Chúng tôi đã du lãng, khi thì lướt nhanh trong một vài ngày, rồi thì khi ở lại nhiều ngày, tại khu vực Thác Bản Giốc.
Từng năm đi qua. Mùa hè có, mùa đông có. Khi thì cố thủ trong làng bản, khi thì ra mướn nhà trọ ở vùng biên tiện cho đi đi lại lại. Khi thì theo quang gánh mà sang chợ bên kia, khi thì theo các thầy các bà đi cúng đi lễ các nơi bên này. Khi thì lên tận đỉnh cao núi thẳm, khi thì ngụp dưới suối. Khi lang bang trong những túp lều nhỏ, khi la cà ở các nhà giữa đồng không mông quạnh.
Ví dụ đã kể nhanh ở đây hay ở đây.
Đó là vùng Thác Bản Giốc, vùng xã Đàm Thủy, vùng huyện Trùng Khánh.
Nhưng mà chưa động bút viết gì về mối quan hệ với vương triều Mạc của vùng đất đó. Là vì, còn đang chưa tìm ra được những dấu vết trọng yếu (theo quan điểm của tôi).
Bây giờ là một ghi chép của thầy giáo Nông Đình Đâu (nguyên là giáo viên môn Toán, người ở địa phương).
---
DẤU ẤN MỚI VỀ NHÀ MẠC Ở CAO BẰNG
11/05/2019
359 lượt xem
HỆ THỐNG THÀNH ĐÁ PHÒNG THỦ CỦA NHÀ MẠC Ở VÙNG BIÊN GIỚI ĐÔNG CAO BẰNG
Khu vực núi đá vôi Lũng Ngao, Lũng Pảng (cuối xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh) có một hệ thống hang động không xác định được độ sâu, độ rộng và sự thông liền nhau. Trên đường vào những hang động có các dãy thành đá xếp thô bề rộng trung bình 1,5m, cao nhất đến 5m. Ngày nay, các dãy thành đá này nằm dưới những bụi cây rậm rạp, nhiều bức thành đã bị phá hủy để phục vụ sản xuất, phục vụ du lịch. Song song tồn tại cùng với những dãy thành đá là những dấu tích, truyền ngôn và truyền thuyết về nhà Mạc nhưng sử sách không có dòng nào ghi nhận về sự tồn tại này.
Lũng Ngao, một thung lũng gần tròn, đường kính khoảng 600m, xung quanh núi đá bao bọc. Trong các quả núi ấy đều có hang động, có thể thông nhau. Đường vào Lũng Ngao qua trước làng Khuổi Ky, rẽ trái lên đèo, vượt qua một khe núi xuống lũng. Lên gần đến đỉnh đèo cóhai dãy tường thành trên dưới cách nhau khoảng 30m, cả hai dãy đều để cửa đi lên rộng gần 2m, chiều cao thành hơn 3m, nối liền hai sườn núi. Chiều dài dãy dưới hơn 40, dãy trên 30m. Hai dãy thành này đã bị phá hủy năm 2015, vì hạ đèo làm đường ô tô vào tận cửa động Ngườm Ngao, tiện cho khách du lịch.
Vào đến Lũng Ngao, gần bên trái chân đèo có hang Ngườm Hoài thông suốt dãy núi bên trái lũng đi ra phía trên làng Bản Giốc. Cửa vào hang gần bằng mặt lũng, có dãy thành đá dài đến 20m, phần còn lại đến bây giờ cao hơn 2m.
Từ chân đèo đi thẳng về phía trước đến chân quả núi Phja Giẻ. Giữa chân núi Phja Giẻ là cửa chính vào động Ngườm Ngao. Chắn cửa vào động bằng dãy thành đá cao hơn 3m, dài hơn 10m, đầu dãy thành bên trái mở một cửa ra vào động cao 2m, rộng 1m với khung cửa gỗ nghiến dầy 18cm, rộng 30cm. Ban quản lý du lịch cải tạo đường ra vào động đã phá dỡ dãy thành đá và khung cửa gỗ nghiến ấy, còn lại tường kè chân đường lên động.
Dòng suối nhỏ từ Bản Thuôn chảy vào chân núi Phja Pảng (liền sau quả núi Phja Giẻ), đi qua động Ngườm Ngao ra chân núi Phja Pảng phía bên kia, cách phía trên làng Khuổi Ky 1km. Nơi suối chảy vào núi là một cửa hang rất rộng và cao (dân Bản Thuôn gọi là Ngườm Cải), có dãy thành đá chắn cửa vào hang dài hơn 30m, từ chân thành phía trong hang đến mặt thành có chỗ cao đến 5-6m. Dân làng Bản Thuôn thường đốt đuốc đi vào cửa hang này ra Lũng Ngao để đi chợ, đi học…khi trời mưa, đèo trơn.
Không rẽ lên đèo vào Lũng Ngao, đi men theo chân núi hơn một km sẽ thấy cửa ra của con suối ở chân núi. Liền cửa suối ra có dãy thành đá chắn đường lên Lũng Pảng. Dãy thành đá này, dân dỡ lấy làm bờ mương, xây đập chắn nước vào ruộng, nay chỉ còn chân thành và bậc đi lên.
Sau quả núi Phja Giẻ ở Lũng Ngao là quả núi Phja Pảng to, cao nhất vùng. Lưng chừng núi Phja Pảng là vạt đất dốc thoai thoải, gọi là Lũng Pảng. Chân Lũng Pảng có dãy thành đá dài hơn 100m nối liền hai sườn núi. Từ dãy thành trước cửa suối ra đi lên dốc núi đến dãy thành chân Lũng Pảng khoảng 300m. Vượt dãy thành này đi lên mé trái Lũng Pảng hơn 100m, đến gần đỉnh núi Phja Pảng thấy chỗ núi bị thủng sang bên Bản Thuôn (tiếng Tày gọi là “Lộng”). Giữa “Lộng” có cửa hang đi xuống lòng núi, không biết độ sâu đến đâu, khi lăn đá xuống, nghe tiếng loong coong nhỏ dần rồi tắt lịm. Đã có người ở làng Khuổi Ky dẫn khách Tây thám hiểm đi xuống hang này, kể lại: “Có thể bước xuống, nhưng dốc tức, để an toàn phải đeo dây bảo hiểm. Đi xuống 3-4 tầng hang thấy một lỗ to bằng cái mẹt đen ngòm, không dám xuống nữa. Các tầng hang sâu ngang vào núi không thể xác định được độ cao, rộng, thấy có các cột nhũ đá trằng rất đẹp”. Chắn trước cửa “lộng” có dãy thành đá dài khoảng 30m, cây cối trùm lên rậm rạp. Đá của thành vơi đi nhiều vì người lên đến đây thường lấy đá thành lăn xuống hang để nghe cho vui tai.
Từ “lộng” Phja Pảng đi xuống bên trái là khu vực cuối làng Bồng Sơn. Hiện nay còn dấu tích con đường cho người, ngựa đi lên Lũng Pảng. Cuối đường lên đến Lũng Pảng có dãy thành đá cùng vọng gác. Xuống đến chân núi Phja Pảng, phía bên làng Bồng Sơn có quả đồi đất ở bên trái chân đèo tên là Pò Keo (Đồi Kinh- nơi binh lính nhà Mạc là người Kinh ở đấy). Trên Pò Keo là bãi đất rộng thoai thoải về bốn phía, một đường vành đai rộng 3-4m, bằng phẳng, vòng quanh khép kín mỏn đồi. Dân làng Bồng Sơn nói đây là đường tập ngựa của quân Mạc. Phía bên phải chân đèo, vượt qua con suối nhỏ có ngôi nhà thờ cúng, ba bức tường xây bằng đá, rộng và sâu vào 3m, mái lợp ngói âm dương, hướng lên Lũng Pảng. Dân làng Bồng Sơn gọi Rườn Đình. Đây là đình thờ người đứng đầu nhà Mạc. Liên quan đến ngôi đình này có chuyện truyền miệng của dân làng: Trước đây, ở chân đèo lên Lũng Pảng, có một nhà họ Nông Tự, có công với nhà Mạc: Chữa bệnh cho Vua và các tướng sỹ, là gia đình thân thiện với nhà Mạc, được nhà Mạc giao giữ một quyển sách chữ Nho, quyển sách lâu ngày đã hỏng và mất rồi). Gia đình họ Nông Tự là chủ lễ cúng tế ở ngôi đình này. Hàng năm, vào ngày Dậu đầu tháng ba âm lịch, cả làng Bồng Sơn (gồm 3 xóm) mỗi gia đình một người đến đình mổ lợn, cúng tế, chia thịt cho mỗi nhà một miếng lấy lộc, còn lại nấu ăn chung tại đình.
Sau xóm Bản Cải (xóm trung tâm của làng Bồng Sơn) là hai quả núi nhỏ liền nhau. Ở khe hai quả núi có dãy thành đá dài hơn 20m, cao hơn 2m chắn đường lên đỉnh quả núi to, có thể trên ấy là chốt lính canh. Trước xóm Bản Cải khoảng 300m, có gò đất bằng phẳng, rộng hơn 1ha, hình bầu dục, xung quanh trồng cây sau sau làm hàng rào, bên ngoài là đường vành đai rộng 5-6m khép kín và đồng mức. người làng bồng Sơn nói: Đây là khu đất quân nhà Mạc làm nghi lễ và luyện tập binh mã, nên bây giờ rất thiêng. Những cây sau sau làm hàng rào khu đất, không ai dám chặt lấy một cành, cây già, tróc rễ đổ xuống, phải để nó tự mục hết mới dám dọn rác. Cho nên, những cây làm hàng rào khu đất này đến ngày nay (hơn 4 thế kỷ) trở thành một cụm cây sau sau cổ thụ, tồn tại sừng sững trước xóm Bản Cải của làng Bồng Sơn.
Trên Lũng Pảng, ở trong khoảng đất tương đối bằng có một hòn đá đơn độc bằng cái giường cá nhân, cao gần 1m, giữa cạnh hòn đá lõm xuống một lỗ to bằng cái bát đựng canh, sâu hơn 30cm, có nước trong veo, mực nước không thay đổi, bốn mùa không bao giờ cạn, tát cạn đi một lúc lại có nước như cũ. Người làng Khuổi Ky vẫn truyền miệng câu chuyện: “Một hôm vua ngồi trên hòn đá này, cần có nước, vua đảo cán bút cắm xuống cạnh hòn đá, đá lõm xuống và có nước đến ngày nay”.
Người làng Bồng Sơn lại lưu truyền hai chuyện khác: 1. “Quân Mạc đông lắm, vác giáo đi qua dưới một nhà kho chứa thóc, ngọn giáo miết lên đầu xà nhà kho làm lõm lên gần gang tay”. 2. “Quân Mạc đóng trên Phò Keo, quân Lê vây hãm ở dưới, không cho xuống lấy nước, nghĩ rằng không có nước quân Mạc sẽ tự bại, Quân Mạc biết ý, tìm một nơi để Quân Lê nhìn thấy, lấy gạo tung lên mình ngựa, quân Lê tưởng quân Mạc tắm ngựa, nghĩ là ở trên ấy có nhiều nước, tắm được cả ngựa, họ vẫn mạnh, không thể tấn công tiêu diệt được, nên rút quân đi”.
Ngoài các dãy thành đá ở Lũng Ngao, Lũng Pảng và các dấu tích khác ở làng Bồng Sơn còn có dấu tích thành đất và lò gạch ở khu vực Nà Ay. Nghe nói, thành đất bao quanh khu lò gạch khá rộng, bên trong có hai đám đất lõm xuống hình tròn, đường kính khoảng 30m, có dấu tích các lò gạch ở quanh bờ và gạch nung lát trên nền một khu đất. Thành đất ở bốn phía dân phá đi để làm rẫy trồng ngô và dỡ hết gạch đi xây nhà. Hiện nay còn lờ mờ một đoạn thành đất, loại gạch nhà Mạc được thấy nằm rải rác ở các xóm quanh vùng này.
Tính sơ bộ, tổng số thành đá ở khu vực Lũng Ngao, Lũng Pảng và sau làng Bồng Sơn nghìn khối đá xếp thô, chưa kể công làm đường từ cuối làng Bồng Sơn lên Lũng Pảng 1km, làm đường tập ngựa quanh quả đồi cạnh Pò Keo và cải tạo đồi |Đoỏng Vạ làm trung tâm huấn luyện binh mã ở trước làng Bồng Sơn. Với khối lượng công việc này, cần một lực lượng nhân công rất lớn, tiến hành trong khoảng thời gian khá dài. Lực lượng ấy chỉ có thể là binh lính, làm việc cật lực để xây dựng một căn cứ quân sự, phải đảm bảo bí mật, không được phép theo dõi ghi chép, cho nên không có dữ liệu và sự kiện xây dựng công trình này được ghi trong sử sách. Ngày nay, nếu đối chiếu, so sánh với các công trình khác của nhà Mạc xây dựng ở Cao Bằng thì công trình thành đá phòng thủ ở khu vực Đàm Thủy là kỳ công và vĩ đại nhất.
Thành đá chắn cửa Ngườm Cải bên Bản Thuôn
Đồi Đoỏng Vạ trước làng Bồng Sơn
Gạch của nhà Mạc
NGÔI NHÀ THỜ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU HỌ MẠC
Ở cuối làng Bồng Sơn (xã Đàm Thủy, Trùng Khánh, Cao Bằng), có một ngôi nhà nhỏ, dân địa phương gọi là Rườn Đình, nơi thờ Phỏ thầu (Người đứng đầu) nhà Mạc. Hàng năm, cứ đến ngày Dậu đầu tháng ba âm lịch, làng Bồng Sơn tiến hành lễ cúng tế ở trong ngôi nhà ấy, chủ tế là một gia đình họ Nông Tự, thầy tế là một thầy cúng trong dòng họ Mạc. Nề nếp thờ cúng này đã trải qua gần 400 năm, không bỏ khuyết năm nào. Một điều trăn trở từ đời này sang đời khác là không biết thờ ai, vì sao có nếp thờ cúng ấy?
Năm nay, lễ cúng tế vào ngày Dậu – 14 tháng 3 Kỷ Hợi (18/4/2019). Theo nếp xưa, chủ tế là gia đình anh Nông Tự Ngữ ở xóm Bản Cải, làng Bồng Sơn, thầy tế là ông Mạc Văn Khì ở xóm Háng Thoang, cùng xã Đàm Thủy. Từ 8 giờ sáng, vợ chồng anh Ngữ cùng 6 người trong làng theo cắt cử luân phiên và ông thầy cúng đã đến Rườn Đình chuẩn bị cho buổi cúng tế. Vợ chồng anh Ngữ lập đàn tế trước nhà thờ, ông thày cúng dán các tấm thờ tự vào các vị trí phía trên các mâm hương lễ, còn các anh em phục vụ khẩn trương đun nước mổ gà, mổ lợn làm đồ tế lễ. Buổi lễ cúng tế kéo dài từ 9h30’ đến 11h30’. Sau cùng là bữa cơm của chủ tế, anh em đại diện trong làng cùng với thày cúng ở trong ngôi nhà thờ. Trước đây, mỗi gia đình một người mang theo cái bát, đôi đũa, chờ tế xong, cả làng ăn cơm chung tại sân nhà thờ. Từ ngày vào hợp tác (khoảng năm 1960), bỏ lệ ăn chung cả làng, sau lễ tế chia cho mỗi nhà một mảnh thịt lợn dài hơn một gang tay, gọi là lấy lộc.
Tôi là người ở làng Khuổi Ky. Nếu đi ngược dòng suối trước làng hơn 2km thì sẽ đến Rườn Đình. Hồi còn nhỏ, tôi thường chăn trâu ở khu vực Rườn Đình. Dù nắng nóng hay mưa to, tôi cùng bọn trẻ chăn trâu không ai dám vào trú trong ngôi nhà thờ cúng này. Vì chúng tôi nghĩ đây là nơi thờ thần thánh linh thiêng. Khi ấy Rườn Đình chưa hỏng nát như bây giờ. Tôi nhớ như in, đó là ngôi nhà hai mái ngói âm dương, phần mái chìa ra bốn xung quanh khoảng 50cm. Mặt sau và hai mặt hồi xây tường đá sát mái. Hai góc nhà mặt trước xây vào mỗi bên khoảng 80cm, tạo thành một cái cửa to rộng và cao đến mái ngói. Ngày trước, dân hai xóm Khuổi Ky và Bản Gun cũng lên cúng tế ở Rườn Đình cùng với dân làng Bồng Sơn vào ngày Dậu tháng 3 hàng năm. Nhưng từ khi vào hợp tác, dân hai xóm này không tham gia cúng tế nữa. Cuộc sống mưu sinh kéo dài ở nơi xa quê làm tôi quên cái Rườn Đình khá lâu. Nay về già, lại nhớ đến quê hương, nhớ đến những gì đã ăn sâu vào tâm trí của mình, trong đó có dấu tích thành đá trên Lũng Pảng và cái Rườn Đình ở chân núi Phja Pảng phía bên làng Bồng Sơn, tôi cũng như mọi người ở quê chưa hiểu rõ vì sao lại có các hiện vật và các truyền ngôn về nhà Mạc ở nơi đây. Được biết sẽ tiến hành tế lễ ở Rườn Đình vào ngày 14/3 này, tôi xin phép ban lãnh đạo làng Bồng Sơn đến dự để tìm hiểu về những điều trăn trở trong ký ức lâu nay.
Trước tiên tôi nghĩ đến cái tên “Rườn Đình”. Ngôi nhà thờ cúng nàytrông giống như cái miếu, như cái thổ công của các làng xóm. Nhưng vì sao lại gọi là “Rườn Đình”? Rườn là tiếng Tày, nghĩa là cái nhà; Đình cũng là cái nhà. Thông thường mọi người hiểu “đình” là cái nhà để tiến hành các lễ nghi quan trọng. Vậy “Rườn Đình” là cái nhà để tiến hành lễ nghi cúng tế quan trọng. Nếu là miếu hoặc thổ công thì chỉ những người dân theo tín ngưỡng thường đến dâng lễ, thắp hương để cầu tài, cầu phúc, vào ngày sóc, ngày vọng. Thực tế ở Rườn Đình, cả một làng đã tiến hành lễ cúng tế long trọng: Mổ lợn, gà, làm xôi, hương hoa …và có thầy cúng tế nghiêm trang, chỉ vào một ngày trong năm – Ngày Dậu đầu tiên của tháng ba âm lịch. Nghi lễ này chỉ dùng để thờ một nhân vật tối cao như vua, chúa. Xét hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ không có điều kiện để xây một cái đình to đẹp, mà chỉ là cái đình nhỏ do nhân dân của một làng xây nên. Mặc dù là cái đình nhỏ bé, nhưng nghi lễ thờ cúng luôn nghiêm túc theo tập tục, nề nếp tế lễ đối với bậc tối cao. Có thể nói rằng, khắp tỉnh Cao Bằng hay rộng hơn là cả vùng Việt Bắc, không có một cái “Rườn Đình” thứ hai có nề nếp cúng tế như thế.
Tiếp theo, tôi tìm hiểu vì sao lại có cái “Rườn Đình”. Lãnh đạo cũng như dân làng Bồng Sơn đều kể như nhau: Khi nhà Mạc vể ở trên núi Phja Pảng, ở chân núi Phja Pảng đã có một cái nhà đơn độc của gia đình họ Nông Tự. Gia đình Nông Tự này đã trở thành thân thiết với những người nhà Mạc về ở đây. Đặc biêt là gia đình Nông Tự đã có công chăm sóc những ngày cuối đời của ông đứng đầu nhà Mạc và được ông ấy giao cho giữ quyển sách chữ Nho, dầy bằng ngón tay cái, cỡ 13 x18cm, bằng giấy bản và chắc là còn được căn dặn nhiều điều khác. Sau khi ông ấy qua đời, gia đình nhà Nông Tự đã dựng một cái nhà nhỏ để thờ ông ấy. Ban đầu, cái nhà thờ cúng làm bằng bốn cột gỗ, lợp ngói, hướng theo dòng suối chảy xuôi. Trong ba năm liền sau đó, làng Bồng Sơn bất an: Hổ báo vào tận chuồng bắt lợn, bắt bò; hươi nai nhảy lên mái nhà đạp vỡ hết ngói; ruộng đồng, nương rẫy đầy sâu bọ. Đi bói được báo: Phải xuay hướng nhà thờ cúng. Đến lúc này, cả làng Bồng Sơn góp công, góp của làm lại nhà thờ cúng mới, các mặt tường xây bằng đá, lợp ngói âm dương, nhà hướng lên núi Phja Pảng, từ đấy gọi là “Rườn Đình”. Ngay sau khi hoàn thành “Rườn Đình”, làng Bồng Sơn được bình yên trở lại. Nhà Nông Tự làm chủ các cuộc tế lễ, người hành lễ cúng tế là người của họ Mạc, cùng với sự tham gia của cả làng, trở hành nề nếp tế lễ đến ngày nay. Việc cúng tế ở “Rườn Đình” vào ngày Dậu đầu tiên của tháng ba âm lịch, phải chăng đó là ngày giỗ của người đứng đầu nhà Mạc đã mất ở vùng này.
Người đứng đầu nhà Mạc ấy tên là gì, chắc là đã ghi trong quyển sách giao cho nhà Nông Tự giữ gìn. Nhưng thật đáng tiếc, sau gần 400 năm, quyển sách đó do không có điều kiện bảo vệ an toàn, nên bị mục nát, các trang dính bết với nhau, không thể đọc được nữa. Cách đây hơn 20 năm, gia đình Nông Tự giữ quyển sách ấy bán nhà để chuyển vào miền Nam sinh sống, quyển sách không còn nữa. Cho nên, tên người đứng đầu họ Mạc đã mất ở nơi đây vẫn còn là ẩn số.
Việc thờ cúng là việc của con cháu nội tộc. Việc cúng tế tại Rườn Đình thờ người đứng đầu nhà Mạc phải là con cháu trong dòng họ Mạc.Ông Mạc Văn Khì, thầy cúng tế nói rằng: Gia đình tôi làm thầy tào, thầy cúng truyền từ đời này sang đời khác. Việc cúng tế ở Rườn Đình đều do gia đình tôi qua các đời cụ kỵ từ ngày xưa đảm nhiệm. Các cụ truyền lại: Đây là nhà thờ ông vua đấy, nhưng không biết tên là gì.
Ngôi nhà thờ vị đứng đầu ấy hướng lên mỏm đồi mà dân làng Bồng Sơn gọi là Phò Keo (Đồi Kinh – Quân nhà Mạc là người Kinh ở dưới xuôi lên, đóng ở đây). Họ còn nói rõ hơn: Trên mỏm đồi ấy rộng lắm, mặt bằng hơi thoai thoải, có một con đường rộng 3-4m, bằng phẳng, đồng mức chạy vòng quanh, khép kín mỏm đồi, đó là đường tập ngựa của quân nhà Mạc. Phía trái hướng nhà thờ là dãy núi Phja Pảng, liền với đồi Phò Keo. Nhìn lên thấy một khe núi thấp hẳn xuống, qua khe núi này rẽ phải sẽ lên đến chỗ núi bị thủng sang bên Bản Thuôn, chỗ núi thủng tiếng Tày gọi là “lộng”. Giữa “lộng” có một cửa hang rộng khoảng 3m, đi sâu xuống lòng núi. Một dãy thành đá dài khoảng 30m chắn trước cửa “lộng”. Vượt khe núi là bãi đất dốc xuống gọi là Lũng Pảng. Chân Lũng Pảng có dãy thành đá bề mặt rộng gần 2m, cao hơn 3m và dài hơn 100m, nối liền hai sườn núi. Dân làng Bồng Sơn nói: Vua nhà Mạc ở trên “lộng” Phja Pảng, còn quân lính thì ở đồi Phò Keo.
Các dấu tích ở trên Lũng Pảng, ở Phò Keo và ngôi nhà thờ vị đứng đầu nhà Mạc nói lên vùng đất này đã gắn bó với lịch sử nhà Mạc. Dân làng Bồng Sơn đã lặng lẽ duy trì việc cúng tế vị đứng đầu nhà Mạc tại ngôi nhà này gần 400 năm rồi. Nghĩa cử này thật đáng trân trọng. Đến nay, ngôi nhà thờ đã bị xập nát vì đã trải qua mấy trăm mùa gió bão, mưa đá. Thiết nghĩ, các cấp chính quyền địa phương cùng các con cháu họ Mạc ở mọi miền nên quan tâm, giúp đỡ dân làng Bồng Sơn trùng tu, tôn tạo lại ngôi nhà thờ này. Các cơ quan chuyên môn về lịch sử nên về đây tìm hiểu, nghiên cứu để xác định rõ sự thật về việc thờ cúng, tế lễ tại Rườn Đình. Trên cơ sở đó, các cấp chính quyền, các ngành chức năng sẽ tiến hành các thủ tục để công nhận Rườn Đình là một di tích lịch sử.
Ông Mạc Văn Nheo, Phó Chủ tịch HĐMT VN, CT HĐMT Cao Bằng đứng trước ngôi nhà thờ
Dãy núi Phj Pảng và đồi Phò Keo phía trước nhà thờ
Hai vợ chồng gia đình họ Nông Tự đang phục vụ lễ cúng tế
Ông thầy họ Mạc đang hành lễ
Tác giả: NÔNG ĐÌNH ĐÂU
Địa chỉ: Số nhà: 158, tổ 3, phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. ĐT: 0386.056.680 hoặc 0889.156.955
..
28/05/2019
65 lượt xem
Phja Pảng là quả núi to cao nhất vùng, liền với động Ngườm Ngao cuả khu du lịch Bản Giốc (Đàm Thủy, Trùng Khánh). Gần đến đỉnh Phja Pảng, núi bị thủng sang bên kia. Chỗ núi bị thủng, tiếng Tày gọi là “lộng”. Trong “lộng” có cửa hang rộng chừng 3m đi sâu xuống lòng núi. “Lộng” Phja Pảng chứa đựng những điều bí ẩn từ bao đời nay chưa có căn nguyên giải đáp.
Phja Pảng nằm giữa làng Khuổi Ky, làng Bồng Sơn và xóm Bản Thuôn. Từ làng Khuổi Ky đi 300m rẽ trái lên khe núi vào khu hang động Ngườm Ngao; Đi thẳng theo chân núi gần 1km rẽ trái qua một khe núi đi lên núi Phja Pảng. Trước đây, ở chân núi Phja Pảng có dãy thành đá dài, nay không còn dấu vết vì dân dỡ đi lấy đá làm hàng rào nương rẫy. Đi lên đến lưng núi Phja Pảng là bãi đất dốc thoai thoải gọi là Lũng Pảng. Chân Lũng Pảng có dãy thành đá gần như còn nguyên vẹn, dài hơn 100m nối liền hai sườn núi. “Lộng” Phja Pảng ở bên trái Lũng Pảng. Từ chân Lũng Pảng leo dốc hơn 100m mới đến “lộng. Chắn trước cửa “lộng” có dãy thành đá dài khoảng 30m nằm dưới đám cây lúp xúp. Qua bên kia “lộng”, xuống đến chân núi có cửa hang cao, rộng nơi con suối nhỏ chảy qua xóm Bản Thuôn vào núi Phja Pảng, qua động Ngườm Ngao, đi ra chân khe núi lên Lũng Pảng, phía trên làng Khuổi Ky. Chắn cửa vào hang này bằng dãy thành đá dài hơn 30m, cao 6-7m. Từ chân Lũng Pảng đi thẳng lên mép trên lũng, có dãy thành đá chắn đường lên từ cuối làng Bồng Sơn. Lũng Ngao ở phía bắc chân núi Phja Pảng. Trong các quả núi vòng quanh Lũng Ngao đều có hang động sâu, rộng luôn có nước nhũ đá và nước của con suối chảy qua trong núi. Trước cửa vào các hang động này đều có thành đá kiên cố.
Điều bí ẩn thứ nhất: Vì sao có nhiều thành đá ở Lũng Pảng ?
Dấu tích thành đá ở Lũng Pảng
Những dãy thành đá ấy là do con người làm nên. Tính sơ bộ, tổng số thành đá ở Lũng Ngao và Lũng Pảng đến 1300 mét khối đá xếp. Đây là công trình to lớn, đòi hỏi sự tham gia xây dựng của hàng nghìn binh lính, trong một khoảng thời gian vài năm. Đó là chứng cứ lịch sử về hoạt động của nhà Mạc ở vùng này.
Tìm hiểu về lịch sử nhà Mạc, thấy rằng: Sau khi vương triều Mạc ở Thăng Long sụp đổ, tôn thất Mạc bị phân tán đi khắp nơi, nhưng thế lực nhà Mạc vẫn còn mạnh, lòng dân vẫn hướng về nhà Mạc, các bậc Vương thất Mạc luôn nung nấu ý chí phục quốc, tái lập vương triều. Mạc Kính Chỉ con của Mạc Kính Điển (Tể tướng vương triều Mạc) đã xưng vua ở Đông Triều, Quảng Ninh, lực lượng đi theo đến 7-8 nghìn người, nhưng bị quân Lê Trịnh tiêu diệt sau một thời gian ngắn. Sau đó, Tướng quân Mạc Ngọc Liễn đã suy tôn Mạc Kính Cung, con thứ của Mạc Kính Điển lên làm vua, lấy hiệu là Càn Thống. Trước lúc lâm chung, Mạc Ngọc Liễn có di thư căn dặn Mạc Kính Cung rằng: “Nay vận nhà Mạc đã hết, nhà Lê lại phục hưng, đó là số trời. Dân ta vô tội, mà lại mắc nạn binh đao, sao nỡ thế. Bọn ta nên tránh ra ở nước khác, chứa nuôi uy sức, chịu khuất đợi thời, xem khi nào mệnh trời trở lại mới có thể làm được. Rất không nên lấy sức chọi sức, hai con hổ đánh nhau tất có một con bị thương, không được việc gì. Nếu thấy quân họ đến, ta nên tránh, chớ có đánh nhau, nên cẩn thận mà giữ là hơn. Lại chớ mời người Minh vào trong nước ta, mà để dân ta phải lầm than, đau khổ, đó cũng là tội không có gì nặng bằng”.
Nhớ tới lời của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nói với vua Mạc Mậu Hợp: “Đất Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng về sau nước có sự việc, có thể lên đấy hưởng phúc đến mấy đời”, Mạc Kính Cung có chủ trương lên Cao Bằng gây dựng sự nghiệp, trong hoàn cảnh luôn đối phó với sự truy diệt của quân Lê Trịnh. Mạc Kính Cung không thể đàng hoàng kéo quân thẳng lên Cao Bằng lập vương quốc riêng, mà phải tìm một nơi ở Cao Bằng làm căn cứ cố thủ ban đầu cũng như lâu dài, đảm bảo an toàn tính mạng, thuận việc dựng xây lực lượng, chịu khuất đợi thời, chờ thời cơ thuận lợi mới lập vương quốc, thiết lập vương triều.
Các bậc vĩ nhân, lãnh tụ của dân tộc lập nên sự nghiệp lớn đều bắt đầu nương thân nơi núi rừng hiểm trở. Lê Lợi lấy “Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình” mà đánh đuổi được quân Minh xâm lược,lập nên vương triều Lê. Hồ Chí Minh bắt đầu nương thân ở hang Pác Bó, sát biên giới Việt Trung ở Trường Hà (Hà Quảng, Cao Bằng) mà lập nên nước Việt Nam độc lập. Mạc Kính Cung đi qua Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) tìm được núi Phja Pảng thuộc đất Cao Bằng, ở sát biên giới Việt Trung làm nơi nương thân, cố thủ để bảo toàn tính mạng và lực lượng của mình. Nơi nương thân của vua Mạc Kính Cung chính là ở trong hang trên “lộng” Phja Pảng. Bằng chứng thể hiện ở các dãy thành đá từ các phía chân Lũng Pảng lên đến cửa “lộng” là để bảo vệ nơi trú ẩn của vua. Quân lính của nhà Mạc ở Lũng Ngao (phía Bắc) và ở Phò Keo (phía nam) của núi Phja Pảng. Mạc Kính Cung chọn nơi này lập căn cứ là vì vị trí địa lý thuận lợi nhiều mặt: Các hang động ở Lũng Ngao, Lũng Pảng là pháo đài thiên tạo rất hiểm trở, vững chắc, làm nơi cố thủ an toàn cho các lực lượng của nhà Mạc. Căn cứ cố thủ này tiếp giáp với vùng đồi đất, đồng ruộng rộng lớn ở cuối châu Thượng Lang và châu Hạ Lang, thuận tiện việc tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm để nuôi quân. Dọc theo đường biên giới Việt Trung của Cao Bằng, chỉ có nơi này thuận tiện qua lại giữa hai nước vì có con sông làm biên giới dài 4-5km, có nhiều đoạn qua lại dễ dàng để giao tiếp với chính quyền nhà Minh. Có thể nói vùng đất này có vị trí chiến lược đắc địa của nhà Mạc.
Nhờ có căn cứ này, nhà Mạc đã đối phó được các cuộc tấn công truy quét của quân Lê Trịnh. Điển hình, có hai trận đánh lớn của quân Lê Trịnh quyết tâm tiêu diệt vua Mạc Kính Vũ, đều không thành.
- Tháng 11 năm 1638, chúa Trịnh thân chinh đem đại quân đi qua châu Quy Thuận thuộc Quảng Tây (Trung Quốc) vượt sông đánh sang nơi giáp ranh châu Thượng Lang với châu Hạ Lang, đến nơi quân Mạc ẩn rất nhanh, không thấy tung tích đâu cả, chờ 10 ngày đành rút quân về.
- Tháng 12- 1639, Chúa Trịnh lại thân chinh dẫn đại quân đánh lên vùng Đà Dương, qua Vân Đô đánh xuống vùng biên giới Việt Trung ở cuối châu Thượng Lang. Trận này, chúa Trịnh chuẩn bị rất chu đáo, viết nhiều thư cho tướng nhà Minh và các thổ ty ở vùng biên giới bên Quảng Tây cùng hợp quân đánh Mạc Kính Vũ. Quân Lê Trịnh đến nơi hẹn, nhưng quân bên nhà Minh không ai đến, chiến dịch lại thất bại.
Ngoài hai trận đánh lớn này, Lê Trịnh đã tiến hành nhiều cuộc càn quét, rất ít khi được giao chiến với quân Mạc ở vùng này. Các đời vua Mạc thời kỳ ở Cao Bằng đã thực hiện đúng theo lời căn dặn của Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn: “…thấy quân họ đến ta nên tránh, chớ có đánh nhau, nên cẩn thận mà giữ là hơn…”.
Như vậy, Phja Pảng là trung tâm căn cứ cố thủ của vua Mạc Kính Cung và các vua Mạc sau này. Nơi trọng yếu mà vua Mạc trú ẩn là hang trong lòng núi trên “lộng” Phja Pảng, được bảo vệ bằng các tầng lớp thành đá kiên cố. Sự bố trí các dãy thành đá từ chân Lũng Pảng đến cửa “lộng” cho ta phán đoán này. Còn thực tế nơi ăn, chỗ ngủ của vua Mạc ở dưới hang trên “lộng” chưa có người khảo sát để xác nhận cụ thể.
Điều bí ẩn thứ hai: Ngôi đình ở phía nam chân núi Phja Pảng thờ một người đứng đầu nhà Mạc từ 400 năm qua, người ấy tên là gì ?
Nhà thờ, ba mặt xây đá sát mái
Bài viết: “Ba vua Mạc cuối cùng qua sử liệu Trung Quốc” của học giả Chu Xuân Giao, đăng trong kỷ yếu Hội thảo khoa học về nhà Mạc ở Vĩnh Phúc, năm 2012, nêu rõ: Vương triều Mạc thời kỳ ở Cao Bằng gồm 5 đời vua:
- Vua Mạc Kính Cung, niên hiệu Càn Thống (1593 – 1621).
- Vua Mạc Kính Khoan, niên hiệu Long Thái (1621 1625), Thái úy Thông Quốc công của nhà Lê (1625 – 1638)
- Vua Mạc Kính Vũ, niên hiệu Thuận Đức (1638 – 1661)
- Vua Mạc Nguyên Thanh, niên hiệu Vĩnh Xương (1661 – 1680)
- Vua Mạc Kính Quang (1681 – 1683)
Tóm tắt diễn biến cuộc đời của từng vị vua như sau:
- Vua Mạc Kính Cung được suy tôn lên ngôi năm 1593, đến năm 1600 lập đế đô ở thành Na Lữ, lập vương phủ ở Cao Bình (xã Hưng Đạo, TP. Cao Bằng). Năm 1621, nhường ngôi cho Mạc Kính Khoan. Năm 1625, Mạc Kính Cung và con trưởng của Mạc Kính Khoan bị quân Lê Trịnh bắt được, đem về Thăng Long hành quyết, không có phần mộ lưu giữ.
- Vua Mạc Kính Khoan lên ngôi năm 1621, đến năm 1625 bị đại quân Lê Trịnh tiến đánh Cao Bằng, lực lượng bị tổn thất nặng nề, tình thế suy yếu nên đã trá hàng Lê Trịnh để tồn tại, bằng cách nhận chức Thái úy Thông Quốc công của nhà Lê, được trấn giữ vùng Cao Bằng, đến tháng Giêng năm 1638 thì mất. Vì đang là quan Thái Úy Thông Quốc công của triều Đình nhà Lê, Mạc Kính Khoan được sống yên ổn và mất tại vương phủ Cao Bình, còn phần mộ không biết mai táng ở đâu.
- Vua Mạc Kính Vũ tiếp ngôi vua cha Mạc Kính Khoan vào tháng giêng năm 1638. Ngài đã tỏ rõ sự phản kháng, chống đối nhà Lê, không báo tang cha, tự lập niên hiệu Thuận Đức. Lê Trịnh huy động đại quân nhiều lần chinh phạt nhằm tiêu diệt Mạc Kính Vũ, nhưng đều thất bại. Mạc Kính Vũ là nhà quân sự linh hoạt, khi bị tấn công thì cho quân ẩn tránh, địch rút lại trở về. có điều kiện thì cho quân tiến đánh để mở rộng lãnh thổ. Mạc Kính Vũ khôn khéo việc ngoại giao với nhà Minh và chủ động đặt quan hệ với nhà Thanh trước nhà Lê. Tranh thủ lập quan hệ tốt với nhà Thanh bằng việc cung tiến một lượng lớn gỗ quý cho việc xây dựng tòa Tam Bảo Đại Phật ở Quảng Châu. Tháng 5 – 1661, truyền ngôi cho con trưởng là Mạc Nguyên Thanh, sau đó lui vào bí mật, không xuất hiện ở Cao Bằng nữa. Sau này được biết Ngài đã bí mật về xuôi mưu sự nghiệp và mất ở chùa Xuân Sơn, thôn Diệm Xuân, xã Việt Xuân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Phần mộ được mai táng ở vườn sau chùa Xuân Sơn.
- Vua Mạc Nguyên Thanh chính thức lên ngôi tháng 11 năm 1661, ngày nhận sắc phong chức An Nam Đô Thống sứ tại kinh đô nhà Thanh. Mạc Nguyên Thanh tiếp nhận từ vua cha Mạc Kính Vũ phần lãnh thổ hẻo lánh, nhỏ hẹp. Vùng Thái Nguyên, Lạng Sơn đã mất vào tay nhà Lê từ lâu. Những trận tấn công liên tiếp của quân Lê Trịnh đã làm hao tốn binh lực của Mạc Nguyên Thanh. Kinh đô Cao Bình nhiều lần thất thủ, làm cho Mạc nguyên Thanh phải chạy đi, chạy lại ở vùng biên giới. Đến năm 1677, đại quân Lê Trịnh tấn công Cao Bằng, đã tàn phá hoàn toàn kinh đô Cao Bình, vương triều Mạc tan vỡ. Mạc Nguyên Thanh chạy đến phủ Tứ Thành thuộc Quảng Tây, Trung Quốc tá túc, nhưng không phải “ngồi buồn một chỗ chờ chết” mà đã liên hệ với thổ ty Sầm Kế Cương ở châu Quy Thuận, Quảng Tây giúp quân lực. Liên quân Mạc Sầm tổ chức một cuộc tấn công vào thành Mục Mã, Cao Bằng. Tướng Đặng Công Chất thua nặng, bị triều Lê triệu về Thăng Long bãi chức. Sau trận ấy Mạc Nguyên Thanh mất tích, có thể chết tại trận hoặc chết ở một nơi nào đó trên đất Việt nam.
- Mạc Kính Quang là em út của Mạc Nguyên Thanh, đang cùng tôn thất Mạc tị nạn ở Tứ Thành. Đầu năm 1681, được tin anh mất đã xưng vua để làm người đại diện nhà Mạc ở đất Quảng Tây, Trung Quốc. Giữa năm 1683, chính quyền Quảng Tây được lệnh dẫn độ Mạc Kính Quang cùng hơn 300 người là tôn thất Mạc về An Nam. Gần đến Mục Nam Quan, Mạc Kính Quang uống thuốc độc tự sát để khỏi rơi vào tay nhà Lê. Không ai biết việc mai táng Mạc Kính Quang cho nên không biết có phần mộ có hay không.
Như vây, trong 5 vị vua Mạc thời kỳ ở Cao Bằng, có hai vị vua mất mà không có mộ phần là vua Mạc Kính Cung và vua Mạc Kính Quang. Một vua (Mạc Kính Vũ) biết nơi mất và phần mộ ở chùa Xuân Sơn, Vĩnh Phúc. Vua Mạc Kính Khoan biết nơi mất nhưng không biết nơi mai táng. Còn vua Mạc Nguyên Thanh không rõ nơi mất và cũng không biết phần mộ mai táng ở chỗ nào.
Ở phía nam chân núi Phja Pảng, thuộc làng Bồng Sơn, có một ngôi đình thờ người đứng đầu nhà Mạc. Lễ cúng tế vị này vào ngày Dậu đầu tháng ba âm lịch hàng năm. Chủ tế là một gia đình họ Nông Tự, người hành lễ cúng tế là một thầy cúng họ Mạc. Ngày cúng tế, cả làng Bồng Sơn mỗi gia đình một người, đến đình thờ mổ lợn, gà, xôi thịt làm đồ tế lễ, cúng tế xong, chia thịt lợn cho mỗi nhà một mảnh dài bằng một gang tay làm hồi lộc, còn lại nấu ăn chung tại sân đình. Nề nếp cúng tế này được tiến hành liên tục gần 400 năm qua, không bỏ khuyết năm nào. Dân làng Bồng Sơn truyền từ đời này sang đời khác về sự ra đời ngôi đình và nề nếp cúng tế này:
Trước đây, ở chân núi Phja Pảng chỉ có một nhà đơn độc của gia đình họ Nông Tự. Từ khi nhà Mạc về ở trên Lũng Pảng và Phò Keo (đồi người Kinh, ở liền núi Phja Pảng), gia đình Nông tự này trở thành thân thích với quan quân nhà Mạc. Đặc biệt, gia dình Nông Tự đã chăm sóc những ngày cuối đời của vị đứng đầu nhà Mạc, được quan nhà Mạc giao cho giữ một quyển sách chữ Nho bằng giấy bản, dầy bằng bề ngang ngón tay cái, rộng hơn gang tay và chắc là còn đươc căn dặn thêm những điều gì nữa. Sau khi vị đứng đầu ấy mất, gia đình Nông Tự đã dựng một ngôi nhà thờ bằng bốn cột gỗ, hai mái lợp ngói âm dương, hướng nhà xuôi theo dòng suối chảy về hướng Bắc. Ba năm liền sau đó, làng Bồng Sơn bất an, hổ báo vào tận trong làng bắt lợn, bắt bò; hươu nai nhảy cả lên mái nhà đạp vỡ hết ngói, ruộng đồng nương rẫy đầy sâu bọ. Đi bói, thầy bói nói phải xoay lại hướng nhà thờ lên núi Phja Pảng. Cả làng Bồng Sơn cùng ra tay góp công, góp của làm lại cái nhà thờ, ba mặt xây đá sát mái, mặt trước xây từ hai góc vào khoảng 80 cm, hai mái lợp ngói âm dương, thành cái thờ cửa to, rộng và hướng lên núi Phja Pảng, gọi là Rườn Đình. Sau khi hoàn thành Rườn Đình, làng Bồng Sơn được bình yên trở lại.
Còn quyển sách chữ Nho giao cho nhà họ Nông Tự giữ gìn, trải qua gần 400 năm, không có phương tiện bảo quản cẩn thận đã mục nát và hỏng hoàn toàn cách đây chừng 20 năm, thật là đáng tiếc. Nếu quyển sách ấy còn thì có thể biết Rườn Đình thờ ai.
Trong 5 vị vua Mạc thời kỳ ở Cao Bằng, chỉ có vua Mạc Nguyên Thanh chưa xác định được nơi mất. Rườn Đình ở cuối làng Bồng Sơn thờ vị đứng đầu nhà Mạc, được hiểu là thờ một vị vua Mạc. Cho nên, Rườn Đình ở Bồng Sơn là nhà thờ vua Mạc Nguyên Thanh. Điều này dẫn đến kết luận: Vua Mạc Nguyên Thanh đã mất tại căn cứ Phja Pảng. Nơi đặt mộ của vua Mạc Kính Khoan và mộ của vua Mạc Nguyên Thanh vẫn còn là ẩn số. Việc xác định nơi đặt mộ của hai vị vua này phải dựa vào quy luật chăm lo hậu sự của các bậc vua chúa: Khi thịnh trị thì xây lăng tẩm khang trang, kiên cố; Lúc loạn lạc thì phải bí mật nơi mai táng phần mộ của mình để phòng kẻ thù tàn phá sau này. Các vị vua Mạc thời kỳ ở Cao Bằng thường xuyên ở trong tình trạng loạn lạc, luôn luôn phải đối phó với sự tìm diệt của quân Lê Trịnh. Vì vậy, phần mộ của vua Mạc phải được mai táng ở một nơi thật bí mật và an toàn dài lâu. Vị trí đáp ứng yêu cầu này không có chỗ nào hơn là ở dưới lòng núi trên “lộng” Phja Pảng, một nơi rất hiểm trở ở tít trên ngọn núi cao, phải leo xuống lòng núi, ngay cả dân địa phương cũng chẳng có mấy người xuống đấy được. Chúng ta có thể phán đoán rằng: Quan tài vua Mạc Kính Khoan và quan tài vua Mạc Nguyên Thanh được đưa lên “lộng” Phja Pảng rồi đưa xuống lòng núi Phja Pảng mai táng. Đây là phán đoán theo phép suy diễn, cần được kiểm chứng bằng một cuộc khảo sát thực địa mới có kết luận cuối cùng.
Qúa trình nghiên cứu, tìm hiểu trên đây cũng đã làm sáng tỏ phần nào về sự tồn tại các dấu tích về nhà Mạc ở khu vực núi Phja Pảng. Rất mong các bạn quan tâm đến lịch sử nói chung, lịch sử nhà Mạc nói riêng, có ý kiến phản biện để làm sáng tỏ hơn lịch sử về nhà Mạc thời kỳ ở Cao Bằng.
NÔNG ĐÌNH ĐÂU
ĐT: 0386056680, email: nongdinhdaucb@gmail.com>
Ghi chú của BBT: Ông NÔNG ĐÌNH ĐÂU, Nguyên Giáo viên giảng dạy Toán học tại Trường Sư phạm tỉnh Cao bằng, sống tại địa phương Phja Pảng gần Bản dốc, quan sát thấy các di tích Nhà Mạc và đã quan tâm tìm hiểu thêm trong dân gian để viết lên bài này.
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.