Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

11/12/2021

Văn nghệ Thứ Bảy : lai lịch của nữ sĩ Hồ Xuân Hương được tìm qua khoa học kết hợp tử vi, ngoại cảm

Thực là vậy.

Bài trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam vừa cho biết như vậy.

Tháng 12 năm 2021,

Giao Blog


---






Tháng 10/2021, nhà báo, nhà thơ Nghiêm Thị Hằng trình làng tác phẩm“Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương”. Với tác phẩm này, thân thế của “Bà Chúa thơ Nôm” mờ mờ, tỏ tỏ, suốt 250 năm qua, đã được làm rõ bằng phương pháp nghiên cứu có sự hỗ trợ của các bộ môn “siêu thực”, từ trước tới nay giới nghiên cứu chưa ai thực hiện phương pháp này, do đó gây nên sự thu hút bạn đọc với tác phẩm.

 Tác giả Nghiêm Thị Hằng, từng là phóng viên điều tra, hiểu biết về pháp luật, chị có kinh nghiệm gần 30 năm trong việc tìm mộ liệt sĩ thiếu thông tin, có sự hiểu biết về tử vi, kinh dịch, tôn giáo, tín ngưỡng, am hiểu văn học, xã hội, dư địa chí… Những yếu tố  này là cần thiết để  chị thực hiện phương pháp nghiên cứu quy nạp điền dã, so sánh loại trừ, khảo thơ tìm sử, khảo sử tìm người,  kết hợp với sự hỗ trợ của các bộ môn “siêu thực” đã làm sáng tỏ 9 bí ẩn cuộc đời “Bà Chúa thơ Nôm” trong tác phẩm “Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương”

Nói về thân thế và sự nghiệp của nữ sĩ, thông thường người ta nói thân thế trước, sau mới nói đến sự nghiệp. Nhưng với Hồ Xuân Hương thì thân thế lại mờ mờ, tỏ tỏ, gần 250 năm qua. Vì thân thế chưa rõ ràng, nên hồ sơ ứng viên “Danh nhân văn hóa” của nữ sĩ, nhiều năm qua vẫn chưa được UNESCO thông qua. Đến nay trong nước cũng chưa có công trình nghiên cứu nào đủ độ tin cậy về khoa học, sát thực với cuộc sống văn học sử về nữ sĩ.

 Theo cựu Đại tá Trần Nhung (nguyên Tổng biên tập báo Cựu chiến binh), thì “Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương” của tác giả Nghiêm Thị Hằng, “lần đầu tiên có một cuốn sách nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có căn cứ lịch sử, địa lý, xã hội và văn học về nhà thơ nữ nổi tiếng Hồ Xuân Hương .

 

 Một là cuốn sách đã lý giải rất thuyết phục về quê quán, năm sinh năm mất, phần mộ của nhà thơ, về cha mẹ đẻ, hai đời chồng của bà.

Hai là cuốn sách đã giải mã nhiều bí ẩn về thân thế, sự nghiệp thơ ca của bà gắn với các sự việc, con người và địa danh.

Ba là cuốn sách tạo cứ liệu có cơ sở khoa học cho việc làm hồ sơ để Tổ chức Văn hóa, giáo dục của Liên hợp quốc(UNESCO) chấp nhận  và bà đã được vinh danh “Danh nhân văn hóa” trong dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất của bà (1822-2022).

 Với 316 trang, tác phẩm giải mã được 9 bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

 Bí ẩn thứ nhất, xưa nay không ít nhà nghiên cứu cho rằng “Bà Chúa thơ Nôm” là huyền thoại, là nhân vật dân gian. Nếu là nhân vật huyền thoại dân gian thì UNESCO không thể vinh danh “Danh nhân văn hóa” cho nhân vật huyền thoại. Tác giả đã giải mã chứng minh Hồ Xuân Hương là con người thật có quê ở Quỳnh Đôi -Nghệ An, có tổ tiên dòng họ Hồ khoa bảng, thuộc Trung chi 2, hậu duệ đời thứ 12 ở Quỳnh Đôi, anh em họ với vua Quang Trung -Nguyễn Huệ. Cha nữ sĩ là cụ đồ Hồ Phi Diễn (1703-1786) hậu duệ đời thứ 11. Bí ẩn thứ 2 về người cha của Hồ Xuân Hương- theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, cha của nữ sĩ là cụ Hồ Sĩ Danh (1703-1783), không phải cụ Hồ Phi Diễn. Tác giả đã giải mã bí ẩn về người cha, khẳng định cha của nữ sĩ là cụ đồ Hồ Phi Diễn, không phải là cụ Hồ Sĩ Danh (thuộc Trung chi 3). Kết quả nghiên cứu này đã chấm dứt việc tranh cãi về người cha của Hồ Xuân Hương hơn 200 năm qua.

 Tác giả cũng đã tìm được phần mộ của cụ Hồ Phi Diễn và vợ là cụ Hà thị chôn ở nghĩa địa Đồng Táo (làng Nghi Tàm) nay chìm dưới Hồ Tây, theo 2 câu thơ nữ sĩ viết vào tiết Thanh minh năm 1815 khi đi viếng mộ cha mẹ:“Dầu dầu 2 nấm lẫn vàng xanh/ Kìa nấm thâm ân, nọ nấm tình”. Nấm xanh là mộ cụ Hồ Phi Diễn chết đã 29 năm, còn nấm cỏ vàng chưa xanh là mộ cụ Hà thị mới chết cuối năm 1814, nấm thâm ân (là mộ cụ Hồ Phi Diễn), nấm tình là mộ cụ Hà thị. Đó là việc xưa nay chưa nhà nghiên cứu nào chỉ ra được phần mộ của cha mẹ nữ sĩ.

Về thân thế của “Bà Chúa thơ Nôm”, Nghiêm Thị Hằng giải mã được 2 bí ẩn, chỉ rõ ngày tháng năm sinh và ngày tháng năm mất của bà. Nguyên danh của nữ sĩ là Hồ Phi Mai, Xuân Hương là biểu tự, Cổ Nguyệt Đường là bút hiệu, bà sinh 5h30  ngày  13/7 năm Quý Tỵ, (tức ngày 30/8/1773), mất ngày 14/8 năm Nhâm Ngọ (tức ngày 28/9/1822) tuổi mệnh 49.

 Tác giả đã chứng minh để loại các năm 1735, 1770, 1772 và 1815 là các giả thiết trước đây đưa ra năm sinh không đúng của nữ sĩ.

 Minh chứng theo Siêu Hải, Hồ Xuân Hương sinh khoảng năm 1735, căn cứ vào mối quan hệ giữa Hồ Xuân Hương và Phạm Đình Hổ, (đăng trên, tạp chí Văn học, số 5- 1991). Nếu nữ sinh năm 1735 thì năm ấy, cụ Hồ Phi Diễn 32 tuổi, không đúng với văn học sử gần 70 tuổi cụ mới sinh con gái Hồ Xuân Hương. Khi cụ mất năm 1786, thì nữ sĩ đã 51 tuổi, không đúng với văn học sử khi nữ sĩ 13 tuổi thì cha qua đời. Tính năm 1822 nữ sĩ mất, thì bà đã ở tuổi 87, không đúng với cuộc đời thực nữ sĩ là người chết trẻ. Nếu sinh năm 1735, thì nữ sĩ không thể lấy ông Tổng Cóc năm 1802, khi bà 67 tuổi, càng không thể lấy quan Tham hiệp - Trần Phúc Hiển năm 1816, khi bà đã 81 tuổi.

Như vậy giả định nữ sĩ sinh năm 1735 là không có căn cứ, không đúng sự thật, bị loại bỏ.

Giả thiết thứ 2, nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Khảnh (ở Nam Định), đưa ra thông tin Hồ Xuân Hương sinh năm 1815, mất năm 1893 (theo mối quan hệ là vợ của ông Phạm Viết Ngạn- Tri phủ Vĩnh Tường 1862). Xét năm sinh 1815, thì cụ Hồ Phi Diễn cha của Hồ Xuân Hương, đã mất từ năm 1786 (mất trước ngày nữ sĩ ra đời 29 năm), đây là sự phi lý được chỉ ra, trong mối quan hệ cha con, cha đã chết 29 năm không thể sống lại để sinh con vào năm 1815 và cụ Hà Thị mẹ nữ sĩ mất năm 1814 thì làm sao có thể sinh con vào năm 1815? Năm 1802 Hồ Xuân Hương chưa ra đời làm sao lấy được ông Tổng Cóc, mới 1 tuổi thì làm sao năm 1816 lấy được ông Trần Phúc Hiển? Như vậy giả định nữ sĩ sinh năm 1815 không phù hợp bị loại bỏ.

Khi nghiên cứu tử vi của Hồ Xuân Hương, tính cách của bà để lại trong thơ là người khao khát mạnh mẽ trong tình yêu, được nhiều người yêu mến, có sức hút với người khác giới, người có tính cách này trong tử vi có Đào hoa chính Ngọ ở cung bậc rực rỡ. Giả định bà sinh năm 1770 (năm Canh Dần), năm này có Can-Canh (không hợp với người phụ nữ đường tình duyên phải 2 lần đò), mặt khác Chi- Dần của năm này không có Đào hoa chính ngọ, không phù hợp với tính cách của nữ sĩ. Nếu tính theo năm mất của cụ đồ Hồ Phi Diễn thì năm này Hồ Xuân Hương 16 tuổi, không đúng với văn học

sử khi nữ sĩ 13 tuổi thì cha qua đời, do đó năm 1770 bị loại.

Giả định nữ sĩ sinh năm 1772, năm Nhâm Thìn, năm này Can-Nhâm  phù hợp với cuộc đời thực của nữ sĩ (2 đời chồng). Năm này Chi-Thìn-không có Đào hoa chính Ngọ. Nếu so với năm cụ Hồ Phi Diễn qua đời (1786) thì Hồ Xuân Hương đã 14 tuổi, không đúng với văn học sử. Như vậy năm 1772 có 2/3 dữ liệu không đúng với thực tế cuộc đời nữ sĩ, do đó năm này bị loại.

Trong tử vi, vận Đào hoa theo mệnh tuổi được tính như sau: Những người tuổi Tý, Thìn và Thân, Đào hoa ở Dậu; Tuổi Sửu, Tỵ và Dậu, Đào hoa ở Ngọ; Tuổi Dần, Ngọ và Tuất, Đào hoa ở Mão; Tuổi Mão, Mùi và Hợi, Đào hoa ở Tý;

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là có có Đào hoa chính Ngọ là người có mệnh thuộc các tuổi Sửu, Tỵ và Dậu .

Tính từ năm 1770-1773 thuộc các tuổi Canh Dần 1770, Tân Mão 1771, Nhâm Thìn 1772 và Quý Tỵ 1773, chỉ có năm Quý Tỵ là có vận Đào hoa thuộc giờ Ngọ. Năm 1773 có CAN-QUÝ đúng với cuộc đời thực của nữ sĩ “Gái Đinh, Nhâm, Quý thì 2 lần đò”. Năm này CHI-TỴ có Đào hoa chính Ngọ. Năm này nữ sĩ 13 tuổi thì cha qua đời. Tác giả đã giải mã tìm ra năm sinh của Hồ Xuân Hương chính xác là năm Quý Tỵ 1773 với 3 dữ liệu đúng cả 3.

Sau khi xác định được năm sinh, căn cứ và tính cách, cuộc đời thực của Hồ Xuân Hương bằng phương pháp lập tử vi đối chiếu và loại trừ, tác giả đã cùng chuyên gia tử vi thầy Hoàng Văn Khôi (84 tuổi) lập được tử vi của nữ sĩ, đủ căn cứ luận giải 12 cung định mệnh của “Bà Chúa thơ Nôm” làm sáng tỏ thân thế của nữ sĩ. Từ đây giải mã được nguyên nhân dẫn đến cái chết của bà.

 Năm 1816 ông Trần Phúc Hiển cưới Hồ Xuân Hương, năm ấy nữ sĩ 44 tuổi âm, đó là tuổi đại kỵ trong hôn nhân, còn rơi vào mệnh tử theo cách tính “sinh, lão, mệnh, tử”, do đó chỉ 2 năm sau khi cưới thì ông Trần Phúc Hiển dính đại án năm 1818 bị

bắt về tội nhận hối lộ, năm 1819 qua đời và  sau đó 3 năm, năm 1822 đoạn tang chồng, nữ sĩ qua đời ở tuổi mệnh 49 vào ngày 14 tháng 8 âm lịch năm Nhâm Ngọ, tức ngày 28/9/1822

          Từ lá số tử vi, soi chiếu sang cuộc đời thực, Hồ Xuân Hương có chuyện tình riêng lỡ làng, không như ý, nhưng tình ấy, cảnh ấy, là xuất phát điểm cho sự thăng hoa của thơ ca. Đời nào cũng vậy, người phụ nữ đa đoan, thất tình, thường có những bài thơ tình nổi tiếng.

Vượt lên hoàn cảnh ấy, nữ sĩ có chí cao hơn, khát vọng lớn lao hơn, gửi vào những hồn thơ, tứ thơ, để trường tồn trong hồn thơ dân tộc, để trở thành “Bà Chúa thơ Nôm”, như nho sĩ ghi danh trong bảng vàng Tiến sĩ.

Thân thế nữ sĩ về quê hương, người cha và năm sinh năm mất, tác giả Nghiêm Thị Hằng đã giải mã được 4 bí ẩn, còn 4 bí ẩn về tình duyên, hôn nhân của nàng thơ, mời bạn đọc đón đọc ở số báo tiếp theo.

----------------------------

Ảnh : Thầy tử vi Hoàng Văn Khôi, người lập tử vi nữ sĩ Hồ Xuân Hương

http://baovannghe.com.vn/than-the-cua-nu-si-ho-xuan-huong-duoc-giai-ma-ro-rang-unesco-da-danh-nhan-van-hoa-nhan-ki-niem-200-nam-ngay-mat-cua-ba-24156.html

..





---

BỔ SUNG


3.

6/12/2021

TS PHẠM TRỌNG CHÁNH – HỒ XUÂN HƯƠNG CHÂN DUNG VÀ TÁC PHẨM

Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai, đó là lý do khiến Tốn Phong trong 31 bài thơ tặng Xuân Hương, đã có 29 bài nhắc đến Mai, có bài nhắc đến hai ba lần. Hồ Phi Mai hiệu là Xuân Hương, hoa mai bay trên hồ nơi ngắm cảnh xuân, Mai là hương hoa mùa xuân.

Hồ Xuân Hương xuất thân từ một gia đình danh giá. Hoàng các khấu lai chân vọng tộc, bài 1, thơ Tốn Phong. Hoàng các vốn gia đình vọng tộc.

Thân phụ là Hồ Phi Diễn sinh năm 1703 và mất năm 1786. Năm 20 tuổi ông đậu Tam Trường (Tú Tài) khoa Thi Hương đời Bảo Thái thứ tư, tức năm Quý Mão 1723. Ông đồ Nghệ phiêu bạt đi dạy học tại Hải Dương và kết hôn với mẹ nàng họ Hà quê Hải Dương, ông sinh Hồ Phi Mai lúc 69 tuổi, ông mất lúc Hồ Phi Mai 14 tuổi,  bà mẹ sinh nàng có lẽ lúc khoảng hai mươi và còn sống đến sau năm 1814, năm Tốn Phong trở lại đề tựa Lưu Hương Ký và tặng thêm 21 bài thơ, Tốn Phong đã  biết đến Hồ Xuân Hương đã yêu và hứa hẹn với Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển nên chúc mừng ; « Xe loan mong sớm với người xa. » Nhưng mãi đến hai năm sau Trần Phúc Hiển mới rước nàng về Vịnh Hạ Long. Mẹ Hồ Xuân Hương mất trong khoảng thời gian này nên nàng phải cư tang ít nhất một năm.

Hồ Phi Diễn chánh quán làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Họ Hồ tại Quỳnh Lưu rất có tiếng tại Nghệ An và có từ đời nhà Hậu Hán cai trị (917-971). Viên Thái Thú Diễn Châu là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật làm nhà ở đây, con cháu phồn thịnh sau khi nước nhà độc lập. Đời Trần có chi ra Thanh Hóa sau sinh ra Hồ Quý Ly. Gia phả họ Hồ ở Nghệ An chép đến đời Trần Xương Phù (1377-1389) một cách liên tục. Đời Trần có một chi vào đất Đông Thành cùng phủ sinh Hồ Tông Thốc có ba đời Trạng nguyên. Chi ở xã Hoàn Hậu đời Lê có nhiều người đỗ Tiến sĩ nổi danh như Hồ Sĩ Dương nhà chính trị học, sử học. Riêng chi, đời thứ 8 Hồ Sĩ Anh (1618-?) đời Lê có hai người đỗ Hoàng Giáp là Hồ Phi Tích (1665-1734) đỗ năm 1700 và Hồ Sĩ Đống (1739-1785) đỗ năm 1772. Có chi ra Tây Sơn đổi họ Nguyễn, Hồ Phi Phúc sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, do đó vua Quang Trung Nguyễn Huệ, Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống và nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Tú tài Hồ Phi Hội  cùng có một ông tổ đời thứ 8 là Hồ Sĩ Anh. Ngày xưa bà con bốn đời là rất gần. Tốn Phong biết đến Hồ Xuân Hương vì nàng là em của quan lớn họ Hồ. Phạm Đình Hổ trong bài Thi Ca trong Vũ Trung Tùy bút, đã viết Hồ Sĩ Đống, Hoàn Hậu Công là một trong ba bậc thầy thi ca đời Lê Trung Hưng cùng với Nguyễn Tông Khuê (thầy của Lê Quý Đôn) và Nguyễn Huy Oánh (cha Nguyễn Huy Tự, học trò hơn 30 người đỗ Tiến Sĩ).

Khi Nguyễn Khản, anh Nguyễn Du bị nạn kiêu binh phải bỏ trốn lên Sơn Tây với Nguyễn Điều, thì Hồ Sĩ Đống được Chúa Trịnh gọi về thay chức Hành Tham Tụng (quyền Thủ Tướng), Hồ Sĩ Đống đã làm yên được kiêu binh, Hồ Sĩ Đống còn được gửi vào Phú Xuân, có lẽ Chúa Trịnh mong muốn thương thuyết với anh em Tây Sơn, nhưng Tây Sơn đang bận những chiến trận với Chúa Nguyễn phương Nam nên không gặp. Hồ Sĩ Đống từng làm Phó Sứ năm Mậu Tuất 1778, khi đi đến Động Đình Hồ, Chánh Sứ Võ Khâm Tự tự tử và đốt tờ biểu xin sắc phong vương của Chúa Trịnh Sâm thay vua Lê, Hồ Sĩ Đống thay thế làm Chánh Sứ, Nguyễn Trọng Đan làm Phó Sứ, cuộc đi sứ hoàn tất trở về và Chúa Trịnh cũng không dám hỏi ông việc xin phong vương, Hồ Sĩ Đống sống thanh liêm giản dị, chu tất việc triều chính, ông mất sớm năm 1885 chỉ mới 46 tuổi, ông được mọi người đều thương tiếc, nhà Trịnh vua Lê cũng sụp đổ một năm sau đó.  

Hồ Xuân Hương sinh ra và lớn lên tại làng Nghi Tàm bên Hồ Tây, nơi nổi tiếng nghề dệt lụa, làm giấy, dệt lĩnh đen và trồng hoa. Tây Hồ có cảnh đẹp Tây Hồ Bát Cảnh, một thi xã đời Vĩnh Hựu (1735-1739) đã ca tụng tám cảnh đẹp quanh Tây Hồ :

– Bến Trúc Nghi Tàm, bến tắm chúa Trịnh Giang dưới dãy trúc ngà làng Nghi Tàm.

– Rừng bàng Yên Thái, rừng bàng trên núi đất làng Bưởi do chúa Trịnh Giang bắt trồng.

– Đàn thề Đồng Cổ do vua Lý Thái Tông xây để hàng năm quần thần đến thề để tỏ lòng trung hiếu.

– Phật say làng Thụy. Pho tượng Phật chống gậy dáng đi như người say rượu ở chùa Làng Thụy Chương. (Làng Thụy Khuê có nghề nấu rượu rất ngon nên Phật cũng say).

– Sâm cầm rợp bóng. Nghề săn ngỗng trời các làng quanh Hồ Tây, do ngỗng mập mạp, người ta cho rằng ngỗng ăn sâm từ Cao Ly bay về nên gọi là sâm cầm.

– Đồng hoa Nghi Tàm, làng Nghi Tàm làm nghề trồng hoa có những vườn hoa rất đẹp.

– Chợ đêm Khán Xuân, Chúa Trịnh thường họp chợ đêm cùng các cung nữ, thái giám giả làm người mua bán làm vui. Khu đất ngày xưa rất rộng nơi đình làng Nghi Tàm ngày nay. Bên cạnh có ngôi Gác Tía của Nguyễn Khản làm nơi câu cá hầu Chúa Trịnh.

Cổ Nguyệt Đường được xây dựng khoảng năm 1783, ngày xưa khi thầy được 80 tuổi, để mừng thọ thầy, học trò lớn, bé, làm quan hay không đều góp công góp sức xây nhà cho thầy. Do việc xây cất bề bộn, Hồ Xuân Hương được gửi về quê nội Quỳnh Lưu, đó là dịp Hồ Xuân Hương xướng họa với Dương Tri Tạn. Cổ Nguyệt Đường là một cơ ngơi rộng rãi, theo thơ Tốn Phong gọi là viện hay mai đình có tả viện là nơi tiếp khách, phòng ăn, nơi bán sách giấy bút mực của vợ và con gái thầy. nghĩa có tiền viện nơi thờ phượng, hữu viện nơi dạy học và hậu viện phòng ngủ, chính giữa là khoảng sân rộng có hòn non bộ, chậu kiểng và bếp. Phong cách kiến trúc hình chữ khẩu, hình vuông ngày nay còn lại trong các ngôi nhà cổ, đình chùa Việt Nam. Nhà quay mặt hướng Đông (Đối mặt trời xanh mưa móc thuận, bài 1), trước Cổ Nguyệt Đường có cây bàng lớn, (Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình, bài 6 ), cạnh Bến Trúc Nghi Tàm (Bến Trúc mừng vui gặp mỹ nhân, bài 25), quanh nhà có trồng nhiều hoa (Nàng đây đối mặt giữa hoa ngàn, bài 7). Khi cụ Hồ Phi Diễn mất năm 1786, người trưởng tràng là Tử Minh tức Cả Tân thay thầy dạy học. Ba bài thơ Hồ Xuân Hương khóc Tử Minh là có những chi tiết quý báu. Khi Tử Minh mất năm  1811, 40 tuổi để lại vợ và hai con trai, Hồ Xuân Hương ngừng đi buôn do tình hình bất an do loạn Đặng Trần Siêu và Võ Đình Lục (1810-1822) vùng Sơn Nam, nàng trở về đảm nhận lớp học. Học trò nàng có hai con Tử Minh và cô Nguyễn Thị Hinh tức là bà Huyện Thanh Quan sau này, về sau bà học với Tiến sĩ Phạm Quý Thích, chung lớp với Phương Đình Nguyễn Văn Siêu. 

Cổ Nguyệt Đường dùng đèn bạc khác với mọi người dùng đèn đất, hay đèn sứ và có cả hồ đồng để coi giờ theo mực nước, là một cơ ngơi khá giả đương thời. Năm 1892 Antony Landes mướn Lê Quý và Nguyễn Văn Đại về làng Nghi Tàm chép thơ Hồ Xuân Hương, thì hai người con Tử Minh, nếu còn sống cũng khoảng 80 tuổi, Hồ Xuân Hương không con cháu, hai người con trai Tử Minh là người thân thiết nhất trong gia đình đã sưu tập thơ Hồ Xuân Hương và trông coi Cổ Nguyệt Đường. Ba bài thơ Khóc Tử Minh là bằng chứng của việc này vì thơ phúng điếu chỉ có gia đình người quá cố cất giữ.  Tập thơ này nhiều bài lẫn lộn với thơ vua Lê Thánh Tôn, tôi cho rằng đó là những bài thơ Hồ Xuân Hương yêu thích, là mẫu mực thi ca của bậc thầy, cần thiết trả lại các bài thơ Chợ Trời, Đánh Đu, đền Khán Xuân.. cho ông Vua Thơ Nôm Lê Thánh Tôn, không thể sửa đổi vài chữ rồi cho rằng thơ ấy hay hơn thơ vua Lê, phải công nhận là thơ Hồ Xuân Hương như Xuân Diệu viết trong sách Các nhà thơ Cổ Điển.  Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến từng làm việc tại Trường Viễn Đông Bác Cổ đã viết Giai Nhân Dị Mặc dựa theo văn bản này. Văn bản này còn lưu trử tại Société Asiatique tại Paris, Giáo sư Maurice Durand đã dùng để viết sách  L ́Oeuvre de la poétesse vietnamienne Hồ Xuân Hương EFEO Paris 1968.

Thuở nhỏ Hồ Xuân Hương học chữ với cha, cha mất năm Hồ Xuân Hương 14 tuổi, có lẽ nàng tiếp tục đọc sách và học hỏi với trưởng tràng Tử Minh. Mẹ bán quán giấy bút, sách nôm, nghề bán giấy bút và sách vở ngày xưa là nghề của vợ và con gái các thầy đồ, vì người bán cũng biết đọc và đọc qua các sách. Từ nhỏ Hồ Xuân Hương chăm chỉ đọc sách vừa ăn trầu, làm bếp cũng nhớ chuyện sử sách : “Mở sách ra rồi lại nhá trầu” (thơ Dương Tri Tạn), hay “Học thói Bàn Canh nấu bún Thang”. Cổ Nguyệt Đường còn có nghề dệt và trồng hoa có gia nhân chăm sóc. Các chú dẫn trong thơ Văn bản Landes, Hồ Xuân Hương thường đi lễ chùa du xuân, lễ Thanh Minh với bạn gái vợ Tử Minh và các học trò trai gái.

Có thể chia tác phẩm Hồ Xuân Hương làm ba phần :

– Thơ văn Hồ Xuân Hương theo văn bản Anthony Landes trước năm 1892, (thời kỳ này chưa có  Trường Viễn Đông Bác Cổ, ông là người đầu tiên mướn người sao chép sách cổ Việt Nam, Landes chết đuối trên sông Sài Gòn năm 1892) văn bản gồm những bài thơ truyền khẩu. Những bài thơ ứng khẩu thời Hồ Xuân Hương không chép thành thi tập. Các văn bản về sau  của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến và nhà in Xuân Lan.. dựa theo văn bản này.

– Thơ Lưu Hương Ký, Tốn Phong đề tựa là những bài thơ viết về chuyện tình mình với các danh sĩ Nguyễn Du,  Mai Sơn Phủ, Tốn Phong, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Trần Phúc Hiển.

– Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập những bài thơ viết trao đổi với Nguyễn Du và các bài thơ trong thời kỳ sống với Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Tập thơ này bị phân tán làm nhiều mãnh.

Cổ Nguyệt Đường chiết tự chữ Hán chữ Hồ, chữ Cổ là xưa và chữ Nguyệt là trăng , là nơi Hồ Xuân Hương dạy học, bên cạnh có quán trà của bà mẹ đã là Phòng Khách Văn Học của Việt Nam đầu thế kỷ 19. Là nơi các tao nhân mặc khách, các nhà thơ lớn đương thời xướng họa : Thi hào Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ tác giả Vũ Trung Tùy Bút, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh. Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển, Tốn Phong Phan Huy Huân, Mai Sơn Phủ, Tử Minh, Cư Đình và cả một Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường 28 người mà Trần Ngọc Quán được bầu làm Thi Tướng. Bản Lưu Hương Ký còn lưu lại tại nhà cụ Cử Nguyễn Văn Tú  làng Hành Thiện và bản Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập ông Trần Tường tìm ra tại Nam Định năm 1974, có lẽ là từ những người có chân trong Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường.

Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập là tập thơ cuối cùng của Hồ Xuân Hương. Tập thơ này đã được Miên Thẩm Tùng Thiện Vương và đại thần Trương Đăng Quế đọc, nên họ so sánh Hồ Xuân Hương với Mai Am Công Chúa và Phạm Lam Anh. Tập thơ này gồm các bài : Tưởng đáo nhân tình,  Giang Nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân, Vịnh Thạch Phu Phụ, Quá Khinh Dao từ hoài cổ, Ngư Ông khúc hành, Tái ngoại văn châm, Bán chẩm thư hoài.. Tám bài Vịnh cảnh Hạ Long (nay còn 5 bài) và tám bài thơ Vịnh Cảnh Đồ Sơn.. Các tác giả thế kỷ 19 không nhìn Hồ Xuân Hương như một nhà thơ dâm tục.

Năm Hồ Phi Mai, 18 tuổi, năm 1790, Nguyễn Du sau ba năm lưu lạc giang hồ Trung Quốc, sau cuộc khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Tư Nông, tỉnh Thái Nguyên thất bại, cùng Quyền Trấn thủ Thái Nguyên là Nguyễn Đăng Tiến tức Nguyễn Đại Lang (trong Thanh Hiên thi tập), Cai Già (trong Lịch Triều Tạp Kỷ) Cai Gia (trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí) và Nguyễn Quýnh (tức Nguyễn Sĩ Hữu) họ bị chỉ huy Giáo bắt và giải về cho Vũ Văn Nhậm (theo Lê Quý Kỷ Sự, tr. 100). Nhậm trân trọng khí khái tha chết và cho muốn đi đâu thì đi.  Hai câu : “Sinh tử giao tình tại, Tồn  vong cùng khổ khi” bài Biệt Nguyễn Đại Lang của Nguyễn Du cho biết ông cũng bị bắt và cùng được tha trong trận này. Sau đó họ lên đường đi Vân Nam, nơi cách Trường An ngàn dậm, có tuyết, có lá vàng rơi, trưởng giả còn ăn mặc theo thời nhà Hán (không thắt bính đuôi sam, ăn vận theo nhà Thanh) và không dùng lịch nhà Tần (họ dùng lịch theo Tây Tạng). Tại Vân Nam, vì không quen khí hậu miền núi Nguyễn Du bị bệnh ba tháng xuân, phải bán con ngựa đi đường và ở nhà người thầy thuốc để chữa bệnh (Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ), Vườn thuốc đìu hiu lạnh trúc thưa, bài Sơn cư mạn hứng). Hết bệnh Nguyễn Du thực hiện ước mơ mình, “Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại”, Ước gì thoát khỏi vòng trần tục (bài Sơn Thôn), Nguyễn Du đã xuất gia thành nhà sư mang danh hiệu Chí Hiên, danh hiệu dùng cho đến năm 1796, hai bài thơ Chí Hiên tặng trong Lưu Hương Ký. Theo gương Lý Bạch lúc 21 tuổi, mặc áo trắng đạo sĩ, mang trường kiếm đi ngao du khắp Ngũ hồ và các sông Giang Bắc Giang Nam, ngày dạo chơi thắng cảnh ban đêm trú chân nơi các đạo quán trên đường đi. Nguyễn Du thành nhà sư Chí Hiên, cũng “Giang Nam Giang Bắc nhất nang không”, (bài Mạn Hứng II)Giang Bắc, Giang Nam một túi không, ngày dạo chơi thắng cảnh ban đêm trú chân trong các chùa trên đường đi, tụng kinh Kim Cương, nhà chùa đãi cho món ăn rau đậu,và tặng xôi oản. Trong túi vải  Nguyễn Du có bản Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn, quyển sách được trí thức Bắc Hà yêu chuộng thời bấy giờ, Nguyễn Du đi khoảng gần 5000 km (Vạn lý hoàng quan tương mộ cảnh, Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế, bài Mạn Hứng II) và đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt (ba năm) bài Phân Kinh Thạch Đài.

Đến Liễu Cao Lâm, Liễu Châu họ chia tay nhau, Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ ở Việt Đông, vùng Quế Lâm cao sơn lưu thủy, và hẹn gặp lại tại Trung Châu. Nguyễn Sĩ Hữu trở về làm chủ Hồng Lĩnh, khởi nghĩa chống Tây Sơn. Nguyễn Du đến Quế Lâm thăm mộ Quế Lâm Cù Các Bộ và lăng mộ Quế Vương nhà Minh (khi đi sứ sang triều đình nhà Thanh, Nguyễn Du  ở công quán không thể đi thăm mộ và di tích những người Phản Thanh Phục Minh), sau đó đi theo sông Tương, Mịch Giang thăm nơi Khuất Nguyên trầm mình. (Viết bài Ngũ nguyệt quan cạnh độ) xem đua thuyền nhân lễ Đoan Ngọ, mùng 5 tháng 5, khi đi sứ Nguyễn Du qua nơi này tháng 7  và trở về tháng 3 Âm lịch. Nguyễn Du còn  viết bài Phản Chiêu Hồn bài bác thơ Tống Ngọc, mượn cớ để nói chuyện chính sự Việt Nam đời Tây Sơn :”Về thành Yên thành Dĩnh làm chi nữa, Thành quách y nguyên dân sự khác, Cát bụi lấm cả quần áo người, Đi ra xe ngựa, về vênh váo, Lên mặt Cao, Quỳ tán chuyện đời..” và bài  Trường Sa Giả Thái Phó : “Trời ban tài lạ không có chỗ dùng.” Khi đi sứ Nguyễn Du đã được vua Gia Long biết tài, trọng dụng tất nhiên không còn viết như thế.

Nguyễn Du đến thành Tín Dương, khi trận chiến Tây Sơn thắng Tôn Sĩ Nghị năm Kỷ Dậu 1789 đã xãy ra, cách biên giới trăm dặm dân chúng Trung Quốc hoảng sợ bỏ chạy theo tàn binh rút lui. Trận chiến làm rung động cả đất khách. (Tây Phong biến dị hương, bài Tín Dương tức sự).

Nguyễn Du đến Vũ Hán rồi sang sông Hán Dương đi Trường An (Ngã biệt phù Giang Hán) tại Trường An (tức Tây An, Thiểm Tây) làm bài Dương Phi Cố Lý, quê Dương Ngọc Hoàn tại làng Hoàng Nông huyện Hòa Âm tỉnh Thiểm Tây và Bùi Tấn Công Mộ tại Vị Thành, Trường An. Sau đó đi Lạc Dương kinh đô nhà Tùy, nơi đây có chùa Bạch Mã, ngôi chùa tổ đình, đầu tiên của Phật Giáo Trung Quốc lập năm 65 sau công nguyên,  Nguyễn Du thăm đình Tô Tần , đình chỉ có tại Lạc Dương quê hương ông, Nguyễn Du viết hai bài thơ Đình Tô Tần, và bài Phân Kinh Thạch Đài có nhắc đến bạch mã. Sau đó Nguyễn Du theo kênh đào Đại Vận Hà đi Hàng Châu, nơi đây  Miếu Nhạc Phi, Nguyễn Du dừng chân nơi này khá lâu nên viết 5 bài thơ. Tôi cho rằng đây là điểm hẹn “Tương kiến tại Trung Châu” với Nguyễn Đại Lang, trong bài Biệt Nguyễn Đại Lang.  Trước Miếu Nhạc Phi có con đê Tô, do Tô Đông Pha khi làm Thứ Sử Hàng Châu đã cho nạo vét lòng hồ đắp thành đê, nối liền Miếu Nhạc Phi với chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải từng tu hành với danh hiệu Minh Sơn hòa thượng trước khi thành nụy khấu, cướp biển. Nguyễn Du có bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tân Tài Nhân nơi này, tại Hàng Châu đã khắc bản gỗ in ấn và bán thời nhà Thanh. Tôi bác bỏ thuyết cho rằng Nguyễn Du đi ngang Miếu Nhạc Phi ở Thang Âm quê hương ông vì nơi đây không có núi Thê Hà như thơ mô tả, cũng không có tượng vợ chồng Tần Cối quỳ chịu tội cùng Trương Tuấn, tên tướng bắt Nhạc Phi và tên cai ngục Vạn Sĩ Tiết. Ngô Thời Nhiệm khi đi sứ triều Tây Sơn, trong Hoàng Hoa đồ phả có bài thơ Miếu Nhạc Phi tại Thang Âm.

Sau khi gặp lại Nguyễn Đại Lang, họ cùng đi Yên Kinh (Bắc Kinh) gặp quần thần Lê Chiêu Thống, họ đã bàn việc xin nhà Thanh một tỉnh Thái Nguyên, như nhà Mạc xin Lạng Sơn, làm hương hỏa nhà Lê, nhưng không thành, vì Tể Tướng Hoà Thân tiếp sứ thần Tây Sơn do Ngô Vi Quý mang quà tặng riêng, nên đày các quần thần nhà Lê đi xa. Phan Huy Ích và Đoàn Nguyễn Tuấn có thơ tặng Ngô Vi Quý khi hai đoàn sứ gặp nhau tại Vũ Hán. Nguyễn Đại Lang cùng Nguyễn Du quay trở về đến Hoàng Châu vào mùa thu năm 1790, thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn phó sứ trong sứ đoàn Phan Huy Ích. Đoàn có tặng văn nhân họ Nguyễn hai bài thơ, cho biết họ bàn luận sôi nổi chuyện văn chương (Hồng nhan đa truân), Đoàn Nguyễn Tuấn cho tin Nguyễn Nể ( anh cùng cha cùng mẹ, còn gọi Nguyễn Đề, Nể là kính nể, Nễ dấu ngã không có nghĩa) đã ra làm quan Tây Sơn làm Hàn Lâm thị thư, đã đi sứ và  cố vấn cho vua Quang Trung, ngày ngày nhà vua gióng ngựa quý sang thăm bàn việc nước. Đoàn Nguyễn Tuấn, Phan Huy Ích phải tiếp tục đi Nhiệt Hà, cung điện mùa hè vua Càn Long đang nghỉ nơi này, và hẹn gặp lại Nguyễn Du vào mùa xuân. Nguyễn Du đi xe song mã về đến Long Châu, sông Long Thủy, xóm Nam Đài và trở về Thăng Long.

Nguyễn Du về sống tại Thăng Long, nương tựa anh Nguyễn Nể, nhưng nơi dinh thự cũ bị kiêu binh phá, và trận cháy lớn do Lê Chiêu Thống sai đốt phủ Chúa Trịnh khi chúa Trịnh Bồng trốn đi, toàn bộ Thăng Long thành tro khói, Nguyễn Nể khi ra làm quan đã cho xây dựng lại mới nơi nền cũ nhà cụ Nguyễn Nghiễm tại Bích Câu. Nhưng nơi đây thường hội họp ca hát với quan tướng Tây Sơn, bài Long Thành cầm giả ca cho biết Nguyễn Du chỉ đứng trong bóng tối xem ca hát, Nguyễn Du không ở với anh mà ra ở nơi Gác Tiá, nơi câu cá của anh Thượng Thư Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân. Tại đây Nguyễn Du quen cô hàng xóm Xuân Hương Hồ Phi Mai, tuổi vừa 18, cùng đi hái sen với nàng và mối tình ba năm. (Chữ tình chốc đã ba năm vẹn, Bài Cảm Cựu kiêm trình Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân.)  Những ngày gặp gỡ Hồ Xuân Hương viết bài Duyên kỳ ngộ và Hỏi Trăng, Nguyễn Du ghi lại mối tình cô hàng xóm bằng bài Mộng đắc thái liên (Mơ thấy hái sen).

Năm 1792, vua Quang Trung mất, Nguyễn Nể nhận được nhiệm vụ mới phải vào Phú Xuân, giữ chức vụ Trung Thư Lĩnh và dạy dỗ vua Cảnh Thịnh mới lên mười. Nguyễn Du và Nguyễn Ức được anh trao nhiệm vụ và tiền bạc  về Tiên Điền xây dựng lại làng Tiên Điền, từ đường họ Nguyễn, đình làng, chùa, cầu Tiên bị  tướng Lê Văn Dụ đốt phá năm 1790 do cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn.  Nguyễn Du báo tin này cho Hồ Phi Mai và nàng viết bài : Tưởng đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút phụng trình.  Hồ Xuân Hương tiễn đưa Nguyễn Du về Hồng Lĩnh tại Thạch Đình, bến thuyền bên sông Vị Hoàng, Nam Định. nàng viết bài Giang Nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân (Lưu biệt bạn khăn gói sang sông Nam) trong cuộc tiễn đưa này Nguyễn Du viết bài Thạch Đình tặng biệt, và Hồ Xuân Hương họa lại bài Họa Thanh Hiên nguyên vận.

Nguyễn Du về Tiên Điền dựng nhà tranh bên bến Giang Đình, sách vở thư viện không kém gì thư viện Phúc Giang dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu, bị đốt mười phần  chỉ còn lại một hai chất bốn vách, ngoài sân trồng khóm cúc vàng, nơi này tiếp nhận gỗ, gạch chở bằng thuyền đến. Nguyễn Ức chỉ huy vẽ kiểu xây cất, Nguyễn Ức thừa hưởng cái tài khéo léo xây cất của anh Nguyễn Khản, dinh thự Chúa Trịnh đều do tay Nguyễn Khản, về sau Nguyễn Ức làm Thiêm Sự Bộ Công, kinh thành Huế thời Gia Long đều do ông vẽ kiểu và chỉ huy xây dựng, Lê Quý Thanh con Lê Quý Đôn coi phong thủy.

Thời gian Nguyễn Du ở Tiên Điền, khi có dịp người đi về, Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương trao đổi thơ từ, ta có thể dễ dàng nhận ra những bài thơ đối đáp qua những chữ dùng như thanh chiên, Tây phong, nhạn ảnh, hàn trùng, giấc mộng, Tây Hồ..  được lập lại. Hồ Xuân Hương gửi bài Nhân Tặng Nguyễn Du đáp lại bằng bài Ký Hữu (Gửi bạn), nàng viết bài Thu dạ hữu hoài chàng trả lời bằng bài Thu Dạ I, nàng lại đáp bằng bài Thu Vũ, khóc khi nghe tin Nguyễn Du bệnh vào cuối năm. Nguyễn Du lại đáp bằng bài Thu Dạ II. Hồ Xuân Hương đáp lại bằng bài Cố Kinh thu nhật dùng chữ thanh chiên, Nguyễn Du đáp bằng bài Khai Song cũng dùng lại chữ thanh chiên, Xuân Hương viết bài Thu Nhật tức sự cho biết Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Du cũng đáp lại Thu nhật ký hứng , lập lại chữ Tây phong, cho biết Tây Sơn ra Bắc nên chàng không ra Thăng Long được. Hồ Xuân Hương còn cho biết có người đến ve vản nàng và mẹ thúc ép nàng nhận lời lấy chồng : “Thẩn thơ trước viện nhà khoe gió, Đồng vọng bên tai địch thét đâu. Ướm hỏi trăng già khe khắc lắm. Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.”  Nguyễn Du viết bài Ký Mộng, mơ Xuân Hương về thăm mình:  “Mộng đến ngọn đèn sáng, Mộng đi gió lạnh lùng, Giai nhân nào thấy nữa, Lòng ta rối tơ vương.”.  Hồ Xuân Hương bài Cảm Cựu.. nhắc lại : “Giấc mộng rồi ra nửa khắc không”.

Trở về Hồng Lĩnh, Nguyễn Du làm Hồng Sơn liệp hộ, dẫn chó vàng đi săn, nhưng thương xót loài nai, hoảng nên chỉ đến để nhìn dấu mùi nai còn thơm trên cỏ ướt, không nỡ giết hại các loài, lòng chẳng cầu danh lợi, nên chỉ “đi săn” được măng non và củ mài..

Năm 1796, khi Nguyễn Ánh đánh tới thành Diên Khánh,  Nguyễn Du lại làm Nam Hải điếu đồ, đi câu cá và kiếm thuyền đi về phương Nam. Nguyễn Du bị  Quận công Nguyễn Văn Thận trấn thủ Hà Tĩnh bắt giam mười tuần, chờ đến ngày bạn là Nguyễn Nể đi sứ mừng lễ vua Càn Long truyền ngôi cho con về thì thả ra. Nguyễn Du ra đến Thăng Long thì hay tin, trong lúc chàng nằm tù, thì mẹ Hồ Xuân Hương đã gả nàng cho anh Lang, con Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du viết hai bài Chí Hiên tặng, oán trách nàng tệ bạc, và “cảnh cáo” nàng : “Có mắt mà xem mặt nước non “.  Nguyễn Du được Nguyễn Nể đi sứ về, mai mối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn cưới cô em út họ Đoàn (sinh trước năm 1775, năm cụ Đoàn Nguyễn Thục mất). Nguyễn Du về Quỳnh Hải, Thái Bình sống cuộc đời hạnh phúc với vợ, chấm dứt cuộc đời “mười năm gió bụi”. Điều này phản bác gia phả sách vở, cho rằng mười năm gió bụi là thời gian Nguyễn Du sống nơi quê vợ, và ngược với câu thơ Nguyễn Hành viết về chú: “Giang hồ, long miếu hai điều đủ. Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh”.  Nguyễn Du có cuộc đời giang hồ nghĩa là đi rong chơi trên các sông và các hồ lớn Trung Quốc  như Phạm Lãi, Lý Bạch, khác nghĩa chữ “giang hồ” ngày nay. Thời gian từ 1786 đến 1796, Nguyễn Du 20 đến 30 tuổi, là thời gian mười năm gió bụi, Nguyễn Du đi rong chơi đây đó, từ Thái Nguyên đi Trung Quốc, lại về Thăng Long Tây Hồ câu cá, về Hồng Lĩnh bị tù, nhà cửa dinh thự Bích Câu lẫn Tiên Điền đều bị đốt cháy, làng Tiên Điền thành chiến địa bị làm cỏ, yêu đương lại dang dỡ với Cô Cúc làng Trường Lưu, cô Xuân Hương làng Nghi Tàm. Thu Cúc Xuân Lan thành mộng ảo. Từ năm 30 tuổi, (1796) sống hạnh phúc bên vợ, Nguyễn Du dạy văn, dạy võ, cho đến khi Gia Long ra Bắc năm 1802. Nguyễn Du dẫn học trò, tráng đinh ngựa, bò lương thực dâng sớ tiếp đón vua Gia Long, đến huyện Phù Dung thì gặp vua, nhà vua phong ngay cho Nguyễn Du làm Tri huyện Phù Dung, trấn Sơn Nam. Sự kiện này giống như Phi Tử thời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương, được phong chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành nhắc đến trong bài Đi Săn.

Thơ Tốn Phong viết : “Mai quả đã từng ba độ kết”, nghĩa là Hồ Xuân Hương ba lần lấy chồng. Dựa vào thơ Lưu Hương Ký, Gs Hoàng Xuân Hãn nhận thấy có ba khoảng trống nàng vắng làm thơ: 1794-1798, 1802-1806 và 1810-1813. Tương truyền lần thứ nhất nàng lấy một thầy Lang, thầy thuốc mất sớm, nàng viết bài Bà Lang khóc chồng, lần thứ hai lấy Tổng Cóc, một viên chánh tổng tên Cóc, và lần thứ ba tri phủ Vĩnh Tường. Gs Hoàng Xuân Hãn bác bỏ việc lấy tri phủ Vĩnh Tường, vì trước năm 1822, phủ mang tên Tam Đái suốt thời Gia Long, năm 1821 đổi ra Tam Đa, năm 1822 mới đổi thành Vĩnh Tường. Do đó bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường chỉ là bài thơ do người đời sau viết, hay sửa đổi thơ Hồ Xuân Hương khóc Trần Phúc Hiển.

Khi Nguyễn Du bị tù, mẹ Hồ Xuân Hương đã gả nàng cho anh Lang con thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tầm, Thơ Phạm Đình Hổ bài Hoài Cổ trêu chọc Hồ Phi Mai:  “Năm xưa hoa đào nở, Em tôi học cài trâm, Năm nay hoa đào nở, Mẹ gả xóm Tây gần.. Em nhìn hoa mà khóc, Sầu vương nét mi cong”. Thầy thuốc ngày xưa đi chữa bệnh, bốc thuốc cam thảo, trần bì.. anh Lang trẻ chưa có kinh nghiệm, không đọc sách Vệ Sinh Toát Yếu của Hải Thượng Lãn Ông, nên gặp những bệnh lây nhiểm như bệnh dịch, bệnh lao.. thì cũng đi đời như bệnh nhân, Hồ Xuân Hương góa chồng sớm.

Một mối tình ghi dấu trên thơ Lưu Hương Ký từ năm 1799 đến 1801, năm Hồ Xuân Hương 27, 29 tuổi là mối tình với Mai Sơn Phủ. Mai Sơn là bút hiệu, Phủ là tiếng sang trọng để xưng người đàn ông. Phạm Đình Hổ bút hiệu là Tùng Niên (cây tùng lâu đời nhựa thành hổ phách),  nên gọi là Tùng Niên Phủ. Nguyễn Kính là Kính Phủ. (Nguyễn Kính thường cùng Phạm Đình Hổ đi thăm chùa Kim Liên, năm 1807 làm Tri huyện Phù Dung nơi Nguyễn Du từng trấn nhậm) Mai Sơn Phủ người Vịnh Phố, tức Vinh ngày nay. Mai Sơn Phủ yêu nàng ngỏ ý xin cưới nàng hai người từng cắt tóc, trích máu vào chung rượu thề nguyền, nếu phụ lòng nhau sẽ bị trừng phạt bằng dao búa. “Dao búa nguyền xin lụy đến mình”. Mối tình Mai Sơn Phủ đã để lại cho Hồ Xuân Hương những bài thơ tình nồng nàn thắm thiết : Thuật ý khiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ, Thu nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ. Nguyệt dạ ca.. Bài Điệu ca Xuân Đình lan : “Tâm ở Vu Phong, Hồn ở Vu Phong. Ân ái cuộc tao phùng”, Hồ Xuân Hương thổ lộ không dấu diếm hai người đã ân ái với nhau. Mai Sơn Phủ tài thơ kém hơn Hồ Phi Mai, nên bài Thu Tứ Ca mượn cả bốn câu thơ cổ nổi tiếng tương truyền của một vị vua Trung Quốc:  Thu phong khởi hề bạch vân phi.. để rồi thề thốt:  Ta có rượu chừ không bạn uống, Ta có đàn chừ chẳng tri âm. Và chàng thề không uống rượu và chẳng gảy đàn, chàng chỉ uống trà xanh thôi để nhớ tới nàng.

Mai Sơn Phủ từ biệt Xuân Hương, về quê làng Liên Cừ, Vịnh Phố, Phạm Đình Hổ trong bài Tống Liên Cừ Mai Công phó Vị Hoàng, mùa hè xa cố đô, mà Hồ Phi Mai khóc sướt mướt :  Sơ mai hương đậu Hoàng Giang vũ. Hoàng giang mưa điểm hương mai nở. Mùa hè làm gì có mai nở, chỉ có Phi Mai khóc.

Mai Sơn Phủ về đến quê nhà, có lẽ bị cha mẹ bắt gả vợ, chàng đã phụ lời thề hay đã chết vì dao búa trong chiến tranh ? Tháng ba năm 1801. Nguyễn Ánh chiếm Quảng Nam, sau đó thừa thắng tiến đánh Đà Nẵng, tháng năm thủy quân đánh cửa bể Tư Dung, thừa thắng kéo vào kinh thành Phú Xuân. Vua Quang Toản bỏ kinh thành chạy ra Bắc, trận chiến tiếp diễn tại Nghệ An, Thanh Hoá, trấn thủ Nguyễn Văn Thận chạy ra Thanh Hoá bị bắt giết. Tháng năm Nhâm Tuất 1802. Nguyễn Ánh lập đàn ở đồng An Ninh, Phú Xuân tế trời đất lên ngôi đặt niên hiệu Gia Long. Trong lúc đó Nguyễn Nể được lệnh triều Tây Sơn đưa La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp về Phú Xuân, đang kẹt trong chiến trận thì được Gia Long cho gọi đến. Gia Long tha cho Nguyễn Thiếp về quê quán, và đem theo Nguyễn Nể theo hầu để hỏi chuyện đi sứ xin phong vương. Do đó người đi theo Gia Long từ Phú Xuân ra Thăng Long không phải là Nguyễn Du như gia phả  Nguyễn Tiên Điền viết mà là Nguyễn Nể.

Trong tình hình đó Hồ Xuân Hương viết bài Tự Thán I, II “Nghĩ cùng thế sự lòng như đốt, Trong suốt nhân tình dạ muốn say. Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn, Một đời riêng mấy tiếng chua cay.”. Mối tình Mai Sơn Phủ chấm dứt nơi đây, ta không biết được số phận Mai Sơn Phủ thế nào, trong giai đoạn cuộc chiến dữ dội. Nhưng Hồ Xuân Hương thì đau điếng, miệng lưỡi người đời chua cay dèm pha tình nàng với Mai Sơn Phủ. Trong cơn túng quẩn, quán trà ế khách, trường thiếu học trò, chiến tranh sắp xãy ra tại Thăng Long, bỗng có chàng Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, học trò cũ của cha, đến ve vãn, rước nàng về dạy kèm cho con, đưa nàng lánh nạn lên Vĩnh Phú nay thuộc Hưng Yên, năm đó nàng 29 tuổi, mở đầu thời kỳ :  Mười năm lận đận như ăn trộm bịt tai đi trộm chuông. Thập tải phong trần quán nhỉ linh. (1801-1811)

Cóc tiếng Việt ngày xưa có nghĩa là Biết. Cóc hay thân ảo (Phú Cư trần lạc đạo của Vua Trần Nhân Tôn). Ba, bốn làng ngày xưa họp lại thành một Tổng, làng có chế độ tự trị rộng rãi, phép vua thua lệ làng, Hội đồng Hương chính do các người đàn ông thế lực trong làng cử ra. Quyền hành triều đình chỉ đến cấp huyện, do triều đình bổ nhiệm một vị Cử nhân hay Tiến sĩ trấn nhậm, Cai Tổng là một chức vị trung gian không có thực quyền, chẳng có lương bổng, liên hệ giữa Hội đồng Hương chính làng với quan Tri huyện, do đó các làng thường cử một người giàu có ruộng đất làm công việc này.  Ông  Cai Tổng chỉ vác ô đi ăn đám giỗ. và nhận quà cáp dân chúng biếu xén dăm con cá rô, cá lóc khi tát ao ruộng. Cai Tổng phải biết chữ nho để đọc các Sắc, Lệnh của vua quan, hay Sớ trong các buổi lễ, do đó Tổng Cóc không phải là người dốt. 

Theo tài liệu Nguyễn Hữu Nhàn trong bài Hồ Xuân Hương và Tổng Cóc. Hồ Xuân Hương Thơ và Đời, Văn Học Hà Nội 1989, trang 218, tài liệu do cụ Dương Văn Thâm cung cấp. Tổng Cóc người Tứ Xã tên thật là  Nguyễn Bỉnh Kình, tự là Nguyễn Công Hòa, dòng dõi Nguyễn Quang Thành, đỗ Tiến sĩ năm 1680. Tổng Cóc từng là một nho sinh, từng lều chỏng đi thi nhưng không đỗ. Tổng Cóc tính ăn chơi, chẳng bao lâu cửa nhà sa sút, vợ Cả ghen. Tổng Cóc bỏ đi biệt sau khi Hồ Xuân Hưng có thai ba tháng.

Bài thơ Gửi Tổng Cóc, câu thơ Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi, nói ngược lại sự việc trên. Hồ Xuân Hương bỏ Tổng Cóc, chứ không phải Tổng Cóc bỏ Hồ Xuân Hương, cũng không phải Tổng Cóc chết, Hồ Xuân Hương mắng nhiếc, như Xuân Diệu và nhiều nhà bình thơ giải thích. Cóc ngày xưa vào nền nhà bằng đất, cóc thường trốn vào gầm giường xó bếp, đánh đuổi đi cóc cũng trở lại chỗ cũ, chỉ có bôi chút vôi ăn trầu vào cóc là cóc bỏ đi mất tiêu. Do đó câu thơ có nghĩa là:  Dù có cho tôi nghìn vàng, tôi cũng không trở về với anh, như cóc đã bị bôi vôi.

Hồ Xuân Hương, trở về Tây Hồ, theo tôi do nàng nhận được bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du. Câu thơ “Bách tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp tố như.” Có nghĩa là Không biết rồi đây ba trăm năm nữa, Ai sẽ khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh.  Hiểu “tố như” là Nguyễn Du là chuyện phi lý, sáu câu đầu viết về nàng Tiểu Thanh bổng nhiên câu kết, tự hỏi ai khóc mình, là thơ lạc đề. Nguyễn Du không thể làm thơ lạc đề, Nguyễn Du không phải là phụ nữ, cũng không phải là kẻ đồng tính luyến ái để sánh mình với phụ nữ. Ngày xưa nam nhi không ai sánh mình với phụ nữ. Tố như chỉ xuất hiện duy nhất trong bài thơ này, Tố  theo Tự điển Thiều Chửu có nghĩa là tơ trắng, là người (phụ nữ) phẩm hạnh cao quý, như là như thế, như vậy. Không ai chứng minh được Nguyễn Du là phụ nữ hay một người á nam á nữ, thì “tố như” chỉ là một sự lầm lẫn như người viết Gia phả Tiên Điền đã lầm  như Lê Quý Kỷ Sự của Nguyễn Thu thành Nguyễn Du, hay Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Nguyễn Du chống Tây Sơn tại Quỳnh Hải, trong lúc Đoàn Nguyễn Tuấn làm quan thị thần bên cạnh vua Quang Trung.. Hồ Xuân Hương trở về đáp lại thơ Nguyễn Du :”Tây Hồ hoa uyển tận thành khư”, Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu,  bằng : “Tây Hồ phong cảnh vẫn như xưa.” bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn.

Việc Hồ Xuân Hương, có thai và sinh con, được Tốn Phong xác nhận : “Chốn dời, mai đã nẩy thêm cành”, tiếc thay con nàng mất sớm sau khi sinh.

Hồ Xuân Hương trở về Thăng Long, mở quán sách khoảng năm 1804-1807, với sự giúp đỡ của bạn bè như Phạm Đình Hổ cho mượn năm ba quan tiền, nàng mở quán bán sách bút kế bên trường ông Nghè Phạm Quý Thích (1760-1825), người bạn thân thiết của Nguyễn Du, mở ở Phố Nam thành Thăng Long, thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, gần đền Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không và chùa Báo Thiên (khu Nhà Thờ Lớn Hà Nội ngày nay). Nhà Nguyễn Kính cũng ở gần nơi này.  Quán sách không lời vì những cậu học trò nhỏ như Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) lúc đó mới 8 tuổi, “Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, đến ngắm bà chị 35 tuổi, sắc đẹp đổ nước nghiêng thành, các quan thị từ cung vua Lê, chúa Trịnh, cung điện cháy chẳng còn nơi ở, thất nghiệp đến la cà, hay anh chàng Cư Đình không nhà sống trong đình làng.. khách hàng như thế thì chẳng mua bán được gì !.. Hồ Xuân Hương bán các sách truyện: Nữ Tú, Phương Hoa, Tuyển Phu, Chinh Phụ, Bích Câu Kỳ Ngộ.. (bài Cô Hàng Sách) và dĩ nhiên các sách Giáo khoa Nho học đương thời : Tam Tự Kinh, Sơ học vấn tâm, Ấu học ngữ ngôn thi, Minh Tâm bảo giám. Minh đạo gia huấn. Tứ Thư, Ngũ Kinh.. Sách Toát Yếu, sách “học tủ” để đi thi của cụ Nghè Bùi Huy Bích dạy học làng Thịnh Liệt, Thanh Trì,  và những sách do thương nhân Trung Quốc từ Quảng Đông đưa sang: Xuân Thu Chiến Quốc, Tam Quốc Chí, Liêu Trai Chí Dị, Đào Nguyên ký, Nam Hoa Kinh, Minh Sử, Tống Sử.. điều này chứng minh sau thời gian bán sách thơ Hồ Xuân Hương dùng nhiều điển tích hay lạ khác với ngày trước thơ ứng khẩu.

Thời kỳ 1807-1811. Hồ Xuân Hương xoay qua nghề đi buôn sách bút tại các nơi, thơ nàng lưu dấu nhiều nơi :  Đền Sầm Nghi Đống, chùa Hương Tích ở Hà Đông, Đá ông Chồng Bà Chồng ở Tuyên Quang, Kẽm Trống ở Ninh Bình, Đèo Ba Dội núi Tam Điệp, Quán Khánh ở Thanh Hóa.. Hồ Xuân Hương bán cả sách bút cho cả các quan trấn nhậm, đó là cơ hội nàng gặp gỡ Trần Quang Tĩnh Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ (vùng Nam Định), Trần Ngọc Quán Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng tại Châu Cầu và Trần Phúc Hiển, Tri phủ Tam Đái ( Việt Trì). Các quan trấn nhậm, xa quê quán, xa vợ con gặp một người đẹp sắc nước hương trời biết xướng họa thơ, đến bán sách bút thì chắc nàng bán gì cũng mua hết. Tuy nhiên tình hình loạn nông dân Đặng Đình Siêu và  Võ Đình Lục từ 1810 đến 1822 làm tình hình vùng Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ bất an, các phụ nữ xinh đẹp đi buôn có khi mất cả vốn lẫn người. Năm 1811, người bạn thân Tử Minh lại mất, để lại lớp học, vợ và hai con dại, Hồ Xuân Hương  phải đảm nhận lớp học Cổ Nguyệt Đường.

Lưu Hương Ký từ đây lưu lại các mối tình xướng họa thơ văn với Tốn Phong, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh và người chồng Trần Phúc Hiển.

Tốn Phong cùng họ với Phan My Anh, người Hoan Châu huyện Thạch Hà, nơi chánh quán. dòng họ Phan Huy Ích. Bài thơ số 10 Tốn Phong cho Hồ Xuân Hương địa chỉ: Từ biệt trường đình nàng còn nhớ. Ghi lấy Hoan Nam, Thạch Ẩn nhi.  Tốn Phong họ Phan Huy tên Huân hay Nam Sơn, Huân là Gió Nam, Phong còn có nghĩa là núi, Núi Nam hiệu là Nham Giác Phu là người ẩn trong núi mà hiểu sự đời. Đến Thăng Long, Tốn Phong ở cạnh hồ Kim Âu nơi Cửa Giám  (Văn Miếu), Phan Huy Ích có mở nhà học nơi này, có nhiều thầy dạy họ Phan, như Phan Mậu Hiên, có lẽ Tốn Phong là một người dạy nơi này. Sau khi Gia Long lên ngôi, triều đình Huế mở khoa thi đầu tiên năm 1807 đến năm 1813 mới mở khoa thi Hương thứ hai. Tốn Phong đi thi trường Nghệ, nhưng cả hai khoa đều hỏng. Tốn Phong đã có vợ nhưng tán tỉnh nàng “Lạ mặt dám quen cùng gió nước” tại quán sách, chàng ví mình như  như anh thuyền chài lạc Vũ Lăng đến chốn Đào Nguyên, chàng ăn mặc áo xanh lục bảnh bao, xức nước hoa xạ hương : Sương xoa áo lục nhồi hương xạ, dáng đi thơn thớt:  Gió lọt cành lê lướt mặt hồ. Nhưng Hồ Xuân Hương trải qua bao kinh nghiệm tình ái :  Trong trần mấy kẻ tinh con mắt. Biết ngọc mà trao mới kể cho, nhưng yêu  Tốn Phong thì không vì : Tơ nguyệt rày xe ba mối lại, Hỏi khách đa tình nhẽ có hay. Năm canh hồn bướm thêm bơ bãi. Ông tơ bà nguyệt không có tài se được ba mối tơ : chàng, vợ chàng và tôi vào một, Xuân Hương sợ dấn thân vào cảnh khổ một anh đồ nghèo, sợ hãi như cánh bướm bay bơ vơ bừa bãi nên từ chối. Năm 1814 gặp lại Xuân Hương, mối tình si đã hết, Xuân Hương đưa tập thơ Lưu Hương Ký cho Tốn Phong đề tựa,  và kể chàng nghe những mối tình, chàng cũng cầu chúc cho Xuân Hương  sớm hạnh phúc với Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Chàng trở về Hoan Châu với lời thề như Tư Mã Tương Như, không lập công danh không trở lại qua cầu này, chàng đã thi hỏng, từ đó không còn trở lại gặp Xuân Hương và bạn Cư Đình ở Thăng Long.

TÌNH BẠN HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ PHẠM ĐÌNH HỔ (1768-1839)

Phạm Đình Hổ là một cây bút tài hoa, Vũ Trung Tùy Bút, chuyện viết lan man trong ngày mưa, ông mô tả toàn cảnh xã hội Việt Nam, ngày nay muốn tìm hiểu về xã hội Việt Nam thời Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương không thể không đọc sách ông.

Phạm Đình Hổ chánh quán xã Đan loan huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương, mồ côi cha sớm lúc 10 tuổi, năm Giáp Thìn (1784-1785), ông mới ra du học tại Thăng Long, ông xin được vào Trường Quốc Tử Giám, theo dự các buổi bình  văn chưa kịp đi thi thì nhà Lê mất. Ông tục gọi là Chiêu Hổ, chữ Chiêu do Chiêu Văn Quán đời vua Lê Trang Tông (1533-1548) đổi Sùng Văn Quán lập từ đời vua Lê Thánh Tông, nơi tòng học của con quan từ tam phẩm trở lên, tuy nhiên chế độ thụ nghiệp ban hành năm 1492 bỏ lâu không giảng nữa, nhưng vẫn theo tục cũ con quan từ ngũ phẩm trở lên được gọi Chiêu Văn Quán, con quan các hàm cuối gọi là Tú Lâm Cục. Cậu Chiêu, Cậu Tú bắt đầu từ thời này.

Phạm Đình Hổ cư ngụ tại Hàng Buồm, thân thiết với Nguyễn Án cư ngụ gần chùa Lý Quốc Sư, ông dạy học tại thôn Khánh Vân, hạ lưu sông Tô Lịch (nay là xã Khánh Hà). Bài thơ Quá Kim Liên trong Đông dã ngôn thi tập ông cho biết : Bèo dạt làm thân khách cố kinh. Kim Liên qua lại đã bao lần. Chùa Kim Liên bên cạnh Cổ Nguyệt Đường là nơi Phạm Đình Hổ và bạn bè thường đến, có lẽ ông đã từng học với cụ Hồ Phi Diễn, Phạm Đình Hổ có nhiều bài thơ tả một cô gái nhỏ tuổi hơn ông, yêu hoa mai và biết làm thơ và thường đứng trước gương uốn éo như đứt ruột.

Cô gái ấy là ai ? Phạm Đình Hổ trêu cô có tình ý với anh chàng đang viết Đoạn Trường Tân Thanh ? Bài thơ Tống Liên Cừ Mai Công phó Vị Hoàng, ông còn trêu mưa ướt cả hoa mai nở trong mùa hè. mùa hè làm gì có mai, chỉ có Phi Mai khóc sướt mướt.

Khi vua Gia Long  lên ngôi, ông tham dự kỳ thi 1807 đỗ Tam Trường, Nguyễn Ḱính đỗ Tứ Trường được bổ làm Tri huyện Phù Dung. Khoa thi 1813 Phạm Đình Hổ thi hỏng, khoa 1919 đang thi thì bị bệnh phải bỏ ra về.

Năm 1821, vua Minh Mệnh ra Bắc, lưu ý khuyến khích việc soạn sách, ông được vời ra diện kiến, ông viết Hành tại diện đối tả cuộc gặp gỡ này, nhân dịp này ông dâng sách được vua ban thưởng được bổ làm Hành Tẩu, một tháng sau thăng Hàn Lâm Viện biên tu. Năm ấy Hồ Xuân Hương chồng đã bị tử hình, trở về Cổ Nguyệt Đường làm  câu đối mừng : Mặc áo Giáp cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình rằng Quý. Lấy những chữ trong thập can ý muốn chế giễu Phạm Đình Hổ, không thi đỗ nhưng nhờ dâng sách, nên mặc áo nhà quan ra vẻ ta đâyChiêu Hổ nổi nóng đối đáp lại bằng lời mắng nặng nề :  Là đỉ Càn. Tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly Đoài khéo nói rằng Khôn.  Lấy những chữ trong Bát quái mắng Hồ Xuân Hương là con đỉ càn dỡ lại còn tự phụ cho rằng mình khôn. Những lời mắng nặng nề đó có lẽ chấm dứt mối liên hệ giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ. Hồ Phi Mai từng bị tai tiếng là thèo đảnh, tai tiếng  chua cay trong mối tình Mai Sơn Phủ, nay bị mắng là đỉ càn.

HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ HIỆP TRẤN SƠN NAM HẠ TRẦN QUANG TĨNH

Trần Quang Tĩnh vốn quê ở Gia Định mới ra Bắc Hà làm quan lần đầu. Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ gồm đất Thái Bình, Nam Định ngày nay. Được nghe tiếng Xuân Hương đã đến thăm và tỏ tình qua lại nhiều lần. Tháng 3 năm Kỷ Tị 1809 nhân dịp lên Thăng Long cáo từ quan Tổng Trấn Bắc Thành đã ghé thăm Xuân Hương. Xuân Hương làm tiệc tiễn chân. Trần Quang Tĩnh xướng và Xuân Hương họa lại nàng muốn thoát xác như Sãnh Nương đi theo chàng.

Trần Quang Tĩnh xướng :  Nâng chén dưới đèn tiệc tiễn chân. Tơ sầu dằng dặc lặng câm buồn. Cây lặng gió im chim lặng tiếng, Ngoài rèm trăng xế khách kêu ồn, Ta thẹn không tài thơ Bạch Tuyết. Khen bạn duyên cao sinh Cửa Son. Trùng phùng còn biết ngày nao gặp, Ngơ ngẫn tình say vướng mộng hồn.

Xuân Hương đã họa :  Gặp gỡ bèo mây dưới nguyệt tròn, Ngỗn ngang sầu vọng nói gì hơn. Phượng Cầu ai gảy đàn đưa ý, Chim Khách kêu chi ngõ vắng buồn. Ai chuộc tiếng kèn về Hán khuyết. Lòng ta luống thẹn biệt Hồ môn. Chia tay giữa tiệc tình lưu luyến. Ngây ngất hồn say mộng Sãnh Nương.

Hai bài thơ nguyên tác chữ Hán dùng điển tích thật khéo léo tài tình.

HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ HIỆP TRẤN SƠN NAM THƯỢNG TRẦN NGỌC QUÁN

  Trần Ngọc Quán người Quảng Bình, theo vua Gia Long, giỏi văn chương năm 1890 giữ chức Hàn Lâm thị thư và được phong làm Cai Bạ doanh Quảng Đức,( Thừa Thiên sau này). Bốn doanh đất kinh kỳ chức vị đứng đầu là quan Cai Bạ, phụ tá có quan Ký Lục. (nhiều người lầm Nguyễn Du làm Cai Bạ Quảng Bình là người coi địa bạ ruộng đất). Tháng ba năm Ất Hợi 1815 được bổ nhậm chức Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng, đất này gồm hai tỉnh Hà Nội và Hưng Yên về sau. Trị sở ở Châu Cầu, Phủ Lý.

Mối tình Hồ Xuân Hương với Trần Ngọc Quán là mối tình đến muộn, vì nàng đã yêu Tham Hiệp Trần Phúc Hiển. Trần Ngọc Quán nghe tiếng danh nàng từ khi ở Phú Xuân, nên khi đến trấn nhậm Sơn Nam Thượng đã đến thăm nàng:

Tài cao nhã phượng thế gian kinh, Nay đến Long Thành được thấy danh.

Trần Ngọc Quán khuyến khích lập Tao Đàn tại Cổ Nguyệt Đường và được bầu làm Thi Tướng. Hồ Xuân Hương mời thi nhân hội họp ngâm thơ, nhưng cũng có người cười chê nàng là “thèo đảnh”, phụ nữ mà tụ họp nam giới uống rượu ngâm thơ. (Thèo đảnh khen ai khéo đặt cho).

Rằm tháng 7 trung thu năm 1815, Hội Thơ được tổ chức tại phủ đường Châu Cầu, Hồ Xuân Hương sợ bà Hiệp Trấn ghen, ngụ tại phủ đường bà sẽ đối xử “mát mẻ”, ngụ tại quán khách lòng bà sẽ chẳng yên “băn khoăn”. Hồ Xuân Hương làm bài Tặng Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng, để từ chối, nói lên một tâm sự tế nhị phức tạp  thật tuyệt tác:

Hẹn thu hẹn nguyệt luống ăn năn, Cái kiếp phù sinh những nợ nần. Cửa viện xuân về hoa mát mẻ, Đài trang nương náu nguyệt băn khoăn. Duềnh xanh nước chảy tin lai láng, Lá thắm gieo thơ bút ngại ngần. Son phấn dám đâu so ngọn bút, Mượn tay thi tướng nhắc  đồng cân.

Trần Ngọc Quán mất năm 1818, trong thời điểm cuộc thanh trừng vây cánh Nguyễn Văn Thành vì bài thơ Nguyễn Văn Thuyên. Phải chăng Nguyễn Văn Thuyên thường ra Bắc Hà đã đến cư ngụ nơi Trần Ngọc Quán. Mối quan hệ với vị chỉ huy toàn quân đội Nguyễn Văn Thành, khi làm Cai Bạ vùng đất kinh đô Phú Xuân là điều bình thường, trở thành một mối lo âu khi Nguyễn Văn Thành tự tử, trước áp lực của Tổng Trấn Bắc Thành Lê Chất, phe Lê Văn Duyệt, tôi cho rằng điều này đã dẫn đến cái chết của Trần Ngọc Quán. Thơ văn Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường bị đốt, bị cất dấu do ảnh hưởng việc này.

HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ TRẦN PHÚC HIỂN.

Trần Phúc Hiển con Trần Phúc Nhàn, giữ chức tham mưu trong quân đội Nguyễn Ánh trước khi chiếm được Phú Xuân, có lẽ tử trận, để đền công khi lên ngôi Gia Long phong cho con là Phúc Hiển chức Hàn Lâm Thị Thư năm 1803, sau đó được thăng dần đến chức Tri Phủ Tam Đái, Việt Trì ngày nay, thuộc trấn Sơn Tây, tháng 12 năm 1813 được thăng chức Tham Hiệp trấn Yên Quảng. Hồ Xuân Hương quen biết Trần Phúc Hiển từ khi còn là Tri Phủ Tam Đái. Một bài thơ không tựa, ghi dấu sự kiện này :  Trăm năm gặp gỡ là bao nã, Thắc mắc sầu riêng khó gỡ ra.

Phép trị gia ngày xưa vợ cả không theo chồng tại chức mà ở lại quê chăm sóc gia trang, Phúc Hiển rời phủ Tam Đái dòng thuyền qua Thăng Long để đi Yên Quảng nhậm chức mới, để rủ bạn tình cùng đi, đến gần trấn lỵ sông Bạch Đằng, Phúc Hiển để bạn tình trở lại Thăng Long và hẹn sẽ rước nàng về làm vợ, nhưng mẹ Xuân Hương mất trong thời gian này, Xuân Hương phải cư tang, nên năm 1816, Trần Phúc Hiển mới trở lại cưới Hồ Xuân Hương,  về Hạ Long nàng tham dự việc quan cùng chồng, thời gian này Xuân Hương viết các bài thơ vịnh cảnh Hạ Long, cảnh Đồ Sơn, Sầm Sơn bằng chữ Hán. Năm 1818 nhân việc ruộng Châu Vạn Ninh bị bỏ hoang nhiều, do dân bỏ đi làm nghề chài lưới được nhiều lợi hơn, Quan Tham Hiệp ép dân trở về cày ruộng, dân không chịu. Viên Án Thủ Dung vốn có tị hiềm xui dân kiện Phúc Hiển đòi ăn hối lộ 700 quan tiền, Phúc Hiển bị bắt. Vua Gia Long phê án “Tham nhũng như thế mà không giết thì lấy gì khuyến liêm” và bảo quan Bắc Thành trị tội. Phúc Hiển bị giam một năm đến tháng 5 năm 1819 thì bị tử hình.

Cùng một thời kỳ, xãy ra các vụ án bài thơ của Nguyễn Văn Thuyên, vì có câu : “Giúp nhau thay đổi hội cơ này”. Thuyên bị án chém, cha là Trung Quân Nguyễn Văn Thành, thống lĩnh toàn quân đội phải tự tử, Thầy dạy là Vũ Trinh, anh rể Nguyễn Du làm quan Hữu Tham Tri Bộ Hình bị án giảo, được giảm án đày đi Quảng Nam năm 1828 mới được ân xá. Thượng Thư Bộ Binh Đặng Trần Thường bị xử thắt cổ (án giảo), Nguyễn Gia Cát Tham Tri Bộ Lễ, Vũ Quý Đĩnh Thiêm Sự Bộ Lễ cũng bị án giảo. Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán cũng chết có lẽ tự tử.. Các vụ án mang nhiều nghi vấn một cuộc thanh trừng phe phái với phe Tả Quân Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Án Thủ Dung và phe  Trung Quân Quân Nguyễn Văn Thành. Vua Gia Long khi về già, lo sợ uy quyền các công thần lấn lướt, nên  hành xử theo lối “được chim bẻ ná, hết thỏ thịt chó săn”, việc này thường xãy ra trong các triều đại Trung Quốc và Việt Nam. Phúc Hiển là người được Nguyễn Văn Thành che chở. Xuân Hương có mặt trong vụ xử tử chồng. Trong một bản văn Nôm cổ bài Khóc chồng có hai câu : Hạt sương dưới chiếu chau mày khóc. Giọt máu trên tay mĩm miệng cười. Xuân Hương đã khóc cười điên dại bên xác chồng.

Khi Trần Phúc Hiển bị nạn lúc đó Trần Quang Tĩnh trở ra làm Tào Binh Bắc Thành, Tham Tri Bộ Binh, Hồ Xuân Hương có đến cầu cứu, nhưng quan Tham Tri lánh mặt. Bài Bán Chẩm Thư Hoài Hồ Xuân Hương viết: “ Ngâm khách thế thần đâu sắc tướng. Tình ma không sức đuổi sầu binh”.  Người bạn tình từng ngâm thơ đã lánh mặt, và nàng bị lính hầu xua đuổi.

Tương truyền sau khi chồng mất, Hồ Xuân Hương có vào chùa Giải Oan núi Yên Tử, nhưng rồi không hợp cảnh thiền môn, nàng trở về làng Nghi Tàm vài năm sau năm 1822 thì mất, hưởng dương 51 tuổi. Mộ được chôn tại nghĩa địa Đồng Táo trước chùa Kim Liên. 

Hai mươi năm sau năm 1842, Miên Thẩm Tùng Thiện Vương theo anh vua Thiệu Trị ra Hà Nội tiếp sứ sang phong vương. Vương thăm Hồ Tây có viết 14 bài thơ tứ tuyệt thể liên hoàn Long Biên Trúc Chi từ trong Thương Sơn thi tập có đoạn viết về mộ Hồ Xuân Hương.

Đầy hồ rực rỡ hoa sen nở, Sai đứa hoa nô hái cúng dường. Chớ trèo qua mộ Xuân Hương nhé, Suối vàng nàng vẫn xót xa duyên. Phấn rữa hoa tàn trơ một nấm, Xuân Hương đã khuất cỏ mồ xanh, U hồn say mãi nay chưa tỉnh, Xuân qua mấy độ gió vô tình.

Năm 1869, Tam Nguyên Vị Xuyên Trần Bích San (1840-1878) viết Xuân Đường Đàm Thoại, một thể văn hư cấu tạo nên hai nhân vật Hùng Lĩnh Xuân Mai và Hoa Đường Ngọc Như tượng trưng cho Nguyễn Du và Phạm Quý Thích, mỗi người làm một bài phú tán tụng Hồ Xuân Hương. (Đặng Trần Côn trong Tùng Bách thuyết thoại và Đoàn Thị Điểm trong Hải Khẩu linh từ, từng viết thể văn hư cấu này).Trần Bích San đã nói tới mối tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du, qua Hùng Lĩnh Xuân Mai: “Xuân Hương là một nữ lưu phù hoa, vẻ mặt như hoa đào, nhan sắc như nước mùa thu. Tôi lúc trẻ đã có một dạo giao du. Nào đàn, nào cờ, nào rượu, nào thơ, có thể viết nên một thiên “Phong tình tân lục”.

Về sau khi đắp đường Cổ Ngư, mực nước Hồ Tây lên cao, ngôi mộ Xuân Hương tại nghĩa địa Đồng Táo xây bằng đá vôi, chìm xuống lòng nước khoảng một thước. Khi Cuba xây dựng  khách sạn Thắng Lợi dưới nước còn ngỗn ngang mồ mã.  Nhiều người đi câu làng Nghi Tàm còn cho biết họ từng đứng trên các ngôi mộ đá vôi. Việc hạ lại mực nước Hồ Tây, xuống trở lại mực nước cũ không phải là chuyện khó khăn ngày nay.

Kỷ niệm 250 Hồ Xuân Hương, không gì quí bằng đề án xây dựng lại Cổ Nguyệt Đường  gần chùa Kim Liên thành một viện bảo tàng, sưu tập thơ văn Hồ Xuân Hương được phổ biến trên thế giới, với một công viên cây cảnh như Tốn Phong viết trong thơ và đưa mộ Hồ Xuân Hương ra khỏi lòng nước Hồ Tây và dựng lại ngôi Gác Tía cạnh đình làng Nghi Tàm nơi Nguyễn Du từng ở ba năm tình với Xuân Hương. Thành phố Hà Nội có thêm một di tích văn hóa quí báu cho khách du lịch bốn phương trời đến thăm và tưởng nhớ hai thi hào lớn của dân tộc từng sinh sống tại kinh đô Thăng Long nghìn năm văn hóa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TÓM LƯỢC

BÙI HẠNH CẨN. Hồ Xuân Hương Thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại. Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội 1995.

DURAND  MAURICE .    L ́ Oeuvre de la poétesse vietnamienne, Hồ Xuân Hương. Eds EFEO Paris 1968.

HOÀNG XUÂN HÃN. Hồ Xuân Hương với Vịnh Hạ Long. Về Tình sử và thơ văn Hồ Xuân Hương. Tạp chí Khoa Học Xã Hội  Số 10 và 11 tháng 12-1983.

NGUYỄN DU. Thơ chữ Hán. Văn Học Hà Nội 1965,

NGUYỄN VĂN HANH.  Hồ Xuân Hương tác phẩm, thân thế và văn tài. Ipr Aspar. Sài Gòn 1937.

PHẠM ĐÌNH HỔ. NGUYỄN ÁN . Tang Thương Ngẫu lục. TTHL Saigon 1971

PHẠM ĐÌNH HỔ. Vũ Trung Tùy Bút. Bản dịch Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến. Đông Nam Á Paris tái bản.

PHẠM TRỌNG CHÁNH.  Hồ Xuân Hương , Nàng là ai ? Eds Khuê Văn. Paris. 2001

TRẦN THANH MẠI. Bản Lưu Hương Ký và lai lịch phát hiện nó, TCVH.11-1964 tr69-78.

XUÂN DIỆU Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Tập II Hồ Xuân Hương  nxb Văn Học.1982.

https://khoahocnet.com/2021/12/06/ts-pham-trong-chanh-ho-xuan-huong-chan-dung-va-tac-pham/?fbclid=IwAR0Gx2rdpL2vF7WiSAOD7ivoBs-2PMl_LofituvXior47tNyLRc8xy_tXIQ


2.

Thi sĩ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu được UNESCO kỷ niệm

24/11/2021 10:40 GMT+7

TTO - Chiều 23-11, UNESCO đã thông qua danh sách 60 danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022 - 2023 để UNESCO cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh/năm mất, trong đó có tên hai thi sĩ Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu.

Thi sĩ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu được UNESCO kỷ niệm - Ảnh 1.

Tượng danh nhân Nguyễn Đình Chiểu ở Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho, Tiền Giang) - Ảnh tư liệu

Ông Mai Phan Dũng - vụ trưởng Vụ Ngoại giao văn hóa và UNESCO, Bộ Ngoại giao - nói sự kiện này một lần nữa giúp Việt Nam giới thiệu được với bạn bè quốc tế tâm hồn, phẩm cách, triết lý sống... của dân tộc mình, một dân tộc với những con người yêu hòa bình, tự do, trọng đạo lý, tài năng văn chương nghệ thuật…

Lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương sẽ được tổ chức đồng thời tại Việt Nam và tại văn phòng UNESCO (Paris, Pháp).

Không giống như với trường hợp Nguyễn Đình Chiểu, ngày tháng tổ chức lễ kỷ niệm cho nữ sĩ Hồ Xuân Hương sẽ do địa phương làm hồ sơ (Nghệ An) quyết định và công bố sau, theo ông Mai Phan Dũng.

Cùng tham gia quá trình xây dựng và trình hồ sơ, ông Dũng nói cả hai nhà thơ đều là những nhân vật kiệt xuất, có tư tưởng anh hùng nghĩa hiệp, bảo vệ người yếu thế, chống bất công, bất bình đẳng trong xã hội.

Hồ Xuân Hương ngoài tài thơ độc đáo, các tác phẩm thơ của bà cũng mang nhiều nội dung về bình đẳng giới, đấu tranh cho việc giải phóng phụ nữ ở Việt Nam. Đây đều là những giá trị mà UNESCO đang rất thúc đẩy trên toàn thế giới.

Theo chuyên gia văn học trung đại - GS.TS Trần Ngọc Vương (Đại học Quốc gia Hà Nội), UNESCO kỷ niệm ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu lần này là "hoàn toàn xứng đáng và có lý". 

Về tài văn thơ, chỉ với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu trở thành đại diện xuất sắc nhất của lá cờ đầu không chỉ của văn học yêu nước ở Nam Bộ mà còn trong phạm vi toàn quốc. Hơn thế, ông xứng đáng được vinh danh như lá cờ đầu của văn học chống chủ nghĩa thực dân, không chỉ của Việt Nam mà của thế giới.

Nhưng tác phẩm lớn của ông phải được kể đến là Lục Vân Tiên - một tác phẩm được nhiều người ưa chuộng, nhất là quần chúng nhân dân Nam Bộ, bởi nó kích thích những tấm gương hy sinh quên mình vì nghĩa lớn. 

"Chưa có một giai đoạn nào trong lịch sử Việt Nam mà mật độ những tấm gương hy sinh quên mình vì nghĩa lớn, vì sự tồn vong dân tộc lại dày đặc đến như vậy. Lục Vân Tiên trở thành chứng tích văn học tiêu biểu nhất để lý giải điều đó" - GS Vương nói.

Với vai trò là chuyên gia giúp Bến Tre xây dựng hồ sơ Nguyễn Đình Chiểu trình lên UNESCO, GS.TS Nguyễn Chí Bền cho biết cụ Đồ Chiểu được quốc tế rất quan tâm, đến nay đã có khoảng 7 bản dịch tiếng Pháp của Lục Vân Tiên. 

Ngoài ra, cuốn truyện thơ này còn có các bản dịch tiếng Anh và đã được chuyển ngữ sang tiếng Nhật, ra mắt độc giả Nhật Bản.

Năm 2020, NXB Thế Giới xuất bản cuốn sách mỏng Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn, nhà văn hóa kiệt xuất của ông Bền bằng tiếng Việt, Anh, Pháp; năm nay ĐH Khoa học tổng hợp của Nga cũng đã xuất bản cuốn sách này bằng tiếng Nga. "Cụ Đồ Chiểu có uy tín quốc tế rất lớn" - ông Bền nói.

Không chỉ là một nhà thơ yêu nước, đứng đầu phong trào chống thực dân bảo vệ quê hương, một thi sĩ đã đặt người dân thường vào vị trí trung tâm của công cuộc bảo vệ đất nước, thi sĩ mù Nguyễn Đình Chiểu còn để lại những triết lý sống cao đẹp, một tấm gương vượt qua nghịch cảnh, nêu cao đạo lý của người thầy thuốc.

Hoạt động vinh danh Nguyễn Đình Chiểu dịp 200 năm sinh của ông ngoài lễ kỷ niệm dự kiến được tổ chức ngày 1-7-2022 còn có cuộc trưng bày về cụ Đồ Chiểu tại Bến Tre và trưng bày ảo tại trụ sở UNESCO (Paris, Pháp); hội thảo khoa học quốc tế về thân thế và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu (dự kiến vào cuối tháng 6-2022).

https://tuoitre.vn/thi-si-ho-xuan-huong-nguyen-dinh-chieu-duoc-unesco-ky-niem-20211124094234302.htm



1.

23/11/2021 19:12 GMT+7

TTO - Lúc 16h35 (giờ Việt Nam) hôm nay 23-11, chủ tịch Đại hội đồng UNESCO đã chính thức gõ búa thông qua nghị quyết, theo đó UNESCO sẽ cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh/năm mất của 2 thi sĩ Việt Nam là Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu.

UNESCO kỷ niệm năm sinh, năm mất của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu - Ảnh 1.

Chủ tịch Đại hội đồng UNESCO Santiago Irazabal Mourao gõ búa thông qua nghị quyết, theo đó UNESCO sẽ cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh/năm mất của Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu - Ảnh: Bộ Ngoại giao Việt Nam cung cấp

Thông tin vừa được ông Mai Phan Dũng - vụ trưởng Vụ Ngoại giao văn hóa và UNESCO, Bộ Ngoại giao - chia sẻ với Tuổi Trẻ Online.

Phiên họp toàn thể kỳ họp Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 diễn ra sáng 23-11 tại Paris, Pháp đã thông qua nghị quyết về các danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022 - 2023 để UNESCO cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh/năm mất.

Theo đó, hồ sơ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương cùng với 58 hồ sơ khác đã được thông qua.

Đây là thành quả của sự phối hợp chặt chẽ của UBND tỉnh Bến Tre, UBND tỉnh Nghệ An với Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam, Vụ Ngoại giao văn hóa và UNESCO, Bộ Ngoại giao, các chuyên gia và nhà khoa học của Việt Nam.

Thông tin từ Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam cho biết, các hồ sơ đề cử cần đáp ứng các tiêu chí do UNESCO đề ra, đặc biệt là phải phù hợp với lý tưởng và sứ mệnh của tổ chức UNESCO trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học, thông tin truyền thông, góp phần thúc đẩy hòa bình, đối thoại văn hóa, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, đồng thời mỗi sự kiện, nhân vật đề cử phải có tầm ảnh hưởng rộng rãi, được biết đến cả ở bên ngoài quốc gia đề cử.

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, tấm gương vượt lên những khó khăn của cuộc sống và theo đuổi lý tưởng học tập suốt đời của UNESCO.

Bên cạnh đó, ông còn hành nghề đông y để chữa bệnh cứu người. Thơ văn của ông đậm tính nhân văn, khích lệ lòng yêu nước, ca ngợi những con người sẵn sàng làm việc nghĩa, vì lợi ích cộng đồng. Các tác phẩm chính của ông đều được sáng tác bằng chữ Nôm, trong đó nổi tiếng nhất là tập thơ Lục Vân Tiên, chứa đựng nhiều ý nghĩa về đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Còn Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, được biết đến như "Bà chúa thơ Nôm". Thơ Hồ Xuân Hương là biểu hiện của sự vận động, lạc quan. Với tư tưởng mới mẻ cùng lối làm thơ phá cách, ngôn ngữ bình dị và sáng tạo, các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều ý nghĩa, giá trị và sức sống lâu bền từ quá khứ đến hiện tại.

Các tác phẩm thơ của bà cũng mang nhiều nội dung về bình đẳng giới, đấu tranh cho việc giải phóng phụ nữ ở Việt Nam.

Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam đánh giá, việc thông qua nghị quyết cùng kỷ niệm năm sinh/năm mất của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và nữ sĩ Hồ Xuân Hương lần này khẳng định sự đánh giá cao của quốc tế đối với những giá trị về văn hóa, giáo dục của Việt Nam, đồng thời góp phần quảng bá cho các mục tiêu phát triển tự do, bình đẳng và đặc biệt là bình đẳng trong giáo dục cho tất cả mọi người mà UNESCO đang thúc đẩy.

Trước đây, UNESCO đã từng thông qua nghị quyết vinh danh và cùng kỷ niệm năm sinh/năm mất của các danh nhân Việt Nam như kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990), 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi (1980), 250 năm ngày sinh Nguyễn Du (2015), 650 năm ngày mất của nhà giáo Chu Văn An (2019).

Việc UNESCO và các nước thành viên thông qua nghị quyết cùng tôn vinh các danh nhân Việt Nam mang lại sự ghi nhận toàn cầu đối với những lý tưởng về hòa bình, bình đẳng xã hội, học tập suốt đời mà Việt Nam cùng chia sẻ với thế giới, phù hợp với những mục tiêu chung của tổ chức, và những nét đẹp trong tâm hồn, trí tuệ của con người Việt Nam.

Thiên Điểu

https://tuoitre.vn/unesco-ky-niem-nam-sinh-nam-mat-cua-ho-xuan-huong-nguyen-dinh-chieu-20211123182034456.htm

..


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.