Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

18/05/2022

Thực hành Hầu Bóng đương đại - loạt bài trên Tạp chí Thời Đại 2022

Loạt bài đi dần trên tạp chí này, của nhiều tác giả.

Giao Blog đưa về lưu.

Tháng 5 năm 2022,

Giao Blog



---

1. Bài 1



Âm nhạc của một giá hầu (giá hầu: thời gian một vị Thánh nhập – xuất vào Thanh đồng) là sự hòa trộn của rất nhiều các thể loại âm nhạc dân gian; của yếu tố bình dân với bác học; của các giai đoạn lịch sử; của các hoạt động đời sống; của con người hiện thực với thế giới tâm linh, thần thánh; của sự bất biến, trường tồn với sự không ngừng sinh sôi, biến động... Một vũ trụ thu nhỏ của văn hóa Việt được thể hiện qua thế giới âm nhạc ở đây.




Theo nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan, người nghệ nhân biểu diễn của tín ngưỡng Tam phủ/Tứ phủ trước hết và có tính tiên quyết. Không có giọng hát hay không thể trở thành cung văn đích thực. Bởi giọng hát của cung văn là chìa khóa mở cánh cửa cảm xúc, nối sợi dây rung cảm giữa người trình diễn (dâng văn) đến với người ngồi đồng (chính là thanh đồng, người được Thánh nhập vào khi thực hành nghi lễ hầu đồng).

Do vậy, để trở thành một cung văn có văn - nhạc song toàn, các nhạc sinh cung văn mới nhập môn phải nhận được sự dạy dỗ rất nghiêm chỉnh của các bậc thầy đi trước. Họ phải theo thầy học nhiều năm (học tại gia, học tại đền, học ngay khi hầu Thánh). Học để không chỉ thuộc lời văn, mà còn để biết vận dụng văn đúng lúc, đúng giá đồng khi Thánh giáng; học để chơi thành thạo đàn nguyệt, đàn nhị, sáo, học thành thạo bộ gõ (trống, phách, mõ, chuông, bập beng, kẻng) và đặc biệt phải biết hát, biết “nới văn” để khích lệ ông/bà đồng khi đang nhập Thánh.

Giọng hát hay còn là lực đẩy mạnh mẽ, nhanh chóng đưa người ngồi đồng vào trạng thái nhập đồng. Chuyện kể của con nhang Bùi Văn Tương (Ninh Bình) về cung văn Viễn được thanh đồng Tuệ khi hầu giá ông Hoàng Bảy (Bảo Hà, Lào Cai) thưởng đến 5 triệu tiền lộc. Chính là nhờ sự thăng hoa của cung văn Viễn khi dùng lời ca, tiếng nhạc làm cho thanh đồng thêm say đắm, hay nói như dân trong nghề thì, cung văn “nịnh đồng” rất hay.

Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan cho rằng, nếu chỉ có giọng hát hay mà không biết chơi nhạc thì cũng không đủ tiêu chuẩn của một cung văn thực thụ. Do đó, muốn trở thành cung văn, người nghệ nhân phải hội tụ đủ hai yếu tố cung và văn. Văn là nội dung tư tưởng dâng trình Thánh, cung là biểu diễn các nội dung đó bằng âm nhạc.

Khi Thánh về nhập đồng, Thánh hành động, cung văn lại bị cuốn hút ngược lại vào quá trình hành động của Thánh đang diễn ra trên thân xác của thanh đồng. Sự kích hoạt này, làm cho cách hát của cung văn thay đổi nhịp độ, nồng độ (tempo) liên tục theo hành vi của vị Thánh khi đã giáng nhập vào thanh đồng.

Sự thay đổi tempo là nguyên nhân khiến cho cung văn phải tự đàn hát mới thực sự thỏa mãn sự hứng khởi cực thịnh của mình. Vì không tay đàn nào có thể theo kịp một cách hoàn hảo sự thay đổi tempo của cung văn khi dâng văn.

“Mặt khác, khi đàn hát cho thanh đồng, cung văn còn phải “đảo văn” (đảo lộn các câu văn trong khi hát không theo một trật tự), “nới văn” (hát thêm các đoạn văn, sáng tác thêm lời trong khi hát), “biến điệu” (là đảo lộn, thêm, bớt các điệu nhạc khi hát) thậm chí là thêm các thổ ngữ, thêm từ, thêm câu một cách ngẫu hứng để tạo thêm sự phong phú cho lời văn và gây thêm sự hưng phấn cho thanh đồng. Sự sáng tạo ngẫu hứng trong lúc hầu Thánh đó, buộc cung văn phải vừa làm nhạc công, vừa làm ca sỹ mới có thể đáp ứng kịp nhu cầu sáng tạo ngẫu hứng tức thì của mình khi hát”, Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan nhấn mạnh.

Theo nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Bùi Trọng Hiền, trước hết, cần phải thấy rằng nghệ thuật âm nhạc trong hát văn với hệ thống kỹ thuật biểu hiện phức tạp đã đạt tới tầm cao của một thể loại chuyên nghiệp trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam.

Ở đây, dường như chúng ta có thể cảm nhận được rằng không có một thể loại âm nhạc tôn giáo tín ngưỡng nào ở Việt Nam đạt được tầm cao về tính thẩm mỹ nghệ thuật như hát văn. Trong đó, chúng ta tìm thấy sự phát triển tột bậc cả về làn điệu âm nhạc cũng như hệ thống kỹ thuật biểu cảm của nhạc thanh.

Trong nghệ thuật hát văn không thể không nói đến hệ thống làn điệu phong phú, tinh tế, biểu cảm nhiều sắc thái tình cảm của con người thông qua bóng dáng của chư vị thánh thần. Trong đó, hình thành nhiều làn điệu mang tính chuyên dùng khá cao thể hiện những vai vế, tính cách và giới tính riêng biệt. Với sự đề cao những mô hình tiết tấu có tính chu kỳ, âm nhạc hát văn tựa như những vũ điệu của thánh thần, dìu dặt và mê hoặc lòng người. Cả cung văn và các con nhang đệ tử như tỉnh như say trong sự hòa quyện đồng điệu. Giai điệu tiếng đàn, giọng hát chầu văn có sức quyến rũ đặc biệt. Dập dìu trên nền nhịp phách lúc ẩn lúc hiện, nhiều làn điệu mang đậm tính trữ tình, như dáng vẻ của những gì ngọt ngào, mềm mại, thân thương của nữ tính - của Mẹ - Thánh Mẫu trong hệ thống thần điện Tam phủ/ Tứ phủ của người Việt.


Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Hải Minh, hát văn gồm sáu nhóm làn điệu chính: Nhóm bỉ, nhóm dọc, nhóm cờn, nhóm phú, nhóm xá, nhóm nhịp một và một vài làn điệu dân ca được chầu văn hoá.

Các điệu hát nhóm bỉ phần lớn tiết tấu, trường độ không rõ ràng. Âm nhạc mang tính ngâm ngợi, tự do. Điệu bỉ thường được dùng ở phần đầu của các bản văn hát thờ, văn thi hoặc được dùng trong các đoạn nối tiếp giữa các làn điệu, cũng có khi điệu bỉ được dùng để chuyển sang một làn điệu khác như bỉ chim thước ở giá Cậu, bỉ thơ ở giá ông Hoàng.

Bài 1: Bản giao hưởng của vũ trụ
Âm nhạc "dẫn dắt" hành động của thanh đồng.

Các điệu dọc, âm nhạc khúc chiết, kết cấu rõ ràng. Các làn điệu dọc thường được dùng ở các giá quan lớn, giá ông Hoàng, giá các Cô (đồng bằng), giá Cậu khi hầu đồng.

Các điệu cờn được phân ra làm hai loại: cờn xuân tính chất âm nhạc trữ tình tự sự, giai điệu mượt mà. Cờn oán có tính chất buồn ai oán nên được sử dụng trong hát văn thi, văn thờ, nhất là các bản văn mẫu.

Các điệu phú âm nhạc chậm rãi ngâm ngợi, tính chất thanh cao, nhịp điệu tự do. Bởi tính chất tự do, nên phú chỉ hát đơn chứ không hát đôi. Các điệu phú thường được dùng trong hát văn các giá hàng Quan, ông Hoàng, Mẫu, Trần Triều và dùng cho các giá Nam Thần.

Các điệu xá có tiết tấu nhanh, vui, tính chất trữ tình, tự sự, thay đổi đột ngột, nhịp điệu tự do. Vì vậy các điệu xá thường không hát hai người. Mỗi khổ của điệu xá thường gồm ba câu lục bát hát theo lối gối khổ (lặp lại câu văn trước, nối với câu văn sau theo một cấu trúc, trình tự nhất định).

Các điệu nhịp một, vui khoẻ, mạnh mẽ, nhấn ở đầu nhịp, tạo nên tiết tấu rõ ràng thường dùng miêu tả động tác múa trong hầu đồng, như: múa mồi, hái hoa, múa quạt miêu tả đời sống lao động như quẩy lẵng hoa, quả... Các điệu này, thường chỉ dùng trong các bản văn Thánh, như các giá chầu Bà, các giá Cô, theo nghi lễ hát thờ, văn Mẫu... Điệu này không dùng trong các hàng quan lớn.

Tùy theo ý nghĩa của từng đoạn cung văn mà các làn điệu được sắp xếp cho phù hợp thường là điệu bỉ bao giờ cũng được dùng để mở đầu, sau đó đến điệu miễu, điệu thống.

Bên cạnh những làn điệu có tiết tấu rõ ràng, tính chất âm nhạc trong sáng mượt mà như: Làn điệu cờn, dọc, xá bằng, xá thượng, nhịp một, chèo đò, lới lơ, cò lả, điệu lưu thuỷ, điệu kim tiền... thì ở âm nhạc hát văn, tính chất dân gian thể hiện rất rõ trong cấu trúc kết cấu giai điệu. Khó có một thể loại âm nhạc dân gian nào lại thu hút vào nó nhiều âm hưởng của các loại hình dân ca khác nhau đến như vậy.

Bài 1: Bản giao hưởng của vũ trụ
Một vũ trụ thu nhỏ của văn hóa Việt được thể hiện qua thế giới âm nhạc ở đây.

Qua nghiên cứu ta thấy ở hát văn có ảnh hưởng của dân ca Đồng bằng Bắc bộ, như các làn điệu bồng mạc, sa mạc, cò lả. Có ảnh hưởng của âm nhạc thính phòng dân gian như: Hành vân, ngũ đối, kim tiền, lưu thuỷ, bình bán. Ảnh hưởng của ca trù như các làn điệu bỉ, phú nói, phú bình, phú chênh, phú xuân, phú tỳ bà, phú cửa đình, phú hạ. Ảnh hưởng của chèo như phú dầu, lới lơ. Của quan họ với các làn điệu như đường trường chim thước. Ảnh hưởng của cải lương như xá quảng (ảnh hưởng của âm nhạc và dân ca Quảng Đông, Trung Quốc). Ảnh hưởng của tuồng như kiều dương thượng. Ảnh hưởng của dân ca miền núi các tỉnh phía Nam như dân ca xê đăng và dân ca Huế như hò Huế, hò nhịp một, cờn Huế...

Việc thu hút những yếu tố âm nhạc của nhiều vùng, nhiều địa phương trong hát văn không chỉ làm cho âm nhạc tín ngưỡng thờ mẫu thêm phong phú, giàu màu sắc mà còn giúp cho tín ngưỡng này có điều kiện thâm nhập, phổ biến nhanh chóng, sâu rộng trên một địa bàn rộng lớn ở khắp ba miền Trung, Nam, Bắc, cả miền núi lẫn miền xuôi.


Nội dung: Nhất Nam

Thiết kế: Tào Đạt

https://thoidai.com.vn/bai-1-ban-giao-huong-cua-vu-tru-166051.html


2.


3.


4.


5.


6.


7.

Bài 7: Đặc sắc phục trang trong nghi lễ lên đồng

14:08 | 05/05/2022

Trong không gian tâm linh đậm sắc màu văn hóa của nghi lễ lên đồng, hệ thống phục trang nơi sập hầu Thánh ngự ẩn chứa câu chuyện trải dài qua bao thế hệ những người con bốn phủ, về việc “nâng bóng Thánh”. Đó cũng là câu chuyện về sự gìn giữ và trao truyền, bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Đang tải video. Xin chờ trong giây lát...

Khi sương mù giăng, đặc quánh hương bưởi, hương cau ở khắp các thôn bản, xóm làng, từ rẻo cao xứ Lạng, thành Tuyên, qua đồng bằng châu thổ, vào trong Thanh - Nghệ - Tĩnh, bảng lảng tít tận Bến Nghé - Đồng Nai, là lúc dòng người nườm nượp du xuân cầu bình an, may mắn. Điểm đến của khách hành hương là những danh lam, thắng tích; trong số đó, không gian huyền bí, ngất ngây níu chân du khách phải kể đến các đền, phủ của tín ngưỡng thờ Mẫu. Người ta đến đây, chẳng phải riêng tín đồ mà cả khách lãng du, không chỉ được thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng, mọi giác quan còn được chiêu đãi bởi đại tiệc ngập tràn màu sắc, âm thanh, mùi vị,… cuốn hút, rạo rực. Ấy là các cuộc lên đồng (hầu Thánh, hầu bóng) dễ dàng bắt gặp, bất kể tinh mơ hay tận đêm khuya.

Chuyến "hành hương" lần này, chúng tôi cùng bạn đọc sẽ đi sâu tìm hiểu một khía cạnh trong Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu: hệ thống phục trang của nghi lễ lên đồng được sử dụng đạt tới mức nghệ thuật, những người trong giới tự hào, trân trọng gọi là: nâng bóng Thánh.

Bài 7: Đặc sắc phục trang trong nghi lễ lên đồng
Tòa khăn áo Quan lớn Đệ Nhất, thanh đồng Trần Thị Duyên - Thủ nhang phủ chính Tiên Hương. (ảnh: Nhiếp ảnh gia Nguyễn Long Hưng)

“Tứ phủ Công đồng” và màu sắc nơi sập hầu Thánh ngự

Hệ thống phục trang trong nghi lễ lên đồng bao gồm: trang phục: khăn áo, xiêm y (khăn chầu áo ngự); trang sức: khánh, thẻ, kiềng, vòng, chuỗi hạt…; đạo cụ (đúng hơn gọi là pháp khí): kiếm, đao, cờ, quạt,… Tất cả đều được thanh đồng (những người được xác định là có căn mệnh, duyên nghiệp với các vị Thánh) sắm sửa, chuẩn bị từ trước khi trở thành đồng tân, lính mới (thông qua nghi thức mở phủ - chính thức lãnh nhận trách nhiệm hầu Thánh), được hoàn thiện, bổ sung trong suốt cuộc đời của họ và chỉ sử dụng khi hầu Thánh, nói cách khác là để các vị Thánh sử dụng khi “giáng” vào thanh đồng.

Các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu ngự trị, cai quản khắp vũ trụ và được phân chia trong Tứ phủ (bốn miền) tương ứng với bốn màu tượng trưng: Thiên phủ (miền trời) - màu đỏ; Nhạc phủ (thượng ngàn - miền rừng núi) - màu xanh; Thoải phủ (miền sông nước) - màu trắng và Địa phủ (miền đất đai, đồng bằng) - màu vàng. Theo thứ tự trong thần điện, không kể hàng Thánh Mẫu (không mở khăn khi hầu), các vị Thánh hay giáng đồng phân chia các hàng cơ bản: Quan lớn, Chầu Bà, Ông Hoàng, Thánh Cô, Thánh Cậu.

Với quy ước như vậy, trang phục các vị Thánh sử dụng luôn có bốn gam màu sắc chủ đạo tương ứng với phủ (miền) mà vị Thánh đó ngự trị, cai quản, bất kể là nam thần hay nữ thần. Cụ thể: Thiên phủ - màu đỏ (hồng), có các vị: Quan lớn Đệ Nhất, Chầu Bà Đệ Nhất, Chầu Cửu tỉnh, Ông Hoàng Cả, Cô Đệ Nhất, Cô Chín Sòng, Cậu Cả Quận…; Nhạc phủ - màu xanh (lá, chàm, thiên thanh), có các vị: Quan lớn Đệ Nhị (giám sát), Chầu Bà Đệ Nhị, Chầu Năm, Chầu Lục, Chầu Bảy, Chầu Bé, Ông Hoàng Đôi, Ông Hoàng Bảy, Cô Đôi Thượng, Cô Năm Suối Lân, Cô Sáu Lục Cung, Cô Tám Đồi Chè, Cô Bé Thượng, Cậu Đôi, Cậu Bé…; Thoải phủ (Thủy phủ) - màu trắng, có các vị: Quan lớn Đệ Tam, Quan lớn Tuần Tranh (riêng ngài mặc dù thuộc Thoải phủ nhưng lại ngự trang phục màu lam), Chầu Bà Đệ Tam, Chầu Bé Thoải, Ông Hoàng Bơ, Cô Bơ, Cô Bé Thủy tinh, Cô Bé Thác Bờ, Cậu Bé Thoải…; Địa phủ - màu vàng, có các vị: Quan lớn Đệ Tứ, Chầu Bà Đệ Tứ Khâm sai, Ông Hoàng Mười, Cô Tư…

Bài 7: Đặc sắc phục trang trong nghi lễ lên đồng

Tòa khăn áo Quan lớn Đệ Tam, đồng đền Nguyễn Tất Kim Hùng. (ảnh: Nhiếp ảnh gia Nguyễn Long Hưng)

Khăn chầu áo ngự để hầu Thánh không gọi là chiếc áo, cái áo, mà được gọi trang trọng là “quả” áo, “tòa” khăn áo. Khi chuẩn bị bước vào hành trình hầu Thánh, người ta bắt buộc phải tự sắm một quả áo Công đồng màu đỏ và khăn phủ diện cũng màu đỏ (khổ rộng, trùm kín người thanh đồng khi hầu Thánh và giữa các lần thăng - giáng của chư Thánh). Tòa khăn áo này, trong nghi thức mở phủ, tân đồng sẽ tự tay dâng lên và giá Quan lớn Đệ Nhất sẽ “điểm dấu Thánh” bằng cách chấm nén hương đang cháy đỏ lên mép khăn và cổ áo, tượng trưng cho việc xác nhận tính thiêng của tòa khăn áo được cấp riêng cho tân đồng. Vì thế, đây là tòa khăn áo không thể cho ai mượn hoặc dùng chung và tất nhiên, nếu không tự sắm thì cũng không mượn được của người khác. Tòa khăn áo này tùy điều kiện có thể để trơn hoặc thêu, nhưng sẽ đi theo suốt cuộc đời thanh đồng, được gọi là khăn áo bản mệnh. Thậm chí, các cụ đồng khi cao tuổi còn dặn con cháu, mai này phải để tòa khăn áo bản mệnh theo mình sang thế giới bên kia còn tiếp tục hầu Thánh.

Ngày trước (chứ không phải ngày xưa), tức là cái ngày mà chúng tôi được tận mắt chứng kiến hoặc nghe kể, sau này tìm hiểu qua tư liệu, hình ảnh thì vào khoảng gần thế kỷ trở lại đây, nếu hoàn cảnh khó khăn, chỉ với tòa khăn áo bản mệnh và dải khăn, nét bốn màu (có thể mượn của người khác), thanh đồng vẫn có thể hầu đủ các giá. Đến khi khấm khá hơn, thanh đồng sắm bổ sung, rồi lần lượt thêm mấy quả áo dài các màu xanh lá, trắng, vàng, lam, thay đổi theo màu sắc bốn phủ và có thể dùng lặp lại ở các hàng Quan lớn, Chầu Bà, Ông Hoàng, Thánh Cô. Hàng nào, phủ nào sẽ phân biệt qua khăn đội đầu, nét chéo trước ngực và màu sắc như đã kể trên.

Chẳng hạn, khăn đội đầu của nam thần ở hàng Quan lớn và Ông Hoàng đều là khăn lượt hoặc khăn xếp (thường là màu đỏ), khi hầu sẽ thay nét ngang bao ngoài khăn lượt, khăn xếp. Nét ngang của nam thần thêu rồng chầu mặt nguyệt bằng kim tuyến, kim sa trên vải lụa theo màu sắc của từng phủ. Dấu hiệu để phân biệt là hàng Quan lớn nét ngang không có dải buộc, thắt nút thả sau lưng như hàng Ông Hoàng, mà dùng ghim đính luôn vào khăn lượt, khăn xếp. Nét chéo trước ngực hàng Quan lớn cũng là một dải vải thêu rồng tùy theo màu sắc từng phủ và được vắt chéo từ vai trái xuống hông bên phải; hàng Ông Hoàng lại dùng hai nét vắt chéo từ hai bên vai xuống hai bên hông.

Hàng nam thần sử dụng đai lưng (có thể dùng chung, màu đỏ, hồng hoặc vàng) thắt ngang bụng, bỏ múi bên hông. Duy chỉ có hàng Thánh Cậu không sử dụng nét mà chít khăn đầu rìu, mặc thêm áo cổ tròn, không tay kiểu như ghi-lê, chân quấn xà cạp theo màu sắc từng phủ. Đến đây, khi gặp vấn hầu, dù thanh đồng dùng chung quả áo bản mệnh màu đỏ hay thay áo dài các màu theo từng phủ, ta chỉ cần nhìn khăn, nét cũng có thể nhận biết được là vị Thánh nào đang ngự đồng.

Chẳng hạn, giá Thánh đội khăn xếp, nét ngang màu xanh, trước ngực lên một nét chéo màu xanh sẽ là Quan lớn Đệ Nhị (giám sát); nếu đội khăn xếp, thắt nét ngang màu trắng có dải buộc, thắt nút thả sau lưng và hai nét chéo màu trắng trước ngực sẽ là Ông Hoàng Bơ…

Với các vị nữ thần (cơ bản thuộc hai hàng Chầu Bà, Thánh Cô), cách phân biệt là ở lối lên khăn của từng vị. Các vị Thánh thuộc Thiên phủ, Thoải phủ, Địa phủ dùng khăn xếp (màu đỏ) hay khăn vấn (màu cánh sen), trong đó, hàng Chầu Bà sẽ sử dụng luôn khăn phủ diện (sau này phát triển thành khăn phủ phê mỏng, nhẹ) ghim bên ngoài, hàng Thánh Cô sẽ thắt nét vành dây, thả dải sau lưng, hai nét chéo trước ngực (nét thêu hoa, khác với nét của các Ông Hoàng thêu rồng), màu sắc tương ứng theo từng phủ.

Các vị Chầu Bà, Thánh Cô thuộc Nhạc phủ lên khăn đội đầu theo cách của đồng bào dân tộc (Mán, Thổ = Dao, Tày, Nùng…). Chầu Bà lên khăn buồm, khăn củ ấu; các Thánh Cô lên khăn hoa. Đặc trưng của trang phục miền thượng là có sự phong phú, linh hoạt về thể loại và màu sắc hơn các phủ khác. Hai chàng mạng (lớn hơn dải nét), không bắt chéo qua vai mà quàng trên cổ, một dải để thẳng, một dải bắt chéo trước ngực được giữ lại bằng “trấn tâm” - dải lụa thêu buộc ngay trước ngực, thắt múi sau lưng, quàng trên vai dao quai, túi dết, túi trầu. Bắp chân các vị nữ thần trên thượng ngàn còn quấn xà cạp gọn gàng, ngụ ý thuận tiện cho việc băng rừng, vượt suối.

Về sắc phục, nếu Chầu Bà Đệ Nhị, Cô Đôi Thượng ngự màu xanh lá thì Chầu Năm, Cô Năm là màu xanh thiên thanh; Chầu Lục, Cô Sáu trước là màu lam, nay có khi lại màu tím; Chầu Mười, Cô Mười trước là màu xanh chàm, nay là màu vàng; Chầu Bé trước màu xanh lục, chàm đen, nay có khi sử dụng thuần màu đen. Riêng Cô Bé có trang phục khá đặc biệt là “áo lá”, gồm hai khổ vải lụa, màu xanh và màu hồng, vắt chéo hai vai qua hông, cố định bằng thắt lưng đai. Cũng cần nói thêm là, các vị thánh nữ ở các phủ đều có thể đeo diều xây - mảng đồ họa hoa văn trên cổ và bao lưng kết hợp màu sắc linh hoạt (vàng, xanh, hồng), thắt nút hoa đằng trước, không bỏ múi bên hông như các thánh nam.

Một bộ trang phục không thể không nhắc tới là bộ lót mình của thanh đồng, nhất thiết phải là màu trắng, ngoài hàm ý thân tâm trong sáng khi vào hầu Thánh, còn có tác dụng làm tôn màu sắc trang phục của các vị Thánh khi ngự đồng. Bộ lót mình được gọi trang trọng là “hạ y”, bao gồm: áo cánh trắng, quần áo dài màu trắng và bít-tất trắng. Màu trắng tinh tế, hài hòa, không xung đột với tất cả các màu trong bốn phủ và đặc biệt, cùng với các lớp áo trong, ngoài sẽ che kín da thịt thanh đồng (trừ khuôn mặt và đôi bàn tay), tạo nên nét đẹp trang nghiêm của các vị Thánh ngự đồng. Thậm chí, ngày trước, tay áo hầu Thánh còn may theo lối búp măng - nhỏ dần về phía cổ tay, để khi “làm việc Thánh” (thực hành vũ đạo) sẽ không lộ phần da thịt phía trong tay áo. Hiện nay, nếu tay áo hầu rộng cỡ một gang, thanh đồng cẩn thận sẽ nịt thêm ghệt tay vào lớp áo phía trong cũng mang ý nghĩa như vậy.

Đang tải video. Xin chờ trong giây lát...

Bảo tồn vốn cổ và “hạn mức” của sự sáng tạo

Tản mạn chuyện ngày trước là thế, còn thời bây giờ, khi kinh tế phát triển, nhận thức xã hội và điều kiện tốt hơn rất nhiều, trang phục lên đồng ngày càng phong phú, đặc sắc, nhưng những thanh đồng có hiểu biết vẫn kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống. Giá trị tiêu biểu của nghi lễ lên đồng là tính ước lệ, đề cao ý nghĩa biểu tượng. Trang phục cũng vậy, rực rỡ sắc màu bốn phủ, nhưng trang nghiêm, phép tắc, không quá xa hoa, lộng lẫy để người phàm trần khi “cận Thánh” (tham dự vấn hầu) vừa khép mình tôn kính, vừa có cảm giác gần gũi, thân thiết như con cái gần bên cha mẹ. Chẳng thế mà các kiểu khăn áo lai căng, như Quan lớn đội mũ như vua quan trên sân khấu, Chầu Bà, Thánh Cô xiêm y thướt tha như tiên nữ trong phim cổ trang nước ngoài, hay màu sắc không theo đặc trưng từng phủ, lối lên khăn áo làm mất bản sắc vùng miền (thượng du, đồng bằng),… đều bị lên án là biến tướng.

Cái được chấp nhận là sự phát triển trên cơ sở bảo tồn vốn cổ. Đại thể: chất liệu lúc trước chỉ là vải lụa, nay có thể là gấm, vóc, có điều kiện thì hàng ngoại nhập cũng tốt; mỗi giá một tòa khăn áo riêng, nhưng phải giữ đúng sắc màu, tính ước lệ từng hàng, từng phủ.

Bài 7: Đặc sắc phục trang trong nghi lễ lên đồng
Hầu dâng thay đổi y phục cho thanh đồng ngay tại chiếu hầu. (ảnh: Nhất Nam)

Nếu ngày trước là lụa trơn, thì nay khăn chầu áo ngự phần lớn có họa tiết chìm hoặc thêu. Hoa văn cũng có nguyên tắc: hàng Quan lớn họa tiết hổ phù, rồng, tam sơn, thủy ba được thêu trên ba lớp dọc thân áo tượng trưng ba tầng Thiên, Địa, Thủy (trời, mặt đất và sóng nước); hàng Chầu Bà họa tiết chủ đạo là chim phượng, hoa mẫu đơn - biểu trưng tôn quý của nữ phái; hàng Ông Hoàng với các họa tiết rồng ổ, hoa văn chữ thọ, ngũ phúc sang trọng, lịch lãm; hàng Thánh Cô, Thánh Cậu chủ đạo là họa tiết hoa hồng, hoa phù dung, hoa chanh, vân mây, cá chép, phù hợp với tính chất vui tươi, nhí nhảnh - đặc trưng lứa tuổi của các vị Thánh.

Trang phục là thế, trang sức cũng phân biệt từng hàng, từng phủ: các Quan lớn sử dụng thẻ ngà gài trên ngực áo khắc bốn chữ “Ngũ vị Tôn Quan”; Ông Hoàng dùng kiềng vàng, khánh ngọc khắc chữ “Tứ phủ Thánh Hoàng” gắn tua kim tòng, lưng đeo bầu rượu, túi thơ; Thánh Cậu cũng đeo kiềng nhưng kim khánh lại đính lục lạc rất vui nhộn. Các vị Chầu Bà, Thánh Cô trên thượng ngàn thì chất liệu chủ đạo của trang sức (trâm, lược, vòng, kiềng, khuyên tai, xà tích) đều bằng bạc, ngà giống như sở thích của đồng bào dân tộc thiểu số. Ở các phủ khác, chất liệu chính lại là vàng, ngọc (tất nhiên, chủ yếu là đồ mỹ ký). Các đồ pháp khí, như đao, kiếm, mái chèo, hèo,… được làm từ tre, gỗ, kim loại hoặc khảm kim loại; cờ thì dùng khăn tấu hương, múa sư tử dùng khăn phủ diện để tượng trưng, bây giờ dùng cờ thật và đầu lân thật cũng không sao.

Tứ trụ hầu dâng cùng phép tắc nơi cửa Thánh

Đang tải video. Xin chờ trong giây lát...

Để phối hợp hài hòa hệ thống phục trang cùng với ý thức của thanh đồng, sự tài khéo của các làng nghề thủ công, không thể không nhắc tới vai trò của người hầu dâng - hỗ trợ thanh đồng chuẩn bị, giúp việc các vị Thánh khi giáng đồng. Công việc của họ đòi hỏi sự hiểu biết về nghi lễ, sáng tạo nhưng cẩn trọng, nhanh nhưng phải chính xác, bởi vậy, phần lớn họ đều là thanh đồng. Khi trước, họ được gọi là đồng phò, với ý nghĩa là “phò giá” các vị Thánh giáng đồng, đến nửa cuối thế kỷ XX, chữ “phò” bị biến nghĩa tiêu cực nên mới đổi gọi là hầu dâng. Nhiệm vụ chính của hầu dâng được chia cho bốn người (tứ trụ): người ngồi trên phía bên phải thanh đồng là “tay khăn”, làm nhiệm vụ thay khăn áo, trang sức; người bên trái là “tay hương” chịu trách nhiệm chuẩn bị hương, mồi, đuốc, các đồ pháp khí; người ngồi sau thanh đồng phía bên phải làm nhiệm vụ cầu khẩn, tấu đối; người bên trái thừa truyền lời phán bảo hoặc chuyển lộc ban phát cho những người dự hầu. Hai người hầu dâng phía sau cũng hỗ trợ “tay khăn”, “tay hương” để công việc thay phục trang được khẩn trương, nghiêm cẩn; cùng dùng quạt che các giá khi thay trang phục “nhạy cảm” (váy/quầy, yếm), hoặc khi hiến tửu, hiến trà (uống rượu, trà), hiến trầu, hiến thuốc,… Cũng có khi giản tiện, chỉ cần hai người là “tay khăn” và “tay hương”, kiêm luôn công việc của tứ trụ hầu dâng, hoặc thêm đồng thầy (cũng có khi là đồng cựu) vào “kêu thay, lạy đỡ” cho thanh đồng.

Nếu như diễn viên sân khấu thay trang phục, trang điểm ở trong hậu trường, thì trong một vấn hầu, hàng chục lần thay phục trang của thanh đồng đều diễn ra trên chiếu hầu, trước sự chứng kiến của hàng trăm con mắt và áp lực của việc “thị Thánh”, bởi “thị Thánh như thị vương” (hầu Thánh như hầu vua). Điều này khiến cho vai trò của người hầu dâng trở nên vô cùng quan trọng. Phần lớn họ được các thanh đồng lựa chọn trong số “bạn đồng công lính”, và nhờ cậy từ sớm để còn sắp xếp thời gian, công việc. Hầu dâng ở cùng bản hội sẽ giúp cho việc duy trì, gìn giữ lề lối, phép tắc.

Ngày nay, có một số người hành nghề hầu dâng chuyên nghiệp, ở họ có sự sáng tạo, thuần thục, kỹ năng nâng bóng Thánh đạt đến tầm cao nghệ thuật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, họ có thể sẽ áp đặt thanh đồng (nhất là đồng tân) và ngược lại, họ cũng có thể phải chiều theo ý thích chủ quan của thanh đồng, làm ảnh hưởng đến lề luật trong việc hầu Thánh.

Thanh đồng đang hầu là Thánh đang ngự, vì thế, trang phục, thái độ của những người dự hầu, đến cung văn và cả hầu dâng, đều phải rất nghiêm túc. Khăn áo chỉnh tề là tốt nhất, nếu không cũng không được lố lăng, sặc sỡ, nhất là kệch cỡm, hở hang. Nói thế, bởi thảng hoặc có canh hầu, trang phục người hầu dâng còn nổi bật hơn cả thanh đồng, người dự hầu mặc áo hở vai, váy ngắn, cung văn mặc quần bò, áo phông,… rất phản cảm.

Đến đây, chúng ta tạm khép lại hành trình qua không gian và thời gian đậm đặc sắc màu văn hóa. Cái tài tình là ở chỗ, mặc dù không phải bảo tàng, không có văn tự nào mô tả, ghi chép, nhưng hệ thống phục trang để nâng bóng Thánh đã lưu giữ sống động cả kho tàng tinh hoa văn hóa truyền thống. Sự gìn giữ và trao truyền ấy, chính là tâm huyết của những người thực hành tín ngưỡng từ trước kia cho đến tận ngày nay.

Đang tải video. Xin chờ trong giây lát...

ThS. Trần Quang Dũng, Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội

https://thoidai.com.vn/bai-7-dac-sac-phuc-trang-trong-nghi-le-len-dong-166999.html?fbclid=IwAR2Qu4FE6VU_zJtDLHgg4VfRdszjXGSzRIssRtvHA-h7i29k4qV9c0BLQ30#google_vignette

..


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.