Toàn bộ tư liệu vừa được công bố trên lưới toàn cầu, dịp cuối năm 2018 này. Có một văn bản viết tay có chữ kí của ông Huy Cận, cho biết Xuân Diệu sinh năm 1916 và mất năm 1985. Tức là Xuân Diệu mất năm 70 tuổi (theo cách tính truyền thống).
Đại khái, nội dung các tư liệu chỉ nhắm đến mọi sự thừa kế sau khi Xuân Diệu mất mà thôi. Không có văn bản nào mang tính tư liệu khả dĩ xuất hiện trước năm 1985.
Đọc Trần Đăng Khoa những lần thăm Xuân Diệu, hình như không thấy bác Khoa nhắc đến sự hiện diện rõ ràng của một người con nuôi nào (sẽ kiểm tra lại sau, bây giờ tạm ghi ở đây là "hình như").
Con nuôi mà không mang họ của bố nuôi. Con nuôi mà mà vẫn gọi "bố nuôi" là "bác", mà không gọi là "bố". Nhờ bác nào thạo về luật dân sự, hãy cho biết rõ hơn về luật nhận con nuôi của Việt Nam từ sau năm 1945 (và sau 1954).
Đại khái thế.
Dưới là toàn văn văn bản bà Nguyễn Thị Dương Hà vừa đưa lên.
---
.
Bởi AdminTD
29/12/2018
LS Nguyễn Thị Dương Hà
29-12-2018
Trong bài “Chính quyền Hà Nội vs gia đình ông Cù Huy Hà Vũ” đăng trên Tiếng Dân ngày 25/12/2018, tôi tố cáo chính quyền Hà Nội vào ngày 23/10/2014 đã cưỡng đoạt một phần nhà đất của gia đình chúng tôi – gia đình cố Nhà thơ Xuân Diệu tại 24 Điện Biên Phủ, quận Ba Đình, Hà Nội – và hiện nay chính quyền này đang nhăm nhe cưỡng đoạt nốt nhà đất của gia đình chúng tôi.
Cụ thể là ngày 13/12 vừa qua, chính quyền Hà Nội lập biên bản về việc vợ chồng tôi “đang xây dựng công trình không có giấy phép xây dựng” tại 24 Điện Biên Phủ. Đây là một sự bịa đặt trắng trợn và lố lăng của chính quyền Hà Nội vì vợ chồng chúng tôi chưa về lại Việt Nam sau khi sang Hoa Kỳ vào ngày 06/4/2014 theo thỏa thuận giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Hoa Kỳ. Lẽ dĩ nhiên mục tiêu của sự bịa đặt trên của chính quyền Hà Nội là đập phá nhằm tiến tới cưỡng đoạt nốt nhà và đất ở của gia đình chúng tôi. Bất luận thế nào, không loại trừ biên bản này của chính quyền Hà Nội sẽ nằm trong các sự kiện kì quái nhất Việt Nam xảy ra trong năm 2018!
Chắc chắn rằng những hành vi cưỡng đoạt và mưu toan cưỡng đoạt nhà đất của gia đình chúng tôi từ phía chính quyền Hà Nội là một sự đàn áp tiếp tục của chính quyền đối với Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ sau khi đã bỏ tù ông về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Một ngày sau khi đăng bài viết của tôi, ngày 26/12/2018, Tiếng Dân đăng bài “Về biệt thự 24 Điện Biên Phủ, quận Ba Đình, Hà Nội – Đâu là sự thật?!” của Trần Quang Thành. Điều vô lý đập vào mắt trong bài viết này là Trần Quang Thành không hề dẫn bài viết nói trên của tôi nhưng lại đòi hỏi tôi làm rõ quyền sở hữu nhà và đất ở của gia đình chúng tôi tại 24 Điện Biên Phủ! Tóm lại, bài viết này sặc mùi khiêu khích.
Mặc dầu vậy, để rộng đường dư luận, tôi viết bài này nhằm phản bác một số thông tin cũng như đáp lại những câu hỏi mà Trần Quang Thành nêu ra.
A- Trần Quang Thành viết: “Nhiều năm nay, biệt thự 24 Điên Biên Phủ được giao về chính quyền Hà Nội quản lý, mà trực tiếp là Công ty Kinh doanh và Quản lý nhà ở quận Ba Đình. Hàng tháng họ thu tiền thuê nhà của những hộ ký hợp đồng thuê nhà như hộ nhà thơ Huy Cận. Sau này tách ra 2 hộ là hộ con trai Cù Huy Hà Vũ và hộ vợ kế của cố nhà thơ Huy Cận”.
Ý kiến của tôi như sau:
Các thông tin nêu trên của Trần Quang Thành là hoàn toàn bịa đặt như chứng minh sau đây.
1/ Nhà số 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội được Phủ Thủ tướng giao cho ông Cù Huy Cận và ông Ngô Xuân Diệu (tức Nhà thơ Xuân Diệu) để ở, không phải là nhà Nhà nước cho thuê.
Từ tháng 10/1954, ngay sau khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản Hà Nội, Phủ Thủ tướng đã giao để ở nhà 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội cho ông Cù Huy Cận, lúc đó là Tổng thư ký Hội đồng chính phủ và ông Ngô Xuân Diệu, tức Nhà thơ Xuân Diệu, ủy viên Ban chấp hành Hội Văn Nghệ Việt Nam. Do đó, nhà 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội không phải là nhà Nhà nước cho thuê và vì vậy không có chuyện hộ gia đình ông Cù Huy Cận và hộ gia đình Nhà thơ Xuân Diệu ký hợp đồng thuê nhà. Sau này, có một cán bộ Bộ Văn hóa là Vũ Quang Triệu đến ở ghép tại nhà này và ông này cũng chưa bao giờ ký hợp đồng thuê nhà.
2/ Không có việc tách hộ gia đình ông Cù Huy Cận thành hai hộ là hộ ông Cù Huy Hà Vũ và hộ bà Trần Lệ Thu.
Hộ gia đình ông Cù Huy Cận gồm ông Cận, vợ kế ông Cận là Trần Lệ Thu, Cù Huy Hà Vũ (con ông Cận và bà Ngô Thị Xuân Như, em ruột Nhà thơ Xuân Diệu), Cù Lệ Duyên và Cù Thu Anh (con ông Cận và bà Trần Lệ Thu). Cho đến nay, ông Cù Huy Hà Vũ vẫn thuộc hộ gia đình ông Cù Huy Cận.
Cũng cần nói thêm rằng, hộ gia đình liên quan đến quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở. Khi ông Cận còn sống, ông Cận là người sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở mà Chính phủ giao. Do ông Cận qua đời mà không để lại di chúc nên theo qui định về thừa kế trong Bộ luật dân sự, quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở của ông Cận cũng như các tài sản khác của ông Cận trở thành di sản để chia cho vợ con của ông Cận gồm Trần Lệ Thu (vợ), Cù Huy Hà Vũ (con), Cù Thị Xuân Bích (con), Cù Lệ Duyên (con) và Cù Thu Anh (con). Do đó, cần phải có sự thỏa thuận giữa năm người thừa kế nói trên của ông Cận về phân chia quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở của ông Cận thì mới có thể chia tách hộ gia đình của ông Cận. Thế nhưng cho đến nay, việc mở thừa kế di sản của ông Cận chưa được thực hiện và cũng không có bất cứ thỏa thuận nào giữa năm người thừa kế của ông Cận về phân chia quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở của ông Cận.
Việc Trần Quang Thành bịa đặt những thông tin nói trên rõ ràng là một sự toa rập với chính quyền Hà Nội trong việc cưỡng đoạt nhà và đất ở tại 24 Điện Biên Phủ của ông Cù Huy Hà Vũ không chỉ với với tư cách người thừa kế của Nhà thơ Xuân Diệu (như chứng minh sau đây) mà còn là người thừa kế của ông Cù Huy Cận!
B- Trần Quang Thành viết: “Là người am hiểu luật pháp, mong LS Dương Hà làm rõ những từ ngữ trong đoạn văn LS đã viết dưới đây: “Sau khi chính quyền Hà Nội đã cưỡng đoạt một phần nhà đất của gia đình cố Nhà thơ Xuân Diệu mà Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ là người thừa kế tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội vào ngày 23/10/2014, chính quyền này đang nhăm nhe cưỡng đoạt nốt nhà đất của gia đình chúng tôi”. Tôi hiểu từ “cưỡng đọat” và “thừa kế” trong đoạn viết của LS Dương Hà chỉ có giá trị pháp lý khi LS có văn bản minh chứng diện tích đất và nhà gia đình LS Cù Huy Hà Vũ có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà mang tên Cù Huy Hà Vũ – Nguyễn Thị Dương Hà. Cũng tương tự phần diện tích nhà và đất do cố nhà thơ Xuân Diệu sử dụng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà mang tên Xuân Diệu không? Và có chứng cứ nào thể hiện LS Cù Huy Hà Vũ đương nhiên được hưởng quyền thừa kế với danh nghĩa là con nuôi cố nhà thơ Xuân Diệu?”.
Ý kiến của tôi như sau.
1- Nhà thơ Xuân Diệu qua đời trước khi có quy định pháp luật về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Như trên đã đề cập, nhà 24 Điện Biên Phủ được Phủ Thủ tướng giao cho ông Cù Huy Cận và Nhà thơ Xuân Diệu để ở từ tháng 10 năm 1954. Do đó, cũng như ông Cù Huy Cận, Nhà thơ Xuân Diệu có quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở tại đây. Hộ gia đình Nhà thơ Xuân Diệu gồm Nhà thơ Xuân Diệu, Nguyễn Thị Dương Hà (vợ ông Vũ), Cù Huy Xuân Đức (con trai ông Vũ với bà Hà), Cù Huy Xuân Hiếu (con trai ông Vũ với bà Hà) và Nguyễn Bá Phụng (bố vợ ông Vũ).
Căn cứ Khoản 1 Điều 105 Bộ Luật dân sự 2015 (Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản) và Điều 115 Bộ Luật dân sự 2015 (Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác), quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở của Nhà thơ Xuân Diệu tại 24 Điện Biên Phủ là tài sản của Nhà thơ Xuân Diệu.
Do Nhà thơ Xuân Diệu qua đời vào ngày 18/12/1985 trước khi có Luật đất đai 1987 và Luật nhà ở 2005 nên ông đã không có cơ hội làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất như hai Luật này quy định. Mặc dầu vậy, quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở của Nhà thơ Xuân Diệu vẫn tồn tại dưới dạng di sản thừa kế. Người thừa kế Nhà thơ Xuân Diệu, Cù Huy Hà Vũ (như chứng minh sau đây) sẽ làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Tóm lại, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất chỉ là bản đăng ký chính thức tài sản chứ không thay thế bản thân tài sản. Không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì quyền sở hữu quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất không vì thể mà mất đi. Thực tế cho thấy không một cơ quan Nhà nước nào, văn bản pháp luật nào của Việt Nam tuyên bố rằng chỉ đến khi có Luật đất đai 1987 và Luật nhà ở 2005 thì những người sống ở Việt Nam mới có quyền sở hữu quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Do đó, quan điểm của Trần Quang Thành theo đó phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà thì mới có quyền sở hữu quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà là bất chấp thực tế và pháp luật!
2- Ông Cù Huy Hà Vũ thừa kế di sản của Nhà thơ Xuân Diệu với tư cách con nuôi
Nghị quyết số 01 ngày 20/11/1988 của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình quy định tại Điểm a, Điều 6: “Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định”.
Nhà thơ Xuân Diệu (tức ông Ngô Xuân Diệu) là bác ruột ông Cù Huy Hà Vũ (Nhà thơ Xuân Diệu là anh ruột bà Ngô Thị Xuân Như, mẹ đẻ ông Cù Huy Hà Vũ), mất ngày 18/12/1985. Sinh thời, Nhà thơ Xuân Diệu không có con đẻ, đã nhận và nuôi ông Cù Huy Hà Vũ làm con từ khi ông Vũ mới ra đời (02/12/1957) với sự đồng ý của bố mẹ đẻ của ông Vũ là ông Cù Huy Cận và bà Ngô Thị Xuân Như.
Trong “Giấy xác nhận về việc nhận và nuôi con nuôi” lập ngày 8/4/1998 trướccông chứng của ông Cù Huy Cận và bà Ngô Thị Xuân Như có ghi rõ: “Ông Ngô Xuân Diệu, tức nhà thơ Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916, đã nhận anh Cù Huy Hà Vũ là cháu gọi ông Diệu bằng bác ruột làm con nuôi với sự nhất trí hoàn toàn của hai chúng tôi kể từ khi anh Vũ mới ra đời. Việc ông Diệu nhận anh Vũ làm con nuôi hoàn toàn không ảnh hưởng đến quan hệ bố mẹ đẻ với con đẻ giữa chúng tôi và anh Vũ cũng như hoàn toàn không ảnh hưởng đến mọi quyền lợi của anh Vũ phát sinh từ quan hệ này. Cho đến ngày ông Diệu qua đời (18-12-1985), ông Diệu đã thương yêu, nuôi dưỡng anh Vũ và sống hàng ngày với anh Vũ ngay tại nhà ông Diệu tại 24 Điện Biên Phủ – Hà Nội. Về phần mình, anh Vũ cũng đã làm tròn bổn phận của người con đối với ông Diệu” (Tài liệu đính kèm).
Ngoài ra, trong giấy “Công nhận người thừa kế di sản theo pháp luật của ông Ngô Xuân Diệu (tức Nhà thơ Xuân Diệu) lập ngày 10/01/1997 trước công chứng của bà Ngô Thị Xuân Như và ông Ngô Xuân Huy là hai người em ruột của Nhà thơ Xuân Diệu có ghi rõ: “Công nhận anh Cù Huy Hà Vũ, là cháu gọi ông Ngô Xuân Diệu bằng bác ruột, là người thừa kế duy nhất di sản của ông Ngô Xuân Diệu trên cơ sở thực tế sau. Ông Diệu mất đột ngột vào ngày 18 tháng 12 năm 1985. Khi mất, ông Diệu không có vợ và không có con. Nhưng khi còn sống, ông Diệu đã thương yêu, nuôi nấng và sống với anh Vũ, cháu gọi ông Diệu bằng bác ruột (là con bà Ngô Thị Xuân Như) ngay tại nhà ông Diệu ở 24 Điện Biên Phủ – Hà Nội từ khi anh Vũ mới ra đời cho đến khi ông Diệu qua đời và đã coi anh Vũ như con trai mình. Về phần mình, anh Vũ cũng đã làm tròn bổn phận của người con đối với ông Diệu. Vì vậy, trên thực tế, quan hệ giữa ông Diệu và anh Vũ kéo dài 28 năm là quan hệ cha – con” (Tài liệu đính kèm).
Bản thân ông Cù Huy Hà Vũ luôn khẳng định quan hệ giữa Nhà thơ Xuân Diệu và ông là quan hệ cha con, như ông viết trong bài “Nhớ về một người cha – Xuân Diệu” đăng trên Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA tiếng Việt) ngày 17/12/2015, và bài “Trăm năm Xuân Diệu”, đăng trên Bauxite Việt Nam ngày 07/02/2016.
Như vậy, ông Cù Huy Hà Vũ là con nuôi của Nhà thơ Xuân Diệu theo quy định của pháp luật, cụ thể là theo Nghị quyết số 01 ngày 20/11/1988 của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao.
Điểm a, Khoản 1 Điều 651 Bộ Luật dân sự quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Khi Nhà thơ Xuân Diệu qua đời, cha đẻ, mẹ đẻ của ông đã qua đời và ông không có cha nuôi, mẹ nuôi. Vì vậy, với tư cách là con nuôi của Nhà thơ Xuân Diệu, ông Cù Huy Hà Vũ là người thừa kế duy nhất của Nhà thơ Xuân Diệu.
Ngày 13/2/1995, Cơ quan bảo hộ quyền tác giả Việt Nam thuộc Bộ Văn hóa-Thông tin đã cấp cho ông Cù Huy Hà Vũ 04 Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền tác phẩm của tác giả Xuân Diệu trong đó ghi rõ Cù Huy Hà Vũ là người thừa kế của tác giả Xuân Diệu (Tài liệu đính kèm).
Cũng với tư cách người thừa kế của Nhà thơ Xuân Diệu, ông Cù Huy Hà Vũ được hưởng các di sản khác của Nhà thơ Xuân Diệu trong đó có quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội. Do đó, mọi hành vi chấm dứt một cách trái pháp luật quyền sở hữu này của ông Cù Huy Hà Vũ là hành vi cưỡng đoạt tài sản của ông Vũ. Những cá nhân thực hiện hành vi cưỡng đoạt này sẽ phải bị truy tố theo “Tội cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 170 Bộ luật hình sự 2015.
C- Trần Quang Thành viết: “Sau khi nhà thơ Xuân Diệu qua đời, theo đề nghị của Bộ Văn hóa và Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Thủ tướng Phan Văn Khải đã đồng ý để nơi cố nhà thơ Xuân Diệu đã ở, làm địa điểm lưu niệm cố nhà thơ Xuân Diệu. Những văn bản do Thủ tướng Phan Văn Khải và Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ, Phó thủ tướng Nguyễn Khánh, ký về việc này, vẫn còn lưu trữ ở Bộ Văn hóa và các đơn vị có liên quan”.
Ý kiến của tôi như sau.
Sau khi nhà thơ Xuân Diệu qua đời, theo đề nghị của Bộ Văn hóa và Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Thủ tướng Phan Văn Khải đã có quyết định thành lập “Phòng lưu niệm Nhà thơ Xuân Diệu” trên cơ sở căn phòng mà Nhà thơ Xuân Diệu đã sống ở đó. Tuy nhiên, Quyết định này của Thủ tướng là trái pháp luật, như chứng minh sau đây.
1- Trái Hiến pháp và Bộ Luật dân sự về quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế tài sản
a.- Căn cứ Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp (Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. 3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường) và Điều 163 Bộ luật dân sự – Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản (1. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. 2. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường), việc làm “Phòng lưu niệm Nhà thơ Xuân Diệu” tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội là tước đoạt quyền thừa kế của ông Cù Huy Hà Vũ đối với quyền sở hữu quyền sử dụng nhà và đất ở của Nhà thơ Xuân Diệu tại đây.
b.- Căn cứ Khoản 2 Điều 25 Bộ Luật dân sự – Quyền nhân thân (Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó) và Khoản 1 Điều 615 – Bộ Luật dân sự – Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác), việc sử dụng họ, tên của Nhà thơ Xuân Diệu dể làm “Phòng lưu niệm Nhà thơ Xuân Diệu” mà không được ông Cù Huy Hà Vũ với tư cách con nuôi của Nhà thơ Xuân Diệu đồng ý là xâm phạm quyền nhân thân của Nhà thơ Xuân Diệu cũng như xâm phạm quyền thừa kế của ông Cù Huy Hà Vũ đối với di sản của Nhà thơ Xuân Diệu.
2- Trái Luật Di sản văn hóa
a) Luật Di sản văn hóa không có qui định nào về “Phòng lưu niệm”.
b) Điều 73 Luật Di sản văn hóa qui định: “Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2002. Những quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ”.
c) Do đó, mọi văn bản của chính quyền, kể cả quyết định của Thủ tướng Chính phủ, về việc làm “Phòng lưu niệm Nhà thơ Xuân Diệu” được ban hành trước hay sau khi có Luật Di sản văn hóa đều phải bị bãi bỏ.
3- Trái Quyết định số 474/TTg ngày 16 tháng 7 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ
Căn cứ Điều 2 Quyết định số 474/TTg ngày 16 tháng 7 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ (Ba hộ gia đình hiện đang ở ngôi nhà này (ông Cù Huy Cận, Cố Nhà thơ Xuân Diệu và ông Vũ Quang Triệu) vẫn được ở nguyên trạng), làm Phòng lưu niệm Xuân Diệu là xâm phạm qui định “được ở nguyên trạng” của hộ gia đình Nhà thơ Xuân Diệu tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội.
Tóm lại, mọi hành vi làm “Phòng lưu niệm Nhà thơ Xuân Diệu” tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội từ phía các cơ quan Nhà nước, bất luận cấp trung ương hay địa phương, dứt khoát là hành vi cưỡng đoạt tài sản của cố Nhà thơ Xuân Diệu mà ông Cù Huy Hà Vũ là người thừa kế. Những cá nhân thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản này của ông Vũ này sẽ phải bị truy tố theo “Tội cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 170 Bộ luật hình sự 2015.
Kết luận lại, cách tốt nhất để làm rõ sự thật trong các đơn khởi kiện hành chính, khiếu nại và tố cáo của gia đình chúng tôi – gia đình cố Nhà thơ Xuân Diệu tại 24 Điện Biên Phủ – về việc chính quyền Hà Nội hủy hoại, cưỡng đoạt nhà và đất ở của gia đình chúng tôi, những người quan tâm và đấu tranh cho công lý, sự thật và Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hãy yêu cầu chính quyền Hà Nội nói riêng, Tòa án và chính quyền Việt Nam nói chung:
1- Chấm dứt ngay lập tức các hành vi và mưu toan cưỡng đoạt nhà đất và các tài sản khác của gia đình chúng tôi;
2- Giải quyết tất cả các khiếu nại, tố cáo của gia đình chúng tôi theo Luật khiếu nại và Luật tố cáo; và
3- Trừng trị những kẻ cưỡng đoạt nhà đất và các tài sản khác của gia đình chúng tôi theo “Tội cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 170 Bộ luật hình sự 2015.
_____
Tài liệu đính kèm:
– Giấy xác nhận về việc nhận và nuôi con nuôi” lập ngày 8/4/1998 trước công chứng của ông Cù Huy Cận và bà Ngô Thị Xuân Như;
– Giấy “Công nhận người thừa kế di sản theo pháp luật của ông Ngô Xuân Diệu (tức Nhà thơ Xuân Diệu) lập ngày 10/01/1997 trước công chứng của bà Ngô Thị Xuân Như và ông Ngô Xuân Huy;
– 04 Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền tác phẩm của tác giả Xuân Diệu cấp cho ông Cù Huy Hà Vũ với tư cách người thừa kế của tác giả Xuân Diệu.
https://baotiengdan.com/2018/12/29/quyen-so-huu-nha-dat-cua-ong-cu-huy-ha-vu-tai-24-dien-bien-phu-ha-noi/
.
---
BỔ SUNG
2.
07/02/2016
TRĂM NĂM XUÂN DIỆU
https://boxitvn.blogspot.com/2016/02/tram-nam-xuan-dieu.html
1.
Nhớ về một người cha - Xuân Diệu
17/12/2015
TS Luật Cù Huy Hà Vũ
https://www.voatiengviet.com/a/nho-ve-mot-nguoi-cha-xuan-dieu/3105780.html
..
---
BỔ SUNG
2.
07/02/2016
TRĂM NĂM XUÂN DIỆU
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Thi hào Xuân Diệu
(2/2/1916 – 2/2/2016)
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
Xuân Diệu (1963)
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Từ thuở ấu thơ, trong căn phòng đầy sách cùng hương hoàng lan của Xuân Diệu tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội hay dưới chân núi đá tai mèo Sài Sơn nơi tôi tạm xa gia đình để tránh bom khi không quân Mỹ đánh ra miền Bắc, tôi đã được người bác ruột, người cha nuôi ấy của tôi dạy thuộc lòng Truyện Kiều được mở đầu như thế.
Vậy mà ngày 2/2/2016 này, con người đã nhập môn cho tôi lẽ đời tinh kết trong khối kim cương tiếng Việt ấy của Nguyễn Du tròn “trăm năm”, cho dù đã là “thể phách” 30 năm có lẻ.
Xuân Diệu sinh ngày 2/2/1916 tại Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, là kết quả của cuộc tình giữa ông “Tú Kép” Ngô Xuân Thọ, quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, dạy học tại Collège (trường trung học) Quy Nhơn, Bình Định và bà Nguyễn Thị Hiệp, con gái một nhà làm nước mắm khá giả vạn Gò Bồi. Xuân Diệu vẫn nói với mọi người: “Má tôi bảo tôi sinh ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn”.
Có thể đóng khung cuộc đời và sự nghiệp của Xuân Diệu trong một chữ “TÌNH” viết hoa. Học đòi người xưa và với góc độ chủ quan của đứa con duy nhất của ông, tôi chiết chữ “TÌNH” của Xuân Diệu thành Tình Văn chương, Tình Bạn tri âm với Huy Cận và Tình Cha Con, Tình Ông Cháu.
Tình Văn chương
Xuân Diệu sinh ra là để làm thơ, bình văn.
Trong hồi ức của mình được Huy Cận cha tôi chép lại trong “Hồi ký Song Đôi”, Xuân Diệu cho biết: “Thầy Đoàn Nồng dạy ở Quốc học (Trường trung học Khải Định, Huế - CHHV) có mời tôi đến nói chuyện với học sinh ở trường. Trong khi thầy giới thiệu tôi thì thầy có nhắc đến một điều mà chính tôi cũng quên: “Xuân Diệu có một cái xúc cảm rất là khác, rất là lạ. Có một chiều hoàng hôn xuống, sao bắt đầu mọc, thầy trò đang đi chơi ở núi Phương Mai, thầy có hỏi học sinh tại sao sao lại mọc đông dần, nó như ẩn như hiện, như thế có thể so sánh với gì nhỉ. Có một người học trò bảo: “Tôi có cảm tưởng như đít nồi rang ấy, vì nồi rang rang xong đít còn nóng, đặt úp xuống thì có những chấm đỏ li ti hiện lên như sao mọc trên trời đầu hôm”. Người học trò ấy là Xuân Diệu, và lúc đó thầy đã bảo “Anh học trò này có một cái năng khiếu lạ”.
Vẫn Xuân Diệu cho ta biết thêm về “học trò có năng khiếu lạ” ấy:
Hãy biết rằng anh lúc ở trường
Rất tồi toán pháp, khá văn chương.
Chàng trai đi học nghe chim giảng
Không thuộc bài đâu, ấy sự thường.
Văn học Việt Nam đã chẳng phải đợi lâu, năm 1936, vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường “người thơ” Xuân Diệu đã xuất hiện trước công chúng một cách đầy chinh phục với thi phẩm “Với bàn tay ấy” đăng trên tuần báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.
Với bàn tay ấy
Với bàn tay ấy ở trong tay,
Tôi đã nguôi quên hận tháng ngày,
Một tối trăng cao gieo mộng tưởng
Vào lòng gió nhẹ thẩn thơ bay.
Tôi đã nguôi quên hận tháng ngày,
Một tối trăng cao gieo mộng tưởng
Vào lòng gió nhẹ thẩn thơ bay.
Một tối bầu trời đắm sắc mây,
Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy.
Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy.
Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy.
Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy.
Những lời huyền bí toả lên trăng,
Những ý bao la rủ xuống trần,
Những tiếng ân tình hoa bảo gió,
Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.
Những ý bao la rủ xuống trần,
Những tiếng ân tình hoa bảo gió,
Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.
Bóng chiều đi vụt: bỗng đêm nay
Tôi lại đa mang hận tháng ngày
Dưới ánh trăng cười, tôi kiếm mãi
Dấu bàn tay ấy ở trên tay.
Trong một thư gửi Xuân Diệu năm 1936, Thế Lữ, vị thủ lĩnh đầy quyền uy của Thơ Mới lúc đó đang phụ trách mục Thơ của báo Ngày Nay, đã không tiếc lời khen ngợi: “Lúc nào nghĩ đến anh, hay nói đến anh trước mặt bạn hữu tôi đều thấy vui vẻ sung sướng như nghĩ đến, nói đến một thứ tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều. Nhiều lần tôi đọc thơ anh cho người khác nghe để giảng dẫn cho họ thấy những tình cảm rất tươi thắm mà chưa nhà thi sĩ Việt Nam nào phô diễn ra được. Tôi tin ở tài anh lắm và lúc nào cũng mong được đọc thơ anh gởi ra”. Thế nên không có gì là lạ khi trên số Tết 1937 của báo Ngày Nay Thế Lữ có bài viết giới thiệu “thứ tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều” ấy một cách vô cùng trang trọng: Một nhà thơ mới: Xuân Diệu. Rồi trong Tựa cho Thơ Thơ, tập thơ đầu tiên của Xuân Diệu do Nhà xuất bản Đời Nay của Tự Lực Văn Đoàn ấn hành năm 1938, vị thủ lĩnh Thơ Mới ấy lại giới thiệu Xuân Diệu với những lời lẽ ngập tràn ánh sáng: “Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây vướng trên đài trán thơ ngây, mắt như bao luyến mọi người, và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn ân ái. Chàng đi trên đường thơ, hái những bông hoa gặp dưới chân, những hương sắc nẩy ra bởi ánh sáng của lòng chàng. Thơ Thơ là cụm đầu mùa chàng tặng cho nhân gian. Và từ đây, chúng ta đã có Xuân Diệu”.
Hoài Thanh, trong “Thi nhân Việt Nam”, cũng không kém cạnh khi tung hô Xuân Diệu: Nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới!
Gửi Hương Cho Gió, tập thơ thứ hai của Xuân Diệu do Nhà xuất bản Thời đại ấn hành tháng 5/1945, 7 năm sau Thơ Thơ, chính là cú hạ “đo ván” lối thơ cũ đặc trưng bởi niêm luật khắt khe và điển cố văn học Trung Hoa cổ. Vậy là với Xuân Diệu, Thơ Mới đã khẳng định “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất” (Xuân Diệu) để đĩnh đạc bước lên bục Vinh quang, mở ra cả “một thời đại trong Thi ca” (Hoài Thanh) của nước Việt.
Kể từ “Với bàn tay ấy” xuất hiện trước nhân gian vào năm 1936 cho đến khi ông mất, Xuân Diệu đã là chủ nhân của một gia tài văn chương đồ sộ gồm 15 tập thơ với khoảng ba trăm rưởi bài trong đó Thơ Thơ và Gửi Hương Cho Gió phải nói là “toàn bích”, 30 tập văn xuôi, tiểu luận phê bình, thơ dịch. Đó là không kể hàng trăm bài thơ của ông còn nằm trong Di Cảo.
Xuân Diệu và con nuôi Cù Huy Hà Vũ tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội (1979)
Bác Diệu tôi thường bảo: “Vũ ơi, bác là người có tài. Trong bụng bác còn nhiều văn lắm, phải moi ra cho hết thì bác mới có thể chết được. Bác phải viết để mà chết”. Thế nhưng điều mà Xuân Diệu lo sợ nhất lại không phải là không kịp nhả hết tơ chữ “để mà chết” mà là sợ công chúng không còn cảm xúc trước văn chương. Vẫn trong hồi ức đã nêu, Xuân Diệu kinh hoàng thổ lộ: “Vừa rồi tôi đến nói chuyện thơ ở trường Hoàn Kiếm (trường trung học ở Hà Nội – CHHV), chị hiệu phó nói với tôi: “Bây giờ học sinh trường tôi nó không vui và nó cũng không buồn nữa”. Cái đó thật là nguy, cái gì đã làm khô cạn tình cảm của các cháu, tiêu diệt nội tâm, của các cháu?”
Tưởng như “một câu hỏi lớn không lời đáp” chỉ có ở “mặt chau” của tượng gỗ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” trong tuyệt tác cùng tên của Huy Cận sáng tác vào năm 60 của thế kỷ 20 thì thắc mắc đầy phẫn nộ trên đây của Xuân Diệu khi thế giới đã bước vào nửa cuối của thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, không lẽ vẫn là “một câu hỏi lớn không lời đáp”?!
Tình Bạn tri âm với Huy Cận
Tựu trường năm 1936, Xuân Diệu và Huy Cận gặp nhau lần đầu tiên ở trường “tú tài” Khải Định, Huế (Trường Quốc học - CHHV) khi Xuân Diệu vào học năm thứ ba và Huy Cận vào học năm thứ nhất. Huy Cận nhớ lại: “Hai đứa đọc thơ cho nhau nghe, và “đồng thanh tương ứng”, kết bạn với nhau gần như tức khắc”. Vậy là với Xuân Diệu và Huy Cận, tình văn chương và tình bạn đã nhập thành một, còn nói theo thời thượng, là “hai trong một”. Cũng cần phải nói rằng tình văn chương không chỉ sản sinh tình bằng hữu giữa hai thi nhân mà còn là ngọn hải đăng cho tình bạn giờ đã thành bất hủ ấy.
Thực vậy, lẽ đời là khi thành bạn của nhau rồi thì người ta thường hay nể nang, thậm chí “đánh bóng” bạn mình quá mức trong mắt người đời, bất luận có thể phản tác dụng, gây những phiền toái không đáng có cho chính người mình trân quý. Chính vì rất hiểu “Thương nhau như thế bằng mười hại nhau” như lời cổ nhân, vả lại muốn bạn mình “hữu xạ tự nhiên hương” nên Xuân Diệu đã có cách xử sự hoàn toàn khác.
Số là giáp Tết năm 1938, sau khi nhận được bài thơ Chiều Xưa của Huy Cận từ Huế gửi, Xuân Diệu, khi đó đã là thành viên Tự Lực Văn Đoàn nổi tiếng và đang làm việc cho chính tuần báo Ngày Nay của văn đoàn, đã gửi bài thơ ấy đến tòa báo tại 80 Quán Thánh, Hà Nội bằng đường bưu điện thay vì cầm đến gặp thẳng Nhất Linh (tên thật là Nguyễn Tường Tam), chủ soái văn đoàn đồng thời là giám đốc tòa báo, hay Thế Lữ, người phụ trách mục Thơ của báo với đôi lời giới thiệu với tư cách “người nhà” để bài thơ đầu tiên gửi đăng báo ấy của bạn mình chắc chắn được đăng. Cái gì phải đến sẽ đến, Chiều Xưa đã được Ngày Nay đăng cùng một khung với thi phẩm Cảm Xúc của Xuân Diệu trong trong số Tết năm 1938 và tất nhiên, không một ai trong Tự lực Văn Đoàn cũng như tòa báo biết được tình thân thiết giữa hai ông. Chỉ đến khi ấy Xuân Diệu mới điện Huy Cận ra Hà Nội để ôngchính thức trình “làng” Tự Lực tại trụ sở báo Ngày Nay. Mới giáp mặt chàng trai quán sông La, Nhất Linh khen ngay: “Bài Chiều Xưa của anh hay lắm, rất cổ mà lại rất mới” rồi đọc một hơi bài thơ ấy trước sự ngỡ ngàng của tác giả và nói rằng Huy Cận cứ gửi thơ ra là Ngày Nay sẽ đăng. Còn Thế Lữ thì trách Xuân Diệu sao không đưa bài thơ ấy trực tiếp cho ông mà lại vòng vèo thế. Xuân Diệu thành thật: “Là vì tôi muốn xem giá trị thực của bài thơ thế nào chứ tự tôi đưa đến e mất khách quan”.
Cái tình Huy – Xuân ấy còn được cảm nhận rất rõ trong thư của Khái Hưng gửi Xuân Diệu ngay sau khi thi sĩ khăn gói vào Mỹ Tho làm tham tá nhà Đoan (đọc theo tiếng Pháp “Douanne”, nghĩa là quan thuế - CHHV) vì “Cơm áo không đùa với khách thơ”: “Anh đi Nam, chúng tôi thấy thiếu anh quá. Nói thực đấy, không khách sáo đâu. Nhất những hôm hội họp ở nhà anh Tam (Nhất Linh - CHHV) ai cũng bảo: “Thiếu có Xuân Diệu”. Nhưng có người tiếp luôn: “Đã có Huy Cận ăn hộ cả hai người”. Huy Cận, ai cũng coi như một nửa của linh hồn anh”.
Xuân Diệu và vợ chồng Huy Cận – Xuân Như trong chiến khu kháng Pháp tại Việt Bắc
Và cũng chẳng có gì là lạ khi Xuân Diệu giành lấy việc chăm sóc gia đình của “nửa linh hồn” mình khi Huy Cận vào chiến khu kháng Pháp. Cha tôi bồi hồi: “Diệu về thăm quê ở Can Lộc (Hà Tĩnh), về thăm gia đình tôi ở xã Ân Phú. Anh rất bí mật nói với mẹ tôi: “Anh Cận hoạt động cách mạng rồi bà ạ. Nếu cách mạng thành công thì không nói làm gì; nếu có điều gì chẳng may, thì con sẽ thay anh Cận cùng bà lo việc gia đình”. Mẹ tôi ứa nước mắt và anh Diệu đã giúp mẹ tôi một số tiền để trả nợ”.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, tháng 10 năm 1954 Xuân Diệu và bố Huy Cận và mẹ Xuân Như tôi được Chính phủ bố trí ở tại 24 phố Cột Cờ (nay là Đường Điện Biên Phủ), Hà Nội. Trong phòng Xuân Diệu có một cái ghế xếp. Mỗi khi đau đầu do viết văn nhiều quá, ông lại gỡ cặp kính hai tròng mà ngả người trên đó. Còn bố tôi, thường cứ 3, 4 giờ sáng là dậy để làm thơ và cứ được bài thơ nào là ông lại đi xuống phòng bác tôi để nhờ góp ý. Những lúc ấy, bác Diệu tôi biến cái ghế xếp thành ghế “khảo thí”. Còn bố tôi lẳng lặng lấy một chiếc ghế tựa đặt phía sau cái ghế xếp để ngồi đọc bài thơ vừa “ra lò”. Xuân Diệu mắt nhắm nghiền, im nghe. Chốc chốc ông lại bình, lại sửa, giọng sang sảng mà mắt vẫn nhắm. Được cái bố tôi không bao giờ “cãi”, cứ lẳng lặng chữa thơ theo ý Xuân Diệu. Xong, ông đọc lại cho Xuân Diệu thẩm định một lần nữa và cứ thế cho đến câu thơ cuối. Mà cũng phải thôi, Huy Cận không “cãi” Xuân Diệu không chỉ vì ông trọng nể người bạn tri âm của ông mà chính là vì Xuân Diệu là bậc thầy trong phê bình Thi Ca nước Việt. Thực vậy, chỉ các tập tiểu luận về các nhà thơ cổ điển Việt Nam (Ba thi hào dân tộc (1959), Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm (1961), Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966, Thơ Trần Tế Xương (1970), Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981; tập II, 1982) cũng đã đủ đưa Xuân Diệu đăng quang ngôi “Ông Hoàng Bình thơ” bên cạnh “Ông Hoàng Thơ tình”, “Hoàng tử Thi ca” mà ông đã được người đời tấn phong trước đó. Trong bài thơ “Ngôi nhà 24 Điện Biên Phủ”, Huy Cận đã không dấu diếm vai trò “khảo thí” ấy của Xuân Diệu.
Ngôi nhà 24 Điện Biên Phủ
Đêm đêm trên gác đèn chong,
Cận ngồi cặm cụi viết dòng thơ bay.
Dưới nhà bút chẳng rời tay
Bên bàn Diệu cũng miệt mài trang thơ,
Bạn từ lúc tuổi còn tơ,
Hai ta hạt chín chung mùa trái trong.
Ánh đèn trên gác, dưới phòng,
Cũng là đôi kén nằm trong kén trời.
Sáng ra gõ cửa: “Diệu ơi,
Nghe dùm thơ viết đêm rồi xem sao”.
Diệu còn ngái ngủ: “Đọc mau!
Nghe rồi, xem lại, từng câu mới tường”.
Dưới nhà trên gác thông thương
Dòng thơ không dứt giữa luồng tháng, năm...
Thế nhưng, bởi lẽ tạo hóa dòng thơ tưởng chừng thông thương không dứt ấy giữa hai thi nhân “bàn Nhất Thơ Mới” (chữ của Hoài Thanh) cũng đã phải dừng khi trái tim Xuân Diệu ngừng đập ở tuổi 69. Bố tôi nhớ lại cái thời khắc nghiệt ngã ấy: “Ngày Diệu mất, lúc 7 giờ 40 phút ở Hà nội thì đúng lúc ấy ở Dakar (Sénégal) là 12g40’ trưa, tôi bị xuất huyết nặng. Thần giao cách cảm: nhân điện của Diệu truyền thông cho tôi giây phút ấy. Ngày 19-12-1985, về đến Paris được Sứ quán ta báo tin Diệu mất, tôi sửng sốt, bàng hoàng, máu vẫn chảy vì xuất huyết nặng ở mũi. Tôi và con tôi (cháu Vũ) trong cơn đau đớn, cố trấn tĩnh để đi đổi vé máy bay về cho kịp đám tang, nhưng ngày 23 tôi về thì đã chôn Diệu ngày 21 rồi. Từ Paris tôi đánh 10 bức điện về Hà nội đề nghị chờ tôi về hãy chôn bạn tôi, nhưng không kịp”.
Khi hay tin Xuân Diệu mất thì tôi khóc òa như một đứa trẻ, còn Huy Cận cố kìm nước mắt để rồi khóc tiễn biệt “một nửa linh hồn” của ông bằng Thơ, bằng chính cái đã dẫn nhập ông với Xuân Diệu.
Diệu ơi Diệu đã về yên tịnh
Diệu ơi Diệu đã về yên tịnh
Cận hãy còn đây trăm xốn xang
Cận mới về thăm quê Nghệ - Tĩnh
Gặp tuần trăng sang ngẩn ngơ trăng.
Cận ra Thanh Hóa nằm bên biển
Biển lại dồn sao không phút ngưng
Diệu đã đi xa về tới bến
Cận đang biển động long lừng dâng.
“Hồi ký Song Đôi” đang viết dở
Hai chương tuổi nhỏ chép xong rồi.
Đời ta trang khép, còn trang mở
Cận viết đầy trang tay mới xuôi.
Biển lớn băng qua ấy biển đời
Biển vào vũ trụ ánh sao mời
Diệu dò thế giới bên kia trước
Khỏi lạ đường khi Cận tới nơi.
Huy Cận đã sống lâu hơn Xuân Diệu đúng 20 năm: ông mất ngày 19/2/2005. Chắc hẳn cha tôi thanh thản lắm vì “Hồi ký Song Đôi” gồm 2 tập đã trọn vẹn ra mắt bạn đọc trước khi ông vĩnh viễn “xuôi tay”.
Tình Cha Con, tình Ông Cháu
Xuân Diệu – Huy Cận và vợ chồng Cù Huy Hà Vũ – Nguyễn Thị Dương Hà trong ngày cưới tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội (23/1/1983)
Mới một tháng tuổi tôi đã được Xuân Diệu nuôi làm con với sự đồng thuận tuyệt đối của bố mẹ tôi. Không chỉ bằng bình sữa, miếng cơm, ông nuôi tôi bằng cả hồn dân tộc. Chợt thấy mình bé lại, nằm gọn trong lòng Xuân Diệu mà thiu thiu trong điệu ví dặm “Phụ tử tình thâm” trĩu buồn của vùng quê Nghệ Tĩnh.
Phụ tử tình thâm
Công thầy rồi nghĩa mẹ
Đừng có tiếng tăm chi nặng lời
Đừng cả tiếng dài hơi
Nói mẹ cha sao nên
Mà cãi mẹ thầy sao phải…
Ơ… rồi một mai bách tuế ra cây úa lá vàng
Lá rụng cội đại ngàn
Con tìm mô được nựa
Mà con muốn tìm mô được nựa…
Từ ví dặm ông chuyển sang “Dạ cổ hoài lang” của miền Tây Nam Bộ trĩu buồn không kém.
Từ là từ phu tướng
Báu kiếm sắc phong lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng
Năm canh mơ màng
Em luống trông tin chàng
Ôi gan vàng quặn đau
Đường dầu xa ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang…
Rồi vẫn bản cải lương ấy, ông lại dùng ký âm cổ nhạc để đưa tiếp tôi vào giấc ngủ.
Hò lìu xang xê cống
Líu cống líu cống xê xang
Xừ xang xê hò líu cống xê xang hò…
Rồi ca Huế, ca Trù, ngâm sa mạc nữa… Điều đặc biệt là khi Xuân Diệu ca dân ca miền nào thì ông ca đúng giọng miền ấy. Sau này, khi tôi đã khôn lớn, bác Diệu tôi kể rằng hồi học ở Collège (trường trung học - CHHV) Quy Nhơn, ông gần như thành một anh đào hát của toàn trường. Bọn bạn học khi nào đói âm nhạc cứ gọi Xuân Diệu đến hát, thích dân ca miền nào thì ông hát dân ca miền ấy. Thành thử từ tấm bé, với Xuân Diệu, tôi đã thụ hưởng một cách đầy đủ “dân ca ba miền”, cả Bắc, cả Trung, cả Nam nước Việt. Bất luận thế nào, “chú cu Vũ” chắc chắn là khán giả nhỏ tuổi nhất của “tài tử” Xuân Diệu.
Xuân Diệu yêu thương tôi, luôn di dưỡng tâm hồn tôi, chăm chút cho tôi có thể nói đến từng miếng ăn… nhưng tất cả những điều này không có nghĩa ông thỏa hiệp với những khuyết điểm của con mình, như bỏ bê làm bài tập... Thực vậy, bên cạnh những bài tập của nhà trường, tôi còn phải làm những bài tập cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp mà Xuân Diệu giao nên khi tôi không hoàn thành thì ông giận lắm, đến mức dùng cả “nắm đấm” để uốn nắn tôi. Sau này tôi mới hiểu rằng khi thực hiện “nền giáo dục bằng nắm đấm” đối với tôi thì Xuân Diệu không đi ngoài nguyên lý “Yêu cho roi cho vọt/ Ghét cho ngọt cho ngào”của tiền nhân, cụ thể là của ông ngoại tôi. Mẹ tôi kể: “Con cái trong nhà, trừ mẹ là con gái, mà lơi là việc học là bị cụ Tú Thọ đánh roi dữ lắm”.
Không nghi ngờ gì nữa, chính nhờ sự giáo dục nghiêm khắc ấy của người cha nuôi của tôi mà sau này tôi nên người, tốt nghiệp đại học với vị trí Thủ khoa, được Bộ Ngoại giao tuyển vào làm việc. Xuân Diệu mừng lắm. Khi tôi yêu Dương Hà bạn học thuở đại học, Xuân Diệu hết lòng ủng hộ. Ông bèn làm một lễ đính hôn nho nhỏ để chúng tôi có thể sống cùng nhau ngay trong căn nhà của ông. Đầu năm 1983 tôi và Dương Hà thành hôn, Xuân Diệu nói: “Đạo làm người lấy Đức, Hiếu làm đầu. Vì vậy bác Diệu muốn đứa con đầu lòng của các cháu có tên là Đức. Nếu sau này các cháu có đứa con thứ hai thì đặt tên cho nó là Hiếu”. Đến 8/12 năm đó thì con trai đầu lòng của chúng tôi là Cù Huy Xuân Đức ra đời (đúng 5 năm sau, vào 23 - 12 – 1988, chúng tôi có thêm một cháu trai, Cù Huy Xuân Hiếu). Xuân Diệu càng mừng vì từ nay gia đình nhỏ của ông ấm thêm bởi sự có mặt của một thành viên nữa.
Cuối năm 1984, từ Bộ Ngoại giao tôi sang Pháp học. Thế là Xuân Diệu thay cả phần tôi mà cưng chiều Xuân Đức. Trong thư ngày 5/3/1985 gửi Huy Cận, ông viết: "Diệu đọc thư Vũ, xem ảnh Vũ, rất mừng Vũ tiến bộ và đang phát huy để thay thế Diệu vì gia đình Diệu chỉ có vợ chồng Hà Vũ và cháu Đức, Đức nó rất dễ thương, Diệu đi xa chỉ nhớ nó".
Rồi trong thư gửi tôi ngày 25/3/1985, Xuân Diệu viết: “Vũ của bác Diệu. Bác tuổi Bính Thìn, nếu tính cả tuổi mụ, thế là 70, bác sinh tháng Chạp ta, nên thực chất là 69. Bác thấy yếu đi nhiều, dễ đau lắm; tuy nhiên khi viết xong bài văn rồi thì văn lại hay và sâu hơn trước kia. Thấy Vũ thành người trưởng thành, bác rất mừng, Vũ sẽ có kích thước của trí tuệ để tự phát huy đóng góp tốt đẹp cho xã hội, đồng thời có thể gánh vác cửa nhà thay cho bố Cận và bác Diệu. Thằng cu Đức rất đáng yêu. Hễ nó thấy bác Diệu, là nó khóc và đòi bồng… Nó rất dễ thương, cười rất được lòng mọi người. Nhưng ông Diệu vì vậy cũng mất thì giờ viết văn, tuy thế có vậy ông mới nghỉ dãn óc… Vũ thương yêu của bác Diệu. Người già cứ nghĩ đến con cháu, nó là tương lai của mình. Bác nghĩ tới Vũ nhiều lắm, và càng thương Vũ thì càng thương cu Đức”.
Xuân Diệu bế cháu nội Cù Huy Xuân Đức (1984)
Xuân Diệu ôi! Dẫu đứa con duy nhất của ông, Cù Huy Hà Vũ, đang tạm thời xa nhà đặng “đóng góp tốt đẹp cho xã hội” như ông hằng mong muốn thì vẫn còn đó Cù Huy Xuân Đức, đứa cháu nội mà ông yêu thương hơn cả bản thân mình, đang phấn đấu hết mình để “gánh vác cửa nhà” thay cho bố cháu, cũng tức là thay cho ông Cận và ông Diệu đấy!
Kết
Xuân Diệu từ văn đến đời, từ đời đến văn, thật đa diện, đa hướng. Cả trong nước lẫn ngoài nước đã có hàng ngàn công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của ông nên đưa ra một đúc kết về Xuân Diệu thỏa ý của muôn người là hoàn toàn không dễ. Chi bằng hãy lấy Xuân Diệu để tạm đúc kết Xuân Diệu.
Không Đề
Tôi nhận cái này đã từ lâu
Bây giờ nó tới, dẫu hơi mau
Đã không tránh khỏi thì tôi tiếp
Một cách đau thương nhưng ngẩng đầu.
Ai có thích gì đi mãi mãi
Vô trong cái cõi chăng mô tê
Một khi cập bến vào vô tận
Thì đến vô biên chẳng trở về
Tuy vậy, tôi đã sống hết mình
Suốt đời không một phút coi khinh.
Tôi coi trọng nhất khi làm việc
Họa có thua khi sống với tình
Cái quả cam này đà vắt hết
Hiến cho non nước, hiến đời thân.
Tuy không biết đến bao giờ kiệt,
Nhưng dẫu sao thì cũng phải dừng.
Hiến cho non nước, hiến đời thân.
Tuy không biết đến bao giờ kiệt,
Nhưng dẫu sao thì cũng phải dừng.
Xin hãy cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hư.
Trong hơi thở cuối dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.
Xuân Diệu (Di cảo)
Đó cũng là nguyên tắc sống “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” do chính Xuân Diệu đưa ra khi Việt Nam còn đắm chìm trong đêm trường nô lệ, là hãy sống có ý nghĩa, hãy biến cuộc đời mình thành bó đuốc lớn để xua tan bóng tối, soi đường cho đồng loại đi tới hừng Đông.
Chicago, Hoa Kỳ 2/2/2016
C.H.H.V.
Tác giả gửi BVN
1.
Nhớ về một người cha - Xuân Diệu
17/12/2015
TS Luật Cù Huy Hà Vũ
Cách đây tròn 30 năm, ngày 18 tháng 12 năm 1985, Xuân Diệu đã “vẫy chào cõi thực để vào hư”, như chính ông dự báo trong bài thơ “Vô đề”, ở tuổi 69.
Với tất cả mọi người, Xuân Diệu là “Hoàng tử của Thi ca”.
Không hiếm người thuộc cả “Thơ Thơ” lẫn “Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu, hai tập thơ “toàn bích” đã góp phần ấn định chiến thắng huy hoàng của cuộc cách mạng trong thi ca Việt Nam - “Thơ Mới”. Tỷ như:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương
Phất phơ hồn của bông hường
Trong hơi phiêu bạt còn vương má hồng
Nghe chừng gió ý qua sông
E bên lau lách thuyền không vắng bờ
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn.
(Chiều)
“Chiều” đã được một Phạm Duy tài hoa chuyển thành nhạc phẩm “Mộ khúc”.
Còn những câu thơ này của Xuân Diệu như được chân lý viết ra ai mà chẳng nằm lòng:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
Hay
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
(Yêu)
….
Với nhiều người, Xuân Diệu là một nhà cách mạng.
Còn nhớ, tháng 2-1937, Xuân Diệu đã nổi lên như một thủ lĩnh học sinh yêu nước khi cầm đầu ba lớp tú tài Trường Quốc Học - Huế tập trung ở sân trường để đi đón Justin Godart, đại diện Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp chủ trương cải thiện đời sống kinh tế, chính trị cho "các dân tộc hải ngoại", tức các thuộc địa của Pháp, khi ông này đến Huế. Khi chính quyền thực dân ép giải tán cuộc tụ tập thì một số học sinh sợ hãi, muốn bỏ về. Huy Cận nhớ lại: “Khi ấy anh Diệu thét lớn: Bớ anh em, hãy khóa cổng lại! Không để những kẻ hèn nhát rút lui về!’”. Khi biết rằng cụ Tú Kép Ngô Xuân Thọ - còn gọi là cụ Hàn Thọ - thân sinh Xuân Diệu, cũng tức là ông ngoại tôi, cứ mỗi lần dẫn học sinh từ Qui Nhơn ra Huế lại xuống thuyền “Ông già Bến Ngự” để đàm đạo thế sự với Phan Bội Châu đang bị thực dân Pháp an trí ở đó thì hẳn mọi người sẽ không ngạc nhiên vì sao trong Xuân Diệu có cái bừng bừng tranh đấu ấy. Cũng chính điều này lý giải vì sao sau này Xuân Diệu cùng với người bạn đời Huy Cận đã tham gia Việt Minh, tích cực hoạt động bí mật chống thực dân Pháp và khi cách mạng thắng lợi cả hai ông được bầu làm đại biểu Quốc Hội đầu tiên của Việt Nam độc lập vào tháng 1/1946…
Với tôi, Xuân Diệu còn là một người cha.
Từ khi sinh ra, tôi đã ở 24 Cột Cờ, nay là Điện Biên Phủ, Hà Nội. Đó là một căn biệt thự hai tầng vốn thuộc một quan Năm tình báo Pháp, được Chính phủ giao cho Huy Cận bố tôi và Xuân Diệu bác tôi từ tháng 10/1954, bố và mẹ tôi ở tầng trên, bác Diệu tôi ở tầng dưới. Tôi ở tầng dưới với bác Diệu tôi bởi đơn giản là tôi được ông nuôi làm con vì ông không có gia đình riêng. Chị Lê Chiều, con o Trà, em ruột bố tôi, ở cùng nhà giai đoạn đó kể lại: “Vũ mới mấy tháng tuổi, đường ruột kém nên Bác Diệu luôn dặn mọi người giữ lại bình sữa để xem Vũ uống hết đến đâu và giữ lại phân để Bác Diệu về tự tay kiểm tra”. Thật khó có người cha nào thương con hơn thế!
Lớn được vài tuổi thì tôi biến cái nhà của Xuân Diệu thành giang sơn riêng của tôi. Với tâm thế người cha, Xuân Diệu đã tả lại cái thế giới vi mô đó của tôi trong một bài thơ ông viết từ một cánh rừng cách Hà Nội chừng 300 cây số.
Bác đi xa cháu nhớ ghê
Bác đi xa cháu, nhớ ghê
Thằng cu Vũ, bác chưa về được thăm.
Bây giờ cháu đã lên năm,
Từ khi nhỏ xíu cháu nằm trên tay,
Bác rất yêu cái thằng này,
Tưởng như có cháu là hay trên đời.
Bác xem là một con người
Còn non, đang bú tay, vòi đó thôi;
Có khi bác đứng bên nôi
Muốn đưa cho cháu cõi đời đẹp hơn.
Bây giờ cháu đã biết khôn
Bác ngồi làm việc, cháu luôn chạy vào
Bày trò chơi nhởi lao xao,
Đang chơi dở cuộc, lại ào chạy ra;
Lấy chăn phủ ghế chui qua,
Ngăn bàn thích lục, tranh gà thích xem:
Xếp rồi, cháu lại đảo lên,
Có ngày bác phải mười phen dọn nhà:
Khi gần, bác giận bác la,
Đi xa, bác lại nhớ mà rất thương.
***
Chiêm bao thấy cháu đêm trường
Bác hôn mặt Vũ như gương sáng bừng.
Hôm về bác cháu ta mừng,
Bác cho trăm thứ trong rừng Quì Châu.
(Quì Châu, 20 – 5 - 1963).
Thế nhưng “trăm thứ trong rừng Quì Châu” mà tôi thấy được, sờ được chỉ là những trái thông khô cùng vài chiếc lá có hình thù kỳ dị. Còn lại là những câu chuyện về những cánh rừng trong trẻo cùng những người thợ rừng trong trắng tâm hồn dù vất vả lao lung. Không nghi ngờ gì nữa, chính những món quà mà bác Diệu tôi đã đem về từ cánh rừng Quì Châu ấy đã ươm trong tôi cả đại ngàn tình yêu đất nước và con người xứ sở.
Năm 1965, chiến tranh bằng không quân của Mỹ lan ra miền Bắc Việt Nam, “chú cu Vũ” khi đó 7 tuổi phải xa gia đình, đến sống tại Chùa Thầy, tỉnh Sơn Tây, nơi có nhiều núi đá vôi để tránh bom. Còn nhớ mỗi lần đi thăm tôi nơi “sơ tán” ấy, Xuân Diệu lại bình thơ cho những người hâm mộ tới tận khuya. Khi cuộc bình thơ kết thúc thì cũng là lúc tôi đã ngủ thiếp. Sau này mọi người kể lại rằng Xuân Diệu đã ôm vác tôi nặng cả mấy chục cân mà đi bộ suốt quãng đường về căn nhà ông nghỉ, quyết không nhường ai làm cái việc “khuân vác” phải nói là khá nhọc đó khi những người hâm mộ tỏ ý giúp, bởi đối với ông đơn giản đó là “hạnh phúc”.
Khi tôi đã ở cái tuổi hiểu được căn bản lẽ đời, Xuân Diệu bày tỏ tình “phụ - tử” với tôi một cách trực tiếp qua hàng chục lá thư viết tay cho tôi.
"Bác đi, nhớ nhất Vũ. Vũ là con của bác, là người con lớn trong nhà....Vũ ơi, "khôn con hơn khôn của", Vũ càng trưởng thành bác càng mừng...Nhà có con lớn trong nhà, bác thấy có Vũ là ấm cả nhà, Vũ là sinh khí chính trong nhà ta....Qua Vũ mà bác có con trai, con lớn với đời...Tình bác cháu cũng như cha con...Vũ cố gắng học thật giỏi, coi sóc nhà cửa kẻo mất" (Thư ngày 10/6/1972).
“Chú Vũ thân quí của Bác. Bác dùng chữ thân quí, và cùng với thân yêu, Bác rất quí mến Vũ. Bác quí Vũ vì Vũ là đứa con duy nhất của bác Diệu….Bác Diệu hàng ngày ở với Vũ, Bác rất nhận thấy những ưu điểm về bản chất của Vũ. Vũ là đứa con duy nhất của Bác” (Thư ngày 12/12/1976).
“Có Vũ trong cái nhà của ta, Bác rất tự hào có con trai lớn trưởng thành, sẽ thay thế cho Bố và Bác” (Thư ngày 6/2/1979).
….
Cái tình “cha – con” mà Xuân Diệu dành cho tôi đó không chỉ là cảm tính mà nó còn xuất phát từ một sự “cho – nhận” giữa các bậc sinh thành ra tôi với Xuân Diệu, điều này được thể hiện không gì rõ hơn trong thư ngày 10/11/1972 ông viết cho Huy Cận: "Ôi, phần lớn bù đắp của Diệu là dồn cho Vũ; nếu Cận thương Vũ thì Cận sẽ thương cái tình, sự chăm sóc của Diệu đối với đứa con chung. Diệu đi, vẫn lo nó ăn kém, tim nó đập không đều... Diệu cảm ơn Cận đã cho Diệu đứa con chứ Cận không phải cảm ơn Diệu". Cũng cần lý giải vì sao trong thư này Xuân Diệu gọi tôi là “đứa con chung”. Là vì tuy đã cho Xuân Diệu nuôi làm con nhưng chưa bao giờ bố mẹ tôi từ bỏ quyền làm cha làm mẹ đối với tôi. Thực tế pháp lý này đã được bố và mẹ tôi khẳng định bằng “Giấy xác nhận về việc nhận và nuôi con nuôi” lập ngày 8/4/1998 có công chứng trong đó ghi rõ: “Ông Ngô Xuân Diệu, tức nhà thơ Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916, đã nhận anh Cù Huy Hà Vũ là cháu gọi ông Diệu bằng bác ruột làm con nuôi với sự nhất trí hoàn toàn của hai chúng tôi kể từ khi anh Vũ mới ra đời. Việc ông Diệu nhận anh Vũ làm con nuôi hoàn toàn không ảnh hưởng đến quan hệ bố mẹ đẻ với con đẻ giữa chúng tôi và anh Vũ cũng như hoàn toàn không ảnh hưởng đến mọi quyền lợi của anh Vũ phát sinh từ quan hệ này. Cho đến ngày ông Diệu qua đời (18-12-1985), ông Diệu đã thương yêu, nuôi dưỡng anh Vũ và sống hàng ngày với anh Vũ ngay tại nhà ông Diệu tại 24 Điện Biên Phủ - Hà Nội. Về phần mình, anh Vũ cũng đã làm tròn bổn phận của người con đối với ông Diệu”.
Cũng như vậy, tại giấy “Công nhận người thừa kế di sản theo pháp luật của ông Ngô Xuân Diệu (tức nhà thơ Xuân Diệu)” lập ngày 10/1/1997, mẹ tôi và cậu ruột tôi là Ngô Xuân Huy với tư cách là em ruột Xuân Diệu, tức hàng thừa kế thứ hai của ông, ghi rõ: “Công nhận anh Cù Huy Hà Vũ, là cháu gọi ông Ngô Xuân Diệu bằng bác ruột, là người thừa kế duy nhất di sản của ông Ngô Xuân Diệu trên cơ sở thực tế sau. Ông Diệu mất đột ngột vào ngày 18 tháng 12 năm 1985. Khi mất, ông Diệu không có vợ và không có con. Nhưng khi còn sống, ông Diệu đã thương yêu, nuôi nấng và sống với anh Vũ, cháu gọi ông Diệu bằng bác ruột (là con bà Ngô Thị Xuân Như) ngay tại nhà ông Diệu ở 24 Điện Biên Phủ - Hà Nội từ khi anh Vũ mới ra đời cho đến khi ông Diệu qua đời và đã coi anh Vũ như con trai mình. Về phần mình, anh Vũ cũng đã làm tròn bổn phận của người con đối với ông Diệu. Vì vậy, trên thực tế, quan hệ giữa ông Diệu và anh Vũ kéo dài 28 năm là quan hệ cha – con.”
Xuân Diệu đã thương yêu, đã xử sự với tôi như một người cha thực thụ thì đương nhiên cái gia đình nhỏ tương lai của tôi là thuộc về ông. Nhiệt tình vun xới cho tình cảm giữa tôi và Nguyễn Thị Dương Hà bạn thuở đại học, Xuân Diệu đã đứng ra đăng ký Dương Hà vào hộ khẩu gia đình mà ông là chủ hộ ngay từ 1980, những ba năm trước khi chúng tôi thành hôn. Đến cuối năm 1983 thì con trai đầu lòng của chúng tôi là Cù Huy Xuân Đức ra đời. Xuân Diệu mừng lắm không chỉ vì từ đây ngoài tình cha – con đối với vợ chồng tôi ông sắp có thêm tình ông - cháu mà nhất là vì đã thấy sự nghiệp văn chương của ông được bảo hiểm thêm một tầng nữa. Tuy vậy ông đã biết kìm niềm vui của mình để tiết chế hạnh phúc vô bờ ấy của tôi nhằm bảo vệ tính mạng của chính tôi. Ông không ngớt dặn: “Vũ đừng vui quá mà lái xe không an toàn”. Và như một lẽ tự nhiên, Xuân Diệu đứng ra đăng ký tiếp Xuân Đức là thành viên của hộ gia đình ông.
Như thể để bảo đảm công bằng giữa tình cha – con và tình ông – cháu, Xuân Diệu lại làm thơ về thành viên mới trong gia đình nhỏ của ông, như cách đó 20 năm ông đã làm thơ về cha nó.
Cu Đức
Thằng Đức từ đâu đến với ông
Trên tay âu yếm mẹ mi bồng
Biết gì đâu có, hiền như đất
Em ngủ như là một đóa bông.
Tuổi mới năm ngày bé tý hon
Chao ôi nhỏ xíu nắm tay tròn
Ngủ thôi bất kể trời hay đất
Hai cái tai dày, cái mũi con.
Ấy thế mà trông rất hẳn hoi
Hoàn toàn số phận một con người
Là mày, là nó, không ai khác
Thương bé người đây, chính nó thôi.
Từ lúc nâng niu bố Vũ mày
Đang còn ẵm ngửa, bú bằng tay
Đến nay lại đến thương con Vũ
Ôi! Cuộc đời, hoa, chim, bướm, cây.
Cuối năm 1984, tôi sang Pháp học khi đang là công chức Bộ Ngoại giao. Thế là Xuân Diệu thay cả phần tôi mà cưng chiều Xuân Đức. Trong thư ngày 5/3/1985 gửi Huy Cận, ông viết: "Diệu đọc thư Vũ. xem ảnh Vũ, rất mừng Vũ tiến bộ và đang phát huy để thay thế Diệu vì gia đình Diệu chỉ có vợ chồng Hà Vũ và cháu Đức, Đức nó rất dễ thương, Diệu đi xa chỉ nhớ nó".
Ngày 18/9/1985, đúng 3 tháng trước khi ông mất, Xuân Diệu dường như linh tính sắp phải đối diện với cái hữu hạn của đời người nên đã viết cho tôi những con chữ tựa như “di chúc”: “Nhà ta Vũ sẽ chuyển sang văn học càng hợp và sẽ thay thế Bố và Bác trông coi các tác phẩm của Huy Cận, Xuân Diệu; tiếp theo sau, thì cu Đức lớn lên, nó sẽ bảo quản các ‘sự nghiệp của hai ông’”.
Dẫu ở vị trí nào – Thi nhân, nhà cách mạng, người bạn hay người cha, người ông trong gia đình – Xuân Diệu cũng đã thực hiện đầy đặn bổn phận của mình và tôi tin rằng đó chính là cái cách ông “cảm tạ cuộc đời” như ông từng mong muốn khi đặt tên “Tôi cảm tạ cuộc đời” cho hồi ký mới chỉ bắt đầu.
*Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
https://www.voatiengviet.com/a/nho-ve-mot-nguoi-cha-xuan-dieu/3105780.html
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.