đi làm chánh chủ khảo ngay ỏ trường Nam Định (...) Thế là đóng hồ sơ cái rụp".Nhưng thưa ông, hồ sơ chưa đóng được : Cái ảnh ông quan một lọng (tr 92) mà ông nhìn nhận là CXD lại... không phải là CXD ! Tuy Daney chú là "le tong doc" nhưng (như ông đã viết trong chú thích 17 của ông) "tổng đốc ngang với hàm thượng thư", vậy thì nghi vệ phải đủ bốn lọng che chứ không thể chỉ một lọng như một Tân khoa quèn vừa mới thi đỗ (ảnh 3, tr 95). CXD lúc ấy, theo ông, là Tổng đốc Nam Định sao lại chỉ có một lọng che, ba lọng kia cụ Cao cất giấu ở đâu mà kỹ thế ?
Nếu ông xem kỹ hơn sẽ thấy tr 95 cũng có "le tong doc" ngồi dự yến hạng nhất với Công sứ Lenormand, khuôn mặt "le tong doc" tr 95 khác hẳn "le tong doc" tr 92, khác đến nỗi ông không nhận ra, và phải mô tả là một ông quan "chít khăn" và "diện mạo oai vệ", ông đoán có lẽ là Hoàng Cao Khải, Kinh Lược Sứ, nhưng không dám chắc nên kêu gọi Sherlock Holmes An Nam tìm hộ xem đích xác là ai. S. Holmes có mặt và xin thưa :"Chính là cụ cố nhà ta đấy ạ". Sở dĩ tôi dám cả quyết thế vì đã đến tận kho ảnh của Salles xem và chọn thêm mấy cái mà Daney không in trong sách ông ta, trong đó có ảnh chụp một ông quan cũng đứng một mình, nhưng che bốn lọng, được Salles chú rõ là "Chủ khảo CXD, chụp ngày 27/12/1897", và một ảnh chụp trưởng nam của CXD là Cao Xuân Tiếu, cùng chấm thi một khoa với cha, với tư cách là Giám khảo. Cả hai ảnh này tôi đều in lại trong quyển Thi Hương (Paris : An Tiêm, 2002 và TPHCM, Trung Tâm Nghiên cứu Quốc học, 2003), riêng ảnh cụ Thượng Cao còn in trong bài "Ai là Chủ khảo trường Hà Nam khoa Đinh Dậu ?" (Thế Kỷ 21 số 2, 1989 và "Lối Xưa Xe Ngựa..." , tập 1, Paris : An Tiêm, 1995). Tôi đã gửi tặng ông CX Hạo hai quyển "Lối Xưa Xe Ngựa..." tập I và Thi Hương do An Tiêm xuất bản. Năm 2003 tôi về Việt Nam có lại thăm ông Hạo và khi ông biết tôi chưa được thấy quyển Thi Hương do Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học in, đã vào nhà lục tìm cho tôi xem nhưng một lúc sau ông trở ra nói tiếc rằng "chi trưởng" đã mượn. Có nghĩa là ông CX Hạo có cả mấy quyển sách của tôi chụp lại ảnh Chủ khảo CXD. Ông CXT đã đi tìm văn bản gốc trong các Thư viện nhưng dường như Thư viện gia đình thì ông lại không ngó đến. Ông lầm ở chỗ trong "Ai là chủ khảo..." cũng như trong "Vì sao..." tôi đều cẩn thận viết rất rõ là tôi dựa vào ảnh của Salles, song ông lại chỉ căn cứ vào ảnh của Salles do Daney in lại để viết bài phê bình tôi, mà Daney lại chú thích sai nhiều chỗ ông CXT không nhìn thấy, không thế thì ông CXT đã "không có chuyên để động não chắc sẽ... buồn ngủ" như S. Hlomes chính hiệu !Daney không in lại ảnh Chủ khảo CXD bốn lọng nhưng không phải không in ảnh CXD. Sự thật, CXD xuất hiện tới ba lần trong sách của Daney, tại ông CXT không xem kỹ nên không nhận ra cụ cố. Nếu ông nhìn khuôn mặt người ngồi giữa bức ảnh chụp "Toàn ban Giám khảo" (Le jury au grand complet) ở hai trang 86-87 mà dường như ông không trông thấy (vì không có kính lúp ?) nên không đả động tới, sẽ thấy rất giống khuôn mặt người ngồi dự yến hạng nhất với Lenormand "diện mạo oai vệ" (tr 95), giống cả ông quan đứng nhận lễ tạ ơn của các Tân khoa tr 93 và cũng rất giống... Chủ khảo CXD bốn lọng. Chỉ vì ông quá tin vào câu chú thích cái ảnh tr 92 của Daney "M. Se le tong doc de la province" (mà ông khen "đúng quá") rất hợp với tiểu sử CXD ông đã dẫn nên "quên" không nhìn đến cái ảnh số 2 tr 95, cũng được Daney chú là "le tong doc" song khuôn mặt "le tong doc" này đã không giống "le tong doc" trang 92, mà lại giống ông quan ngồi giữa ảnh "Toàn ban Giám khảo". Tôi đã chỉ cho Daney những chỗ sai lầm của ông ta và Daney nhìn nhận có biết mình sai nhưng là sau khi sách đã in ra.Tóm lại, CXD được Salles chụp ít nhất bốn lần (song Daney chỉ in lại có ba, và chú thích sai lầm) :
- Đứng một mình che bốn lọng (Daney không in lại)
- Ngồi dự yến hạng nhất với Lenormand (tr 95)
- Ngồi chính giữa ảnh chụp toàn ban Giám khảo (tr 86-87)
- Đứng nhận lễ tạ ơn của các Tân khoa (tr 93, ảnh 3)
toàn là những ảnh chứng tỏ vai trò quan trọng của người trong ảnh, và cả bốn cùng một khuôn mặt. Salles ghi chú ảnh ông quan bốn lọng là Chủ khảo. Tôi tin Salles không sai lầm vì
Chủ khảo đi bốn lọng là phải, dự yến hạng nhất với Công sứ cũng đúng bởi đây là bữa tiệc ăn mừng kết thúc khoa thi, Chủ khảo mới là vai chính chứ không phải "le tong doc", trong toàn ban Giám khảo thì Chủ khảo phải được xếp ngồi chính giữa và dĩ nhiên người đứng nhận lễ tạ ơn của các Tân khoa cũng phải là Chủ khảo không thể là quan Tổng đốc đầu tỉnh được.
Tôi viết rõ trong "Ví sao..." là tôi dựa vào ảnh do Salles chụp và chú thích, ông không đọc kỹ, lầm lẫn Salles với Daney, chỉ sử dụng ảnh và chú thích của Daney. Ông đã đi các Thư viện để đọc bản gốc, tại sao không tìm đến kho "ảnh gốc" của Salles mà lại nghĩ xem ảnh Daney in lại cũng đủ ? Phải chăng ông cho chỉ văn bản gốc mới đáng tin cậy ? Xin hỏi đây có phải là thái độ của một "ông học giả" nghiêm túc ?
Tôi còn viết trong bài "Vì sao..." là Trần văn Giáp (TS Khai Trí Tiến Đức, 1941) đã nhận ra sự không thống nhất giữa ảnh của Salles và HKL"nên mới chú thích lọat ảnh của Salles kiểu "nước đôi" :"Kỷ niêm thi Nam khoa, Thành Thái Giáp Ngọ và Đinh Dậu". Chú thích như thế tỏ ra tác giả thận trọng, chưa giải quyết được thì tồn nghi, nhưng không ổn ở chỗ mỗi khoa người ta đề cử một ban Giám khảo mới, không thể nào cùng một ban Giám khảo lại được cử đi chấm hai khoa thi liên tiếp cùng một trường". Do tình cờ đọc Hồi ký của Toàn quyền Paul Doumer, tôi biết P. Doumer chỉ được cử sang làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897, ảnh của Salles có một cái chụp P. Doumer ở cổng trường, dự lễ Xướng danh khoa 1897, lại có ảnh chụp Chủ khảo CXD vậy thì rành rành CXD làm Chủ khảo khoa 1897 bởi 1894 P. Doumer còn ở Pháp, Salles không thể chụp ảnh được. Ông CXT cũng bỏ qua nhận xét của Trần văn Giáp, một mực vin vào Daney, không đếm kể đến Salles. Xin "Hãy trả cho César, à quên, cho ...Salles cái gì của Salles" !
Cụ Thượng Cao có linh thiêng mà biết có ông chắt (?) giỏi giang, thông kim bác cổ (thông thạo Hán Nôm, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng La tinh và cả quốc ngữ nữa, không những đã biết Sherlock Holmes, Dr Watson, Lê Phong mà các tác giả như Nguyễn Tuân, Lãng Nhân, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Sĩ Giác, Tú Mỡ, Vũ Bằng v.v...cũng không xa lạ đối với ông, trong nhà lại có trọn bộ 38 quyển dịch Đại Nam Thực Lục) thì hẳn cụ "ngậm cười nơi chín suối", song nếu cụ lại phát hiện ra ông chắt này khăng khăng không nhận ảnh Salles chụp cụ la cụ lại kiên quyết nhận "ông một lọng" thì không biết cụ sẽ cười hay khóc ? Ảnh cụ sờ sờ ra đấy tới ba cái mà ông không nhìn thấy dù là "bộ râu rất đẹp" của cụ mà ông thích, phải chăng vì ông lại quên kính lúp hay chưa xem đến "lòi tròng mắt" ?
2- Văn bản : HKL với "Lời nói đầu" của các dịch giả và "Tiểu dẫn HKL" (HKL, dịch giả Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn thị Lâm, TPHCM, 1993).Tôi đã chứng minh qua ảnh của Salles là HKL chép sai nhưng ông không chấp nhận lại dậy tôi muốn biết sự thật thì "Khó gì, giở HKL ra xem sẽ thấy chép rành rọt...". Xác minh HKL không chép sai khoa 1897 bằng cách giở HKL khoa 1897 ra làm bằng chứng, thành thật mà nói tôi không theo kịp cái "lô-gích" loanh quanh của ông !
Tuy vậy, tôi cũng vui lòng chứng minh thêm một lần nữa là HKL có chép sai và lần này dựa vào HKL, đúng như ý ông muốn. Trong "Lời nói đầu" (tr 8 và 9) các dich giả cho biết :
"Mặc dù là sách in HKL vẫn có nhiều sai sót về nội dung mà xét ra do cả khâu biên soạn lẫn việc in ấn (...) Chúng tôi có đối chiếu với các sách sử như Đại Việt lịch triều Đăng khoa lục, Đại Việt sử ký tòàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Khoa mục chí, Việt sử thông giám cương mục ... để đính chính (...) Nhưng khả năng bao quát cũng như điều kiện tư liệu của chúng tôi không đủ để phát hiện cũng như đính chính tất cả những sai sót (...) Có khá nhiều trường hợp mà ghi chép của HKL không thống nhất với một số sử sách cũng được biên soạn đồng thời như Đại Nam Thực lục (Chính biên và Tiền biên) chẳng hạn (...) Chúng tôi chủ yếu tập trung vào việc phiên dịch cho đúng chứ không xác lập một bản chính xác về mặt lịch sử".
- HKL chia ra hai phần : Chính biên, dừng lại năm 1893 và Tục biên chép từ 1894 cho đến 1919, khi Khoa cử bị bãi. Phần Chính biên do CXD chép và xác nhận (tr 47) ở cuối sách : .
"Ngay sau tiết Trùng cửu tháng cuối thu năm Quý Tị, Thành Thái thứ 5 (11-10-1893, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, An Xuân Nam, Cổ Hoan Long Cương Cao Xuân Dục, tự Tử Phát, viết ở hiên tây dinh thự.
(Hương á là Bạng Sa Cao Xuân Tiếu, con trai, và Mã Phong Đặng Văn Thụy, con rể hiệu đính)"
Phần Tục biên có nhiều dị bản, không thấy ghi rõ ai chép nhưng tôi nghi không phải là CXD viết tuy lúc ấy ông còn sống. Chỉ vì ông đứng tên là tác giả HKL nên có sự ngộ nhận lúc đầu là CXD chép sai, đúng ra phải viết là HKL chép sai. Tôi đã viết trong "Ai làm Chủ khảo..." (1989) là lúc ấy tôi chưa có HKL (sách chưa xuất bản) nên đã nhờ người tới Thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris (Ecole francaise d'Extrême Orient) tìm hộ trong HKL, bản chữ Hán, thành phần khảo quan khoa 1897 xem ai là Phó Chủ khảo vì theo Salles là Thân Trọng Koái nhưng Trần văn Giáp lại chú thích cái ảnh ấy của Salles là "Phó Chủ khảo Nguyễn Gia Thoại" (TS Khai Trí Tiến Đức số 2 và 3, 1941). Tuy chưa có bản dịch HKL nhưng tôi dã có bản Quốc Triểu Đăng Khoa Lục do Lê Mạnh Liêu dịch nên đã biết HKL chia làm hai phần : Chính biên và Tục biên và đã nghi là phần Tụcbiên có thể do người khác chép chứ không phải CXD vì "chữ viết ở hai phần khác nhau", theo lời người bạn đọc hộ bản chữ Hán.
Bây giờ thì có thể tạm "đóng hồ sơ cái rụp" !
- Ông CXT còn viết :"bà học giả quên hay chưa đọc tiểu sử CXD" nên không biết CXD làm Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình từ 1896 đến 1897, do đó không thể được cử làm Chủ khảo trường Nam khoa 1897."
Khi viết bài "Ai là Chủ khảo..." (1989) thì tuy chưa có kinh nghiệm nhưng tôi có dành một đoạn giới thiệu CXD, có điều không đi sâu vào chi tiết, chẳng hạn CXD làm Tổng đốc Nam Định từ 1896 đến 1897, theo ông CXT. Ông tin chắc vào chi tiết này vì đã đọc ở Thư viện Hán Nôm "An Xuân Nam CXD lý lịch" và "Notices nécrologiques S.E, CXD" của Charles Patris trong Bulletin des Amis du Vieux Hue. Rất tiếc là nó không phù hợp với những bằng chứng của Salles. Tôi chưa từng nghiên cứu tiểu sử CXD chưa thể hoặc không thể dứt khoát nói sự lầm lẫn do đâu mà ra mà chỉ có thể phỏng đoán hoặc giả CXD được đặc cách cử đi chấm khoa 1897 (điều này có thể xẩy ra) hoặc tiểu sử của CXD mà ông đã đọc trong Thư viện chép sai. Trong chú thích 1 của ông, chính ông CXT đã sửa tiểu sử ông đã đọc :"Thực ra, lúc mới về Huế năm 1898 ông (CXD) chỉ làm phó tổng tài Quốc sử quán, đến 1903 mới giữ chức tổng tài". Còn dựa vào ông Tây Patris thì chưa chắc đã hơn vì tôi nghi ông ta cũng chỉ đọc tiểu sử CXD trong Thư viện như ông CXT.Tôi tin là ống kính rất trung thực, thấy gì chụp nấy, quyết không thêm không bớt, cũng không "quên " điều gì trong khi văn bản do người sao chép, dù cẩn thận cũng có thể bị "tam sao thất bản".
Tuy ông CXT đã đi các Thư viện song nếu ông đọc các bản gốc cũng kỹ lưỡng như ông đã đọc bài "Vì sao ..." của tôi hay xem ảnh của Salles in trong sách của Daney thì, xin lỗi ông, tôi có quyền nghi ngờ, cổ nhân nói "sai một ly đi một dậm". Và mạo muội khuyên ông kiểm tra lại tiểu sử CXD, chẳng hạn trong sổ sách của bộ Lại hay các sắc chỉ vua ban v.v... hoặc đổi sang viết truyện hư cấu có lẽ thích hợp hơn.
3- Tìm hướng mới : Trong phần dẫn nhập ông CXT tỏ ý muốn "khơi mào về tư liệu (đọc bản gốc chữ Hán để đối chiếu) để có thể mở ra một hướng nghiên cứu mới", đó là ý kiến hay dù đã sáo cũ.
Mặt khác, ông lại khẳng định "Muốn bàn chuyện Khoa cử ngày xưa trước hết mình cũng cần có tí vốn liếng chữ Hán để đọc văn bản gốc", nếu không biết thì không nên bàn về một đề tài khó như Khoa cử. Đồng ý là muốn nghiên cứu sử sách cũ của Việt Nam thì rất nên "có tí vốn liếng" về Hán Nôm vẫn hơn song đấy có phải là điều kiện "sine qua non" (không có không được) ? Sinh thời cụ Lãng Nhân cũng đã khuyên tôi chỉ nên tin vào HKL nhưng sau khi đọc bài "Ai là Chủ khảo..." thì cụ không ngần ngại đổi ý. Sự thật là sự thật, dù nó do một người "mù Hán tịt Nôm" hay do một người "không có tí vốn liếng" nào phát hiện. Tôi biết đọc và biết viết từ 1 đến 10 không hiểu có thể xếp vào hạng "có tí vốn liếng" không ?
Nếu cứ khoanh tay ngồi đợi người có đủ vốn liếng Hán Nôm để viết về Khoa cử thì không chừng chúng ta còn phải đợi dài dài. Khoa cử bãi từ 1919 mà đến nay chỉ thấy lác đác vài ba người viết rất sơ lược như Dương Quảng Hàm, Trần văn Giáp, hay Nguyễn Q. Thắng (sách ông N.Q. Thắng xuất bản năm 1993 nghĩa là sau khi tôi quyết định viết về Khoa cử năm 1986). Vì Khoa cử là một đề tài quan trọng mà không thấy có ai viết nên tôi mới bất đắc dĩ "sắn tay áo" làm việc này chứ không phải tôi tự cho mình có đủ tư cách, bản lĩnh để viết về Khoa cử. Tôi chỉ làm cái việc "don dẹp cho quang", tránh cho những người đi sau khỏi mất thì giờ tìm hiểu những sai lầm tôi đã thấy, trong thì giờ chờ đợi một cuốn sách do một người có đầy đủ khả năng viết.
- Có điều khó hiểu là tuy ông CXT "muốn mở một hướng mới..." nhưng lại khăng khăng đòi phải "có tí vốn liếng" Hán Nôm để đọc bản gốc, tức là phải đi theo... con đường cũ. Ông chỉ chấp nhận đối chiếu giữa các văn bản, còn đối chiếu giữa ảnh và văn bản thì ông lại quay mặt đi ! Ảnh của Salles là chứng cớ rành rành nhưng ông tìm đủ cách để không đếm kể đến, hoặc chỉ nhắc đến một cách nửa vời qua sách của Daney. Ảnh do Salles chụp và chú thích hẳn phải đúng hơn Daney chú thích. Salles là người làm việc nghiêm túc, ghi rất rõ ngày, tháng, năm chụp, hơn nữa, tên người trong ảnh được bỏ đầy đủ các dấu sắc, huyền, hỏi vv... Ông ta là người Pháp tất nhiên không thể bịa đặt ra những tên như CXD hay CXTiếu song ông CXT lại không tìm xem kho ảnh của Salles. Còn Daney không phải chuyên gia về Việt học mà chỉ là một giáo sư dậy triết trong một trường trung học ở Paris, được quản lý loạt ảnh của Salles nên mói viết quyển Quand les Francais découvraient l'Indochine. Daney đã sai lầm mấy chỗ tuy chúng ta có thể " châm chước" được nhưng cũng cần nêu ra cho độc giả biết :
- tr 92, ảnh 1, Daney đưa ra ảnh "le tong doc" đứng một mình, có một lọng che (mà ông CXT phê "đúng quá" và cho biết ông Cao Xuân Cẩm còn đinh sao lại nhiều bản để chia cho họ hàng). Thật ra đấy chắc chắn không phải là ảnh một ông Tổng đốc vì chỉ có một lọng che.
- tr 95 ảnh 2 cũng chú là "le tong doc" đang dự yến nhưng ông này lại không giống ông tổng đốc tr 92. Hơn nữa, trong bữa tiệc ăn mừng kết thúc khoa thi thì Chủ khảo mới là vai chính, sao Lenormand lại ngồi với "le tong doc" ? Còn Chủ khảo, theo ông CXT đoán có lẽ ngồi chung trong các bàn tiệc khác, nghĩa là ngồi chung với các Tân khoa (cỗ hạng ba, bốn người một cỗ) hoặc các lại phòng giúp việc trong khoa thi (cỗ hạng ba, sáu người một cỗ) ? "Ai mà chẳng biết" Khoa cử kén người hỏi về đạo Nho, nếu xếp Chủ khảo ngồi ăn lẫn lộn với Tân khoa hay lại phòng thử hỏi còn gì là tôn ti trật tự, rất quan trọng đối với cụ Khổng ?
- Một sai lầm nữa của Daney ở tr 68, ảnh 2, ông ta đã chú là ảnh Phan Thanh Giản do Tran Nguon Han chụp năm 1873. Đúng là ảnh Phan Thanh Giản thật nhưng do người Pháp chụp khi ông là Chánh sứ sang Pháp (1863) điều đình chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Phan Thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử từ năm 1867, lẽ nào sống lại năm 1873 cho Tran Nguon Han chụp ?.
Phần kết :
Tôi đã chứng minh qua ảnh của Salles và HKL là HKL quả có chép sai về khoa 1897.Ông CXT không chấp nhận lập luận của tôi, tuyệt đối chỉ tin HKL và văn bản gốc chữ Hán, ông "nói có sách", nhưng tôi lại "mách có ảnh" tin vào ống kính của Salles hơn. Đối với tôi chuyện Chủ khảo khoa 1897 đã ngã ngũ từ lâu, ông CXT không đồng ý, đó là quyền của ông. Ai sai ai đúng đã có công luận.
Sau cùng, có một điều hơi kỳ quặc mà S. Holmes An Nam chậm hiểu, nghĩ mãi không ra là bài "Sờ râu..." có câu :"không biết chữ Tàu thì nhờ người đọc, dịch hộ..." nhưng lại gửi cho,,, BS Trần văn Tích ! Rõ ràng ông ám chỉ tôi, nếu ông thực tình muốn chỉ điểm những "sai sót" để tôi sửa lỗi thì sao không gửi thẳng cho tôi ?
Hà Nội, tháng 4, 2009Nguyễn Thị Chân Quỳnh[ Trở Về ] Khảo quan trường Hà-nam - Lễ Xướng Danh khoa Đinh Dậu (27/12/1897)
Ở giữa: Phó chủ khảo Đồng Sĩ Vịnh, Chủ khảo Cao Xuân Dục, Giám khảo Cao Xuân Tiếu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.