Tính sẽ viết một cái gì đó rõ ràng về những thiên kiến của cụ Nguyễn Hải Hoành nhưng mà chưa tiện dịp. Thiên kiến, nếu nói đơn giản chỉ là những nhầm lẫn mang tính từ đầu mà thôi. Tuy nhiên, nhầm lẫn bình thường thì rất dễ sửa, còn "mang tính từ đầu" thì lại hơn khó khăn một chút.
Cụ Nguyễn Hải Hoành thuộc dòng họ trí thức Nguyễn Hữu Tảo - Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (làng Đông Tác, Hà Nội). Đó chính dòng họ của các danh nhân Hà Nội như Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Cầu. Bản thân cụ Nguyễn Hải Hoành là một bậc trí giả uyên bác, có trí nhớ siêu việt và hiện đã ở tuổi 90 nhưng sức làm việc thì rất đáng kính nể (hầu như ngày nào cụ cũng viết bài hay dịch bài; vẫn cập nhật Fb thường xuyên).
Cụ Nguyễn Hải Hoành thuộc dòng họ trí thức Nguyễn Hữu Tảo - Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (làng Đông Tác, Hà Nội). Đó chính dòng họ của các danh nhân Hà Nội như Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Cầu. Bản thân cụ Nguyễn Hải Hoành là một bậc trí giả uyên bác, có trí nhớ siêu việt và hiện đã ở tuổi 90 nhưng sức làm việc thì rất đáng kính nể (hầu như ngày nào cụ cũng viết bài hay dịch bài; vẫn cập nhật Fb thường xuyên).
Bây giờ, cứ tạm tích thêm dữ liệu đã. Bài mới nhất cụ về chữ Nôm với chữ Quốc ngữ, đi vào cụ thể sẽ chỉ ra nhiều chỗ chứa đựng thiên kiến.
Nhưng đầu tiên, tạm lưu tư liệu về đã và chỉ ra hai điểm nhỏ nhau.
1). Cụ xem chữ Nôm là sáng tạo kiệt xuất của người Việt.
2). Cụ xem việc chữ Quốc ngữ (tức hệ chữ ghi âm tiếng Việt dựa trên hệ chữ cái Latinh) là xuất phát từ thành tựu về chữ Nôm.
Hai điều cơ bản này đều không đúng. Tôi đặt lại nhanh như sau:
1). Chữ Nôm đúng là sáng tạo của người Việt. Nhưng không phải là sáng tạo kiệt xuất. Nói rõ hơn: một sáng tạo nhưng không phải sáng tạo kiệt xuất ! Một sáng tạo nhàng nhàng bạc nhạc !
2). Chữ Nôm không đóng góp gì cho việc làm ra chữ Quốc ngữ cả. Dẫn chứng lớn nhất: cụ Đắc Lộ là người đã làm ra từ điển Việt - Bồ - La bản in đầu thập niên 1650 ở châu Âu vốn là người không biết một chữ Nôm nào ! Cụ ấy có thể xem là mù chữ Nôm, mà do mù chữ Nôm mới san định được Quốc ngữ !
Tạm vậy đã.
Dưới là bài của cụ Nguyễn Hải Hoành.
Tháng 8 năm 2020,
Giao Blog
---
Ngày 3/8/2020, từ Fb Nguyễn Hải Hoành
Chữ viết (CV) là hệ thống ký hiệu thị giác dùng để ghi chép ngôn ngữ (NN), cũng là ghi chép tư duy của con người, vì thế CV có vai trò cực kỳ quan trọng. CV ra đời sau NN hàng trăm nghìn năm, là phát minh lớn của nhân loại. Hiện nay còn nhiều dân tộc chưa có CV. Theo nhà NN học Châu Hữu Quang, chữ viết phát triển theo ba giai đoạn: chữ biểu ý (tượng hình) –– chữ ý-âm –– chữ biểu âm (còn gọi là phiên âm). Chữ Hán từ ngày ra đời tới nay vẫn dừng lại ở giai đoạn hai. Chữ Quốc ngữ Việt Nam là chữ biểu âm Latin hóa.
Hiện nay hầu hết chữ viết trên thế giới đều dùng loại chữ phiên âm tức chữ biểu âm viết bằng các chữ cái ghép lại; chữ cái có thể là chữ Latin, chữ Slav, chữ A Rập hoặc các loại khác, phổ biến nhất là chữ Latin. Nói cách khác, hầu hết CV trên thế giới là chữ biểu âm Latin hóa. Duy nhất Trung Quốc (TQ) và Nhật hiện vẫn dùng loại chữ biểu ý kiểu hình vuông, tức chữ Hán, khác hẳn phần còn lại của thế giới, do đó không quốc tế hóa, không phổ cập toàn cầu được. Trong 6 ngôn ngữ làm việc của Liên Hợp Quốc, tỷ lệ dùng tiếng TQ thấp nhất (tỷ lệ dùng 3 thứ tiếng Nga, tiếng A Rập và tiếng TQ là 1%). Từ cuối thế kỷ XIX giới tinh hoa TQ đã nghĩ cách làm cho tiếng TQ trở thành loại ngôn ngữ quốc tế.
Thời xưa, Việt Nam, Nhật và bán đảo Triều Tiên từng mượn dùng chữ Hán hàng nghìn năm; về sau đều tự sáng tạo ra chữ viết có tính biểu âm nhằm ghi âm tiếng mẹ đẻ, có thể thay được chữ Hán đi mượn.
Thế kỷ IX, người Nhật làm ra chữ Kana (gồm chữ Hiragana và chữ Katakana), là loại chữ biểu âm, các chữ cái dùng ký tự là chữ Hán cổ, nhưng họ không dùng chữ Kana thay cho chữ Hán mà vẫn kết hợp dùng gần 2000 chữ Hán (Kanji), chủ yếu nhằm kế thừa văn hóa cổ của họ.
Thế kỷ XII, Việt Nam làm ra chữ Nôm, là loại chữ biểu âm kết hợp biểu ý, không dùng chữ cái mà mượn chữ Hán làm ký tự ghi tiếng Việt. Đây là một sáng tạo kiệt xuất của tổ tiên ta. Đầu thế kỷ XVII, các giáo sĩ Dòng Tên Thiên Chúa Giáo La Mã đến Việt Nam truyền giáo đã tiến hành Latin hóa chữ Nôm, tức dùng chữ cái Latin phiên âm chữ Nôm, biến nó thành chữ biểu âm Latin hóa hiện đại hóa (1651), về sau gọi là chữ Quốc ngữ -- niềm tự hào của dân tộc ta.
Thế kỷ XV, bán đảo Triều Tiên làm ra chữ Hangul là chữ biểu âm, với các chữ cái dùng loại ký tự riêng khác hẳn tất cả các loại ký tự đã có, là một sáng tạo NN học độc đáo.
Từ cuối thế kỷ XIX, người TQ bắt đầu tiến hành cuộc vận động dùng chữ cái Latin để phiên âm chữ Hán, tức Latin hóa chữ Hán. Trong thế kỷ XX, phong trào Latin hóa chữ Hán phát triển mạnh, các chính quyền TQ đều coi đó là quốc sách. Sau 1949, lãnh đạo tối cao TQ trực tiếp chỉ đạo tiến hành công tác này với quy mô lớn nhất trong lịch sử NN học thế giới. Năm 1958 họ làm ra Phương án Phiên âm (Pinyin) Hán ngữ, nhưng chỉ là phương án Latin hóa các ký hiệu phiên âm chữ Hán, không phải là phương án Latin hóa chữ Hán, tức không phải là một loại chữ viết. Sau nhiều cố gắng bất thành, cuối cùng người TQ phát hiện Hán ngữ không thích hợp dùng chữ biểu âm, chữ Hán không thể Latin hóa. Từ năm 1986, Nhà nước TQ đình chỉ chính sách Latin hóa chữ Hán, chuyển thành vấn đề học thuật.
Từ đó trở đi TQ áp dụng Chế độ Song Văn: dùng chữ Hán là chữ viết pháp định thứ nhất, chữ Pinyin Hán ngữ là chữ viết pháp định thứ hai, là công cụ bổ trợ cho chữ Hán. Châu Hữu Quang nói: Để thực hiện Latin hóa chữ Hán, TQ cần ít nhất 500 năm! Nghĩa là ... never!
Tuy vậy một số học giả TQ vẫn cho rằng chữ Nôm Việt Nam thực chất là chữ Hán TQ, từ thế kỷ XVII đã thành công thực hiện Latin hóa, thế thì chữ Hán TQ không có lẽ không thể Latin hóa!
Để giải đáp nghịch lý trên, cần làm rõ một số vấn đề về Việt ngữ, Hán ngữ, về chữ Nôm, chữ Hán.
Mời các bạn tham gia tranh cãi vấn đề thú vị này, qua đó thấy cái hay của ngôn ngữ Việt.
NHH August 2, 2020
---
BỔ SUNG
4.
Tiếng Việt kỳ diệu: Hành trình từ chữ Nho, chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ
Đã hơn trăm năm nay nước ta chính thức sử dụng chữ Quốc ngữ, thứ chữ viết được các nhà trí thức tiên tiến đầu thế kỷ20 ca ngợi là Hồn trong nước; Công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt và tin rằng Nước Nam ta sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ.
Dư luận nước ta trước đây quy công trạng làm ra thứ chữ kỳ diệu ấy cho giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes. Gần đây lại có dư luận yêu cầu ghi công các giáo sĩ không phải người Pháp như Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes… và đóng góp của giáo dân miền Nam nước ta từng giúp các giáo sĩ đó học tiếng Việt, và đóng vai trò “giám định” trong quá trình thí điểm sử dụng thứ chữ mới ấy.
Đáng tiếc là cho tới nay công luận ở ta vẫn chưa nhất trí chọn được các nhân vật tiêu biểu làm ra chữ Quốc ngữ, và cơ quan chính quyền liên quan cũng chưa dứt điểm giải quyết vấn đề này. Để tình trạng đó kéo dài sẽ không có lợi cho hình ảnh một dân tộc văn minh. Đã đến lúc cần bàn thảo rộng rãi và sớm có hành động tri ân những người xứng đáng ghi công.. Bài này nhằm góp một ý kiến bàn thảo. Vì người viết ít hiểu biết về ngôn ngữ học nên ý kiến nêu ra khó tránh khỏi có sai sót, mong được bạn đọc chỉ bảo.
***
Tiếng nói là khả năng bẩm sinh của con người, còn chữ viết là một phát minh sáng tạo không phải dân tộc nào cũng có. Ở thời xưa, tiến trình làm chữ viết cho một ngôn ngữ cần thời gian nhiều thế kỷ, thậm chí hàng ngàn năm. Tiếng Việt có hệ thống ngữ âm cực kỳ phong phú, cho nên càng có sức sống bền dai và càng khó làm được chữ viết; có thể vì thế mà ta chậm có chữ của mình. Nhưng cũng chính nhờ tiếng ta giàu ngữ âm mà rốt cuộc dân tộc ta được thừa hưởng một loại chữ viết tuyệt vời nhất vùng Đông Á.
Hiếm thấy nước nào từng sử dụng ba loại chữ viết như nước ta: chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, mỗi loại chữ ấy làm nên một trang sử vẻ vang đáng ôn lại.
Chữ Nho
Khoảng thế kỷ 2 TCN, phong kiến Trung Quốc (TQ) chiếm nước ta, bắt dân ta học chữ Hán.[1] Nhờ đó lần đầu tiên người Việt Nam biết tới chữ viết –– phương tiện truyền thông tin cực kỳ tiện lợi, không bị hạn chế về không gian và thời gian như tiếng nói. Có thể vì thấy được cái lợi lớn ấy mà các bậc đại trí người Việt đã nảy ý tưởng mượn dùng loại chữ này. Nhưng học Hán ngữ cực kỳ khó, vì người TQ đọc tiếng Hán theo hàng trăm phương ngữ khác nhau. Cái khó ló cái khôn: tổ tiên ta đã nghĩ ra cách chỉ đọc thứ chữ này bằng tiếng Việt mà không đọc bằng tiếng Hán, tức chỉ học chữ mà không học tiếng Hán. Ngôn ngữ học ngày nay giải thích điều đó là hợp lý, vì chữ Hán là chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideograph), tương tự chữ tượng hình vẽ con vật hoặc chữ số 1, 2, 3 hoặc ký hiệu $, %, … cả thế giới đều hiểu ý nghĩa các ký hiệu biểu ý đó, tuy đọc bằng tiếng của mình. Tổ tiên ta đã lợi dụng tính biểu ý của chữ Hán để đọc nó bằng tiếng Việt, như cách người TQ các địa phương đọc bằng phương ngữ của họ. Vì thế chính quyền chiếm đóng không thể cấm dân ta đọc chữ Hán theo cách của ta.
Người Việt gọi thứ chữ Hán đã Việt hóa phần ngữ âm ấy là chữ Nho, tức chữ của người có học. Khi ấy mỗi chữ Hán được đọc bằng một âm (từ) Hán-Việt gần giống âm Hán của nó; nhưng một âm Hán có thể chuyển thành một số âm Việt khác nhau. Không chữ Hán nào không được đặt tên tiếng Việt. Việc đặt tên cho hàng chục nghìn chữ Hán kéo dài hàng trăm năm, thực sự là một công trình vĩ đại. Chỉ bằng truyền miệng mà cách nay 2.000 năm các thầy đồ Nho trong cả nước ta đã đọc chữ Hán bằng một âm Việt thống nhất (TQ đặt mục tiêu đến năm 2020 toàn dân đọc chữ Hán bằng một âm Hán thống nhất). Có lẽ đây là lần đầu tiên chữ Hán được phiên âm ra tiếng nước ngoài.
Do dạy và học chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ nên dân ta học chữ Hán dễ hơn so với khi dạy và học bằng tiếng Hán, nhờ đó mượn được thứ chữ này để dùng, và coi chữ Nho là “chữ ta” trong khoảng 2.000 năm. Không ít người giỏi chữ chẳng kém người Hán. Như Khương Công Phụ (731-805) người Thanh Hóa đỗ Trạng nguyên ở TQ, về sau được vua nhà Đường phong Tể tướng.
Sau khi có chữ viết, dân tộc ta thoát khỏi thời tiền sử lạc hậu, tiến sang thời đại có sử sách ghi chép, có công cụ giao tiếp đối nội đối ngoại, sáng tác văn thơ, xây dựng ngành giáo dục, tiếp thu nền văn minh Trung Hoa tiên tiến, tổ chức xã hội theo mô hình TQ, từ đó tạo dựng nền văn minh Việt. Việc dùng chữ Hán mà không nói tiếng Hán đã giúp dân ta đời đời nói tiếng mẹ đẻ; nhờ thế dù có học và dùng chữ Hán bao lâu thì vẫn tránh được thảm họa bị người Hán đồng hóa. Chữ Nho đã thầm lặng bóp chết âm mưu Hán hóa tiếng Việt. Sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ cùng nền văn hóa của mình. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.
Phương pháp dùng từ Hán-Việt để phiên âm chữ Hán, qua đó làm thành chữ Nho, là một sáng tạo xuất sắc về ngôn ngữ, cực kỳ ích lợi: vừa mượn được chữ của người Hán về dùng, vừa lợi dụng được kho từ vựng chữ Hán làm nguồn bổ sung vô hạn cho kho từ vựng tiếng Việt. Thực ra hiện nay từ Hán-Việt đã kết hợp nhuần nhuyễn với từ thuần Việt tới mức khó phân biệt (ví dụ: lập trình, cận nghèo v.v…). Khi cần dịch một từ ngữ mới xuất hiện, ta thường tham khảo cách dùng từ của người TQ. Ví dụ từ quantum, người TQ dịch là量子, ta đọc Hán-Việt là lượng tử, rất hay và dễ hiểu. Toàn bộ từ vựng Hán ngữ hiện đại do người Nhật cuối thế kỷ 19 phiên dịch các từ ngữ phương Tây, sau khi vào Việt Nam đều được các nhà Nho Đông Kinh Nghĩa Thục chuyển thẳng thành từ Hán-Việt như vậy. Ngày nay không một từ ngữ mới nào không thể chuyển thành tiếng Việt.
Hơn nữa, tổ tiên ta phiên âm chữ Hán theo cách khôn ngoan không đâu có. Người Triều Tiên/Hàn Quốc phiên âm theo kiểu bám sát âm Hán, hậu quả là thừa kế 100% tình trạng tồn tại quá nhiều chữ đồng âm trong chữ Hán; bởi vậy sau 7 thế kỷ dùng chữ Hangul, cho tới nay họ vẫn phải dùng chữ Hán để ghi chú các chữ đồng âm. Người Nhật đọc chữ Hán theo nghĩa tiếng Nhật, không theo âm tiếng Hán –– cách phiên âm này khiến cho ban đầu họ phải dùng hàng chục nghìn chữ Hán, làm cho tiếng Nhật thời cổ trở nên cực kỳ phức tạp. Về sau họ làm ra chữ Kana biểu âm, nhờ thế chỉ còn cần dùng khoảng 2000 chữ Hán. Tổ tiên ta phiên âm chữ Hán theo kiểu một âm tiếng Hán được chuyển thành hàng chục âm tiếng Việt, nhờ thế giảm hàng chục lần số chữ đồng âm, qua đó làm cho từ Hán-Việt chính xác hơn. Ví dụ âm [yi] tiếng Hán có 135 chữ đồng âm, ta chuyển thành hàng chục âm tiếng Việt như ất, dật, di, dĩ, dị, dịch, duệ, ích, y, ý, nghi, nghị, nghĩa, nhị, ức, …
Chữ Nho vốn là chữ Hán nên không ghi được lời nói tiếng Việt, do đó không thể làm chữ viết của tiếng Việt. Trên thực tế chữ Nho hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ của tầng lớp bình dân, chỉ một số ít người thuộc giới quan lại hoặc giới tinh hoa ở ta biết dùng chữ Nho, và chỉ dùng để viết (bút đàm) trong một số lĩnh vực hẹp, không dùng để nói. Văn thơ chữ Nho làm theo kiểu văn thơ của người Hán không được coi là văn thơ tiếng Việt.
Chữ Nôm.
Từ khoảng thế kỷ 12 tổ tiên ta bắt đầu sáng tạo một loại chữ viết nhằm ghi âm tiếng mẹ đẻ, gọi là chữ Nôm. Thử nghiệm này nói lên ý thức tự chủ ngôn ngữ muốn có chữ viết riêng của ta, chấm dứt tình trạng dùng chữ đi mượn, lạithể hiện được trí tuệ của người Việt: tiến tới làm ra loại chữ tiên tiến nhất –– chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonograph), loại chữ người Hán chưa từng có.
Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Vì chưa biết tới ký tự Latin abc nên tổ tiên ta đã dùng các ký tự vuông chữ Hán (có cải tiến) để ghi âm tiếng mẹ đẻ của mình. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, dần dần dùng cách ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới, một phần gợi âm, một phần gợi ý –– về sau loại chữ tự tạo này được dùng ngày một nhiều. Nhưng vì các ký tự vuông gốc chữ Hán không phải là chữ cái ghép vần, cho nên mức chính xác ghi âm tiếng Việt còn thấp, chưa tiêu chuẩn hóa, nhiều chữ phải đoán âm đọc, có trường hợp một âm có nhiều chữ v.v…
Mỗi chữ Nôm thể hiện một âm tiết. Tiếng Việt giàu âm tiết nên có nhiều chữ Nôm. Theo tài liệu, vào giữa thế kỷ 17 đã có khoảng 80.000 chữ Nôm (? ). “Bảng tra chữ Nôm” (xuất bản năm 1976) cho biết có 8.187 chữ. “Từ điển Chữ Nôm dẫn giải” của GS Nguyễn Quang Hồng (2015) có 9.450 chữ Nôm (gồm gần 3.000 chữ tự tạo), ghi 14.519 âm tiết tiếng Việt. Do chữ Nôm chưa chuẩn hóa nên các số liệu trên có khác nhau, nhưng đều cho thấy tổ tiên ta đã làm được rất nhiều chữ, suy ra chữ Nôm thời xưa đã ghi được rất nhiều (nếu không nói là hầu hết) âm tiếng Việt đã dùng.
Chữ Nôm từng được gọi là Quốc ngữ hoặc Quốc âm, tức chữ của tiếng nói nước ta (chữ Nho chưa bao giờ được gọi như vậy). Nhưng do cấu tạo trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập. Hơn nữa, do Nhà nước phong kiến và tầng lớp tinh hoa ở ta mù quáng sùng bái chữ Hán cho nên chữ Nôm chưa được thừa nhận là chữ viết chính thức, bị coi là thấp kém dưới chữ Hán. Vì thế chữ Nôm khó được phát triển và hoàn thiện, chưa tiêu chuẩn hóa.
Tuy vậy văn thơ chữ Nôm, tức văn thơ tiếng Việt, do nói lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã tỏ ra trội hơn hẳn văn thơ chữ Nho. Nền văn học chữ Nôm từng đạt tới cực thịnh từ thời Hậu Lê đến thời kỳ đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 17-19), với các kiệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Đoàn Thị Điểm (1705-48), Nguyễn Gia Thiều (1741-98), Nguyễn Huy Tự (1743-90), Nguyễn Du (1765-1820), Hồ Xuân Hương (thế kỷ 18-19), Phạm Thái (1777-1813), Bà Huyện Thanh Quan (thế kỷ 19), Lý Văn Phức (1785-1849), Nguyễn Đình Chiểu (1822-88), Nguyễn Khuyến (1835-1909), Trần Tế Xương (1870-1907), v.v. Sách Thiên Nam Ngữ Lục (cuối thế kỷ 17) gồm 8.136 câu thơ lục bát, dùng tới 58.212 chữ Nôm.
Càng về sau chữ Nôm càng được sử dụng nhiều: trong hơn 200 năm sau khi chữ Quốc ngữ đã ra đời nhưng chưa phổ cập, các linh mục Công Giáo đều dùng chữ Nôm viết tài liệu giảng đạo. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của chữ Nôm trong đời sống văn hóa ở ta, đặc biệt trong cộng đồng Công Giáo vốn không ưa dùng chữ gốc Hán.
Vì sao chữ Nôm khó học mà lại được sử dụng khá phổ biến như vậy? Chủ yếu do chữ Nôm có yếu tố ghi âm rất rõ, ghi được tiếng nói người bình dân, là “chữ của tiếng ta”. Ngôn ngữ học thời nay giải thích: chữ Nôm có được yếu tố ghi âm là do tiếng Việt giàu âm tiết nên vượt qua được sự hạn chế của ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic).[2]
Chữ Quốc ngữ
Thế kỷ 17 các giáo sĩ Kitô giáo Dòng Tên Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes, Girolamo Maiorica, Alexandre de Rhodes v.v… đến nước ta truyền giáo. Dòng Tên chỉ tuyển người có trình độ tiến sĩ, và nghiêm khắc yêu cầu nhà truyền giáo phải thông thạo ngôn ngữ và theo phong tục tập quán của dân bản xứ.
Theo ghi chép, Francisco de Pina đến Việt Nam năm 1617, ba năm sau đã cùng các giáo sĩ soạn tài liệu giáo lý bằng chữ Nôm. Trong các năm 1632-1656, Girolamo Maiorica (người Ý) đã viết 45 tác phẩm chữ Nôm, trong đó Thư viện Quốc gia Pháp hiện còn giữ 15 tác phẩm với tổng số 1, 2 triệu chữ Nôm, [3] nhiều gấp 52 lần số chữ Nôm trong Truyện Kiều. Một số thư viện còn giữ được nhiều tài liệu chữ Nôm của các giáo sĩ đi đầu làm chữ Quốc ngữ như Gaspar do Amaral, António Barbosa…
Vì đối tượng truyền giáo thời ấy là nông dân, ngư dân Quảng Nam, Quảng Ngãi nên dĩ nhiên các tài liệu giảng đạo chữ Nôm phải dùng từ ngữ của dân thường. Từ đây có thể suy ra các vị giáo sĩ-bậc thầy ngôn ngữ học ấy không thể không nhận thấy chữ Nôm có yếu tố biểu âm, và đã ghi được phần lớn âm tiếng Việt, nhưng chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ nên ghi âm chưa chính xác, và khó học, khó phổ cập. Kinh nghiệm thất bại của các giáo sĩ Dòng Tên ở Nhật trong việc phiên âm Latin hóa chữ Kanji biểu ý (tức chữ Hán) càng cho thấy việc chữ Nôm có yếu tố biểu âm là một thuận lợi lớn khi phiên âm nó thành chữ biểu âm Latin hóa.
Với nhận thức như vậy, các giáo sĩ giỏi chữ Nôm kể trên dĩ nhiên đã sớm nảy ra ý tưởng và niềm tin có thể dùng chữ cái Latin để phiên âm chữ Nôm, biến thứ chữ gốc Hán có yếu tố biểu âm ấy thành thứ chữ biểu âm Latin hóa dễ học dễ dùng cho việc truyền giáo.
Hiển nhiên, phiên âm một loại tiếng nói đã có chữ viết ghi lại âm của tiếng đó thì đơn giản nhiều so với việc phiên âm thứ tiếng nói chưa có chữ viết –– ở thời xưa, đó là một công trình lao động sáng tạo cực kỳ phức tạp, cần nhiều người làm trong hàng trăm năm.
Trên thực tế, các giáo sĩ kể trên dù rất ít người và làm việc phân tán nhưng đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái Latin thích hợp thay cho các ký tự vuông tương ứng trong chữ Nôm và tạo ra loại chữ mới trong thời gian ngắn kỷ lục: 32 năm (1617-1649). Năm 1617 Francisco de Pina đến Đàng Trong, năm 1619 đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ Latin. Năm 1631 Gaspar do Amaral đến Đàng Ngoài, năm sau đã ghi âm rất tốt tiếng Việt, năm 1634 làm xong một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trong mấy cuộc gặp tại Macao (1630-1631), các giáo sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết của tiếng Việt. Năm 1649 Rhodes mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) rời Việt Nam. Năm 1651 Từ điển này được xuất bản tại Roma, đánh dấu sự ra đời chữ Quốc ngữ Việt Nam.[4] Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, chữ viết biểu âm Latin hóa thành công ra đời tại khu vực ảnh hưởng của Hán ngữ.Trong quá trình làm chữ Quốc ngữ, các giáo sĩ đã phải giải quyết nhiều khó khăn gây ra bởi hệ ngữ âm tiếng Việt quá phong phú và mới lạ. Vấn đề phức tạp nhất là phải nghiên cứu sáng tạo ra hệ thống ký hiệu thể hiện được các thanh điệu sắc, huyền, hỏi. ngã, nặng, và các con chữ thể hiện được các ngữ âm không có trong bộ chữ La tinh như ă, â, ê, ơ, ô, ư, đ. Bộ ký hiệu và con chữ ấy làm nên cái gọi là “giày và mũ” trong nhận xét của một học giả nổi tiếng Trung Quốc: “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười”. Thực ra “mũ, giày” ấy là những sáng tạo hợp lý tới mức người Việt xưa và nay đều không chấp nhận bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký hiệu và con chữ đó. Ví dụ gần đây công luận không tán thành một số phương án chữ Quốc ngữ bỏ dấu. Ngoài ra các giáo sĩđã hiệu chỉnh những âm tiếng Việt mà chữ Nôm chưa ghi chính xác, và hiện đại hóa ngữ pháp cùng cách viết, như đưa vào các loại dấu ngắt câu, ngắt đoạn, dấu ngoặc, ký hiệu toán học, lối viết hoa, viết tắt v.v…
Về hình thức, chữ Quốc ngữ khác hẳn chữ Nôm, nhưng về bản chất cả hai đều là các hệ chữ viết ghi âm tiếng Việt; chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La thể hiện rất rõ mối tương quan với chữ Nôm.[5]
Sau mấy chục năm dầy công lao động sáng tạo, các vị giáo sĩ nói trên đã hoàn thành việc phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm dùng chữ cái Latin –– loại chữ viết tiên tiến nhất, quốc tế hóa nhất thời đó, về sau được gọi là chữ Quốc ngữ. Rõ ràng, chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm được Latin hóa và hiện đại hóa.
Giả thử thời ấy chưa có chữ Nôm, chỉ có chữ Nho, thì việc làm chữ của các giáo sĩ sẽ vô cùng khó khăn vì chữ Nho vốn là chữ Hán. Thực tiễn cải cách chữ viết ở Trung Quốc đã chứng tỏ không thể dùng bất cứ bộ chữ cái nào để phiên âm chữ Hán thành chữ biểu âm.
Năm 1582 giáo sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci đến Trung Quốc truyền giáo. Ông rất giỏi Hán ngữ, đã dành nhiều năm nghiên cứu cách phiên âm chữ Hán. Năm 1605 Ricci đưa ra phương án phiên âm chữ Hán bằng chữ cái Latin, nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn, chứ chưa phải là một loại chữ viết mới. Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu theo phương hướng của Ricci nhằm mục tiêu tạo ra một thứ chữ biểu âm có thể thay thế chữ Hán mà họ muốn loại bỏ. Nhưng mọi cố gắng ấy đều không có kết quả. Năm 1958 Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án phiên âm (Pinyin) Hán ngữ dùng chữ cái Latin, nhưng chỉ có tác dụng phụ trợ là ghi chú âm cho chữ Hán, không phải là một loại chữ viết. Từ năm 1986 Ủy ban này không còn nhắc tới mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hán nữa, và nói tương lai của chữ Hán sẽ do các thế hệ sau quyết định. Hiện nay Trung Quốc vẫn dùng chữ Hán như cũ, có kết hợp dùng phương án Pinyin Hán ngữ chỉ để ghi chú âm đọc chữ Hán.
Tóm lại, việc dùng chữ cái Latin phiên âm chữ Nôm thành chữ biểu âm đã thành công ngay từ giữa thế kỷ 17, trong khi mọi cố gắng tương tự đối với chữ Hán cho tới nay vẫn bất thành. Tại sao vậy? Đó là do chữ Nôm có yếu tố biểu âm, còn chữ Hán biểu ý không biểu âm; và tình trạng đó bắt nguồn sâu xa từ chỗ tiếng Việt giàu âm tiết, tiếng Hán nghèo âm tiết.
Đến đây có thể kết luận: Chữ Nôm đã xây đắp nền tảng ngôn ngữ để các giáo sĩ nói trên dựa vào đó tạo ra chữ Quốc ngữ. Toàn dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công trạng làm chữ Nôm của tổ tiên ta, coi chữ Nôm là một sáng tạo ngôn ngữ xuất sắc góp phần quyết định sự hình thành chữ Quốc ngữ.
Sau cùng cần nhấn mạnh vai trò quan trọng của Kitô giáo. Là hiện tượng văn hóa của số đông loài người, các tôn giáo lớn đều tôn sùng và truyền bá tư tưởng nhân ái cao quý. Thế kỷ 17, các giáo sĩ Kitô giáo người Âu khi đến Việt Nam truyền giáo đã kết hợp làm sứ mạng khai hóa dân bản xứ, khác hẳn hành vi xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Thực dân Bồ Đào Nha khi chiếm Brazil đã cưỡng bức đồng hóa dân bản xứ bằng cách bắt họ nói tiếng Bồ, trong khi các giáo sĩ Kitô giáo người Bồ như Francisco de Pina … đến Việt Nam truyền giáo đã không làm thế mà còn tìm cách Latin hóa chữ Nôm. Hơn nữa, de Pina còn nghĩ tới việc dùng thứ chữ hiện đại này bắc cây cầu đối thoạiViệt Nam với châu Âu văn minh, và tạo dựng một nền văn hóa mới cho nước ta. Đây thật là một ý tưởng cao quý! Khi mới chiếm Việt Nam, thực dân Pháp từng chủ trương bắt dân ta đời đời nói tiếng Pháp như chúng đã làm ở các thuộc địa châu Phi. Nhưng giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes lại hăng hái làm chữ viết riêng giúp cho người Việt giữ được tiếng mẹ đẻ. Nếu chưa có chữ Quốc ngữ thì nước ta ắt hẳn đã bị người Pháp đồng hóa từ lâu.Bởi vậy sẽ là sai lầm khi cho rằng các giáo sĩ đạo Kitô đến Việt Nam truyền giáo là để phục vụ chính sách xâm lược của thực dân Pháp. Với truyền thống Uống nước nhớ nguồn, dân tộc ta đời đời ghi ơn tất cả các giáo sĩ Kitô giáo đã góp phần làm ra thứ chữ viết kỳ diệu ta dùng hơn trăm năm nay.
Và như vậy có thể nói chữ Quốc ngữ là thành quả kết hợp trí tuệ của nền văn minh Việt với nền văn minh Kitô giáo, là món quà vô giá mà các giáo sĩ Dòng Tên trao cho dân tộc ta trong một ngẫu nhiên lịch sử xảy ra ở thế kỷ 17.
————
[1] Thứ chữ này đến đời nhà Nguyên (thế kỷ 14) mới có tên “chữ Hán”. Ở đây gọi như vậy cho tiện.
[2] Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn ngữ”. Tạp chí Tia Sáng số 11 (5/6/2020).
[3] Lã Minh Hằng: “Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công Giáo tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”.
[4] Phạm Thị Kiều Ly: “Lịch sử chữ Quốc ngữ từ 1615 đến 1861: Quá trình La-tinh hóa tiếng Việt trong trào lưu ngữ học truyền giáo”. TC Tia Sáng số 24 (20/12/2019).
[5] Nguyễn Ngọc Quân: “Chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La trong tương quan với cấu tạo chữ Nôm đương thời”
Attachments area
http://vietcatholic.org/News/Html/257349.htm?fbclid=IwAR3BfTPobTyCV0gZe_rrRBZi8cccmfYzgfNeV4sLC6-gJP8bUik4RKCbmSo
3. Ngày 7/8/2020, từ Fb cụ Hoành
Hai dân tộc Kinh Việt Nam và Hán Trung Quốc (TQ) có nhiều điểm giống và khác nhau. Trong 1000 năm Bắc thuộc, nước ta bị Hán hóa toàn diện, các khác biệt bị xói mòn rất nhiều, kể cả về huyết thống. Không ít người Hán sang Việt Nam định cư, lấy vợ Việt, hầu hết họ đều bị người Việt đồng hóa, và đều chống lại sự xâm lược của TQ. Hiện nay một số dòng họ ở ta tự nhận có gốc TQ, như họ Hồ ở Nghệ An (Hồ Quý Ly, Hồ Học Lãm). Rất có thể những họ khoa bảng nổi tiếng giỏi chữ Hán chẳng kém người Hán là có gốc TQ. Dù thế nào đi nữa, dân tộc ta vẫn giữ được một khác biệt căn bản nhất với dân tộc Hán –– ngôn ngữ, trước tiên là tiếng nói, sau đó là chữ viết.
Có thể nói ngôn ngữ là thế mạnh độc đáo của nòi giống Việt; không có ưu thế đó, dân tộc ta không thể nào thoát khỏi thảm họa bị Hán hóa sau hơn nghìn năm Bắc thuộc. Rõ ràng tiếng Việt tiềm ẩn những đặc điểm kỳ diệu nào đó mà chúng ta chưa thấy hết. Tiếc thay vẫn có người đơn giản cho rằng tiếng Việt có gốc tiếng Hán. Tâm lý tự ty đó cản trở việc nghiên cứu các thành tựu ngôn ngữ của tổ tiên ta, khiến chúng ta chưa đánh giá đúng mức các thành tựu đó, dẫn đến cách dùng tiếng Việt tùy tiện. Hãy xem người Hàn Quốc tôn sùng chữ Hangul như thế nào. Nước họ có riêng một ngày kỷ niệm chữ Hangul. Chữ Quốc ngữ của ta tuyệt vời như thế mà cho tới nay chưa được tôn vinh xứng đáng. Nghĩ mà xấu hổ, tủi thân trong khi luôn nói dân tộc ta có bốn nghìn năm văn hiến.
Sau 1000 năm bị Hán hóa, dân tộc ta đã tiếp thu chữ Hán làm một công cụ ghi chép phần nào tiếng Việt [1], nhưng tuyệt nhiên không chấp nhận tiếng Hán. Đây là hành động ngẫu nhiên hay có chủ ý của tổ tiên ta?
Để làm được như vậy, người Việt đã nghĩ ra cách đọc chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ mà không đọc bằng tiếng Hán, tức Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán, biến nó thành chữ của mình, gọi là chữ Nho với ý nghĩa “Chữ của người có học”.
Về tự hình và tự nghĩa, chữ Nho chính là chữ Hán, nhưng đọc theo âm Việt có gốc Hán, cho nên còn gọi là chữ Hán-Việt. Nhờ vậy học chữ Nho dễ hơn học chữ Hán. Tổ tiên ta dùng chữ Nho bút đàm giao dịch với quan chức chính quyền chiếm đóng, đạt được yêu cầu bắt dân ta học chữ của chúng.
Rốt cuộc người Việt có chữ để ghi chép và giao tiếp nhưng vẫn đời đời nói tiếng mẹ đẻ, không nói tiếng Hán. Chữ Nho đã thầm lặng vô hiệu hóa quá trình Hán hóa tiếng Việt. Mưu toan đồng hóa ngôn ngữ thất bại thảm hại [2]. Giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ và nhờ đó giữ được nòi giống và đất nước mình --- đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Nói theo ngôn ngữ học hiện đại, là tổ tiên ta đã biết lợi dụng đặc điểm ghi ý không ghi âm của chữ Hán để đọc chữ Hán bằng bản ngữ. Nghĩa là dùng tiếng Việt để phiên âm chữ Hán thành chữ Nho, tức chữ Hán-Việt có gốc Hán ngữ. Có lẽ đây là lần đầu tiên chữ Hán được phiên âm ra một thứ tiếng nước ngoài.
Từ Hán-Việt do tổ tiên ta sáng tạo đã làm cho kho tàng từ vựng tiếng Việt phong phú thêm nhiều lần cả về số lượng và mỹ cảm. Cho dù đầu thế kỷ XX khoảng 60% từ vựng tiếng Việt có gốc Hán ngữ (thống kê mới đây là 36%) nhưng đó chỉ là hiện tượng giao thoa ngôn ngữ bình thường. Sẽ là sai lầm khi qua đó mà đánh giá tiếng Việt có gốc tiếng Hán. Hãy xem: khoảng 70% từ ngữ tiếng Hán hiện đại có gốc tiếng Nhật [3], tuy rằng tiếng Hán hoàn toàn khác tiếng Nhật.
Chữ Nho là một sáng tạo độc đáo của người Việt trong cách tiếp nhận chữ Hán.
Người Triều Tiên/Hàn Quốc cũng mượn dùng chữ Hán nhưng bê nguyên xi cách đọc của người Hán, vì thế đem theo về rất nhiều từ đồng âm, hậu quả là sau khi đã dùng chữ Hangul rồi họ vẫn phải dùng chữ Hán để ghi chú các từ đồng âm. Nếu bán đảo Triều Tiên bị người Hán thống trị cả nghìn năm thì chưa biết điều gì sẽ xảy ra.
Người Nhật mượn tự hình chữ Hán để đọc theo nghĩa của tiếng Nhật, vì thế phải dùng quá nhiều chữ Hán, gây khó khăn cho người học chữ Nhật.
Duy nhất người Việt mượn tự hình, tự nghĩa của chữ Hán nhưng đọc chữ theo tiếng mẹ đẻ, một âm Hán có thể chuyển thành một hoặc cả chục âm Việt, nhờ thế giảm đáng kể lượng từ đồng âm. Kết quả không ngờ là làm được chữ viết có tính biểu âm, đầu tiên là chữ Nôm mượn tự hình chữ Hán, sau đó là chữ Quốc ngữ mượn chữ cái Latin. Từ khi dùng thứ chữ tiên tiến này, Việt Nam hoàn toàn “Thoát Hán” về ngôn ngữ, trong khi Hàn Quốc và Nhật vẫn phải dùng chữ Hán. Thắng lợi này có ý nghĩa vô cùng lớn!
(còn nữa) Aug.7, 2020
2. Bài đã đăng vào tháng 7 năm 2020, cùng tác giả Nguyễn Hải Hoành
Các nhà nghiên cứu trao đổi tại Hội thảo khoa học 100 năm chữ Quốc ngữ, TP Hồ Chí Minh 12/2019. nguồn ảnh nld.com.vn
Sách sử chép: từ thế kỷ XVII Tòa Thánh Vatican bắt đầu cử các giáo sĩ đạo Ki Tô người châu Âu đến vùng Đông Á làm sứ mạng truyền giáo. Tới đâu họ đều trước tiên học ngôn ngữ của dân bản xứ theo cách dùng chữ La tinh để ghi âm tiếng nói hoặc phiên âm chữ viết (nếu có) của nước sở tại.
Tại Việt Nam, vào nửa đầu thế kỷ XVII các giáo sĩ đạo Ki Tô dòng Tên như Francisco de Pina, Antonio Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes,Alexandre de Rhodes, v.v… đã dùng con chữ La tinh làm ra một loại chữ viết mới cho tiếng Việt, về sau gọi là chữ Quốc ngữ. Chữ viết này có hai ưu điểm nổi bật là biểu âm và La tinh hóa, ghi được toàn bộ các âm tiếng Việt, rất dễ học dễ dùng và có tính quốc tế. Chữ Quốc ngữ ra đời đã giúp các giáo sĩ đạo Ki Tô làm tốt sứ mạng truyền giáo, đồng thời đã mang lại một “công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt” (lời học giả Phạm Quỳnh), từ đó làm thay đổi hẳn đời sống xã hội nước ta và nâng nền văn minh Việt lên một tầng cao chưa từng thấy.
Tại Trung Quốc, năm 1605, giáo sĩ người Ý Matteo Ricci làm ra phương án phiên âm chữ Hán bằng chữ La tinh; nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn, chứ chưa phải là một loại chữ viết mới. Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục nghiên cứutheo phương hướng của Ricci, nhằm tạo một loại chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonograph) thay thế chữ Hán mà họ cho là lạc hậu. Nhưng tất cả mọi cố gắng ấy đều thất bại. Năm 1958, Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án phiên âm Hán ngữ dùng chữ cái La tinh (汉语拼音方案, Scheme of the Chinese Phonetic Alphabet), chỉ có tác dụng phụ trợ là ghi chú âm cho chữ Hán, không phải là một loại chữ viết. Năm 1986, Nhà nước Trung Quốc từ bỏ mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hán. Trở ngại chính là Hán ngữ có nhiều chữ đồng âm, tức cùng một âm đọc có nhiều chữ khác tự hình, khác ý nghĩa, khi viết thành chữ phiên âm (tức biểu âm) sẽ đọc không hiểu nghĩa. Có lẽ vì thế mà tổ tiên người Hoa Hạ đã làm một loại chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideograph), không biểu âm, về sau gọi là chữ Hán, có thể dùng tự hình để phân biệt các chữ đồng âm.
Vì sao chữ Quốc ngữ Việt Nam ra đời nhanh chóng và thành công mỹ mãn như vậy? Những nhân tố nào đã góp phần làm nên thành tựu ngôn ngữ kiệt xuất đó?
Xưa nay mọi người đều quy công đầu cho nhóm các giáo sĩ nói trên, rồi đến cộng đồng giáo dân miền Nam nước ta đã thí điểm sử dụng, thẩm định và hoàn thiện thứ chữ mới đó.
Thực ra, nhân tố căn bản quyết định sự ra đời chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm - một sáng tạo ngôn ngữ học xuất sắc của tổ tiên ta từ thế kỳ XII.
Chữ Nôm là loại chữ biểu âmkết hợp biểu ý, từng có thời được gọi là “Quốc ngữ” hoặc “Quốc âm”, tức chữ của “tiếng nói nước ta”[1]. Chữ Nôm được cấu tạo trên nền tảng chữ Nho (tức chữ Hánđọc bằng tiếng Việt), vì thế phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập, lại chưa được chính quyền thừa nhận, bị coi là “nôm na”. Tuy vậy, văn học chữ Nôm do nói lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã trội hơn hẳn văn học chữ Nho, tạo ra một thời kỳ phát triển rực rỡ nền văn học nước ta.
Sau nhiều thế kỷ hoàn thiện, chữ Nôm đã đạt mức ghi được hầu như toàn bộ các âm tiếng Việt. Có thể thấy rõ điều đó từ các tác phẩm văn thơ chữ Nôm như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, v.v… và các tác phẩm chữ Hán được dịch ra chữ Nôm, như Truyền kỳ mạn lục, Chinh phụ ngâm khúc, v.v… Ngay cả khi chữ Quốc ngữ đã ra đời nhưng chưa được sử dụng, các linh mục Công giáo đều dùng chữ Nôm để viết sách viết bài giảng đạo.
Sử sách chép rằng khi các giáo sĩ kể trên đến nước ta truyền giáo, họ đã học và dùng thành thạo tiếng Việt và chữ Nôm, biên soạn nhiều sách và tài liệu truyền giáo bằng chữ Nôm. Có thể suy ra qua đó họ nhận thấy xứ này đã có chữ viết lâu đời, hơn nữa lại là chữ biểu âm- loại chữ được dùng nhiều nhất trên thế giới. Họ cũng biết rõ: chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ để ghi âm tiếng Việt mà chữ Nôm khó học, khó phổ cập; nếu dùng chữ cái La tinh phiên âm chữ Nôm thì chắc chắn sẽ làm được một loại chữ biểu âm La tinh hóa tiện dùng cho việc truyền giáo. Với suy nghĩ như vậy, họ bắt tay vào việc tạo ra một loại chữ mới cho tiếng Việt.
Như vậy nhiệm vụ chủ yếu của các giáo sĩ này là dùng bộchữ cái La tinh thay thế các ký tự vuông ghi âm trong chữ Nôm - nghĩa là chỉ cải tạo, hoàn thiện và La tinh hóa một thứ chữ biểu âm có sẵn. Nhiệm vụ này dễ hơn nhiều so với việc tạo ra loại chữ biểu âm mới cho một ngôn ngữ chưa có chữ viết, tức chưa có các ký hiệu ghi âm.
Dĩ nhiên nhiệm vụ trên cũng có nhiều khó khăn, nhất là việc chọn ký hiệu thể hiện các thanh điệu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) và các âm không có trong bộ chữ La tinh, như ă, â, ê, ơ, ô, ư, đ… Năm 2008, một học giả hàng đầu Trung Quốc chê bai “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười.” [2]. Thực ra “mũ”,“giày” ấy là những sáng tạo tinh tế và hợp lý, tới mức người Việt xưa và nay đều không chấp nhận bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký hiệu đó.
Giả thử nước ta thời bấy giờ chưa có chữ Nôm, tức chỉ có chữ Nho, thì công việc của các giáo sĩ ấy sẽ khác hẳn: họ phải làm mới một loại chữ biểu âmcho tiếng Việt. Chữ Nho bản chất là chữ Hán, là loại chữ biểu ý, không biểu âm. Thực tế ở Trung Quốc cho thấy không thể dùng bất cứ bộ chữ cái nào để phiên âm chữ Hán thành một loại chữ biểu âm.
Chữ Nho có chút thuận lợi hơn ở chỗ từ Hán - Việt (từ Việt để gọi tên chữ Hán) có nhiều âm hơn chữ Hán, nhưng vẫn là quá ít so với tổng số âm của tiếng Việt [3]. Suy ra việc phiên âm chữ Nho thành chữ biểu âm cũng cần thời gian rất lâu, nếu không nói là bất khả thi. Giả thử bỏ qua chữ Nho, làm mới một loại chữ biểu âm cho tiếng Việt chưa có chữ viết, thì ở thế kỷ XVII, khi lý luận ngôn ngữ học chưa ra đời, đó sẽ là một công trình sáng tạo có quy mô cực lớn, đòi hỏi thời gian cả trăm năm.
Theo Phạm Thị Kiều Ly[4], các giáo sĩ kể trên dù rất ít người và làm việc phân tán nhưng đã tạo ra chữ Quốc ngữ trong thời gian ngắn kỷ lục: từ năm 1617 đến 1649. Họ đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái La tinh phù hợp để ghi âm tiếng Việt. Năm 1617, Giáo sĩ Francisco de Pina đến Đàng Trong, tới năm 1619 đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ La tinh. Năm 1631, Gaspar do Amaral đến Đàng Ngoài, chỉ sau một năm đã ghi âm rất tốt tiếng Việt và đến năm 1634 đã làm xong một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trongcác cuộc gặp tại Macao (1930-1931), các giáo sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết của tiếng Việt. Năm 1649, Rhodes rời Việt Nam mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum). Năm 1651, Từ điển này được in và xuất bản tại Roma, đánh dấu chữ Quốc ngữ Việt Nam chính thức ra đời.
Trong điều kiện ở thế kỷ XVII, quá trình làm chữ Quốc ngữ diễn ra nhanh chóng như vậy cho thấy các giáo sĩ nói trên đã gặp thuận lợi lớn - đó là chữ Nôm, một loại chữ biểu âm đã tồn tại dăm trăm năm, ghi được hầu như toàn bộ âm tiếng Việt. Các ký hiệu thị giác của chữ Nôm thể hiện hệ thống ngữ âm cực kỳ phong phú của tiếng Việt, tạo nguồn tư liệu ngôn ngữ để dựa trên nền tảng đó, các giáo sĩ dùng chữ cái La tinh thay cho các ký tự hình vuông, đồng thời hiện đại hóa phần ngữ pháp (như áp dụng các dấu ngắt câu, ngắt đoạn, viết hoa, v.v…), qua đó biến chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm La tinh hóa, là loại chữ viết tiên tiến và thích hợp nhất với tiếng Việt. Có thể coi chữ Quốc ngữ là chữ Nôm được La tinh hóa và hiện đại hóa.
Tóm lại, cần khẳng định tổ tiên ta đã góp phần quan trọng làm ra chữ Quốc ngữ - thành quả kết hợp trí tuệ của dân tộc Việt với trí tuệ của nền văn minh Ki Tô giáo.
[3] Hán ngữ có khoảng 1300 âm tiết có xét thanh điệu, tiếng Việt có khoảng 18000; Tự điển Hán-Việt Thiều Chửu dùng 1839 từ Hán-Việt phiên âm 8295 chữ Hán.
846. Từ chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ
- NGUYỄN HẢI HOÀNH
- Thứ bảy, 04 Tháng 7 2020 15:31
Các nhà nghiên cứu trao đổi tại Hội thảo khoa học 100 năm chữ Quốc ngữ, TP Hồ Chí Minh 12/2019. nguồn ảnh nld.com.vn
Sách sử chép: từ thế kỷ XVII Tòa Thánh Vatican bắt đầu cử các giáo sĩ đạo Ki Tô người châu Âu đến vùng Đông Á làm sứ mạng truyền giáo. Tới đâu họ đều trước tiên học ngôn ngữ của dân bản xứ theo cách dùng chữ La tinh để ghi âm tiếng nói hoặc phiên âm chữ viết (nếu có) của nước sở tại.
Tại Việt Nam, vào nửa đầu thế kỷ XVII các giáo sĩ đạo Ki Tô dòng Tên như Francisco de Pina, Antonio Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes, Alexandre de Rhodes, v.v… đã dùng con chữ La tinh làm ra một loại chữ viết mới cho tiếng Việt, về sau gọi là chữ Quốc ngữ. Chữ viết này có hai ưu điểm nổi bật là biểu âm và La tinh hóa, ghi được toàn bộ các âm tiếng Việt, rất dễ học dễ dùng và có tính quốc tế. Chữ Quốc ngữ ra đời đã giúp các giáo sĩ đạo Ki Tô làm tốt sứ mạng truyền giáo, đồng thời đã mang lại một “công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt” (lời học giả Phạm Quỳnh), từ đó làm thay đổi hẳn đời sống xã hội nước ta và nâng nền văn minh Việt lên một tầng cao chưa từng thấy.
Tại Trung Quốc, năm 1605, giáo sĩ người Ý Matteo Ricci làm ra phương án phiên âm chữ Hán bằng chữ La tinh; nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn, chứ chưa phải là một loại chữ viết mới. Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục nghiên cứutheo phương hướng của Ricci, nhằm tạo một loại chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonograph) thay thế chữ Hán mà họ cho là lạc hậu. Nhưng tất cả mọi cố gắng ấy đều thất bại. Năm 1958, Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án phiên âm Hán ngữ dùng chữ cái La tinh (汉语拼音方案, Scheme of the Chinese Phonetic Alphabet), chỉ có tác dụng phụ trợ là ghi chú âm cho chữ Hán, không phải là một loại chữ viết. Năm 1986, Nhà nước Trung Quốc từ bỏ mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hán. Trở ngại chính là Hán ngữ có nhiều chữ đồng âm, tức cùng một âm đọc có nhiều chữ khác tự hình, khác ý nghĩa, khi viết thành chữ phiên âm (tức biểu âm) sẽ đọc không hiểu nghĩa. Có lẽ vì thế mà tổ tiên người Hoa Hạ đã làm một loại chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideograph), không biểu âm, về sau gọi là chữ Hán, có thể dùng tự hình để phân biệt các chữ đồng âm.
Vì sao chữ Quốc ngữ Việt Nam ra đời nhanh chóng và thành công mỹ mãn như vậy? Những nhân tố nào đã góp phần làm nên thành tựu ngôn ngữ kiệt xuất đó?
Xưa nay mọi người đều quy công đầu cho nhóm các giáo sĩ nói trên, rồi đến cộng đồng giáo dân miền Nam nước ta đã thí điểm sử dụng, thẩm định và hoàn thiện thứ chữ mới đó.
Thực ra, nhân tố căn bản quyết định sự ra đời chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm – một sáng tạo ngôn ngữ học xuất sắc của tổ tiên ta từ thế kỳ XII.
Chữ Nôm là loại chữ biểu âmkết hợp biểu ý, từng có thời được gọi là “Quốc ngữ” hoặc “Quốc âm”, tức chữ của “tiếng nói nước ta”[1]. Chữ Nôm được cấu tạo trên nền tảng chữ Nho (tức chữ Hánđọc bằng tiếng Việt), vì thế phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập, lại chưa được chính quyền thừa nhận, bị coi là “nôm na”. Tuy vậy, văn học chữ Nôm do nói lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã trội hơn hẳn văn học chữ Nho, tạo ra một thời kỳ phát triển rực rỡ nền văn học nước ta.
Sau nhiều thế kỷ hoàn thiện, chữ Nôm đã đạt mức ghi được hầu như toàn bộ các âm tiếng Việt. Có thể thấy rõ điều đó từ các tác phẩm văn thơ chữ Nôm như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, v.v… và các tác phẩm chữ Hán được dịch ra chữ Nôm, như Truyền kỳ mạn lục, Chinh phụ ngâm khúc, v.v… Ngay cả khi chữ Quốc ngữ đã ra đời nhưng chưa được sử dụng, các linh mục Công giáo đều dùng chữ Nôm để viết sách viết bài giảng đạo.
Sử sách chép rằng khi các giáo sĩ kể trên đến nước ta truyền giáo, họ đã học và dùng thành thạo tiếng Việt và chữ Nôm, biên soạn nhiều sách và tài liệu truyền giáo bằng chữ Nôm. Có thể suy ra qua đó họ nhận thấy xứ này đã có chữ viết lâu đời, hơn nữa lại là chữ biểu âm- loại chữ được dùng nhiều nhất trên thế giới. Họ cũng biết rõ: chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ để ghi âm tiếng Việt mà chữ Nôm khó học, khó phổ cập; nếu dùng chữ cái La tinh phiên âm chữ Nôm thì chắc chắn sẽ làm được một loại chữ biểu âm La tinh hóa tiện dùng cho việc truyền giáo. Với suy nghĩ như vậy, họ bắt tay vào việc tạo ra một loại chữ mới cho tiếng Việt.
Như vậy nhiệm vụ chủ yếu của các giáo sĩ này là dùng bộchữ cái La tinh thay thế các ký tự vuông ghi âm trong chữ Nôm – nghĩa là chỉ cải tạo, hoàn thiện và La tinh hóa một thứ chữ biểu âm có sẵn. Nhiệm vụ này dễ hơn nhiều so với việc tạo ra loại chữ biểu âm mới cho một ngôn ngữ chưa có chữ viết, tức chưa có các ký hiệu ghi âm.
Dĩ nhiên nhiệm vụ trên cũng có nhiều khó khăn, nhất là việc chọn ký hiệu thể hiện các thanh điệu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) và các âm không có trong bộ chữ La tinh, như ă, â, ê, ơ, ô, ư, đ… Năm 2008, một học giả hàng đầu Trung Quốc chê bai “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười.” [2]. Thực ra “mũ”,“giày” ấy là những sáng tạo tinh tế và hợp lý, tới mức người Việt xưa và nay đều không chấp nhận bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký hiệu đó.
Giả thử nước ta thời bấy giờ chưa có chữ Nôm, tức chỉ có chữ Nho, thì công việc của các giáo sĩ ấy sẽ khác hẳn: họ phải làm mới một loại chữ biểu âmcho tiếng Việt. Chữ Nho bản chất là chữ Hán, là loại chữ biểu ý, không biểu âm. Thực tế ở Trung Quốc cho thấy không thể dùng bất cứ bộ chữ cái nào để phiên âm chữ Hán thành một loại chữ biểu âm.
Chữ Nho có chút thuận lợi hơn ở chỗ từ Hán – Việt (từ Việt để gọi tên chữ Hán) có nhiều âm hơn chữ Hán, nhưng vẫn là quá ít so với tổng số âm của tiếng Việt [3]. Suy ra việc phiên âm chữ Nho thành chữ biểu âm cũng cần thời gian rất lâu, nếu không nói là bất khả thi. Giả thử bỏ qua chữ Nho, làm mới một loại chữ biểu âm cho tiếng Việt chưa có chữ viết, thì ở thế kỷ XVII, khi lý luận ngôn ngữ học chưa ra đời, đó sẽ là một công trình sáng tạo có quy mô cực lớn, đòi hỏi thời gian cả trăm năm.
Theo Phạm Thị Kiều Ly[4], các giáo sĩ kể trên dù rất ít người và làm việc phân tán nhưng đã tạo ra chữ Quốc ngữ trong thời gian ngắn kỷ lục: từ năm 1617 đến 1649. Họ đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái La tinh phù hợp để ghi âm tiếng Việt. Năm 1617, Giáo sĩ Francisco de Pina đến Đàng Trong, tới năm 1619 đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ La tinh. Năm 1631, Gaspar do Amaral đến Đàng Ngoài, chỉ sau một năm đã ghi âm rất tốt tiếng Việt và đến năm 1634 đã làm xong một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trong các cuộc gặp tại Macao (1930-1931), các giáo sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết của tiếng Việt. Năm 1649, Rhodes rời Việt Nam mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum). Năm 1651, Từ điển này được in và xuất bản tại Roma, đánh dấu chữ Quốc ngữ Việt Nam chính thức ra đời.
Trong điều kiện ở thế kỷ XVII, quá trình làm chữ Quốc ngữ diễn ra nhanh chóng như vậy cho thấy các giáo sĩ nói trên đã gặp thuận lợi lớn – đó là chữ Nôm, một loại chữ biểu âm đã tồn tại dăm trăm năm, ghi được hầu như toàn bộ âm tiếng Việt. Các ký hiệu thị giác của chữ Nôm thể hiện hệ thống ngữ âm cực kỳ phong phú của tiếng Việt, tạo nguồn tư liệu ngôn ngữ để dựa trên nền tảng đó, các giáo sĩ dùng chữ cái La tinh thay cho các ký tự hình vuông, đồng thời hiện đại hóa phần ngữ pháp (như áp dụng các dấu ngắt câu, ngắt đoạn, viết hoa, v.v…), qua đó biến chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm La tinh hóa, là loại chữ viết tiên tiến và thích hợp nhất với tiếng Việt. Có thể coi chữ Quốc ngữ là chữ Nôm được La tinh hóa và hiện đại hóa.
Tóm lại, cần khẳng định tổ tiên ta đã góp phần quan trọng làm ra chữ Quốc ngữ – thành quả kết hợp trí tuệ của dân tộc Việt với trí tuệ của nền văn minh Ki Tô giáo.
[3] Hán ngữ có khoảng 1300 âm tiết có xét thanh điệu, tiếng Việt có khoảng 18000; Tự điển Hán-Việt Thiều Chửu dùng 1839 từ Hán-Việt phiên âm 8295 chữ Hán.
Liên quan:
- TỌA ĐÀM KỶ NIỆM 100 NĂM CHỮ QUỐC NGỮ.
- 309. Tranh cãi về vinh danh vai trò, công trạng sáng lập chữ quốc ngữ và ‘công đoàn độc lập’ ở Việt Nam.
- 311. Cuộc phiêu lưu của Alexandre de Rhodes ở Viễn Đông.
- 330. Những chuyện nói thêm quanh tranh cãi về Alexandre de Rhodes.
- 337. Chữ quốc ngữ – những người đầu tiên khai sáng.
- 365. Triều đình Việt Nam bỏ thi chữ Hán năm 1919: Cơ hội để Quốc ngữ ”lên ngôi”?
- 790. Tại sao Việt Nam cải cách thành công chữ viết, Trung Quốc thì không?
1. Một bài viết khá dài của Nguyễn Đức Cung (không có bất cứ phân tích cụ thể nào, cơ bản là trích dẫn)
871. Chữ Nôm với đạo Công Giáo từ thế kỷ XVII – XX
07/07/2020
Nguyễn Đức Cung
Trong quá trình truyền bá đạo Công Giáo ở Việt Nam, các vị thừa sai ngoại quốc ngoài việc phải đối đầu với những chính sách bắt đạo, cấm cách của các vua chúa Việt Nam ở Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài, họ còn phải tận dụng nỗ lực tri thức để vượt qua rào cản của văn tự, ngôn ngữ nhằm tìm ra phương thức chuyển tải nội dung của Đức Tin đến với quần chúng trên quê hương chúng ta. Công việc này có nhiều khó khăn nhưng qua đó biểu lộ quyết tâm của các ngài trong nỗ lực truyền bá Tin Mừng theo lý tưởng đã lựa chọn.
Để vượt qua những trở ngại của việc truyền thông giao tiếp và trong khi chữ Quốc ngữ còn trong giai đoạn hình thành, các nhà truyền giáo đã biết vận dụng chữ Nôm là một thứ văn tự sử dụng chữ Hán để ghi lại cách đọc tiếng Việt mà người Việt Nam vẫn còn dùng khá phổ thông trong xã hội bên cạnh chữ Hán trong sinh hoạt văn chương và giao tiếp hằng ngày, qua sự cộng tác của một số thầy giảng am tường Nho học để ghi lại kinh bổn, giáo lý trong các công tác mục vụ.
1- Chữ Nôm, một thoáng nhìn lại
Chữ Nôm là văn tự ghi lại tiếng nói của người Việt Nam, theo sự biện giải đơn giản của một nhà nghiên cứu, có lẽ do chữ Nam đọc chệch đi, “chữ Nôm” có nghĩa là “chữ của người phương Nam, đối với “chữ Hán” của người phương Bắc, tức Trung Hoa.” (Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Khoa Cử Việt Nam, Thi Hương, tập thượng, An Tiêm xuất bản, Paris, 2002, tr. 126).
Trong lời giới thiệu cuốn Đại Tự Điển Chữ Nôm của cụ Vũ Văn Kính, một tác giả Công Giáo ngoài 80 tuổi ở trong nước, ông Mai Quốc Liên đã viết rằng “chữ Nôm là một thứ chữ ‘ghi âm’, nhưng ghi qua việc dùng chữ Hán tuy nhìn chung có tính qui luật, nhưng còn biết bao cái ngoài qui luật, biết bao cái biệt lệ, ngẫu nhiên, thay đổi qua từng thời, từng tác phẩm. Nó chưa hề được điển chế hóa, chưa hề được hoàn thiện đến cùng, mặc dù nó được hình thành khá lâu, ít nhất cũng đã có lịch sử mười thế kỷ.”(Nhà x.b. Văn Nghệ TP. HCM, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 1998, trang 6).
Theo Giáo sư Đoàn Khoách, “chữ Nôm là loại văn tự xây dựng từ chất liệu chữ Hán, do đó trước khi tìm hiểu cách cấu tạo chữ Nôm, chúng ta thử tìm hiểu sơ qua cách kết cấu chữ Hán mà người xưa gọi là lục thư 六書”. (Đoàn Khoách, Đặc san Đại Học Huế, Vài nét đại cương về chữ Nôm, 2017, trang 174). Giáo sư Đoàn Khoách cũng cho biết : “Trong việc cấu tạo chữ Nôm, ngoài việc dùng chữ nghĩa Hán âm Việt (gọi là Hán tự Việt độc hay Việt độc hoặc Hán-Việt) như 家庭 gia đình hay xã hội 社會 v.v…, trước đây người Việt thường chỉ mượn ba trong sáu cách của lục thư là Hội ý, Hình thanh, Giả tá. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển biến của lịch sử, do âm đọc chữ Hán của người Việt có sai khác, nên phần ngữ âm lịch sử Việt Nam cũng có một ảnh hưởng nhất định trong việc cấu tạo chữ Nôm.” (tr. 174-175).
Theo Trần Văn Giáp, trong quyển Lược khảo vấn đề chữ Nôm thì “chữ Nôm là một thứ chữ khối vuông của Việt Nam dùng để phiên âm tiếng Việt, mới xuất hiện trên đất Việt Nam từ cuối đời Hán Minh đế, dưới thời thống trị của Sĩ Nhiếp, thế kỷ thứ II sau công nguyên, do người Việt Nam tự sáng tạo ra.” (Trần Văn Giáp, Nhà xb Ngày Nay Publishing 2002, tr. 34). Ý kiến của Trần Văn Giáp là dựa vào quan điểm của sư Pháp Tính 法性 tác giả cuốn Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa 指南玉音解義 được khắc in vào năm Tân tị thứ 22 triều Lê Cảnh Hưng (1761). Bài tựa sách này có đoạn như sau: “Từ khi thánh nhân lập ra lối chữ có bộ phận để chỉ nghĩa, chỉ tên gọi cho chính xác, khiến cho người Trung Quốc dễ hiểu, còn các dân tộc khác thì hãy còn khó hiểu. Mãi đến thời Sĩ Vương sang đóng ở nước ta trong khoảng hơn 40 năm, ra sức giáo hóa, giải nghĩa bằng tiếng Nôm để thông hiểu từng đoạn, từng câu, họp lại thành thơ ca quốc ngữ, để ghi tên gọi, ghép vận làm thành sách Chỉ Nam Phẩm Vựng 指南品彙 chia ra thượng hạ 2 quyển…” (Đoàn Khoách, Vài nét đại cương về chữ Nôm, Đặc san Đại Học Huế, Kỷ niệm 60 năm Đại Học Huế (1957-2017), trang 177).
Dưới thời Tự Đức (1848-1883), Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn Xan 文多居士阮文餐 cũng đề cập niên đại thành lập chữ Nôm trong cuốn Đại Nam Quốc Ngữ 大南國語 tựa đề năm Tự Đức thứ 33 (1880) trong có đoạn (dịch): “Nước ta từ đời Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) đã đem dịch tiếng Nam bằng tiếng Bắc (Trung Quốc); trong số tiếng dịch ấy, có nhiều tên còn chưa rõ, như “thư cưu” (chim uyên ương” chẳng biết gọi là chim gì, “dương đào” (cây khế) chẳng biết gọi là cây gì…” (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr.178).
Những người chung ý kiến với Trần Văn Giáp có Lê Dư, Nguyễn Đổng Chi.
Các học giả P. Pelliot và L. Cadière cho rằng chữ Nôm được sáng chế từ cuối thế kỷ XIII, dẫn đoạn sau đây trong sách Hải đông chí lược 海東志畧 của Ngô Thời Sĩ 吳 時 仕 : “Ngã quốc văn học đa dụng quốc ngữ tự Thuyên thủy” (văn học nước ta dùng nhiều quốc ngữ bắt đầu từ ông Thuyên); lại nêu những danh sĩ đồng thời với Nguyễn Thuyên như Nguyễn Sĩ Cố có tập Quốc Âm thi phú, Chu Văn An có Quốc Ngữ thi tập… để minh chứng những hoạt động văn nghệ nói trên nằm trong phong trào lưu hành thi phú bằng tục ngữ trong thời đại nhà Trần. Từ đó hai ông suy luận rằng chữ Nôm là thứ chữ để biên ký tục ngữ Việt Nam, có lẽ được sang chế từ cuối thế kỷ thứ XIII (trong đời nhà Trần) là một thời kỳ văn học tục ngữ (quốc âm thi) rất phát đạt tại Việt Nam. (Đoàn Khoách, bài đã dẫn, tr. 178). Chữ tục ngữ nói ở đây xin hiểu là tiếng Việt sử dụng hằng ngày. Người ta cũng tương truyền câu chuyện Nguyễn Thuyên, (bắt chước Hàn Dũ năm 819) làm bài thi đuổi cá sấu xuất hiện ở sông Phú-lương (Nhị Hà), sau đó được vua Trần Nhân Tông đổi tên Hàn Thuyên, nhưng theo Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I, bài thơ đuổi cá sấu in trong Tứ Dân Văn Uyển hồi đầu thế kỷ XX nói là của Hàn Thuyên và được một số sách báo in lại, đúng ra là của Phó bảng Nguyễn Can Mộng ngụy tạo để đùa chơi, tiếc rằng lời cải chính in trên một số báo sau đó ít người được đọc nên nhiều người vẫn tưởng là của Hàn Thuyên thực. Song nếu đọc kỹ sẽ thấy toàn bài không có lấy một từ ngữ cổ, thơ cũng không viết theo thể Hàn luật, khó có thể tin là của Hàn Thuyên.” (Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Sđd, tr. 128).
Theo học giả Nguyễn Văn Tố, chữ Nôm được sử dụng vào thế kỷ VIII là vì Phùng Hưng khởi nghĩa đánh diệt Cao Chính Bình năm 791, chiếm phủ lỵ, được dân chúng tôn là “Bố Cái đại vương” 布蓋大王. Về ý nghĩa chữ Bố Cái, sách Cương Mục chua rằng: “Cổ tục hiệu phụ viết Bố, mẫu viết Cái” (theo cổ tục nước ta gọi cha là Bố, mẹ là Cái). Họ Nguyễn lấy đoạn sử ấy như một thực lệ chữ Nôm đã được sử dụng vào thế kỷ VIII và đặt niên đại thượng hạn (terminus ad quem) của chữ Nôm vào cuối thế kỷ thứ VIII. Đào Duy Anh, trong cuốn Chữ Nôm, nguồn gốc-cấu tạo-diễn biến đã phản bác ý kiến của Nguyễn Văn Tố khi cho rằng “ Việt sử lược là sách tóm tắt bộ Sử Ký của Lê Văn Hưu không thấy chép hiệu Bố Cái Đại Vương, mà bia đề đền thờ Phùng Hưng ở xã Cam lâm, huyện Phúc thọ, tỉnh Hà tây dựng năm Quang Thái thứ 3, tức năm 1390 đời Trần Thuận-tôn cũng không thấy chép hiệu ấy. Mãi đến sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ở thời Lê sơ mới thấy chép hiệu Bố cái đại vương. Hiệu nước thời nhà Đinh là Đại cồ việt cũng đến bấy giờ mới thấy chép. Như thế thì cũng chưa có thể tin chắc rằng những chữ nôm bố và cái đã có từ thế kỷ thứ VIII.” (Đào Duy Anh, Chữ Nôm, nguồn gốc – cấu tạo – diễn biến, Nhà xb. Khoa học Xã hội, 1975, trang 42).
Cụ Sở Cuồng Lê Dư cho rằng quốc hiệu Việt Nam ở hai triều Đinh và Tiền Lê là Đại Cồ Việt 大瞿越 . Đó là một thí dụ chữ Nôm được sử dụng trong thế kỷ X (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr. 179).
Theo ý kiến của Giáo sư Chen Ching Ho 陳京和 (Trần Kinh Hòa) với chuyên môn về lịch sử các nước Đông Nam Á, từng đảm trách chức vụ Giáo sư môn Sử học tại các đại học: Đại học Keio, Tokyo, Japan, National University Taipei, Taiwan, Soka University Hachioji, Tokyo, Japan, Korea University, Seoul, Korea, Chinese University of Hong Kong, Southern Illinois University, Carbondale, Illinois, USA, và các đại học Saigon, Dalat, Huế … chữ Nôm được sáng chế sau khi Việt độc thành lập, bắt đầu từ triều đại nhà Lý. (Chingho A. Chen, “Hình thái và niên đại sáng chế chữ Nôm”, Đoàn Khoách dịch, Tạp chí Đại Học, số 35-36, Viện Đại Học Huế, tháng 10-12 năm 1963).
Khởi nguyên của chữ Nôm theo Giáo sư Chen, phải ở vào giai đoạn sáng chế chữ hình thanh mới là hợp lý và thích đáng. Muốn giải quyết niên đại sáng chế chữ Nôm, theo Giáo sư, phải kiểm thảo hai vấn đề: niên đại hoàn bị của “khải thể” chữ Hán và niên đại Việt ngữ áp dụng Hán ngữ làm ngữ vựng.
Vấn đề thứ nhất, theo kết quả nghiên cứu của Văn Hựu, một học giả Trung Hoa (tác giả bài “Luận về tổ chức của chữ Nôm” đăng trong Yên kinh Học báo, kỳ 14, bài này đã được nhà học giả Nhật-bản Sơn-bảng Đại-lang giới thiệu trong Đông-dương Học báo quyển 22, số 2, năm 1935. Chú thêm của NĐC) thì chữ Nôm dứt khoát không thể xuất hiện vào thời cổ đại. Vấn đề thứ hai, theo kết quả nghiên cứu ngữ âm học lịch sử tiếng Việt của H. Maspéro lại cho biết gần một nửa ngữ vựng trong tiếng Việt là những tiếng mượn của Hán ngữ. Tuy nhiên đại đa số Hán ngữ lại truyền nhập vào Việt ngữ ở một thời đại tương đối muộn và phải qua trung gian của Việt độc (âm Hán-Việt), nghĩa là sau khi có cuộc phân ly chính trị giữa Trung Quốc và Việt Nam, mới được thành lập. Có điều, hai vương triều độc lập đầu tiên của Việt Nam là nhà Đinh (968-980) và nhà Tiền Lê (980-1009) đều bị nội tranh quá nhiều và mau chóng bị lật đổ, nên phải chờ đến nhà Lý (1010-1225) mới xuất hiện một vương triều tương đối lâu bền và ổn định. Sự chỉnh đốn về chế độ văn vật, sự xuất hiện cuộc vận động văn hóa, sự thiết lập chế độ khoa cử đều bắt đầu từ triều đại nhà Lý. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng khởi bút từ triều Lý. Bởi thế Giáo sư Chen suy luận rằng Việt độc đại khái được thành lập trong thời đại nhà Lý.
Cũng nên thấy thêm rằng hiện nay phần nhiều tiếng mượn của Hán ngữ trong tự vựng Việt ngữ đều thoát thai từ Việt độc. Hiện tượng ấy chứng tỏ rằng những tiếng mượn ấy được truyền vào tự vựng Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam độc lập. Điều đáng chú ý nữa là trong quy chế chữ Nôm, các chữ Hán giả tá hoặc hầu hết thanh phù của chữ Nôm đều căn cứ vào Việt độc cả. Do đó mà Giáo sư Chen đoán định niên đại thượng hạn của chữ Nôm là bắt đầu từ triều đại nhà Lý.” (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr. 181).
Có lẽ ai cũng biết sự khó khăn của chữ Nôm khi muốn hiểu nó thì phải học chữ Hán trước, tuy vậy đến người Hoa cũng không thể viết được hoặc đọc được chữ Nôm. Lẽ dĩ nhiên, biết được chữ Nôm sẽ giúp cho việc hiểu biết thêm trong phạm trù nghiên cứu sử học hay văn học, tôn giáo hoặc các ngành ngôn ngữ học khác.
Trong cuốn “Lược khảo vấn đề chữ Nôm”, Trần Văn Giáp (1902-1973) đã viết: “Chính Ngô Thời Nhiệm, thế kỷ thứ XVIII, đã phải nói trong bài tựa sách tự điển của ông: “…故我國字較難於中國 Cố ngã quốc tự hiệu nan ư Trung Quốc (Cho nên chữ nước ta so ra khó hơn chữ Trung quốc…” . Đó là những lý do chính khiến cho chữ Nôm không còn có thể thông dụng dễ dàng được. Nhưng, mặc dầu thế, do sự tranh đấu không ngừng của nhân dân, chữ Nôm vẫn đã được sử dụng. Nó đã đồng thời tự phát với sự tiến triển của ngữ ngôn dân tộc và văn học cổ điển Việt Nam. Cho nên, chúng ta không thể không nghiên cứu chữ Nôm một cách sâu rộng để thu tàng lấy vốn cổ quí báu của ta về mọi lãnh vực.” (Trần Văn Giáp, Sđd, tr. 88)
Trong khi đó Giáo sư Đoàn Khoách lại đã viết: “Nhưng cái ưu điểm lớn nhất của chữ Nôm là ghi âm được tiếng Việt một cách tương đối trung thực, trong khi chữ quốc ngữ ngày nay chưa xuất hiện. Nhờ thế mà ngày nay người Việt biết được phần nào tình cảm và suy tư của tổ tiên mình. Ngoài ra chữ Nôm có thể phân biệt được tiếng Việt đồng âm dị nghĩa mà thường rất khó phân biệt, ví dụ may rủi với may vá, bụng dạ với vâng dạ, đầy đủ với đu đủ, vợ chồng với chồng chất, v.v… Ưu điểm này thì chữ quốc ngữ hiện nay chưa bì được… Lịch sử chữ Nôm ở Việt Nam đã có gần chín, mười thế kỷ nay, các loại sử liệu bằng chữ Nôm không những có giá trị về phương diện sử học, mà còn có giá trị về nhiều phương diện khác nữa như ngôn ngữ, phong tục, xã hội, kinh tế, triết học, văn học v.v… mà các học giả đời nay cần sưu tầm, khai thác. (Đoàn Khoách, bđd, tr. 184)
Như vậy, chữ Nôm là nguồn ký thác tình cảm và suy tư của tổ tiên qua trường kỳ lịch sử mà con cháu là chúng ta cần có bổn phận tìm hiểu và quý trọng bảo lưu. Theo cuốn sách của Đào Duy Anh được nhắc ở trên, hiện nay tại Thư viện Khoa học Xã hội Hà Nội còn tàng trữ khoảng 1186 cuốn sách chữ Nôm, đó là một kho tàng văn hóa cần được sử dụng khai thác.
Tiếp đây là ý kiến của một người ngoại quốc nhưng cuộc đời đã cống hiến nhiều cho sự nghiệp văn hóa dân tộc Việt Nam, Giáo sư Chen Ching Ho cũng đã viết rằng: “Sở dĩ chúng tôi đưa vấn đề chữ Nôm ra thảo luận, là vì chúng tôi muốn nhấn mạnh đến các giá trị các loại sử liệu bằng chữ Nôm về phương diện sử học. Đưa ra một vài nhận thức về nguyên lai và cấu tạo của chữ Nôm, là cốt để tiện việc đọc và giải thích văn Nôm, vì văn Nôm là một di sản văn hóa của Việt Nam.” (Đoàn Khoách, bđd, tr. 183).
Luận điểm của Giáo sư Chen Ching Ho ở trên khiến chúng tôi nhớ lại một câu vè của người dân Bình Trị Thiên về các cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài về việc “đày vua” và “đào mả”. Các câu vè đó thường viết: “Phế (đày) vua không Khả, đào mả không Bài”. Ý muốn nói cụ Ngô Đình Khả phản đối việc người Pháp phế vua Thành Thái, và cụ Nguyễn Hữu Bài phản đối việc khâm sứ Mahé đào mả vua Tự Đức. Trong cuốn Đại Nam Thực Lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, do Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn, câu vè đó được in lại bằng chữ Nôm và chúng tôi đọc thấy là: “Bỏ vua không Khả, bới mả không Bài” (Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nhà xb. Văn hóa – Văn nghệ, 2012, tr. 779). Chữ bỏ viết chữ bổ 補 đọc bỏ, chữ bới (phương ngữ Bình Trị Thiên thường dùng chữ bới thay vì chữ đào) viết chữ bãi 擺 đọc Nôm là bới. Thí dụ vừa nói đây cũng có cơ duyên giúp giới thích đọc sử (nếu biết chữ Nôm) đính chính được câu nói theo đúng nguyên văn của nó.
Trong một bài báo có tên Những lời thề của Lê-Lợi (văn Nôm đầu thế kỉ 15) của cụ Hoàng Xuân Hãn, đăng trên Tạp chí Sử Địa, số 1 của Nhóm Giáo sư, Sinh viên Đại Học Sư Phạm (Nguyễn Nhã) Sài gòn, 1966, tác giả cho biết “nếu quả rằng các bài nôm nầy có tự đời Lê Lợi, và không bị sao lại thất-chân, thì đây là hiện vật độc nhất của Việt-ngữ trước nay già 550 năm.” (trang 4). Đây là một bài nghiên cứu có giá trị với sự phân tích cẩn trọng của một học giả uyên bác, và cũng là một cống hiến rất quý báu cho giới nghiên cứu văn sử học Việt Nam về chữ Nôm và văn Nôm.
2 – Chữ Nôm với đạo Công Giáo trong giai đoạn thế kỷ XVII-XX
Theo dõi quá trình xuất hiện của chữ Nôm trong lịch sử văn học nước ta như ở trên, chúng ta cũng không lạ gì khi thấy các giáo sĩ người nước ngoài lần đầu tiên khi đến nước ta truyền đạo đã nhìn thấy chữ Nôm như là một lợi khí có sẵn cho các dự tính truyền giáo của mình.
Có một cuốn giáo lý tiên khởi viết bằng chữ Nôm mà nay đã mất, được đề cập tới trong bức thư đề ngày 17-12-1621 của Thừa sai Gaspar Luis ghi lại như sau:
“Cuốn giáo lý mà người ta đã biên soạn bằng tiếng Đàng Trong đã giúp ích nhiều lắm bởi vì không những trẻ em học thuộc lòng cuốn giáo lý đó, mà người lớn cũng học. Cho tới đây các giáo hữu chỉ dùng tràng hạt để đeo vào cổ cho người ta thấy mình là người có đạo. Nay họ dùng tràng hạt để đọc kinh…” (Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Tập I Thời kỳ khai phá và hình thành [Từ khởi thủy cho tới cuối thế kỷ XVIII], Nhà x.b. Tôn Giáo, Hà Nội, 2008, trang 42.)
Nhận thức sự quan trọng trong việc dạy cho các bổn đạo tân tòng học giáo lý cho nên “các thừa sai Dòng Tên, vì thế, chỉ mấy năm sau khi tới Đàng Trong, đã cho soạn thảo ngay một cuốn giáo lý bằng tiếng Việt ‘không những cho trẻ em học thuộc lòng mà còn cho người lớn học nữa. Trong cuốn giáo lý này không những chỉ có những điều cần biết về đạo, mà còn có những kinh để đọc. Khi nói về lợi ích của “Cuốn giáo lý bằng tiếng Đàng Trong” này, trong báo cáo ngày 17/12/1621, Linh mục Gaspar Luis viết: “Cho tới nay các giáo hữu trong khu vực này chỉ dùng tràng hạt đeo cổ để chứng tỏ mình là người Công Giáo; nay người ta dùng để đọc (nhờ các kinh trong cuốn sách nói trên.”
Nói thêm về cuốn giáo lý này, tác giả Trương Bá Cần viết: “Cuốn giáo lý nói trên đây chắc chắn được viết bằng chữ Nôm là chữ phổ biến lúc bấy giờ. Vào thời điểm (trước 1621) này, không biết là chữ Quốc ngữ đã hình thành đủ để viết một cuốn giáo lý hay chưa; nếu có thì cũng chỉ chép một ít bản cho các thừa sai nước ngoài sử dụng mà thôi. Cho tới nay, chưa ai tìm thấy dấu vết của những cuốn giáo lý đó. Một cuốn giáo lý mà trẻ em có thể học thuộc lòng được chắc chắn không phải là đồ sộ và đầy đủ như cuốn giáo lý của Linh mục Rhodes xuất bản ở Rôma năm 1651.” (Trương Bá Cần, Sách đã dẫn, trang 185).
Như vậy cuốn sách giáo lý bằng chữ Nôm này xuất hiện năm 1621 do công sức của Linh Mục Buzomi và Francisco de Pina đã tới Hội an năm 1616, góp công soạn thảo cùng với các vị khác cho đến năm 1621, đặc biệt là công của một vài người trong giới thượng lưu đã gia nhập đạo và những vị này là những hạt nhân sơ khởi cho tiến trình hình thành chế độ “thầy giảng” trong giai đoạn về sau.
Nhắc đến cuốn giáo lý chữ Nôm này, Linh Mục Đỗ Quang Chính trong bài viết “Lòng nhiệt thành của bổn đạo Việt Nam” cho biết tháng 4-1627, cha Đắc Lộ giảng đạo ở vùng An Vực và Vân Nô, tả và hữu ngạn sông Mã, Thanh Hóa, rửa tội cho 200 người tân tòng trong số có một vị sãi 85 tuổi thông thạo chữ Hán, giỏi Nôm, rất đạo đức và rộng rãi. Ngài thường xuyên nhờ Cụ chép kinh sách và Cha Đỗ Quang Chính cho biết có lẽ đây là sách kinh bằng chữ Nôm do cha F.de Pina soạn ở Hội An khoảng 1620-1625? (Dũng Lạc. Net, 12/31/2006).
Nói chung, đối với những người thuộc tầng lớp quý tộc Việt Nam như thuộc gia đình vua chúa, quan chức đều là những người có trình độ học thức cao nên việc sử dụng chữ Nôm để trình bày tư tưởng, diễn đạt tâm tình không phải là điều khó khăn hay trở ngại gì cả. Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên cũng kể lại một câu chuyện liên quan đến Cha Đắc Lộ như sau: “Vào năm 1627, khi ngài vào đất Bắc được bốn tháng, có một bà thuộc hoàng tộc, “chị chúa Trịnh Tráng” gia nhập Ki-tô-giáo, giáo sĩ Đắc Lộ đặt tên là Catarina. Bà này thông thạo văn chương thi phú. Bởi đó bà đã viết một tập thơ, kể lại lịch sử cứu rỗi, từ tạo thiên lập địa cho tới Chúa thăng-thiên (Lịch sử miền Bắc, tr. 164) và còn thêm một đoạn vịnh cuộc truyền giáo tại Việt Nam…” (Nguyễn Khắc Xuyên, Quan điểm thần học trong “Phép giảng tám ngày” của Giáo sĩ Đắc-lộ, Tạp chíĐại Học, Số 1, Năm thứ tư, Tháng 2 – 1961, tr. 55). Đây có lẽ là tập thơ Nôm đầu tiên mang tính tôn giáo do một nữ sĩ viết. Tiếc thay tên tuổi người nữ sĩ này không được để lại trong kho tàng văn học Công Giáo Việt Nam.
Trong cuốn sách Người chứng thứ nhất, nhà văn Phạm Đình Khiêm đã có viết “bà Công chúa Ca-ta-ri-na, em chúa Trịnh Tráng, là một nữ thi sĩ, soạn quyển tiểu sử Chúa Giê-su bằng thơ nôm” (Rhodes, Histoire du royaume de Tonkin, tr. 26.) (Phạm Đình Khiêm, Tinh Việt Văn Đoàn, 1959, trang 76).
Giáo sư Trần Văn Toàn đã viết về các linh mục thừa sai như sau: “Các giáo sĩ Tây phương thì ngay thế kỷ XVI đã học tiếng Việt để nói với người dân. Girolamo Maiorica đã cộng tác với người Việt mới theo đạo để soạn sách vở bằng chữ Nôm cho người mình đọc.” (Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà x.b. Tôn Giáo, 2008, trang 28).
Nói đến Girolamo Maiorica, Linh mục Thanh Lãng cho biết tuy không viết sách bằng chữ quốc ngữ nhưng ông đã đứng ra biên tập một tủ sách tôn giáo gồm hơn bốn chục cuốn viết bằng chữ Nôm thời gian từ 1631-1645. Girolamo Maiorica là người Ý sinh tại Napoli, gia nhập Dòng Tên năm 1605, đến năm 1619 được sai sang Goa để truyền đạo và ở đó cho đến cuối năm 1623, ông rời Goa qua Macao, rồi đến Việt Nam, có lẽ ở tại hải cảng Hội an và ở đó 5 năm. Năm 1629 ông bị trục xuất nhưng đã rất thông thạo tiếng Việt Nam. Năm 1631, ông lại theo một tàu Bồ đào nha mà vào Bắc Kỳ và sống ở Bắc Kỳ khá lâu. G. Schurhammer cho biết Maiorica chết ngày 27.1.1656. Trong thời gian theo học ở nước ngoài, LM Thanh Lãng đã chụp ảnh được 12 tác phẩm do công Maiorica biên tập tại Thư viện Quốc gia Pháp. (Thanh Lãng, Những chặng đường của chữ viết quốc ngữ, Tạp chí Đại Học, số 1, Tháng 2, 1961, trang 10.)
Các sách của Majorica thì một số còn được lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Paris với 14 nhan đề. Theo tài liệu của Dòng Tên thì Majorica đã biên soạn 48 cuốn sách đủ loại. Nhưng những cuốn sách này là do Majorica biên soạn và viết thẳng chữ Nôm hay ông đã đọc cho các giáo hữu thông Nho và giỏi Nôm chép lại? (Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Tập I Thời kỳ khai phá và hình thành [Từ khởi thủy cho tới cuối thế kỷ XVIII], Nhà x.b. Tôn Giáo Hà Nội, 2008, trang 1860). Tác giả Trương Bá Cần cho biết các sách chữ Nôm của nhóm Majorica, tại Thư viện quốc gia Pháp, đã được Linh mục Nguyễn Hưng lần lượt cho nhân bản kèm theo bản đọc chữ quốc ngữ trong tủ sách “lưu hành nội bộ”. (Trương Bá Cần, Sách đã dẫn, trang 185).
Trong tiểu mục “Chữ Nôm là gì”, tác giả Thái Gia Kỳ, trong cuốn sách “Chữ Hán, Tiếng Hán Việt và sự vận dụng tiếng Hán Việt trong tiếng Việt” (Philadelphia, 2018) của ông, có đề cập đến một dòng về chữ Nôm sử dụng trong Công Giáo Việt Nam: “Ngay cả đạo Công giáo, cũng đã có tác phẩm Sấm truyền ca của Ly Y Đoan viết năm 1670, dùng trong việc truyền giáo.” (trang 122). Đoạn văn này cho một ý niệm rất khái quát thiết tưởng cần phải triển khai thêm.
Nội dung của câu văn trên đây mang lại cho chúng tôi một số ý niệm đó là ba chữ “sấm truyền ca” và tên Ly Y Đoan. Người công giáo Việt Nam cách nay cả trăm năm thường hay dùng cụm từ “Sấm truyền mới” và “Sấm truyền cũ” để chỉ hai cuốn sách Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament) cũng gọi là sách Phúc Âm (hay bây giờ là Tin Mừng). (Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, tr. 147). Còn tên Ly Y Đoan vốn là tên Lữ-Y Đoan mà ông Thái Gia Kỳ viết sai, là Louis Đoán, một thầy giảng cao tuổi đã được Đức Giám Mục Lambert ở Đàng Trong phong chức linh mục năm 1676. (Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Tập I, Nhà xb.Tôn Giáo Hà Nội 2008, tr. 233). Giới nghiên cứu văn học Công Giáo trong nước đã nói rõ về Lữ Y Đoan trong một cuốn sách có tên Về sách báo của tác giả Công Giáo (Thế Kỷ XVII – XIX) do Trường Đại Học Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, Khoa Ngữ Văn, 1993.
Trong bài “Đôi lời giới thiệu” Về một số sách cũ do người Công Giáo viết ra từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, Giáo Sư Nguyễn Văn Trung viết: “Sấm truyền ca” của Thầy cả Lữ Y Đoan (1670) nguyên tác là bản nôm hiện nay thất lạc, chỉ còn bản quốc ngữ. Theo chúng tôi đây là một tác phẩm có ý nghĩa lớn vì tác phẩm phản ánh một nỗ lực Việt Nam hóa (Tam giáo, võ thuật Việt Nam, văn hóa dân gian, v.v…) để diễn tả Kinh Thánh. Có thể bản văn đã được sửa đổi qua các thời đại nên bản hiện có làm người đọc nghĩ đến những truyện nôm nổi tiếng thế kỷ XVIII, XIX.” (trang 3).
Đức Giám Mục Lambert đã lần lượt phong chức : -năm 1668 cho hai linh mục Giuse Trang và Luca Bền; -năm 1672 cho linh mục Manuel Bổn; – năm 1676 cho Linh mục Louis Đoán hay Lữ Y Đoan. Bốn linh mục người Việt này nguyên là thầy giảng của các thừa sai Dòng Tên.
Trong lãnh vực tôn giáo, chữ Nôm được các giáo sĩ ngoại quốc khi đến nước ta truyền đạo, nỗ lực học và sử dụng để biên tập các sách giáo lý, các kinh bổn đọc trong thánh đường và trong gia đình, họ đạo hằng ngày. Chữ Nôm của đạo Công Giáo có một lịch sử dài lâu từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, với rất nhiều công trình nghiên cứu, biên tập kinh sách, tư liệu còn để lại hàng trăm cuốn trong thư viện của Hội Thừa Sai Paris ở Pháp (Mission Étrangère de Paris), trong số đó có khoảng 20 cuốn sách viết bằng chữ Nôm do Giáo sĩ Girolamo Maiorica, người Ý, chủ trương biên tập từ đầu thế kỷ XVII (Tạp chí Đại Học, số 1, tháng 2/1961, tr. 5; Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xb. Tôn giáo, 2008, tr. 188). Có tư liệu nói số sách này nhiều hơn (khoảng 48 cuốn) mà một số còn lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Paris (Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Nhà xb. Tôn Giáo Hà Nội, 2004, tr. 185).
Ngày nay người ta cũng biết đến tên tuổi rất nhiều các vị giám mục, linh mục ngoại quốc hay bản xứ, các thầy giảng, các vị túc nho Công giáo đã để lại rất nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm, ví dụ Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) viết Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ, bản chữ Nôm được in tại Quảng Đông năm 1774, Giám Mục Taberd biên soạn cuốn Tự vị Hán-Việt-Latinh hơn 900 trang (tàng trữ tại văn khố Hội Thừa Sai Nước Ngoài tại Paris) có sự cộng tác của Thánh Linh mục Phan Văn Minh. Trong cuốn tự vị này, theo Giáo sư Trần Văn Toàn, nếu bỏ phần tiếng Latinh ra, thì cũng còn quan trọng vì vừa dùng chữ quốc ngữ vừa dùng chữ Nôm. Chữ quốc ngữ thì ghi được một cách khá chính xác cách phát âm, còn chữ Nôm thì tuy không ghi được cách phát âm, nhưng cũng là kết tinh của mấy thế kỷ ông cha chúng ta cố gắng để tự lập về văn hóa đối với người Hán tộc. (Trần Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 190).
Trong quyển Hoa trái ở Phương Đông, Alexandre de Rhodes (1593-1660) và công cuộc truyền giáo thời kỳ đầu của Dòng Tên tại Việt Nam viết bằng tiếng Đức, linh mục Dòng Tên Klaus Schatz viết rằng: “Chữ Nôm phát triển kể từ thế kỷ XV, sau khi Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi sự thuộc Trung Hoa. Khởi đầu các nhà truyền giáo cũng dùng chữ Nôm cụ thể vào năm 1620 ở Hội An, để soạn sách giáo lý, nhưng sách này đã không được in và đã bị thất lạc.”(Phạm Hồng Lam dịch, Nhà xb.Đông Phương, 2015, tr. 210). Cuốn sách giáo lý này có lẽ là công trình của cha Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha, khi làm việc ở giáo điểm Dinh Chiêm (Quảng Nam).
Theo Linh mục Nguyễn Hồng trong quyển Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, “Chúng ta còn phải kể nhất là những cuốn sách bằng tiếng Việt mà các cha viết cho giáo dân và cho các thày giảng. Đó là những cuốn sách đầu tiên trong tủ sách văn chương công giáo Việt Nam. Ngoài cuốn sách bổn của cha Đắc Lộ viết bằng chữ quốc ngữ, in ở Roma, còn các cuốn khác bằng chữ nôm, thứ chữ thịnh hành của thời đó. Hoặc đầu tiên các thừa sai thảo bằng chữ quốc ngữ để các thày giảng viết ra chữ nôm, hoặc đọc cho các thày viết, mà ta có thể đoán đó là trường hợp cha Buzomi và De Pina cho ra đời cuốn sách về đạo lý công giáo đầu tiên bằng tiếng Việt ở Nước Mặn, Qui Nhơn, hay trường hợp cha Đắc Lộ viết cuốn Ngắm 15 sự thương khó Đức Chúa Giêsu… Hoặc do chính thừa sai viết bằng chữ nôm, như những cuốn của cha Majorica, nhưng chắc chắn cha cũng được sự cộng tác của các thày giảng.” (Quyển I, Nhà xb. Hiện Tại, 1959, tr. 294).
Theo giáo sư Trần Văn Toàn “chữ Nôm khó học thì họ (các giáo sĩ Âu châu) chịu khó học, chứ không dám coi thường, càng không dám cho là mách qué, như các nho sĩ chỉ biết chịu phục có người Hoa. Họ thực biết tôn trọng vốn liếng chữ Nôm của ta, cũng như họ đề cao kho tàng Hòa văn (chữ viết của người Nhật). Khi viết sách vở cho người Việt về những điều rất tôn nghiêm như tôn giáo, họ đã dùng ngay chữ Nôm (như trong các tác phẩm của Girolama Maiorica, và người công giáo tiếp tục viết, in và dùng sách chữ Nôm cho đến giữa thế kỷ XX.” (Trần Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 204).
Trong quá trình sử dụng chữ Nôm, một số danh từ trong công giáo được chuyển âm từ tiếng La tinh hay Bồ đào nha, thí dụ “câu-rút” từ chữ crux nay được chuyển thành thánh giá, chữ evangelium thành chữ phúc-âm, chữ Spiritus Sanctus đổi ra thánh thần do sự đóng góp của Cố linh mục Nguyễn Văn Thích ở Huế (Đoàn Khoách biên tập, Sảng Đình Thi Tập của J.M. THÍCH, Thanh Tịnh xuất bản, California, 2001, trang 335), hoặc các chữ bispo (tiếng Bồ) ra chữ vít-vồ (rồi giám mục) chữ Nôm thì dùng hai chữ Hán “viết vô” 曰無 nhưng phải đọc “vít vồ”, hoặc “pha-pha” (vị giáo tông ở Rôma, cũng gọi là Giáo hoàng, La-tinh và Bồ gọi là “papa”.
Trong những năm 40, 50 của thế kỷ trước, giáo xứ Tam Tòa của tôi ở Đồng Hới, Quảng Bình, các kinh sách đọc trong các dịp lễ lớn như Kinh Lễ Đèn trong Tuần Thánh, Kinh Đàng Thánh Giá v.v… đều viết bằng chữ Nôm do các cụ chức việc lớn tuổi trong làng phụ trách phần “than, gẫm”. Dĩ nhiên các cụ cũng biết đọc chữ quốc ngữ, nhưng quen với kinh sách viết bằng chữ Nôm nhiều hơn.
Cụ Trần Văn Giáp trong phần kết luận của cuốn Lược khảo vấn đề chữ Nôm, có đề nghị làm một cuốn tự điển chữ Nôm nhưng theo cụ thì phải loại trừ những phần chữ Nôm chua sẵn trong các tự điển Quốc ngữ La-tinh như của Génibrel, của Tabert hay của Paulus Huỳnh Tịnh Của vì chính đấy là chữ Nôm của các giáo sĩ Tây phương; đấy không phải là “những chữ Nôm của nhân dân đã dùng”… còn “những chữ Nôm của nhân dân ta lựa lọc mà viết ra thì thực đúng quá”. (Trần Văn Giáp, Sách đã dẫn, trang 89).
Để trả lời quan điểm đầy tính chất kỳ thị tôn giáo dù rằng trong lãnh vực văn chương của cụ Trần Văn Giáp, Giáo sư Trần Văn Toàn viết rằng: “Lại có học giả cho rằng chữ Nôm do người công giáo viết không phải là chữ Nôm đích thực. Xin thưa hai điều: một là phải có cơ quan nào, như Hàn lâm viện hay là do nhà cầm quyền chính thức ấn định trước đã thì mới nói được cái gì là đích thực; hai là: trừ một số chữ mới ra thì người công giáo dùng chữ Nôm như người đương thời, cho nên nếu phải loại trừ tất cả những chữ do họ dùng, thì cũng phải loại hầu hết thi văn chữ Nôm trong văn chương Việt Nam.” (Trần Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 207).
Chữ Nôm trong các kinh sách của người Công Giáo đều là do các vị thừa sai có căn bản về các kiến thức ngôn ngữ học, cùng sự cộng tác của các vị thầy giảng người Việt cũng vốn là những bậc túc nho giỏi chữ Hán, thông thạo chữ Nôm (họ cũng là thuộc hàng ngũ “nhân dân” một trăm phần trăm đấy chứ có thuộc dòng máu lai nào đâu), thì sao gọi “chữ nôm do người Công Giáo viết không phải là chữ nôm đích thực”? Chính các ông nhà nho trong phong trào Văn Thân, khi viết bài hịch “bình Tây sát Tả”, chính các tác giả bài hịch đó là tú tài Trần Tấn, Đặng Như Mai ở Nghệ Tĩnh vốn là những người khinh chữ nôm, coi chữ nôm là “nôm na mách qué” ngay cả đến việc nghiên cứu, tìm hiểu về một tôn giáo họ cũng chưa từng nghĩ tới, không hề để tâm, cho nên trong bài hịch Văn Thân của họ mới có những câu như: “Cầu nguyện thì xưng Trời, xưng Thánh, thật là đui điếc ngu si; Giảng rao thì vô phụ vô quân, đúng là loài dê loài chó.” “Vô phụ”, “vô quân” theo Trần Tấn, Đặng Như Mai đó là người Công Giáo không hề biết đến vua, đến cha, nhưng đó thật là sai lầm vì người Công Giáo cách đây bốn thế kỷ cho đến bây giờ vẫn luôn tôn trọng nhà cầm quyền ngoài xã hội và thờ kính cha mẹ trong vòng đạo hiếu gia đình. (Trần Văn Toàn, Sđd, tr. 102, Một vài nhận xét về thuyết ‘tam phụ”).
Quá trình hình thành của chữ Nôm được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố một là được viết theo thói quen, hoặc là trong khung cảnh của địa phương và dĩ nhiên trong lãnh vực tôn giáo chữ Nôm cũng được hình thành hay kiện toàn do ý thức tâm linh và giáo lý nữa.
Giáo Sư Trần Văn Toàn, trong cuốn Đạo trung tùy bút đã được dẫn chứng nói trên đã đưa ra một thí dụ thật hay. Ông viết: “Trong sách Thánh giáo yếu lý quốc ngữ, do Đức Cha Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine) soạn, thì bản Nôm viết chữ rỗi bằng cách chắp nối chữ lỗi磊 (ba chữ thạch) với bộ khẩu 口 ở bên tả. Nhưng điều làm cho tôi rất lấy làm thán phục là trong cuốn sách nôm Phép Dòng chị em mến câu rút Đức Chúa Giêsu, do Đức Cha Phước (Paul Puginier) cho khắc in năm 1869, thì chữ rỗi được viết bằng cách ghép chữ lỗi 磊 ở bên hữu để chỉ cách đọc, và chữ sinh 生 ở bên tả để chỉ nghĩa là sống. Nếu cách viết dùng bộ khẩu không có gì là thần tình, thì cách viết dùng chữ sinh bên tả mới thật là đúng tinh thần đạo Chúa Cứu Thế. Không biết vị cao minh nào đã có sáng kiến dùng chữ sinh thay chữ khẩu như thế, vừa hợp với giáo lý, vừa đúng với thần học: được rỗi cũng có nghĩa là được sống! Cùng một chữ rỗi mà vừa nói lên được cái ước vọng thanh nhàn, lại vừa nói lên cái ước vọng được sống mãi mãi! Cách viết chữ Nôm biết sử dụng lối hội ý như thế thật là thâm thúy, chữ quốc ngữ viết theo mẫu tự La-tinh không sao sánh được.” (Trần Văn Toàn, Sđd, trang 122).
Trong tự điển Giúp đọc Nôm và Hán Việt của Linh mục Trần Văn Kiện hay sách Đại Tự Điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính cũng có trưng một số cách viết chữ rỗi là dùng chữ lỗi 磊 làm yếu tố hài thanh chính, và có khi dùng bộ mã 馬, khi dùng bộ tâm忄 hay bộ thủy氵hoặc bộ khẩu 口 là tùy theo từng trường hợp. Nhưng qua sự phân tích chữ rỗi kể như một thí dụ dưới con mắt của một nhà nghiên cứu tôn giáo như GS Trần Văn Toàn, chúng ta có dịp đánh giá lại giá trị của chữ Nôm, thấm thía được ý nghĩa của một loại văn tự trong kho tàng văn hóa dân tộc và cũng nhờ đó nhận ra được tinh thần cố thấu đạt tới chân lý trong lãnh vực tôn giáo của tiền nhân trước đây.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia, Mùa Lễ Độc Lập Hoa Kỳ, July 4-5/ 2020
Liên quan:
- 846. Từ chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ.
- 790. Tại sao Việt Nam cải cách thành công chữ viết, Trung Quốc thì không?
- 365. Triều đình Việt Nam bỏ thi chữ Hán năm 1919: Cơ hội để Quốc ngữ ”lên ngôi”?
- 337. Chữ quốc ngữ – những người đầu tiên khai sáng.
- 330. Những chuyện nói thêm quanh tranh cãi về Alexandre de Rhodes.
- 311. Cuộc phiêu lưu của Alexandre de Rhodes ở Viễn Đông.
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.