Nhưng hoá ra, GS Phùng Hồ Hải từng bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề này khá kỹ càng trong một bài viết trên tạp chí Tia sáng hồi tháng 3.2011.
Ở bài viết này, tôi xin được giới thiệu đoạn phỏng vấn anh Ngô Quang Hưng, và toàn văn bài viết của GS Phùng Hồ Hải.
---
BÀI VIẾT CỦA GS PHÙNG HỒ HẢI
Chỉ số trích dẫn ISI và việc đánh giá khoa học Việt Nam
Điểm quan trọng nhất tạo nên tên tuổi của ISI chính là vì họ đã đáp ứng được yêu cầu của các nhà quản lý khoa học, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Đó là việc đưa ra đánh giá tổng quan một công trình khoa học, một tạp chí khoa học hay một nhà khoa học chỉ bằng một con số. Việc đánh giá cũng tỏ ra hết sức khách quan và minh bạch. Vấn đề là ở chỗ nó có chính xác không và nó có thể bị lợi dụng không. Do vậy việc sử dụng dịch vụ của ISI trong đánh giá khoa học là cần thiết, nhưng việc dựa hoàn toàn vào dịch vụ này trong đánh giá nghiên cứu là sai lầm lớn hơn nhiều so với việc hoàn toàn không sử dụng nó.
ISI và những hệ lụy
Được thành lập từ năm 1960, Viện Thông tin khoa học (ISI) ngày nay là một công ty con của Thompson Reuters Corporation. Công ty này cung cấp dịch vụ tra cứu thông tin khoa học. Ý tưởng cung cấp dịch vụ tra cứu thông tin khoa học không phải là ý tưởng mới của ISI. Chẳng hạn trong Toán học, nó đã được thực hiện từ năm 1931 bởi tạp chí mang tên ZentralBlatt MATH của Đức. Hiện nay trong toán học có tới 3 tạp chí tra cứu thông tin thường gọi là tạp chí review: ZentralBlatt MATH, Mathematical Review của Mĩ (xuất bản từ năm 1940) và Referativny Zhurnal của Nga (xuất bản từ năm 1952)1. Ngoài những thông tin cơ hữu về một công bố, dịch vụ quan trọng nhất mà các tạp chí này cung cấp là một bài bình luận (review) về nội dung của công bố đó, do một nhà khoa học gần chuyên ngành với các tác giả viết. Đã có không ít trường hợp các công trình "lọt lưới phản biện" được công bố nhưng cuối cùng bị phê phán hoặc chỉ ra chỗ sai trên các tạp chí review. Đối với một nhà toán học, bị phê phán trên một tạp chí review là một thất bại rất nặng nề, đôi người còn vì thế mà tiêu tan cả tiền đồ.
Cho tới cách đây 20 năm trong giới toán có lẽ không ai biết tới ISI. Điểm mới của ISI so với các tạp chí tra cứu ngành toán tại thời điểm đó là dịch vụ tra cứu điện tử. Có thể nói ISI đã đi trước một bước. Năm 1997 khi tôi tới làm việc tại ICTP tôi đã được các đồng nghiệp bên Vật lý giới thiệu về ISI. Khi đó họ cung cấp cho ICTP dịch vụ dưới dạng đĩa CD, với một cái giá cắt cổ mà chỉ có những trung tâm "thừa tiền" như ICTP mới chịu nổi. Tôi có thử tra cứu dịch vụ ISI nhưng chỉ cho vui. Vì dịch vụ này chỉ cho tôi biết một bài có bao nhiêu trích dẫn, còn bản thân nó nói gì thì không biết. Vì vậy nó gần như vô nghĩa cho việc nghiên cứu.
Mặc dù các nhà vật lý lý thuyết và các nhà toán học là những người đầu tiên ứng dụng Internet vào dịch vụ khoa học với website đăng tải tiền ấn phẩm xxx.lanl.gov của Mĩ. Các tạp chí tra cứu ngành Toán và Lý đã chậm chân hơn so với ISI trong việc ứng dụng Internet vào dịch vụ tra cứu khoa học. Nhưng điểm quan trọng nhất tạo nên tên tuổi của ISI chính là vị họ đã đáp ứng được yêu câu của các nhà quản lý khoa học, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Đó là việc đưa ra đánh giá tổng quan một công trình khoa học, một tạp chí khoa học hay một nhà khoa học chỉ bằng một con số. Việc đánh giá cũng tỏ ra hết sức khách quan và minh bạch. Không cần bất cứ một hội đồng nào, chỉ cần một cô thư ký thạo việc cũng có thể sắp hạng tất tật các nhà khoa học từ trên xuống dưới.
Không có gì phải phàn nàn về sự minh bạch cũng như khách quan của chỉ số này, nếu so sánh với những phương pháp đánh giá trước đó. Vấn đề là ở chỗ nó có chính xác không và nó có thể bị lợi dụng không. Hãy tưởng tượng tại một cuộc thi Piano, người thắng cuộc sẽ là người chơi lâu nhất. Rõ ràng tiêu chí "chơi lâu nhất" là một tiêu chí rất minh bạch nếu so sánh với các tiêu chí truyền thống khác. Và với tiêu chí này thì chẳng cần ban giám khảo nào nữa cả. Tất nhiên với thời gian ta sẽ cần bác sỹ, để kiểm tra xem các nghệ sĩ Piano có sử dụng doping hay không. Tình trạng "doping trích dẫn" cũng đang xảy ra trong khoa học.
Có lẽ các nhà toán học, trong đó có cả các nhà thống kê học, là những người dị ứng nhất với "chỉ số trích dẫn" của ISI. Liên đoàn Toán học thế giới (IMU), cơ quan có uy tín nhất của cộng đồng toán học thế giới , đã lập ra một ủy ban điều tra về sự lạm dụng chỉ số trích dẫn. Ủy ban này, năm 2008 đã đưa ra một báo cáo dài 26 trang, chỉ trích nặng nề chỉ số này. Những kết quả chính mà họ rút ra không nằm ngoài suy nghĩ chung của cộng đồng toán học: Chỉ số trích dẫn là một chỉ số cần thiết để góp phần đánh giá một công trình khoa học, một tạp chí hay một nhà khoa học. Nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu chỉ sử dụng duy nhất chỉ số này để đánh giá, vì nó, như tất cả các chỉ số thống kê khác, không thể đưa ra được đánh giá chính xác cho một cá thể. Ngoài ra sự chính xác cũng như khách quan của nó cũng không được kiểm chứng.
Gần đây hơn ông Douglas Arnold, Chủ tịch Hôi toán Ứng dụng và Toán công nghiệp thế giới (SIAM) - một hội thành viên của IMU, có bài viết nhan đề "Khi sự chính trực bị tấn công", đề cập đến những hệ lụy của chỉ số trích dẫn. Trong bài viết của mình Arnold đã chỉ đích danh một tạp chí của một nhà xuất bản uy tín đã ngụy tạo trích dẫn. Ông còn đưa ra cảnh báo về khả năng một nhóm các nhà khoa hay tạp chí cộng tác trong việc ngụy tạo trích dẫn: người này trích của người kia, tạp chí này trích của tạp chí kia, và ngược lại.
BOX 1: Cho tới tận ngày hôm nay, đa số các nhà toán học ở Châu Âu hay Mĩ, Nhật, không quan tâm tới ISI. Cách đây vài năm tôi có trao đổi với vài đồng nghiệp gần gũi, đều là biên tập của hai ba tạp chí thuộc hạng tốt nhất trong ngành toán. Tôi phải giải thích khá lâu họ mới "à", "ừ" và nhớ mang máng là có nghe đâu đó về Viện ISI. Xin mở ngoặc thêm rằng nhưng người này là những chuyên gia đầu ngành, vì thế họ biết rõ tạp chí nào là tạp chí tốt, thậm chí họ còn biết tạp chí nào triển vọng sẽ tốt lên hoặc ngược lại, tạp chí nào có tiếng nhưng đang trên đà đi xuống. Dĩ nhiên mối quan tâm của họ chỉ dừng lại ở vài chục tạp chí tốt nhất. Theo thiển ý của tôi, Toán học ở Châu Âu, Mĩ, Nhật, đã vượt qua "ngưỡng" ISI.
ISI để đánh giá khoa học Việt Nam?
Việc Quỹ NAFOSTED sử dụng tiêu chuẩn có công trình đăng trên các tạp chí được ISI thống kê như là một tiêu chí cứng để quyết định việc tài trợ nghiên cứu cho một nhà khoa học, tuy còn thô, nhưng tại thời điểm được sử dụng nó là một tiêu chuẩn khá khách quan và minh bạch. Có thể ví tác động của tiêu chí này tới khoa học Việt Nam như một loại kháng sinh đặc trị cho một cơ thể bị bệnh. Tuy nhiên sẽ có một số nguy cơ xấu của việc chỉ dựa một mình vào tiêu chí này để đánh giá và xét duyệt đề án, cá nhân:
Tất cả các chỉ số đều có thể được ngụy tạo. Một khi chỉ số trích dẫn theo ISI được coi là then chốt trong việc đánh giá khoa học, sẽ có rất nhiều tạp chí tìm cách được vào danh sách thống kê của ISI. Họ sẽ tìm nhiều cách để làm việc này, trong đó có thể có cả những cách không đàng hoàng như ngụy tạo trích dẫn, vận động hành lang với các hội đồng xét duyệt của ISI, đưa ra các điều kiện tài chính với ISI như cam kết sử dụng dịch vụ...
Nếu chất lượng nghiên cứu được đo bằng số công trình, các tác giả sẽ có khuynh hướng chia nhỏ các kết quả để đăng thành nhiều công trình, chạy theo những vấn đề dễ để nhanh chóng có công bố. Đặc biệt phong cách này sẽ dễ được những nghiên cứu viên mới vào nghề tiếp thu, hệ quả là khoa học Việt Nam có thể tăng về lượng nhưng không tăng, thậm chí giảm về chất. Hãy lấy ví dụ của Ngô Bảo Châu. Công trình dày 200 trang của anh, nếu không được cộng đồng quốc tế công nhận qua giải Fields thì cũng chỉ được hội đồng toán của NAFOSTED cho tối đa là 2 điểm. Có nhà khoa học nào tại Việt Nam ở thời điểm này dám bỏ ra 2-3 năm viết một công trình 200 trang để nhận 2 điểm?
Các tạp chí khoa học của Việt Nam đang bị ảnh hưởng rất tiêu cực bởi tiêu chí ISI. Khi mà không có một tạp chí khoa học nào của Việt Nam nằm trong danh sách ISI thì việc công bố công trình ở các tạp chí đó gần như là vô nghĩa đối với NAFOSTED. Vì thế thậm chí các công trình của nghiên cứu sinh cũng sẽ được gửi ra nước ngoài nếu chúng có một chút chất lượng. Thực tế này đang xảy ra tại hai tạp chí toán uy tín nhất của Việt Nam. Mặc dù Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đang thực hiện các đề án nâng cao chất hai tạp chí này với kinh phí không hề ít so với tổng kinh phí mà NAFOSTED dành cho ngành toán trong 2 năm qua, tình hình cũng chưa có mấy khả quan.
Một số nhà khoa học cho rằng việc các tạp chí Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tiêu chí ISI chẳng có gì đáng quan tâm. Quan điểm của họ là: Tôi đăng nhiều bài trên tạp chí ISI chứng tỏ tôi giỏi, anh chỉ có bài trong nước rõ ràng anh kém, trắng đen rõ ràng. Nói cách khác, đối với họ, các tạp chí trong nước hoàn toàn không có ý nghĩa. Theo tôi, suy nghĩ có một phần đúng nhưng vô trách nhiệm. Mục đích cuối cùng của chúng ta là có một nền khoa học đích thực, có vị trí trong khu vực và trên thế giới, chứ không phải là một nhóm các nhà khoa học có nhiều công bố ISI được vinh danh dài dài. Nếu chúng ta khuyến khích các nhà khoa học trẻ tìm mọi cách công bố công trình với mác ISI để có nhiều tài trợ nghiên cứu, chúng ta sẽ chỉ lãng phí tiền để tạo ra một tầng lớp ăn bám cổ cồn trắng chứ không bao giờ đạt được mục đích về một nền khoa học tiên tiến. Tôi có thể chỉ ra đích danh một nhóm nghiên cứu trong một lĩnh vực hẹp của toán học ở một nước đang phát triển, có rất nhiều công bố, nhưng đa số là giấy lộn. Lý do của tình trạng này là số tiền tài trợ nghiên cứu của họ được tính theo số công bố khoa học.
Việc các nhà quản lý khoa học, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam, sử dụng các thông tin về trích dẫn từ ISI để đánh giá khoa học là điều dễ hiểu. Nền khoa học ở đó yếu, dễ xảy ra tình trạng vàng thau lẫn lộn. Bản thân các nhà quản lý chịu sức ép từ nhiều phía. Một cách tự nhiên họ sẽ thiên về sử dụng những hệ thống đánh giá "nhập khẩu", đã có tên tuổi, nhãn mác. Cũng như với các mặt hàng "tầm trung" khác, các nước này trở thành thị trường tiêm năng nhất của ISI.
BOX 2: Việc các nhà quản lý khoa học, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam, sử dụng các thông tin về trích dẫn từ ISI để đánh giá khoa học là điều dễ hiểu. Nền khoa học ở đó yếu, dễ xảy ra tình trạng vàng thau lẫn lộn. Bản thân các nhà quản lý chịu sức ép từ nhiều phía. Một cách tự nhiên họ sẽ thiên về sử dụng những hệ thống đánh giá "nhập khẩu", đã có tên tuổi, nhãn mác. Cũng như với các mặt hàng "tầm trung" khác, các nước này trở thành thị trường tiêm năng nhất của ISI.
Một số kiến nghị
Từ những suy nghĩ trên, tôi xin đưa ra một số kiến nghị với Quỹ NAFOSTED nói riêng cũng như cho công tác quản lý khoa học nói chung, theo thứ tự ưu tiên của tính cấp thiết.
Tiếp tục sử dụng tiêu chí cứng ISI để đảm bảo chất lượng sàn. Có thể yêu cầu các nhà khoa học chứng tỏ khả năng nghiên cứu của mình bằng khả năng công bố trên các tạp chí ISI, tối thiểu a công trình trong vòng b năm, các số a, b cụ thể phụ thuộc vào thực trạng khoa học của từng ngành. Nhưng ngoài đòi hỏi tối thiểu này cần có chính sách đặc biệt để động viên các nhà khoa học công bố trong nước, trên những tạp chí "điểm" của các ngành. Chẳng hạn coi các tạp chí này ngang hàng với các tạp chí ISI. Thậm chí đối với những nhà khoa học đã có thành tích công bố rất tốt, nên có cơ chế đặc biệt để khuyến khích họ công bố trong nước nhiều hơn.
Thực trạng của các ngành khoa học Việt Nam khác nhau, một số ngành tiếp cận hơn tới trình độ khu vực và thế giới như Toán học và Vật lý. Vì thế hệ thống tiêu chuẩn cần được cân nhắc sao cho phù hợp với từng ngành, tránh tình trạng cào bằng, đẩy anh này lên nhưng lại vô tình gạt anh kia xuống. Các hội đồng ngành là bộ phận tham mưu tốt nhất về các tiêu chí cho ngành của mình.
Cố gắng giảm tình trạng đếm cơ học trong đánh giá nghiên cứu (nếu chỉ đếm số công trình thì không cần gì tới chuyên gia). Với một vài ngành như Toán học và Vật lý, chuẩn ISI là quá thấp, vì thế cần có các chuẩn đánh giá mịn hơn. Cụ thể đưa ra phân loại tạp chí thành 4-5 nhóm để tham khảo trong việc đánh giá chất lượng công bố. Danh sách này có thể do hội đồng khoa học ngành lập và tham khảo thêm ý kiến của phản biện nước ngoài để tăng tính khách quan7 . Với những ngành khác cũng có thể lập bảng phân loại cho các tạp chí ở trình độ tương ứng với thực trạng của ngành.
Sẽ rất nguy hiểm nếu chỉ sử dụng duy nhất chỉ số ISI để đánh giá, vì nó, như tất cả các chỉ số thống kê khác, không thể đưa ra được đánh giá chính xác cho một cá thể. Ngoài ra sự chính xác cũng như khách quan của nó cũng không được kiểm chứng.
Chủ trương "thưởng theo công trình" có thể được sử dụng để động viên các nhà khoa học, đặc biệt là những người mới vào nghề, công bố ở các tạp chí có chất lượng. Tuy nhiên cần tránh tình trạng "đếm bài ăn tiền". Chẳng hạn có thể hạn chế số bài được thưởng trong một năm, mặt khác chú ý nhiều hơn tới chất lượng của công trình như trong đề xuất 3. ở trên.
Hoàn thiện quá trình đánh giá khoa học theo hướng lấy chuyên gia đánh giá làm nòng cốt. Những đánh giá về một nhà khoa học cụ thể chính xác nhất là những đánh giá do những đồng nghiệp cùng chuyên ngành của anh ta, trong nước hoặc quốc tê, đưa ra. Đánh giá của một cá nhân bao giờ cũng có vẻ chủ quan hơn những con số thống kê, nhưng nếu những đánh giá đó được gắn liền với trách nhiệm và uy tín của người đánh giá thì nó chính xác hơn nhiều. Cuối cùng thì những nhà quản lý khoa học phải dựa vào chính những nhà khoa học để thực hiện công việc quản lý của mình. Vì bản chất của việc quản lý khoa học là để tạo điều kiện cho các nhà khoa học phát huy được hết khả năng của mình.
BOX 3: Sẽ rất nguy hiểm nếu chỉ sử dụng duy nhất chỉ số ISI để đánh giá, vì nó, như tất cả các chỉ số thống kê khác, không thể đưa ra được đánh giá chính xác cho một cá thể. Ngoài ra sự chính xác cũng như khách quan của nó cũng không được kiểm chứng.
HẾT
----
ĐOẠN TRẢ LỜI BÁO TTCT CỦA ANH NGÔ QUANG HƯNG
"Để đảm bảo giáo dục ĐH có chất lượng phải nghĩ đến việc giúp các giảng viên trẻ cải thiện năng lực, trình độ chuyên môn. Giải pháp quan trọng nhất là tạo cơ hội để họ được làm nghiên cứu. Làm nghiên cứu không nhất thiết phải như mong ước của xã hội, nghĩa là phải ra sản phẩm gì đó kiểu như Facebook thu hút 1,3 tỉ người dùng.
Chúng ta chỉ cần họ làm những công việc mà trong quá trình thực hiện họ có cơ hội để suy nghĩ một cách sâu sắc về chuyên môn của mình. Mỗi lần làm nghiên cứu dù có ứng dụng hay không đều là cơ hội để mỗi giảng viên cải thiện trình độ.
Cho dù hiện nay các trường ĐH đều có kinh phí dành cho việc nghiên cứu nhưng cách tổ chức nghiên cứu của ta hiện nay chưa tạo động lực để các giảng viên thực hiện hoạt động này một cách có chiều sâu. Trong khi đó, điều mà ai cũng biết là các nhà nghiên cứu phải có thời gian làm những nghiên cứu có chiều sâu thì mới cải thiện được khả năng khoa học của chính mình.
Vì sao, thưa anh?
Chẳng hạn như chúng ta đo bằng tổng số bài báo ISI. Thật ra tiêu chuẩn này là một bước tiến cực kỳ lớn so với trước đây, nhưng theo tôi thế chưa đủ, bởi đó chỉ là một thước đo hời hợt, thậm chí còn có tác hại tới các nghiên cứu có chiều sâu.
Chẳng hạn, khi nghiệm thu một đề tài, tiêu chuẩn được đưa ra là những người thực hiện phải có ba bài báo ISI. Một lẽ tự nhiên người ta sẽ chọn viết ba bài báo dễ nhất, miễn là đạt cái ngưỡng được đăng ISI. Trong khi đó mỗi một bài báo dễ, đồng nghĩa với nông, sẽ “ăn” vào thời gian cho mình làm một bài báo sâu.
Nếu nó cứ “ăn” liên tục như vậy mình sẽ không có thời gian để làm cái gì đó sâu sắc. Tôi cho rằng cơ chế đánh giá khả năng khoa học phải làm nhuyễn hơn như vậy nhiều và theo đó cần phải tốn rất nhiều thời gian để xem xét, đánh giá.
Rồi chúng ta còn đánh giá thành tích làm khoa học bằng số lượt được trích dẫn, trong khi đó chỉ số này thấp hay cao thể hiện ở cả hai cực: hoặc bài báo có chất lượng, hoặc có thể không.
Quy luật chung là cái nào khó thì ít người làm, ít người làm tự nhiên sẽ ít người trích dẫn. Tất nhiên những cái dỏm không ai thèm quan tâm cũng sẽ ít hoặc không có người trích dẫn. Vì thế như tôi nói ở trên, chỉ số lượt trích dẫn nằm ở hai cực.
Do đó mình chỉ nên xem đó là thước đo tham khảo chứ không phải là chỉ số duy nhất để đánh giá chất lượng một bài nghiên cứu khoa học.
Vậy theo anh phải “nhuyễn” như thế nào trong cơ chế đánh giá năng lực nhà khoa học để khích lệ họ trong việc dành thời gian và tâm trí cho những công trình có chiều sâu?
Ví dụ trong hồ sơ xét thăng cấp giáo sư của một giảng viên sẽ có khoảng 8-10 thư nhận xét của những giáo sư đầu ngành trong chuyên ngành hẹp của người được xét. Những giáo sư này không phải do bản thân ứng viên đề xuất.
Bản thân ứng viên không biết những người được hỏi là ai. Khoa sẽ lựa chọn để gửi thư tới những giáo sư đầu ngành, hỏi anh có biết ứng viên này cũng như những công trình của anh ta không, anh đánh giá giá trị công trình đó thế nào? Khi công bố, các nhận xét sẽ được để khuyết danh để các đánh giá có tính độc lập".
(HẾT TRÍCH DẪN)
https://www.facebook.com/groups/LiemChinhKhoaHoc/posts/602246431022193/
..
..
---
BỔ SUNG
2. Năm 2015
Quốc tế hóa đại học là xu thế không thể cưỡng lại
02/03/2015 14:05 GMT+7
“Để phát triển chất lượng giáo dục đại học (ĐH), vấn đề là tạo môi trường thu hút được người giỏi nói chung chứ không chỉ người giỏi mang dòng máu Việt” - PGS Ngô Quang Hưng, ĐH bang New York ở Buffalo (Mỹ), nói với TTCT.
|
PSG Ngô Quang Hưng. Ảnh: THƯ HIÊN |
PGS Ngô Quang Hưng nhận xét: “Riêng trong lĩnh vực khoa học máy tính và công nghệ thông tin, tôi nhận thấy chất lượng giảng dạy của các trường ĐH lớn ở VN, bao gồm chất lượng sinh viên, nhìn chung cũng ổn.
Tuy nhiên có một vấn đề mà hẳn nhiều người đã nhìn thấy: giảng viên đi dạy quá nhiều! Có lẽ vì vậy họ không có cơ hội để tự hoàn thiện con người khoa học của bản thân, trong khi điều này cực kỳ quan trọng trong mọi ngành, đặc biệt là ngành khoa học máy tính.
Bản chất ngành này thay đổi quá nhanh nên nếu giảng viên phải dạy quá nhiều thì những bài giảng của họ sẽ không được cập nhật thường xuyên. Bản thân tôi ở Mỹ hiện nay chỉ dạy một lớp trong suốt một học kỳ. Còn ở đây mọi người dạy 3-5 lớp/học kỳ.
Dạy nhiều như thế thì ngay cả hoạt động dạy học trên lớp cho có chất lượng đã khó, chưa nói gì đến việc cải thiện được kỹ năng - cả kỹ năng chuyên môn và kỹ năng giảng dạy. Tôi nghĩ giảng viên ĐH của mình xuất phát điểm hoàn toàn có đủ khả năng để phát triển giáo dục ĐH, nhưng chúng ta không có điều kiện để tạo ra sự phát triển chất lượng cho lực lượng giảng viên trẻ”.
Cụ thể thì anh dạy bao nhiêu tiết trong một học kỳ?
- Mỗi tuần tôi dạy 3 tiết, mỗi tiết 50 phút. Mỗi học kỳ có 15 tuần và một tuần thi cuối kỳ. Một năm học có 2 học kỳ. Còn ở VN, khối lượng công việc giảng dạy của các đồng nghiệp tôi thật kinh khủng! Họ nói phải dạy 700-800 tiết/học kỳ, có người lên đến cả nghìn tiết!
Các đồng nghiệp của tôi ở TP.HCM nói ngoài dạy ở trường mình, nhiều người còn dạy thêm ở trường khác. Họ cho biết muốn dạy thêm để có thêm thu nhập.
Không nên đánh giá nhà khoa học một cách hời hợt
Anh có nghĩ việc quá tải trong giảng dạy của giảng viên là một cách triệt tiêu sự phát triển của giáo dục ĐH chúng ta?
- Gần như là vậy. Như GS Vũ Hà Văn đã trình bày tại hội thảo Đối thoại giáo dục mà nhóm chúng tôi do GS Ngô Bảo Châu chủ trì tổ chức ở TP.HCM đầu tháng 8-2014, công thức làm việc của một giáo sư ở Mỹ thường là 40-40-20. Những chỉ số này tương ứng với các phần việc giảng dạy - nghiên cứu khoa học - các công việc phục vụ sự phát triển của khoa mà mình làm việc.
Để đảm bảo giáo dục ĐH có chất lượng phải nghĩ đến việc giúp các giảng viên trẻ cải thiện năng lực, trình độ chuyên môn. Giải pháp quan trọng nhất là tạo cơ hội để họ được làm nghiên cứu. Làm nghiên cứu không nhất thiết phải như mong ước của xã hội, nghĩa là phải ra sản phẩm gì đó kiểu như Facebook thu hút 1,3 tỉ người dùng.
Chúng ta chỉ cần họ làm những công việc mà trong quá trình thực hiện họ có cơ hội để suy nghĩ một cách sâu sắc về chuyên môn của mình. Mỗi lần làm nghiên cứu dù có ứng dụng hay không đều là cơ hội để mỗi giảng viên cải thiện trình độ.
Cho dù hiện nay các trường ĐH đều có kinh phí dành cho việc nghiên cứu nhưng cách tổ chức nghiên cứu của ta hiện nay chưa tạo động lực để các giảng viên thực hiện hoạt động này một cách có chiều sâu. Trong khi đó, điều mà ai cũng biết là các nhà nghiên cứu phải có thời gian làm những nghiên cứu có chiều sâu thì mới cải thiện được khả năng khoa học của chính mình.
Vì sao, thưa anh?
- Hiện nay chúng ta đánh giá thành tích khoa học của những người làm khoa học bằng các tiêu chuẩn tương đối hời hợt.
Chẳng hạn như chúng ta đo bằng tổng số bài báo ISI. Thật ra tiêu chuẩn này là một bước tiến cực kỳ lớn so với trước đây, nhưng theo tôi thế chưa đủ, bởi đó chỉ là một thước đo hời hợt, thậm chí còn có tác hại tới các nghiên cứu có chiều sâu.
Chẳng hạn, khi nghiệm thu một đề tài, tiêu chuẩn được đưa ra là những người thực hiện phải có ba bài báo ISI. Một lẽ tự nhiên người ta sẽ chọn viết ba bài báo dễ nhất, miễn là đạt cái ngưỡng được đăng ISI. Trong khi đó mỗi một bài báo dễ, đồng nghĩa với nông, sẽ “ăn” vào thời gian cho mình làm một bài báo sâu.
Nếu nó cứ “ăn” liên tục như vậy mình sẽ không có thời gian để làm cái gì đó sâu sắc. Tôi cho rằng cơ chế đánh giá khả năng khoa học phải làm nhuyễn hơn như vậy nhiều và theo đó cần phải tốn rất nhiều thời gian để xem xét, đánh giá.
Rồi chúng ta còn đánh giá thành tích làm khoa học bằng số lượt được trích dẫn, trong khi đó chỉ số này thấp hay cao thể hiện ở cả hai cực: hoặc bài báo có chất lượng, hoặc có thể không.
Quy luật chung là cái nào khó thì ít người làm, ít người làm tự nhiên sẽ ít người trích dẫn. Tất nhiên những cái dỏm không ai thèm quan tâm cũng sẽ ít hoặc không có người trích dẫn. Vì thế như tôi nói ở trên, chỉ số lượt trích dẫn nằm ở hai cực.
Do đó mình chỉ nên xem đó là thước đo tham khảo chứ không phải là chỉ số duy nhất để đánh giá chất lượng một bài nghiên cứu khoa học.
Vậy theo anh phải “nhuyễn” như thế nào trong cơ chế đánh giá năng lực nhà khoa học để khích lệ họ trong việc dành thời gian và tâm trí cho những công trình có chiều sâu?
- Nếu phải tóm tắt trong một câu thì tôi chỉ có thể nói thế này: các giảng viên ở Mỹ đạt được sự thăng tiến trong nghề nghiệp khi mà nhìn chung họ được đánh giá tốt từ các đồng nghiệp. Không phải là đồng nghiệp trong một khoa mà là đồng nghiệp ở khắp nơi trên thế giới.
Ví dụ trong hồ sơ xét thăng cấp giáo sư của một giảng viên sẽ có khoảng 8-10 thư nhận xét của những giáo sư đầu ngành trong chuyên ngành hẹp của người được xét. Những giáo sư này không phải do bản thân ứng viên đề xuất.
Bản thân ứng viên không biết những người được hỏi là ai. Khoa sẽ lựa chọn để gửi thư tới những giáo sư đầu ngành, hỏi anh có biết ứng viên này cũng như những công trình của anh ta không, anh đánh giá giá trị công trình đó thế nào? Khi công bố, các nhận xét sẽ được để khuyết danh để các đánh giá có tính độc lập.
“Giáo sư” không phải là tem đảm bảo chất lượng
Việc này khác thế nào với cách thức hội đồng chức danh giáo sư nhà nước mình đang hoạt động?
- Khác biệt lớn nhất và cơ bản nhất là nó không có tính tập trung. Ở Mỹ, việc công nhận học hàm giáo sư sẽ do từng trường ĐH quyết định.
Như vậy có khả năng giáo sư trường này với giáo sư trường khác sẽ có khoảng cách rất xa về năng lực chuyên môn?
- Tất nhiên, nhưng không sao. Bởi hệ quả là những trường giỏi sẽ tuyển được giáo sư giỏi hơn. Năng lực của từng giáo sư dẫn đến việc giáo sư đó sẽ làm việc ở đâu, đồng thời các trường ĐH sẽ có động lực rất lớn để tìm kiếm những giáo sư giỏi.
Khi giáo sư của một trường xoàng sẽ khác với giáo sư ở một trường danh tiếng thì các trường ĐH sẽ phải nỗ lực để xây dựng danh tiếng của chính mình.
Tôi nghĩ nếu mình không quá coi trọng cái danh giáo sư thì mọi vấn đề sẽ được giải quyết. Một bài báo sẽ không cần để chữ giáo sư đằng trước tên tác giả bài báo nữa mà phải xem nội dung ở trong là gì, bởi chữ giáo sư không còn là cái tem về chất lượng.
Khi chữ giáo sư không được đảm bảo chất lượng đương nhiên người ta sẽ phải xem xét kỹ càng về mặt nội dung.
Anh và nhiều thành viên của nhóm Đối thoại giáo dục đã đề cập thực trạng trình độ giảng viên ĐH đang thấp. Cách đây năm năm Chính phủ từng lo ngại về vấn đề này nên đã soạn thảo đề án 20.000 tiến sĩ và gây nhiều tranh luận trong dư luận. Quan điểm của anh?
- Tôi hoàn toàn ủng hộ về mặt ý tưởng của đề án này, dù theo tôi con số 20.000 mang ý nghĩa biểu tượng hơn là một con số thống kê cụ thể. Tôi ủng hộ bởi nhân lực có trình độ cao của mình còn thiếu, mình phải tìm cách tăng nhân lực cao cấp đó lên.
Nhưng có một bài toán mà tôi không biết lời giải. Giả sử chúng ta gửi 10.000 người đi đào tạo nước ngoài, tiếp đó sẽ nảy sinh một vấn đề: những người giỏi nhất sẽ ở lại. Giả sử nhà nước đưa ra một ràng buộc là họ sẽ phải trở về thì chúng ta sẽ rơi vào cái bẫy cũ: họ chưa đủ thời gian để hình thành cái tôi khoa học của mình thì đã phải về, phải chui vào cái rọ mỗi học kỳ 700-800 tiết.
Tôi thấy nhiều anh em rất giỏi nhưng đi về sớm quá, dạy mỗi học kỳ 3-5 lớp, lương thì không đủ sống nên họ phải đi dạy rất nhiều không chỉ ở trường mình mà còn ở trường khác. Nội cái chuyện lái xe đi lòng vòng thôi cũng hết ngày chứ chưa nói đến chuyện chuyên môn! Vì thế cũng không thể có chất lượng giảng dạy như mình mong muốn.
Theo tôi, giả sử mình có 10.000 người VN rất giỏi, hãy để họ ở nước ngoài lâu lâu một chút để họ thành công hơn trong sự nghiệp nghiên cứu. Tất nhiên mình phải chịu một rủi ro là họ sẽ ở lại luôn. Vì thế tôi mới nói bài toán đó mình không có lời giải.
Có thật sự là không thể có lời giải không, thưa anh?
- Có lẽ chúng ta nên từ bỏ tư duy “người VN dùng hàng VN” trong giáo dục ĐH. Nên tìm một cơ chế nào đó để cả người nước ngoài cũng thoải mái trong việc đến VN giảng dạy.
Cần quốc tế hóa trường ĐH của mình, tất nhiên không cần áp dụng đại trà, tìm những người nước ngoài giỏi, tạo môi trường cho họ để bằng cách nào đó họ thích đến VN làm việc. Thật ra điều này chỉ là sớm hay muộn thôi, chứ chúng ta làm sao cưỡng nổi xu thế thời đại là muốn phát triển thì phải tìm được những người giỏi nhất về làm việc cho mình.
Mà khi đã nói tới người giỏi nhất thì không có lý do gì để môi trường ĐH chỉ toàn những người VN.
Ngoài cơ chế đó, cần có lượng tài chính lớn, trong khi giáo dục ĐH công lập của ta hiện nay sống chủ yếu dựa vào ngân sách. Đòi hỏi tăng ngân sách cho giáo dục ĐH lại là điều rất khó. Vậy chúng ta phải làm sao?
- Tôi e rằng câu trả lời của mình chỉ có tính khả thi trên giấy tờ, đó là phải trả lại quyền tự tìm con đường đi cho mỗi trường ĐH. Nếu chúng ta cho các trường ĐH cái quyền để tự tìm đường đi cho họ thì những người quản lý tốt nhất, sáng tạo nhất sẽ tìm ra con đường đó.
Chắc chắn sẽ không có câu trả lời cụ thể cho cả một hệ thống giáo dục ĐH gồm hàng trăm trường. Nhưng tôi tin mỗi trường sẽ tìm được cách làm thông minh nhất khi được đặt đúng vị thế.
Rất cảm ơn anh.
Khi hai ông thầy cùng ngồi uống chè dưới gốc cây
Hơn 20 năm trước, VN đã có ý tưởng xây dựng những ĐH đa ngành lớn mạnh, kết quả là chúng ta có các ĐH quốc gia, ĐH vùng. Nhưng thực tế không như mong đợi, anh nghĩ sao?
- Về nguyên tắc thì xây dựng ĐH đa ngành là ý tưởng tốt bởi nó sẽ có sẵn môi trường giao lưu về tư tưởng, về tri thức giữa các ngành khác nhau. Khoa học hiện đại phát triển dựa trên sự giao lưu đó.
Không phải tự ngành y làm được cái máy quét MRI, tự khoa điện cũng không làm được vì họ không có chuyên môn về y học. Lấy hai ngành bất kỳ, chúng ta đều có thể tìm ra mối liên kết của chúng.
Nếu các trường ĐH đơn ngành và biệt lập như hiện nay thì việc liên kết, tổ chức về mặt tri thức rất khó. Cơ sở vật chất để làm việc này rất quan trọng. Việc đi từ tòa nhà của khoa máy tính sang tòa nhà của khoa xây dựng khi chúng chỉ cách nhau mấy chục bước chân sẽ tạo môi trường làm việc rất khác so với việc phải leo lên cái xe mới đi được đến nơi.
Trong đời sống của cộng đồng khoa học ở tất cả lĩnh vực, rất nhiều ý tưởng được nảy sinh trong quá trình hai ông thầy ngồi uống nước chè cùng nhau dưới gốc cây.
Tôi ủng hộ nhập nhiều trường ĐH đơn ngành thành một trường ĐH đa ngành. Nhưng động thái nhập này phải diễn ra trước hết ở bình diện hình học - địa lý chứ không chỉ trong quản lý.
Nếu chỉ là một ĐH quốc gia nhưng có nhiều trường nhỏ, các trường vẫn đóng tản mát đâu đó trong thành phố, từ trường này đến trường kia mất hơn nửa tiếng đi xe... thì không đủ. Việc “khắc nhập” này sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mặt quản lý, nhưng thách thức đó cũng là cơ hội cho các nhà quản lý.
THƯ HIÊN thực hiện
https://tuoitre.vn/quoc-te-hoa-dai-hoc-la-xu-the-khong-the-cuong-lai-715211.htm?fbclid=IwAR1XhuHk9ITJXx-nFnMgNY26merIMtypHcRCqh-Zq0BpGVsvq5BGoodu6Sc
1. Năm 2011
15/03/2011 13:20 - Phùng Hồ Hải
Điểm quan trọng nhất tạo nên tên tuổi của ISI chính là vì họ đã đáp ứng được yêu cầu của các nhà quản lý khoa học, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Đó là việc đưa ra đánh giá tổng quan một công trình khoa học, một tạp chí khoa học hay một nhà khoa học chỉ bằng một con số. Việc đánh giá cũng tỏ ra hết sức khách quan và minh bạch. Vấn đề là ở chỗ nó có chính xác không và nó có thể bị lợi dụng không. Do vậy việc sử dụng dịch vụ của ISI trong đánh giá khoa học là cần thiết, nhưng việc dựa hoàn toàn vào dịch vụ này trong đánh giá nghiên cứu là sai lầm lớn hơn nhiều so với việc hoàn toàn không sử dụng nó.
ISI và những hệ lụy
Được thành lập từ năm 1960, Viện Thông tin khoa học (ISI) ngày nay là một công ty con của Thompson Reuters Corporation. Công ty này cung cấp dịch vụ tra cứu thông tin khoa học. Ý tưởng cung cấp dịch vụ tra cứu thông tin khoa học không phải là ý tưởng mới của ISI. Chẳng hạn trong Toán học, nó đã được thực hiện từ năm 1931 bởi tạp chí mang tên ZentralBlatt MATH của Đức. Hiện nay trong toán học có tới 3 tạp chí tra cứu thông tin thường gọi là tạp chí review: ZentralBlatt MATH, Mathematical Review của Mĩ (xuất bản từ năm 1940) và Referativny Zhurnal của Nga (xuất bản từ năm 1952)1. Ngoài những thông tin cơ hữu về một công bố, dịch vụ quan trọng nhất mà các tạp chí này cung cấp là một bài bình luận (review) về nội dung của công bố đó, do một nhà khoa học gần chuyên ngành với các tác giả viết. Đã có không ít trường hợp các công trình "lọt lưới phản biện" được công bố nhưng cuối cùng bị phê phán hoặc chỉ ra chỗ sai trên các tạp chí review. Đối với một nhà toán học, bị phê phán trên một tạp chí review là một thất bại rất nặng nề, đôi người còn vì thế mà tiêu tan cả tiền đồ.
Cho tới cách đây 20 năm trong giới toán có lẽ không ai biết tới ISI. Điểm mới của ISI so với các tạp chí tra cứu ngành toán tại thời điểm đó là dịch vụ tra cứu điện tử. Có thể nói ISI đã đi trước một bước. Năm 1997 khi tôi tới làm việc tại ICTP tôi đã được các đồng nghiệp bên Vật lý giới thiệu về ISI. Khi đó họ cung cấp cho ICTP dịch vụ dưới dạng đĩa CD, với một cái giá cắt cổ mà chỉ có những trung tâm "thừa tiền" như ICTP mới chịu nổi. Tôi có thử tra cứu dịch vụ ISI nhưng chỉ cho vui. Vì dịch vụ này chỉ cho tôi biết một bài có bao nhiêu trích dẫn, còn bản thân nó nói gì thì không biết. Vì vậy nó gần như vô nghĩa cho việc nghiên cứu.
Mặc dù các nhà vật lý lý thuyết và các nhà toán học là những người đầu tiên ứng dụng Internet vào dịch vụ khoa học với website đăng tải tiền ấn phẩm xxx.lanl.gov2 của Mĩ. Các tạp chí tra
Cho tới tận ngày hôm nay, đa số các nhà toán học ở Châu Âu hay Mĩ, Nhật, không quan tâm tới ISI. Cách đây vài năm tôi có trao đổi với vài đồng nghiệp gần gũi, đều là biên tập của hai ba tạp chí thuộc hạng tốt nhất trong ngành toán. Tôi phải giải thích khá lâu họ mới "à", "ừ" và nhớ mang máng là có nghe đâu đó về Viện ISI. Xin mở ngoặc thêm rằng nhưng người này là những chuyên gia đầu ngành, vì thế họ biết rõ tạp chí nào là tạp chí tốt, thậm chí họ còn biết tạp chí nào triển vọng sẽ tốt lên hoặc ngược lại, tạp chí nào có tiếng nhưng đang trên đà đi xuống. Dĩ nhiên mối quan tâm của họ chỉ dừng lại ở vài chục tạp chí tốt nhất. Theo thiển ý của tôi, Toán học ở Châu Âu, Mĩ, Nhật, đã vượt qua "ngưỡng" ISI. |
cứu ngành Toán và Lý đã chậm chân hơn so với ISI trong việc ứng dụng Internet vào dịch vụ tra cứu khoa học. Nhưng điểm quan trọng nhất tạo nên tên tuổi của ISI chính là vị họ đã đáp ứng được yêu câu của các nhà quản lý khoa học, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Đó là việc đưa ra đánh giá tổng quan một công trình khoa học, một tạp chí khoa học hay một nhà khoa học chỉ bằng một con số. Việc đánh giá cũng tỏ ra hết sức khách quan và minh bạch. Không cần bất cứ một hội đồng nào, chỉ cần một cô thư ký thạo việc cũng có thể sắp hạng tất tật các nhà khoa học từ trên xuống dưới.
Không có gì phải phàn nàn về sự minh bạch cũng như khách quan của chỉ số này, nếu so sánh với những phương pháp đánh giá trước đó. Vấn đề là ở chỗ nó có chính xác không và nó có thể bị lợi dụng không. Hãy tưởng tượng tại một cuộc thi Piano, người thắng cuộc sẽ là người chơi lâu nhất. Rõ ràng tiêu chí "chơi lâu nhất" là một tiêu chí rất minh bạch nếu so sánh với các tiêu chí truyền thống khác. Và với tiêu chí này thì chẳng cần ban giám khảo nào nữa cả. Tất nhiên với thời gian ta sẽ cần bác sỹ, để kiểm tra xem các nghệ sĩ Piano có sử dụng doping hay không. Tình trạng "doping trích dẫn" cũng đang xảy ra trong khoa học.
Có lẽ các nhà toán học, trong đó có cả các nhà thống kê học, là những người dị ứng nhất với "chỉ số trích dẫn" của ISI. Liên đoàn Toán học thế giới (IMU), cơ quan có uy tín nhất của cộng đồng toán học thế giới3 , đã lập ra một ủy ban điều tra về sự lạm dụng chỉ số trích dẫn. Ủy ban này, năm 2008 đã đưa ra một báo cáo dài 26 trang4 , chỉ trích nặng nề chỉ số này. Những kết quả chính mà họ rút ra không nằm ngoài suy nghĩ chung của cộng đồng toán học: Chỉ số trích dẫn là một chỉ số cần thiết để góp phần đánh giá một công trình khoa học, một tạp chí hay một nhà khoa học. Nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu chỉ sử dụng duy nhất chỉ số này để đánh giá, vì nó, như tất cả các chỉ số thống kê khác, không thể đưa ra được đánh giá chính xác cho một cá thể. Ngoài ra sự chính xác cũng như khách quan của nó cũng không được kiểm chứng.
Gần đây hơn ông Douglas Arnold, Chủ tịch Hôi toán Ứng dụng và Toán công nghiệp thế giới (SIAM) - một hội thành viên của IMU, có bài viết nhan đề "Khi sự chính trực bị tấn công", đề cập đến những hệ lụy của chỉ số trích dẫn5 . Trong bài viết của mình Arnold đã chỉ đích danh một tạp chí của một nhà xuất bản uy tín đã ngụy tạo trích dẫn. Ông còn đưa ra cảnh báo về khả năng một nhóm các nhà khoa hay tạp chí cộng tác trong việc ngụy tạo trích dẫn: người này trích của người kia, tạp chí này trích của tạp chí kia, và ngược lại.
ISI để đánh giá khoa học Việt Nam?
Việc Quỹ NAFOSTED sử dụng tiêu chuẩn có công trình đăng trên các tạp chí được ISI thống kê như là một tiêu chí cứng để quyết định việc tài trợ nghiên cứu cho một nhà khoa học, tuy còn thô, nhưng tại thời điểm được sử dụng nó là một tiêu chuẩn khá khách quan và minh bạch. Có thể ví tác động của tiêu chí này tới khoa học Việt Nam như một loại kháng sinh đặc trị cho một cơ thể bị bệnh. Tuy nhiên sẽ có một số nguy cơ xấu của việc chỉ dựa một mình vào tiêu chí này để đánh giá và xét duyệt đề án, cá nhân:
- Tất cả các chỉ số đều có thể được ngụy tạo. Một khi chỉ số trích dẫn theo ISI được coi là then chốt trong việc đánh giá khoa học, sẽ có rất nhiều tạp chí tìm cách được vào danh sách thống kê của ISI. Họ sẽ tìm nhiều cách để làm việc này, trong đó có thể có cả những cách không đàng hoàng như ngụy tạo trích dẫn, vận động hành lang với các hội đồng xét duyệt của ISI, đưa ra các điều kiện tài chính với ISI như cam kết sử dụng dịch vụ...
- Nếu chất lượng nghiên cứu được đo bằng số công trình, các tác giả sẽ có khuynh hướng chia nhỏ các kết quả để đăng thành nhiều công trình, chạy theo những vấn đề dễ để nhanh chóng có công bố. Đặc biệt phong cách này sẽ dễ được những nghiên cứu viên mới vào nghề tiếp thu, hệ quả là khoa học Việt Nam có thể tăng về lượng nhưng không tăng, thậm chí giảm về chất. Hãy lấy ví dụ của Ngô Bảo Châu. Công trình dày 200 trang của anh, nếu không được cộng đồng quốc tế công nhận qua giải Fields thì cũng chỉ được hội đồng toán của NAFOSTED cho tối đa là 2 điểm. Có nhà khoa học nào tại Việt Nam ở thời điểm này dám bỏ ra 2-3 năm viết một công trình 200 trang để nhận 2 điểm?
- Các tạp chí khoa học của Việt Nam đang bị ảnh hưởng rất tiêu cực bởi tiêu chí ISI. Khi mà không có một tạp chí khoa học nào của Việt Nam nằm trong danh sách ISI thì việc công bố công trình ở các tạp chí đó gần như là vô nghĩa đối với NAFOSTED. Vì thế thậm chí các công trình của nghiên cứu sinh cũng sẽ được gửi ra nước ngoài nếu chúng có một chút chất lượng. Thực tế này đang xảy ra tại hai tạp chí toán uy tín nhất của Việt Nam. Mặc dù Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đang thực hiện các đề án nâng cao chất hai tạp chí này với kinh phí không hề ít so với tổng kinh phí mà NAFOSTED dành cho ngành toán trong 2 năm qua, tình hình cũng chưa có mấy khả quan.
Một số nhà khoa học cho rằng việc các tạp chí Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tiêu chí ISI chẳng có gì đáng quan tâm. Quan điểm của họ là: Tôi đăng nhiều bài trên tạp chí ISI chứng tỏ tôi
Việc các nhà quản lý khoa học, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam, sử dụng các thông tin về trích dẫn từ ISI để đánh giá khoa học là điều dễ hiểu. Nền khoa học ở đó yếu, dễ xảy ra tình trạng vàng thau lẫn lộn. Bản thân các nhà quản lý chịu sức ép từ nhiều phía. Một cách tự nhiên họ sẽ thiên về sử dụng những hệ thống đánh giá "nhập khẩu", đã có tên tuổi, nhãn mác. Cũng như với các mặt hàng "tầm trung" khác, các nước này trở thành thị trường tiêm năng nhất của ISI. |
giỏi, anh chỉ có bài trong nước rõ ràng anh kém, trắng đen rõ ràng. Nói cách khác, đối với họ, các tạp chí trong nước hoàn toàn không có ý nghĩa. Theo tôi, suy nghĩ có một phần đúng nhưng vô trách nhiệm. Mục đích cuối cùng của chúng ta là có một nên khoa học đích thực, có vị trí trong khu vực và trên thế giới, chứ không phải là một nhóm các nhà khoa học có nhiều công bố ISI được vinh danh dài dài. Nếu chúng ta khuyến khích các nhà khoa học trẻ tìm mọi cách công bố công trình với mác ISI để có nhiều tài trợ nghiên cứu, chúng ta sẽ chỉ lãng phí tiền để tạo ra một tầng lớp ăn bám cổ cồn trắng chứ không bao giờ đạt được mục đích về một nền khoa học tiên tiến. Tôi có thể chỉ ra đích danh một nhóm nghiên cứu trong một lĩnh vực hẹp của toán học ở một nước đang phát triển, có rất nhiều công bố, nhưng đa số là giấy lộn. Lý do của tình trạng này là số tiền tài trợ nghiên cứu của họ được tính theo số công bố khoa học.
Một số kiến nghị
Từ những suy nghĩ trên, tôi xin đưa ra một số kiến nghị với Quỹ NAFOSTED nói riêng cũng như cho công tác quản lý khoa học nói chung, theo thứ tự ưu tiên của tính cấp thiết.
1. Tiếp tục sử dụng tiêu chí cứng ISI để đảm bảo chất lượng sàn. Có thể yêu cầu các nhà khoa học chứng tỏ khả năng nghiên cứu của mình bằng khả năng công bố trên các tạp chí ISI, tối thiểu a công trình trong vòng b năm, các số a, b cụ thể phụ thuộc vào thực trạng khoa học của từng ngành. Nhưng ngoài đòi hỏi tối thiểu này cần có chính sách đặc biệt để động viên các nhà khoa học công bố trong nước, trên những tạp chí "điểm" của các ngành. Chẳng hạn coi các tạp chí này ngang hàng với các tạp chí ISI. Thậm chí đối với những nhà khoa học đã có thành tích công bố rất tốt, nên có cơ chế đặc biệt để khuyến khích họ công bố trong nước nhiều hơn6.
2. Thực trạng của các ngành khoa học Việt Nam khác nhau, một số ngành tiếp cận hơn tới trình độ khu vực và thế giới như Toán học và Vật lý. Vì thế hệ thống tiêu chuẩn cần được cân nhắc sao cho phù hợp với từng ngành, tránh tình trạng cào bằng, đẩy anh này lên nhưng lại vô tình gạt anh kia xuống. Các hội đồng ngành là bộ phận tham mưu tốt nhất về các tiêu chí cho ngành của mình.
3. Cố gắng giảm tình trạng đếm cơ học trong đánh giá nghiên cứu (nếu chỉ đếm số công trình thì không cần gì tới chuyên gia). Với một vài ngành
Sẽ rất nguy hiểm nếu chỉ sử dụng duy nhất chỉ số ISI để đánh giá, vì nó, như tất cả các chỉ số thống kê khác, không thể đưa ra được đánh giá chính xác cho một cá thể. Ngoài ra sự chính xác cũng như khách quan của nó cũng không được kiểm chứng. |
như Toán học và Vật lý, chuẩn ISI là quá thấp, vì thế cần có các chuẩn đánh giá mịn hơn. Cụ thể đưa ra phân loại tạp chí thành 4-5 nhóm để tham khảo trong việc đánh giá chất lượng công bố. Danh sách này có thể do hội đồng khoa học ngành lập và tham khảo thêm ý kiến của phản biện nước ngoài để tăng tính khách quan7 . Với những ngành khác cũng có thể lập bảng phân loại cho các tạp chí ở trình độ tương ứng với thực trạng của ngành.
4. Chủ trương "thưởng theo công trình" có thể được sử dụng để động viên các nhà khoa học, đặc biệt là những người mới vào nghề, công bố ở các tạp chí có chất lượng. Tuy nhiên cần tránh tình trạng "đếm bài ăn tiền". Chẳng hạn có thể hạn chế số bài được thưởng trong một năm, mặt khác chú ý nhiều hơn tới chất lượng của công trình như trong đề xuất 3. ở trên.
5. Hoàn thiện quá trình đánh giá khoa học theo hướng lấy chuyên gia đánh giá làm nòng cốt. Những đánh giá về một nhà khoa học cụ thể chính xác nhất là những đánh giá do những đồng nghiệp cùng chuyên ngành của anh ta, trong nước hoặc quốc tê, đưa ra. Đánh giá của một cá nhân bao giờ cũng có vẻ chủ quan hơn những con số thống kê, nhưng nếu những đánh giá đó được gắn liền với trách nhiệm và uy tín của người đánh giá thì nó chính xác hơn nhiều. Cuối cùng thì những nhà quản lý khoa học phải dựa vào chính những nhà khoa học để thực hiện công việc quản lý của mình. Vì bản chất của việc quản lý khoa học là để tạo điều kiện cho các nhà khoa học phát huy được hết khả năng của mình.
Chú thích:
3Nơi trao giải thưởng Fields.
6Trong những năm 30 chính quyền Xô Viết đã cấm các nhà khoa học của mình công bố ra nước ngoài, điều đó đã góp phần tạo ra chất lượng cho các tạp chí Xô Viết.
7Chẳng hạn, Quỹ nghiên cứu của Úc, Australian research council, có một bảng xếp hạng tạp chí của nhiều ngành, có thể tham khảo.
https://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/Chi-so-trich-dan-ISI-va-viec-danh-gia-khoa-hoc-Viet-Nam-3889?fbclid=IwAR2iANDJPtfWOd9vQj0bRU40PIBfuHGXQ9SzPi-EwPVBxb2OyJ-iMz4OQDY
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.