Có một dạo giới luật học Việt Nam và báo giới muốn sử dụng từ "công thư" để gọi "công hàm" 1958 do thủ tướng Phạm Văn Đồng kí.
Với tư cách một người quan sát, ngay lúc đó, tôi đã đặt nghi vấn vào việc tự nhiên sử dụng từ "công thư" một cách vô nghĩa đó. Trên Giao Blog có bàn luận khá rôm rả của nhiều người quan tâm, xem lại ở đây (tháng 5 năm 2014, tức đã 6 năm).
Có lúc bí quá, người ta còn dùng từ "công điện" (ở đây).
Có lúc bí quá, người ta còn dùng từ "công điện" (ở đây).
Bây giờ, tháng 5 năm 2020, đã có bước tiến mới. Người ta đã quay trở lại gọi đúng tên "công hàm". Rõ ràng là không thể gọi khác đi được rồi.
Nhưng quan trọng hơn, chính là các phân tích chi tiết về nội dung bên trong công hàm đó.
Người ta dùng câu "bẻ gãy luận điệu của Trung Quốc". Thì trước đó, tôi đã phát hiện và dịch loạt bài "bẽ gãy luận điệu của Việt Nam" do ông Ngô Viễn Phú (người Trung Quốc) viết và cho đăng tải (đưa lên mạng khoảng năm 2012 nhưng sau đó xóa đi, đồng thời cũng đã cho đăng trên tạp chí chuyên ngành ở Trung Quốc năm 2013 - xem ở đây). Tôi dịch trọn ven ra tiếng Việt và đưa lên Giao Blog từ năm 2012 (bản 2012 ở đây).
Tiếp đó, năm 2014, anh Dương Danh Huy (người Việt ở Anh quốc) đã đưa bài "bẽ gãy luận điệu của Ngô Viễn Phú" (xem cụ thể ở đây).
Tiếp đó, năm 2014, anh Dương Danh Huy (người Việt ở Anh quốc) đã đưa bài "bẽ gãy luận điệu của Ngô Viễn Phú" (xem cụ thể ở đây).
Về tình hình tiến triển hiện tại, thì cứ đưa tư liệu về đây đã.
Tháng 5 năm 2020,
Giao Blog
Bài của Ngô Viễn Phú trên tạp chí chuyên ngành (năm 2013) |
Tháng 5 năm 2020
1.
"
Thứ Ba, ngày 5/5/2020 - 01:45
(PL)- Nguyên tắc của luật pháp quốc tế là không được phép suy diễn một cách chủ quan, mà phải tìm ý định thực sự của người viết và ký văn kiện trong phạm vi những câu chữ được dùng trong văn kiện.
TIN LIÊN QUAN
Trong kỳ 1 với tựa đề “Hiểu đúng ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng”, PGS-TS Vũ Thanh Ca, nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, đã lý giải hoàn cảnh ra đời và nội dung của hai văn kiện: (i) Tuyên bố về lãnh hải từ phía Trung Quốc (TQ); (ii) Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 liên quan Biển Đông.
Qua đó, PGS-TS Vũ Thanh Ca khẳng định: “Bản chất công hàm Phạm Văn Đồng (CHPVĐ) là một văn kiện ngoại giao đơn phương với mục đích rất đơn giản: Thể hiện sự đoàn kết với TQ chống lại Mỹ và các nước thuộc phe tư bản chủ nghĩa”.
Tính pháp lý của công hàm
. Phóng viên: Liên quan đến CHPVĐ (tên gọi được đăng trên báo Nhân Dân ngày 22-9-1958), luật pháp quốc tế quy định như thế nào về tính pháp lý của văn kiện ngoại giao?
+ PGS-TS Vũ Thanh Ca: Giá trị pháp lý của CHPVĐ không phụ thuộc vào việc gọi văn kiện này là công hàm hay công thư. Một nguyên tắc của luật pháp quốc tế là khi xem xét một văn kiện được ký kết, cần phải tìm hiểu ý định thực sự của người ký văn bản trong phạm vi các câu chữ của văn kiện. Đây chính là các nguyên tắc “trong bốn góc” và “cái đặc thù làm chủ cái tổng quát”.
Theo nguyên tắc này, không được phép suy diễn một cách chủ quan, mà phải tìm ý định thực sự của người viết và ký văn kiện trong phạm vi những câu chữ được dùng trong văn kiện (trong bốn góc của các trang giấy chứa văn kiện).
. Quy định đó áp dụng giải thích CHPVĐ như thế nào?
+ Có thể thấy CHPVĐ gồm hai đoạn, trong đó đoạn thứ nhất chỉ nói về việc ghi nhận và tán thành quyết định về hải phận của TQ. Cụ thể: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4-9-1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của TQ”.
Trong đoạn thứ hai, văn kiện đã làm rõ hơn. Cụ thể: “Triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của TQ trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể”. Như vậy, cái đặc thù “12 hải lý trên mặt bể” đã làm rất rõ CHPVĐ chỉ nói về hải phận 12 hải lý của TQ chứ không nói vấn đề khác.
Dựa vào nội dung và bối cảnh ra đời (mà tôi đã phân tích trong kỳ 1 của loạt bài này), CHPVĐ đơn giản là một văn kiện ngoại giao đơn phương với từ ngữ rất khéo léo. Mục đích là để thể hiện sự ủng hộ của Chính phủ VNDCCH đối với tuyên bố về hải phận 12 hải lý của TQ nhưng tuyệt nhiên không thể hiện sự công nhận của phía Việt Nam đối với chủ quyền của TQ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều học giả, luật sư về công pháp quốc tế trong và ngoài nước đồng ý với luận điểm này.
Hội nghị San Francisco đã chính thức công nhận việc QGVN khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như thu hồi hai quần đảo này từ Nhật Bản. Trong ảnh: Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru ký hòa ước San Francisco ngày 8-9-1951. Ảnh: GETTY
Việt Nam thực thi chủ quyền liên tục...
. Dù CHPVĐ không thừa nhận chủ quyền của TQ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng lại không phản đối tuyên bố chủ quyền của TQ. Điều này có gây khó khăn cho việc khẳng định quá trình thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không?
+ Tôi khẳng định là hoàn toàn không! Ngày 2-9-1945, nước VNDCCH được thành lập, là một nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tuyên bố chủ quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam (bao gồm Trường Sa, Hoàng Sa).
Ngày 6-3-1946, Chính phủ VNDCCH ký với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946. Theo đó, VNDCCH là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, sau đó Pháp chủ trương không thực hiện một số thỏa thuận trong Hiệp định sơ bộ và Tạm ước Việt Pháp, trái lại còn cố ý gây chiến để tái xác lập chế độ thực dân trên lãnh thổ Việt Nam. Chiến tranh giữa hai bên xảy ra vào cuối năm 1946 và kéo dài tới giữa năm 1954.
Căn cứ vào Hiệp định sơ bộ, vì VNDCCH nằm trong khối Liên hiệp Pháp, trong thời gian từ cuối năm 1946 tới đầu 1947, Pháp đã thực thi quyền đại diện để bảo vệ chủ quyền của VNDCCH tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ cuối năm 1946, Pháp đã chủ trương thành lập một chính phủ khác trên đất Việt Nam để đối trọng VNDCCH. Ngày 5-6-1948, Hiệp ước vịnh Hạ Long được ký kết và ngày 8-3-1949, với sự ký kết Hiệp định Élysée, Quốc gia Việt Nam (QGVN), một quốc gia độc lập thuộc Liên hiệp Pháp, được thành lập. Đến đầu năm 1950 đã có 35 quốc gia công nhận QGVN.
Pháp đã chính thức trao quyền quản lý toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho QGVN. Tháng 4-1949, hoàng thân Nguyễn Phúc Bửu Lộc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ QGVN, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 10-1950, việc quản lý Hoàng Sa và Trường Sa được Pháp chính thức bàn giao cho QGVN.
Năm 1949, Pháp đã gửi đơn xin đăng ký các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Tổ chức Khí tượng Thế giới và đã được chấp nhận. Các trạm khí tượng này là trạm Phú Lâm với số hiệu 48859; trạm Hoàng Sa với số hiệu 48860; trạm Ba Bình với số hiệu 48419.
… Và được thế giới công nhận
. Việc khẳng định chủ quyền ở Trường Sa, Hoàng Sa của QGVN được thế giới công nhận như thế nào, thưa ông?
+ Năm 1951, QGVN đã được mời tham dự Hội nghị San Francisco về chấm dứt chiến tranh tại châu Á - Thái Bình Dương và lập quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Hội nghị có 51 nước tham gia. Tại hội nghị, đại diện Liên Xô là ông Andrei Gromyko đã đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho TQ. Đề nghị này đã bị hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, ba phiếu thuận.
Tại hội nghị, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao QGVN Trần Văn Hữu tuyên bố: “Việt Nam rất là hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình này. Và cũng vì vậy cần phải thành thật lợi dụng tất cả cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
Tuyên bố này của Thủ tướng Trần Văn Hữu không bị quốc gia nào phản đối hay bảo lưu. Như vậy, Hội nghị San Francisco coi như đã chính thức công nhận việc QGVN khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như thu hồi hai quần đảo này từ Nhật Bản.
. Phía TQ giai đoạn đó có lên tiếng phản đối tuyên bố của QGVN không?
+ Trong hòa ước giữa Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) và Nhật Bản ngày 28-4-1952, THDQ ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San Francisco nhưng không yêu cầu Nhật Bản giao lại hai quần đảo này. Việc này là bằng chứng góp phần cho thấy phía TQ đã gián tiếp thừa nhận tuyên bố chủ quyền của QGVN đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa tại Hội nghị San Francisco.
Như vậy, trong thời gian từ năm 1945 tới 1954, trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam có hai chính phủ của Việt Nam và hai chính phủ này đều có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. VNDCCH là một thành viên thuộc khối Liên hiệp Pháp, được Pháp đại diện để thực thi chủ quyền; QGVN cũng là một thành viên thuộc khối Liên hiệp Pháp, được Pháp chuyển giao chủ quyền và đã khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo.
Tuyên bố của QGVN tại Hội nghị San Francisco không có nước nào phản đối và bảo lưu. Đó là bằng chứng cho thấy Việt Nam đã khẳng định chủ quyền rõ ràng và minh bạch và đã tiếp nhận hai quần đảo này từ Nhật Bản. Việc Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền một cách liên tục từ giai đoạn 1954-1975 và cả giai đoạn sau đó, tôi sẽ trình bày trong kỳ sau.
. Xin cám ơn ông.
Giá trị công hàm phải đặt trong bối cảnh cụ thể
Công thư (công hàm - BTV) của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là văn bản ngoại giao, nó có giá trị pháp lý về những vấn đề được nêu trong nội dung, đó là Việt Nam tôn trọng 12 hải lý mà TQ tuyên bố. Công thư không đề cập chủ quyền lãnh thổ, vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa nên đương nhiên nó không có giá trị pháp lý trong vấn đề chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa.
Thứ hai, giá trị công thư cũng phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi cho TQ trong bối cảnh Hoàng Sa, Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa theo Hiệp định Genève 1954 mà TQ có tham gia. Do đó, tôi xin nói logic thông thường là bạn không thể cho người khác cái gì khi bạn chưa có được.
Ông TRẦN DUY HẢI, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới
quốc gia, phát biểu trong cuộc họp báo quốc tế chiều 23-5-2014 (Theo TTO) |
.
0.
Bẻ gãy luận điệu của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc - Bài 1
TIN LIÊN QUAN
0.
Bẻ gãy luận điệu của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc - Bài 1
(PL)- Công hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có ý nghĩa công nhận chủ quyền mà Trung Quốc tuyên bố không có cơ sở ở Trường Sa, Hoàng Sa.
TIN LIÊN QUAN
Biển Đông: Mỹ, EU cần bắt tay chống sự đe dọa từ Trung Quốc
Biển Đông: Đề xuất đóng cửa Viện Khổng Tử tạo sức ép Bắc Kinh
Đài Loan kêu gọi kiềm chế ở biển Đông
Việt Nam phản đối việc lập quận đảo trái phép của Trung Quốc
LTS: Ngày 17-4-2020, Trung Quốc (TQ) gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để khẳng định chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Trong đó, TQ khẳng định chính phủ Việt Nam cũng đã công nhận điều này thông qua công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Để độc giả hiểu rõ về sự kiện công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và mưu đồ của TQ ở Liên hợp quốc, Pháp Luật TP.HCM thực hiện loạt bài: “Bẻ gãy luận điệu của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc”.
Bài viết dựa vào cuộc phỏng vấn PGS-TS Vũ Thanh Ca, chuyên gia về Luật Biển quốc tế ĐH Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ, Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam.
Ngày 4-9-1958, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi chung là Trung Quốc, viết tắt là TQ) ban hành bản tuyên bố về hải phận. 10 ngày sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi một công hàm, thể hiện sự ủng hộ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đối với tuyên bố hải phận 12 hải lý của TQ.
Đây là một dữ kiện lịch sử, pháp lý mà TQ đã và đang sử dụng để khẳng định không có quốc gia nào phản đối yêu sách của TQ ở Biển Đông. Tuy nhiên, sự thật của lịch sử chưa bao giờ giống như những gì Bắc Kinh tuyên truyền.
Bản tuyên bố đơn phương của TQ
. Phóng viên: Xin ông tóm tắt những điểm chính liên quan đến tuyên bố của phía TQ vào năm 1958 liên quan đến chủ quyền Biển Đông?
+ PGS-TS Vũ Thanh Ca: Bản tuyên bố của TQ bao gồm bốn điều. Thứ nhất, bề rộng hải phận của TQ là 12 hải lý. Điều này áp dụng cho những nơi mà nước này gọi là: “Lãnh thổ TQ trên đất liền và các hải đảo duyên hải, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) cùng các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc TQ”.
Thứ hai, TQ xác định các đường cơ sở của hải phận dọc theo đất liền TQ và các đảo ngoài khơi được xác định bởi “các đường thẳng nối liền mỗi điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là hải phận của TQ...”.
Thứ ba, TQ yêu cầu các nước không được tự ý xâm nhập hải phận và vùng trời phía trên hải phận nước này. Cuối cùng, TQ tuyên bố điều (2) và (3) kể trên cũng áp dụng cho các điểm mà TQ gọi là: Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa…
Chiến sĩ đảo Núi Le (thuộc quần đảo Trường Sa) nâng cao cảnh giác, vững vàng tay súng bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Ảnh: TTXVN
TQ cố ý suy diễn sai lệch nội dung công hàm Phạm Văn Đồng với ý đồ khẳng định yêu sách trái phép tại vùng biển này. Ảnh: FACEBOOK
Vì sao TQ ra tuyên bố về chủ quyền?
. Động lực nào khiến TQ ra tuyên bố chủ quyền vào năm 1958 như nêu trên, thưa ông?
+ Cho tới đầu thế kỷ XX, lãnh hải (hải phận) của quốc gia ven biển được quy định là ba hải lý tính từ đường cơ sở. Đến đầu thế kỷ XX, một số quốc gia muốn mở rộng giới hạn chủ quyền quốc gia ven biển cũng như giới hạn về quyền sở hữu và khai thác tài nguyên trong vùng biển ven bờ của quốc gia. Từ cuối những năm 1940 của thế kỷ XX, một số nước đã mở rộng lãnh hải tới 12 hải lý.
Hội nghị về Luật Biển Liên Hợp Quốc (LHQ) lần thứ nhất (UNCLOS I) tổ chức ở Geneva, Thụy Sĩ từ ngày 24-2 đến 27-4-1958. Hội nghị này xuất hiện mâu thuẫn trong quá trình đàm phán: Một số nước như Mỹ, Anh có quan điểm giữ nguyên quy định chiều rộng lãnh hải ba hải lý. Trái lại, nhiều nước khác, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển khác, đề nghị mở rộng chiều rộng lãnh hải tới 12 hải lý. Kết quả, công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải 1958 chưa quy định được chiều rộng lãnh hải.
. Được biết, TQ không được mời dự hội nghị về Luật Biển LHQ lần thứ nhất năm 1958. Có phải vì vậy mà họ đơn phương ra tuyên bố về chủ quyền biển, trong đó có yêu cầu về chiều rộng hải phận của TQ là 12 hải lý?
+ Vào thời kỳ đó, có những vấn đề rất cấp bách ở TQ liên quan tới quy định về chiều rộng lãnh hải của họ. Trong giai đoạn chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), vùng lãnh thổ Đài Loan có nguy cơ bị TQ tấn công. Để bảo vệ Đài Loan, Mỹ đã điều Hạm đội 7 vào eo biển Đài Loan và TQ đã mạnh mẽ phản đối việc này.
Sau khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất (tháng 9-1954), khủng hoảng lần hai tiếp tục xảy ra vào tháng 8-1958. TQ tái diễn nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo hiệp định phòng thủ chung với chính quyền Đài Loan, Mỹ điều hai tàu chiến đến eo biển Đài Loan. Hai tàu này đã hộ tống các tàu Đài Loan tới khoảng cách ba hải lý tính từ bờ của đảo Kim Môn. TQ cho rằng Mỹ vi phạm chủ quyền của mình, trong khi Mỹ cho rằng Mỹ chỉ hoạt động trong khu vực ngoài lãnh hải của TQ và tuân thủ luật pháp quốc tế. Một phần vì hội nghị về Luật Biển LHQ lần thứ nhất không mời TQ, phần nữa vì muốn ngăn chặn các nước tiếp cận gần bờ biển của mình (trong phạm vi 12 hải lý), TQ ra tuyên bố về lãnh hải.
Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là ngoại giao
. Sau tuyên bố của TQ vào tháng 9-1958, Chính phủ VNDCCH phản ứng ra sao?
+ Ngày 14-9-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi một công hàm đến Thủ tướng Chu Ân Lai của Hội đồng Nhà nước TQ để khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ Việt Nam đối với tuyên bố hải phận 12 hải lý của TQ.
Theo đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4-9-1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của TQ. Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của TQ trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể”.
. Trong bối cảnh lịch sử như ông đã trình bày, có thể hiểu nội dung công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như thế nào?
+ Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm với mục đích ngoại giao, thể hiện sự đoàn kết về mặt chính trị và ủng hộ lập trường hải phận 12 hải lý của TQ. Các quốc gia trong phe xã hội chủ nghĩa như Liên Xô cũng làm như vậy. Đây là động thái hoàn toàn bình thường của các nước xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh, đối đầu với phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu.
Như vậy, bản chất công hàm Phạm Văn Đồng là một văn kiện ngoại giao đơn phương với mục đích rất đơn giản: Thể hiện sự đoàn kết với TQ chống lại Mỹ và các nước thuộc phe tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại, hiểu được bối cảnh quốc tế khi ra đời của tuyên bố từ phía TQ về hải phận và công hàm Phạm Văn Đồng thì mới có đủ cơ sở để đánh giá ý định của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chính phủ VNDCCH khi ban hành công hàm này. Từ đó mới có thể đánh giá giá trị pháp lý của công hàm và ảnh hưởng của nó tới chủ quyền Việt Nam (mà tôi sẽ nói rõ hơn ở bài sau).
. Xin cám ơn ông.
Công hàm TQ gửi lên LHQ không phù hợp luật pháp quốc tế
Chiều 23-4, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Ngô Toàn Thắng nói với báo chí: Việt Nam phản đối các nội dung trong công hàm ngày 17-4 của TQ gửi LHQ cũng như các công hàm trước đó nêu các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông. Ông Thắng khẳng định các công hàm chứa đựng những yêu sách chủ quyền phi lý của TQ đối với Hoàng Sa và Trường Sa không phù hợp luật pháp quốc tế, trái với quy định của UNCLOS.
Ngày 30-3-2020, Việt Nam đã lưu hành công hàm tại LHQ để bác bỏ các yêu sách của TQ, như đã được nêu trong nhiều văn bản gửi LHQ và các cơ quan quốc tế liên quan. Việt Nam cũng đã giao thiệp với TQ để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của TQ. Ngày 10-4-2020, Việt Nam lưu hành công hàm để khẳng định lập trường trong vấn đề Biển Đông với các nước liên quan khác. Ông Ngô Toàn Thắng khẳng định: Là quốc gia ven biển, Việt Nam được hưởng đầy đủ các vùng biển tại Biển Đông được xác lập trên cơ sở UNCLOS; mọi yêu sách biển trái với quy định UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam là không có giá trị.
|
___________________________
Kỳ 2: Công hàm Phạm Văn Đồng dưới ánh sáng luật quốc tế
(PL)- Nguyên tắc của luật pháp quốc tế là không được phép suy diễn một cách chủ quan, mà phải tìm ý định thực sự của người viết và ký văn kiện trong phạm vi những câu chữ được dùng trong văn kiện.
ĐỖ THIỆN thực hiện
..
----
BỔ SUNG
1. Bác Trương Nhân Tuấn đưa bài lên blog
"
vendredi 8 mai 2020
Phải chi các bài viết này thay thế được công hàm mà VN sẽ phải gởi lên Tổng thư ký LHQ trong những ngày sắp tới thì hay quá!
Theo tôi ý kiến của các học giả VN qua các bài báo đã dẫn, chưa chắc đã thuyết phục được dư luận trong nước, huống chi (các ý kiến này) được sử dụng như là lời “phản biện” chính thức của VN trước các diễn đàn quốc tế, như khẩn cấp gởi lên tổng thư ký LHQ để phản biện các động thái mới đây của TQ. Công việc càng thêm khó nếu các lập luận này được nhắc trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, hay trước một Trọng tài quốc tế.
Tôi sẽ lần lượt đưa các quan điểm của tôi về luật quốc tế, chung quanh ý nghĩa của Quyết định ngày 4 tháng Chín năm 1958 của TQ về “hải phận 12 hải lý” và chủ quyền lãnh thổ của TQ ở Tây sa và Nam sa. Sau đó tôi sẽ nhắc lại những điều tôi đã công bố, như về hiệu lực công hàm 14-9-1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Về hiệu lực pháp lý của thái độ “im lặng” qua hiệu ứng “đồng thuận - acquiescement”. Về sự thành hình “quốc gia Việt Nam” hiện đại theo công pháp quốc tế (hiệp định Genève 1954 và hiệp định Paris 1973). Về “tình trạng pháp lý - statut juridique” các quốc gia bị phân chia như Đông và Tây Đức, Nam và Bắc Hàn, TQ lục địa và Đài loan, Đông và Tây Hồi (Pakistan và Bangladesh)... Về “tư cách pháp nhân quốc tế - personnalité internationale” của hai chế độ VNCH và VNDCCH…
*****
Lập luận của TQ mọi người đều biết qua các công hàm mới đây gởi lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, thông qua Tổng Thư Ký LHQ. TQ nại "estoppel", lên các hành vi và thái độ của VNDCCH đã thể hiện một cách liên tục, "minh thị" và "ám thị", từ khi “lập quốc” 2 tháng 9 năm 1945 đến các năm thập niên 70 thế kỷ trước.
Theo TQ, VNDCCH đã nhìn nhận chủ quyền Tây sa và Nam sa thuộc Trung quốc. VN bây giờ không thể "nói ngược".
Lập luận của TQ, VNDCCH đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS, qua : 1/ công hàm 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, 2/ các ý kiến (có thể xem là tuyên bố đơn phương) của các lãnh đạo cao cấp VN như Ung Văn Khiêm. 3/ Các sách giáo khoa, các bản đồ do bộ quốc phòng VN xuất bản ghi nhận Tây sa và Nam Sa thuộc TQ, 4/ các bài báo trên Nhân dân nhìn nhận "hải phận" 100 hải lý chung quanh Hoàng Sa thuộc TQ.
Đến nay VN và giàn học giả "cố thủ" trong lập luận VN chỉ nhìn nhận hải phận 12 hải lý trên các vùng lãnh thổ của TQ mà thôi.
Thật là đúng như vậy. Nếu xét câu chữ thì Công hàm PVĐ chỉ: "ghi nhận và tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc", đồng thời "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc".
Công hàm PVĐ không có chữ nào nhắc đến HS và TS.
Trong trường hợp này ta có thể xem như VNDCCH đã giữ thái độ "im lặng" trước quyết định về hải phận của TQ ở hai vùng lãnh thổ Tây sa và Nam sa.
Cách đây khoảng 10 năm tôi có viết bài "Nếu công hàm PVĐ không hiện hữu". Theo đó đặt giả thuyết rằng VN giữ thái độ "im lặng" trước hành vi "khẳng định chủ quyền" của TQ ở Tây sa (tức Hoàng sa của VN) và Nam sa (tức Trường sa của VN). Theo tôi, trường hợp này VN đã bị vướng nguyên tắc "đồng thuận - acquiescement".
Khiếm khuyết trong các lập luận của giàn học giả trả lời phỏng vấn trên báo Pháp luật là họ "quên", không ai nói tới Tuyên bố của TQ có ý nghĩa gì trước luật pháp quốc tế !!??
Theo Công pháp quốc tế, Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của TQ là một “quyết định - decision” của chính phủ Bắc kinh (gọi là Trung quốc để phân biệt với phe Cộng hòa Trung hoa ở Đài loan) về lãnh thổ và hải phận của quốc gia Cộng hòa Nhân dân Trung quốc.
Tập quán quốc tế, trong trường hợp này, các quốc gia khác bắt buộc phải lên tiếng để thể hiện “thái độ” của quốc gia trước “quyết định” này (của TQ). (Nếu các quốc gia này thấy có liên quan đến các quyết định của TQ).
Cách thức thể hiện "thái độ của quốc gia" có thể bằng “lời nói” hay bằng công văn. Nội dung có thể là “đồng ý - acceptation” hay “reconnaissance - nhìn nhận”, hoặc nếu không đồng ý thì “protestation - phản đối”.
VNDCCH đã tỏ thái độ "nhìn nhận" và "tán thành" về "quyết định" của TQ.
Câu hỏi đặt ra là VN và giàn học giả có thể "tán thành" quyết định về hải phận của TQ trên mọi vùng lãnh thổ của TQ, nhưng lại loại trừ HS và TS, vì lý do công hàm 1958 của PVĐ không nhắc tới HS và TS hay không ?
Đặt thí dụ, trong một hợp đồng làm ăn, một bên A viết một loạt các điều kiện, đánh số từ 1 tới 10. Bên B rút viết ký tên "tán thành quyết định ấy của bên A".
50 năm sau, bên B được hưởng từ bên A viện trợ súng ống, đạn dược, lương thực... tính ra tương đương 20 tỉ đô la. Thêm vào đó 300 ngàn quân. Bên B nhờ vậy lập nên "chiến thắng lịch sử" là "đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào".
Đến năm 1979 khi "cơm không lành canh không ngọt" giữa hai chính phủ "vừa là đồng chí vừa là anh em". VN đổi thái độ, chỉ "tán thành" hải phận 12 hải lý.
Kiểu bên B nói ngược là "tao chỉ nhìn nhận từ 1 tới 9 thôi. Điều 10 tao không công nhân".
Theo tôi, lập luận của VN sẽ không được ai chia sẻ.
Ý kiến của tôi, đã viết từ lâu, là phải "hóa giải" hiệu lực công hàm 1958, triệt để và toàn diện. Hóa giải thế nào thì tôi đã có bài viết sơ lược trên BBC tuần trước.
Bởi vì "nhìn nhận và tán thành" ở 12 hải lý là đã nhìn nhận hiệu lực của công hàm PVĐ rồi.
(Còn nữa)
"https://nhantuantruong.blogspot.com/2020/05/quyet-inh-ve-lanh-tho-va-hai-phan-cua.html
"
dimanche 10 mai 2020
Trong số các câu hỏi mà phóng viên báo Pháp luật đặt ra cho các học giả trong loạt bài 5 kỳ báo đã đăng. Theo tôi câu sau đây là “hay” nhứt, đặt ra cho PGS/TS Vũ Thanh Ca. Nguyên văn như sau:
“Dù CHPVĐ không thừa nhận chủ quyền của TQ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng lại không phản đối tuyên bố chủ quyền của TQ. Điều này có gây khó khăn cho việc khẳng định quá trình thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không?”
Bài viết hôm qua tôi có đề cập đến hiệu lực Công hàm 1958 của PVĐ. Nhắc lại trong bài này để bổ túc vào câu hỏi dành cho TS Vũ Thanh Ca.
Công hàm 14 tháng chín năm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng không đơn thuần là một “văn kiện ngoại giao đơn phương” thuần túy “chính trị” mà chính phủ VNDCCH công bố nhằm thể hiện tình “đoàn kết” với TQ như PGS/TS Vũ Thanh Ca đã trả lời trong bài phỏng vấn.
Nhắc lại là Tuyên bố của TQ ngày 4 tháng 9 năm 1958, nói theo ngôn từ “pháp lý”, là văn kiện ngoại giao có hình thức một “Quyết định - Décision”, nội dung liên quan đến hải phận 12 hải lý trên các vùng lãnh thổ của TQ. Quyết định này phát sinh sau khi các Hội nghị Quốc tế về biển năm 1956 và các Công ước về Luật Biển được các quốc gia ký kết năm 1958. Nội dung Tuyên bố ghi rõ, một cách “minh bạch”, các yêu sách của TQ.
Trong trường hợp các yêu sách của TQ không vi phạm các nguyên tắc luật lệ, Tuyên bố có thể có hiệu lực ràng buộc. Tập quán quốc tế đòi hỏi các quốc gia (hay vùng lãnh thổ) phải tỏ “thái độ” cụ thể, “đồng ý ủng hộ” hay “không đồng ý phản đối” trước “quyết định” của TQ.
Quyết định về lãnh thổ và hải phận 12 hải lý của TQ có liên quan đến VN. Hai quần đảo Tây sa và Nam sa ghi trong bản Tuyên bố của TQ vốn là Hoàng Sa và Trường sa của VN.
Lần đầu tiên TQ lên tiếng tranh chấp với nhà nước bảo hộ Pháp, tại Hoàng sa là năm 1909. Ở Trường sa TQ lên tiếng tranh chấp sau khi Pháp tuyên bố chủ quyền và sáp nhập vào VN đầu thập niên 30. Nhà nước bảo hộ Pháp hai lần đề nghị TQ giải quyết tranh chấp HS và TS bằng một trọng tài quốc tế, TQ từ khước cả hai lần.
Công hàm 14 tháng chín 1958 của ông PVĐ là một văn kiện “cụ thể”, thể hiện “thái độ” của chính phủ VNDCCH, trả lời TQ về “quyết định về lãnh thổ và hải phận” của nước này ngày 4 tháng chín năm 1958.
(Các học giả, sử gia, luật gia VN vì vậy không thể vịn vào lý do “không biết” lịch sử, không biêt luật lệ… để biện hộ cho một thái độ làm tổn hại cho sự “toàn vẹn lãnh thổ” của đất nước.)
Công hàm của TQ ngày 17 tháng tư năm 2020 gởi TTK LHQ để phản biện các ý kiến của VN qua các công hàm gởi TTK LHQ hôm 30 tháng ba và 17 tháng tư 2020. TQ cho rằng, qua công hàm 1958 của PVĐ, VN đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại Tây sa và Nam Sa. Bây giờ VN không thể “nói ngược”, là chỉ nhìn nhận “hải phận 12 hải lý” và không nhìn nhận chủ quyền Tây sa và Nam sa. TQ cho rằng VN đã bị “estopped”, tức bị “mất tố quyền”, theo nguyên tắc “không được nói ngược - Estoppel”.
Kỳ trước tôi có nói về nguyên tắc “đồng thuận - acquiescement”.
Theo tập quán quốc tế, trước một vấn đề đòi hỏi quốc gia phải có thái độ, ở đây là tuyên bố chủ quyền của TQ ở chủ quyền HS và TS. Sự “im lặng” của VNDCCH đồng nghĩa với hành vi “đồng thuận ám thị - acquescement implicite”. Hành vi “đồng thuận” trở nên rõ rệt theo thời gian, qua các ấn phẩm mà VNDCCH xuất bản như bản đồ, sách vở, báo chí… nội dung ghi nhận HS và TS thuộc TQ. Sự “đồng thuận” trở nên cụ thể, có hiệu lực pháp lý ràng buộc.
Giả sử VN và TQ “đụng độ” trước một tòa án bất kỳ, để giải quyết chồng lấn hải phận và thềm lục địa, hay để giải quyết tranh chấp chủ quyền. Nếu Tòa ghi nhận thái độ “đồng thuận - acquiescement” của VN về chủ quyền của TQ ở HS và TS. Phiên tòa có thể tiếp tục và Tòa có thể xét tới các “trường hợp giảm khinh”. Tư cách pháp nhân quốc tế (quốc gia) của VNDCCH chưa rõ rệt. Vì vậy nội dung tuyên bố 14 tháng chín 1958 của PVĐ không thể diễn giải theo công pháp quốc tế. Điều này tôi đã viết trong bài ở đây.
Nhưng nếu Tòa ghi nhận ý kiến của TQ là VN đã bị “Estopped - mất tố quyền”. Điều này có thể xảy ra, vì TQ có đủ bằng chứng cho thấy cuộc hai cuộc kháng chiến chống Pháp 1945-1954 và chống Mỹ 1954-1975, TQ đã giúp cho VNDCCH về mọi mặt, vũ khí đạn dược, quân trang quân dụng, xe cộ máy móc, tài chánh… tương đương 20 tỉ đô la (trị giá năm 1980 thì phải) và 300 ngàn quân.
Tức là TQ đã “tin tưởng” vào thái độ VNDCCH “tán thành tuyên bố chủ quyền của TQ tại HS và TS” qua công hàm PVĐ. VNDCCH nhờ đó đã “hưởng lợi” lớn lao, chiếm được VNCH, nhờ sự trợ giúp từ TQ. Các yếu đã tố cấu thành “Estoppel”. Nếu VN “nói ngược”, gây thiệt hại (về lãnh thổ, hải phận) cho TQ. VN sẽ bị “mất tố quyền”. Nếu tòa bị thuyết phục bởi các bằng chứng của TQ. Tức khắc phiên tòa có thể “chấm dứt”, đơn kiện của VN sẽ bị bác, với sự bẽ bàng cho VN.
Trở lại câu hỏi của phóng viên dẫn trên. Cái “hay” trong câu hỏi, và theo tôi là quan trọng hơn cả, là việc “thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam tại HS và TS”.
Đúng vậy, chính phủ VNDCCH đã thể hiện “thẩm quyền quốc gia về lãnh thổ” ở HS và TS hồi nào ? qua các hành vi nào ?
PGS/TS Vũ Thanh Ca trả lời nguyên văn như sau:
Dẫn (tôi đánh số vô từng đoạn cho dễ theo dõi):
(1)“ Ngày 2-9-1945, nước VNDCCH được thành lập, là một nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tuyên bố chủ quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam (bao gồm Trường Sa, Hoàng Sa).
(2) Ngày 6-3-1946, Chính phủ VNDCCH ký với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946. Theo đó, VNDCCH là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, sau đó Pháp chủ trương không thực hiện một số thỏa thuận trong Hiệp định sơ bộ và Tạm ước Việt Pháp, trái lại còn cố ý gây chiến để tái xác lập chế độ thực dân trên lãnh thổ Việt Nam. Chiến tranh giữa hai bên xảy ra vào cuối năm 1946 và kéo dài tới giữa năm 1954.
(3) Căn cứ vào Hiệp định sơ bộ, vì VNDCCH nằm trong khối Liên hiệp Pháp, trong thời gian từ cuối năm 1946 tới đầu 1947, Pháp đã thực thi quyền đại diện để bảo vệ chủ quyền của VNDCCH tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
(4) Từ cuối năm 1946, Pháp đã chủ trương thành lập một chính phủ khác trên đất Việt Nam để đối trọng VNDCCH. Ngày 5-6-1948, Hiệp ước vịnh Hạ Long được ký kết và ngày 8-3-1949, với sự ký kết Hiệp định Élysée, Quốc gia Việt Nam (QGVN), một quốc gia độc lập thuộc Liên hiệp Pháp, được thành lập. Đến đầu năm 1950 đã có 35 quốc gia công nhận QGVN.
(5) Pháp đã chính thức trao quyền quản lý toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho QGVN. Tháng 4-1949, hoàng thân Nguyễn Phúc Bửu Lộc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ QGVN, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 10-1950, việc quản lý Hoàng Sa và Trường Sa được Pháp chính thức bàn giao cho QGVN.
(6) Năm 1949, Pháp đã gửi đơn xin đăng ký các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Tổ chức Khí tượng Thế giới và đã được chấp nhận. Các trạm khí tượng này là trạm Phú Lâm với số hiệu 48859; trạm Hoàng Sa với số hiệu 48860; trạm Ba Bình với số hiệu 48419.”
Hết dẫn.
TS Vũ Thanh Ca đã không trả lời được câu hỏi, tuy đơn giản: Chính phủ VNDCCH đã “thực thi chủ quyền liên tục tại HS và TS” như thế nào ?
Không thể trả lời vì chuyện này không hiện hữu.
Trong suốt lịch sử thành hình VNDCCH ngày 2 tháng chín năm 1945, cho đến năm 1976 thống nhứt đất nước dưới tên CHXHCNVN, chưa bao giờ chính phủ VNDCCH thể hiện một hành vi, một thái độ bất kỳ thể hiện sự quan tâm của “nhà nước” này đối với hai vùng lãnh thổ HS và TS.
Các bản Bạch thư của VN gởi LHQ về chủ quyền lãnh thổ HS và TS, qua nhiều lần hiệu đính, nội dung hoàn toàn “cắt dán” nguyên văn bản bạch thư về chủ quyền HS và TS của VNCH công bố sau biến cố hoàng sa tháng giêng năm 1974.
Ngoài công hàm 14 tháng chín năm 1958 của Phạm Văn Đồng “nhìn nhận” các yêu sách của TQ, trong đó có chủ quyền của TQ ở HS và TS. VNDCCH cũng giữ thái độ “im lặng” (là đồng thuận) trước việc TQ sử dụng vũ lực xâm lăng HS của VN ngày 17/19 tháng giêng 1974.
Tức là VNDCCH không hề có động thái nào nhằm giúp “khẳng định” chủ quyền của VN trên hai vùng lãnh thổ HS và TS. Ngược lại, chính phủ VNDCCH đã nhiều lần, thể hiện bằng các văn từ ngoại giao, hay bằng các tài liệu sách giáo khoa, bản đồ, báo chí… nhìn nhận chủ quyền của TQ ở HS và TS.
TS Vũ Thanh Ca cố gắng giải thích việc VNDCCH “thực thi chủ quyền liên tục tại HS và TS” bằng cách nại Hiệp định sơ bộ 1946 ký kết giữa ông Hồ và Pháp.
Thật là tai hại chồng lên tai hại. Nội dung Hiệp định sơ bộ nói gì ?
Nói là “VNDCCH là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp”.
Cụm từ “quốc gia tự do” nguyên văn tiếng Pháp trong Hiệp định sơ bộ 1946 là “Etat libre”.
“Etat” ở đây phải hiểu là “tiểu bang” chớ không phải là “quốc gia”.
VNDCCH chỉ là một “tiểu bang” thuộc “liên bang Đông dương” thuộc Pháp. Lãnh thổ “tiểu bang” VNDCCH chỉ bao gồm Bắc kỳ và quyền ngoại giao tùy thuộc vào Pháp. Nam kỳ (Cochinchine vẫn còn là nhượng địa của VN cho Pháp). Thẩm quyền của ông Hồ trong chính phủ VNDCCH thực chất còn thấp hơn cả viên Toàn quyền Pháp. Bài viết của tôi nhiều năm trước đã đăng ở đây, nói khá rõ về việc này.
Pháp trở lại Đông dương, thâu hồi chủ quyền các vùng lãnh thổ ở đây, thông qua các thỏa thuận với Anh (miền Nam dưới vĩ tuyến 16) và với tưởng Giới Thạch qua các thỏa ước Trùng khánh tháng hai 1946, trao đổi quyền lợi kinh tế ở hoa Nam lấy lãnh thổ Bắc kỳ, quân Pháp thay thế quân Trung hoa (miền Bắc vĩ tuyến 16).
Dĩ nhiên Pháp cũng thâu hồi HS và TS, vào các năm sau 1946, tuyên bố trước cộng đồng thế giới việc cắm mốc dựng bia chủ quyền, sau đó sáp nhập vào lãnh thổ VN.
Hành vi này của Pháp thể hiện việc tái khẳng định chủ quyền HS và TS. Các vùng lãnh thổ này bị Nhật tước đoạt năm 1939 và sáp nhập vào lãnh thổ Đài loan. Sau khi thua trận tháng 8 năm 1945, Nhật phải trao lại cho Đồng minh quyền quyết định về chủ quyền tương lai của tất cả các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm trước Thế chiến. Dĩ nhiên trong đó có VN và các đảo HS và TS.
Điều này không hề chứng minh hành vi VNDCCH “thực thi chủ quyền liên tục tại HS và TS”.
Trong khi đó, cho đến trước khi thắng trận Điện Biên Phủ tháng năm 1954, thực thể VNDCCH không hề được xem như là một “quốc gia”, trên phương diện “thực tế”, cũng như được nhìn nhận có một “tư cách pháp nhân quốc tế”.
VNDCCH không phải là “quốc gia độc lập, có chủ quyền” như ý kiến của TS Vũ Thanh Ca.
Theo sử liệu chính thức, cuộc “cách mạng tháng tám” được khởi động từ 14-8-1945, sau quyết định của đảng CS Đông Dương tại cuộc họp Tân Trào. Cuộc “cách mạng” chấm dứt ngày 30 tháng 8 sau khi vua Bảo Đại thoái vị giao ấn kiếm cho đại diện CS. Cũng theo sử liệu “chính thống”, cuộc cách mạng xảy ra “dưới sự lãnh đạo của đảng, 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa dành lại chính quyền…”.
Trong vòng có mấy ngày, từ sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, cho đến ngày 2 tháng chín, mà “cách mạng tháng tám” đã “bài phong, đả thực” giành chính quyền từ tay Nhật, kiểu “xoá bỏ chính quyền Nhà nước của thực dân và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nước ta… »
Các điều này hiển nhiên là “sử phịa”.
Thế chiến thứ II tại Châu Á kết thúc sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng ngày 15 tháng tám năm 1945. Chủ quyền của VN trong tay Nhật từ nay giao lại cho phe chiến thắng là Đồng minh. Việc giải giới quân Nhật tại VN được qui định : Quân đội Anh quốc phụ trách vùng phía nam vĩ tuyến 16 và quân đội Trung Hoa phụ trách phía bắc vĩ tuyến 16.
Ngày 9 tháng chín năm 1945 quân của Trung Hoa do Tiêu Văn và Lư Hán dẫn đầu có mặt tại Hà Nội. Tương tự, liên quân Anh-Pháp cũng có mặt ở miền Nam.
Làm gì có vụ lực lượng cách mạng chạy đua giành chính quyền với quân đội Đồng Minh hay việc 20 triệu nhân dân ta nhất tề vùng dậy giành lại chính quyền như các sử gia đã viết ?
Làm gì có vụ, như sử liệu chính thống đã viết, “lực lượng cách mạng” đã “đánh” Nhật “giành chính quyền” ở một số tỉnh thành (ngoài Bắc).
Trên thực tế không có “đánh đấm” gì hết.
Ngày 15 tháng tám quân Nhật đã bỏ súng đầu hàng. Thẩm quyền của Nhật tại VN đã chuyển sang lực lượng Đồng minh. Trong tay quân Nhật (ở VN) đâu còn cái (chính quyền) nào để “cách mạng” cướp (hay giành) ?
Mặt khác, khi Tiêu Văn và Lư Hán dẫn quân qua VN theo như qui định của phe thắng trận, dọc đường lực lượng này tước “quyền hành” của “chính quyền cách mạng” và trao lại cho phe thân Trung Hoa.
Cũng không hề có vụ “bài phong” qua việc việc “lực lượng cách mạng” cướp chính quyền từ tay Bảo Đại (ngày 30-8).
Quốc gia mang tên là “Đế Quốc Việt Nam” do Bảo Đại lãnh đạo ra đời ngay sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 10 tháng 3 năm 1945. Vấn đề là, theo qui định của phía thắng trận, tất cả những chính quyền do Nhật dựng lên (ở các vùng lãnh thổ chiếm đóng) đều không được nhìn nhận.
Đế quốc VN của Bảo Đại (cũng như Đế quốc Mãn Châu của Phổ Nghi) quyền hành của chính quyền Bảo Đại là không có thật. Quân đội không có. Ngân sách không có. Ngoại giao cũng không. Tất cả đều phải thông qua Nhật.
Vậy thì “lực lượng cách mạng” có thể “cướp” cái gì ở “quốc gia” của ông Bảo Đại ? Người ta đâu thể cướp cái mà người khác không có ?
Còn việc “20 triệu nhân dân ta nhất tề vùng dậy” cũng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Miền Bắc vừa thoát nạn đói vào tháng 5, với 2 triệu người chết. Ba tháng sau người dân có thể nổi dậy để giành cái ăn. Nói 20 triệu người “nhất tề vùng dậy” giành chính quyền trên tay Nhật là điều hoang đường, không thuyết phục được ai hết.
Vậy mà phịa sử kiểu lê văn tám đến nay vẫn còn truyền tục, nhồi nhét vô đầu những thế hệ học sinh VN.
Vì vậy cái gọi là “nước VNDCCH được thành lập, là một nhà nước độc lập, có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ...”, không hề suôn sẻ như ý kiến của TS Vũ Thanh Ca.
Riêng các đoạn (4), (5) và (6) nói về sự khai sinh của Quốc Gia Việt Nam theo Hiệp ước Elysée 1948.
Có rất nhiều điều để nói về Quốc Gia Việt Nam, như việc Quốc gia này tham dự Hội nghị San Francisco. Điều đầu tiên là quốc gia này không có bất kỳ một liên quan nào đến “quốc gia” VNDCCH.
Quốc gia gọi là VNDCCH thành lập ngày 2 tháng chín năm 1945 là một “nhà nước mới”, mở ra “kỷ nguyên mới”, đoạn tuyệt với các chế độ phong kiến và thực dân, đúng như nội dung bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung Tuyên ngôn có đoạn:
Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Lê Duẩn :
« Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân… Nó đã xoá bỏ chính quyền Nhà nước của thực dân và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nước ta… »
Khi đã “đoạn tuyệt” với “phong kiến” và “thoát ly hẵn” với thực dân để thành lập “nhà nước mới”, thì làm gì có “kế thừa”, làm gì có “liên tục quốc gia” ?
Chỉ có Quốc gia Việt Nam và VNCH kế thừa nhà nước bảo hộ Pháp, được Pháp “trả độc lập” và chủ quyền ở Nam Kỳ, mới là phía VN “liên tục quản lý về hành chánh, quốc phòng cũng như khai thác kinh tế” hai quần đảo HS và TS.
Tức là các ý kiến của TS Vũ Thanh Ca thay vì chứng minh “quá trình thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” lại chứng minh ngược lại, VNDCCH “đoạn tuyệt” với HS và TS.
Trong khi đó nhà nước CHXHCNVN hôm nay là nhà nước “tiếp nối” VNDCCH.
Các học giả VN nếu vẫn giữ quan điểm “lịch sử lê văn tám”, tiếp tục nhặp nhằng sử dụng VNCH như là một “thứ đồ chơi”, lúc cần thì ve vuốt để lấy bằng chứng đối chất với TQ về chủ quyền ở HS và TS. Lúc không cần thì hạ bệ, sỉ nhục VNCH, xem thực thể này là “ngụy”, là “tay sai”, là “giặc”...
Thái độ đó là thái độ “bất lương”. Nếu sau này VN mất thêm đảo, mất biển… dĩ nhiên trách nhiệm là của đảng CSVN. Nhưng học giả VN còn có trách nhiệm nhiều hơn.
“Thằng” lịch sử không ai biết mặt nó là ai. Nhưng đích thị nó là thằng “ngàn năm bia miệng”, không bỏ sót tên “học giả đỉnh cao” nào hết.
https://nhantuantruong.blogspot.com/2020/05/ve-cac-y-kien-cua-pgsts-vu-thanh-ca.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.