Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

16/09/2018

Đạo văn : một ví dụ cụ thể (1974, 2012, 2016)

Nêu một ví dụ cụ thể.

Cốt để khỏi quên là chính. Có rất nhiều, nhưng chỉ nêu ở đây 1 cái duy nhất mà thôi. Dĩ nhiên là không có dẫn nguồn, không chú thích, không có một lời nào cũng như cũng không có trong tài liệu tham khảo. Không hết. Cứ làm như của nhà trồng ra được. Tự nhiên có sẵn, trên trời rơi xuống hay là thần giao cách cảm. Rồi thì, cứ chép truyền từ người nọ sang người kia. 

Thế nên, về cơ bản, trong học thuật, để biết được đạo văn hay không thì cần phải tri thức chuyên sâu về một lĩnh vực chuyên ngành hẹp. Một ông nghiên cứu về nhà Tây Sơn mà cho đọc bài nghiên cứu về nhà Mạc thì chịu rồi, sao mà phát hiện ra được. Tương tự là chuyện một ông chuyên về ngữ pháp bình luận về văn bản sản phẩm của một ông chuyên về ngữ âm.

Ở ta, lỗi đầu tiên của học thuật là coi nhẹ tri thức chuyên sâu. Cái này tồn tại mang tính truyền thống Đại Việt. Cứ màng màng thế thôi. Gì cũng biết, nhưng rút cục chẳng biết gì !

Vấn đề thực học (học thực sự, kiến thức có thực) là vấn đề tồn tại mang tính truyền thống từ thời Đại Việt và Đại Nam của Việt Nam hôm nay. Chuộng hư danh đã ngấm quá sâu. Thậm chí, ở Việt Nam hôm nay, còn được phát huy rực rỡ. Nên mới có những hiện tượng như vụ ông Nguyễn Đức Tồn và cả học trò Sao Chi đang kéo dài (đọc ở đây và ở đây).

Đại khái như sau.

Tất cả đã là tài liệu in ấn chính thức, được phát hành từ lâu.


1. Năm 1974 (trang 70) có viết:

"Mỗi vuông lụa ngang khoảng 7 đến 9 tấc, dài chừng 2m50. Những vuông lụa đó phủ kín để che giấu bên trong là 1 cái thau, 1 cái gáo múc nước để trên thau, một hũ nước dán miệng kín lại bằng tờ giấy cùng màu với phủ, một mâm gạo, trứng, thuốc lá, trà tàu, một hộp trầu cau. Tất cả đều mới và đều cùng màu với phủ".


2. Năm 2012 thì thành ra (về cơ bản là gần như chép nguyên xi):

"Mỗi vuông lụa ngang khoảng 7 đến 9 tấc, dài khoảng 2,5m. Những vuông lụa đó phủ kín để che giấu bên trong là 1 cái thau, 1 cái gáo múc nước để trên thau, một hũ nước dán kín miệng bằng 1 tờ giấy cùng màu với phủ, một mâm gạo, một mâm trứng, thuốc lá, trà tàu, một hộp trầu cau. Tất cả đều mới và cùng màu với phủ".

 (trang 148-149-150, trang 149 là ảnh đưa thêm) 


3. Năm 2016 (trang 51) thì biến 2012 thành ra thế này:

"Mỗi vuông lụa rộng khoảng 30-40cm, dài khoảng 2,5m. Những vuông lụa đó phủ kín để giấu bên trong là một cái thau, một cái gáo múc nước để trên thau, một hũ nước dán kín miệng bằng một tờ giấy cùng màu với phủ. Một mâm gạo, một mâm trứng, thuốc lá, trà, một hộp trầu cau...đều mới và đều cùng màu với phủ".


Rõ ràng là biển thủ từ 1974 để ra thành 2012. Rồi 2012, đến lượt nó lại bị biến thủ để thành ra 2016. 

Dĩ nhiên, 1974 thì nguyên bản thực sự, tự trồng cấy mà có được thóc lúa, chứ không đi chép không của ai nữa. 

Chỉ có kiến thức chuyên sâu của một chuyên ngành hẹp thì mới thấy ra được quá trình ảo thuật từ 1974 đến 2012 rồi đến 2016.

Chưa biết chừng, từ sau 2016 đến bây giờ vẫn còn đang tiếp tục trên đường luân chuyển ra vô cùng tận.

Tháng 9 năm 2018,
Giao Blog



---

BỔ SUNG


1. Trên không gian mạng, thì thấy một bản năm 2012 như dưới đây.

Dán toàn bộ bản 2012 (hơi dài):

"
Tiêu đề: Tìm Hiểu Sâu Hơn Về Đạo Mẫu   Fri Mar 23, 2012 3:41 pm






Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt và một số tộc người khác, tục thờ Nữ thần, thờ Mẫu và Mẫu Tam phủ – Tứ phủ có vai trò và vị trí khá quan trọng, nó đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con người, do vậy, nó phổ biến khá rộng khắp, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi tới miền ngược



Từ Đạo Mẫu, ngoài những nghi lễ thờ cúng, nó còn sản sinh và tích hợp nhiều giá trị văn hóa – nghệ thuật, tạo nên một “văn hóa Đạo Mẫu”, chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa độc đáo của dân tộc.



Sau đây, tôi trình bày những nét rất cơ bản của thứ tôn giáo - tín ngưỡng này với tên gọi chung là Đạo Mẫu. 



Từ Thờ Nữ Thần Đền Thờ Mẫu và Tam Tòa Thánh Mẫu (Đạo Mẫu)



1. Từ thờ Nữ thần đến thờ Mẫu



Ở Việt Nam, chưa ai thống kê một cách hệ thống và đầy đủ các Nữ thần được nhân dân tôn vinh và thờ phụng, tuy nhiên, không ngần ngại khi cho rằng việc thờ phụng này đã có từ rất lâu đời và phổ biến ở nhiều dân tộc, ở đồng bằng cũng như miền núi, nông thôn lẫn đô thị.



Hãy lấy cuốn sách cổ “Hội chân biên”, in năm 1847 đời Thiệu Trị, do Thanh Hòa Tử tập hợp, thì trong 27 vị thần tiên có nguồn gốc thuần Việt, thì đã có 17 là Tiên nữ. Còn trong cuốn sách “Các Nữ thần Việt Nam”xuất bản những năm 80 của thế kỉ XX, thì đã tập hợp và giới thiệu bước đầu 75 vị Nữ thần tiêu biểu của nước ta. Trong sách: “Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam”, trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các nữ thần và danh nhân là nữ. Riêng xung quanh quần thể di tích Phủ Dầy thờ Mẫu Liễu, người ta cũng tìm thấy hơn 20 đền miếu thờ các nữ thần.



Trong vốn huyền thoại và truyền thuyết của Việt Nam, các vị nữ thần gần với việc tạo lập bản thể của vũ trụ, như Nữ thần Mặt Trời – Nữ thần Mặt Trăng, Bà Nữ Oa cùng ông Tử Tượng đội đá vá trời, đắp núi, khơi sông. Các hiện tượng: Mây, mưa, sấm, chớp (Tứ Pháp) cũng được thần thánh hóa và mang tính nữ. Các yếu tố mang tính bản thể vũ trụ, như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ được gắn với các Bà: Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa…



Đến biểu tượng đất nước – quê hương – dân tộc cũng gắn với các Mẹ (Mẫu): Mẹ Âu Cơ của Lạc Việt, Mẹ Quê hương – xứ sở Pô Inh Nưga của người Chăm. Các Mẹ sản sinh ra các giá trị văn hóa: Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa, các Mẹ là tổ sư các nghề: dệt, tằm tang, làm muối, nghề mộc, làm bánh, ca công… Rồi phụ nữ ra trận “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, đứng ra chấp chính quốc gia cũng trở thành các Nữ tướng – Nữ thần: Hai Bà Trưng, Triệu Ẩu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân, Lê Chân, Vũ Thị Thục, vợ ba Đề Thám. . .



Các vị nữ thần kể trên từ bao đời nay đã được nhân dân ta tôn làm Thần, Thánh, được Triều đình ban sắc phong là “Thượng đẳng thần”, là Thành hoàng của nhiều làng, trong đó Liễu Hạnh công chúa được dân gian tôn vinh là một trong “Tứ bất tử” của đất nước.



Trong các huyền thoại và truyền thuyết kể trên, có những cái xuất phát từ những thực tế lịch sử, tuy nhiên, không ít trường hợp là kết quả của sự thêu dệt hoang đường, phi thực. Nhưng đó lại là thực tế hiển nhiên, là vai trò và vị trí hết sức to lớn của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thực tế này hoàn toàn có thể lý giải được trên cơ sở xem xét môi trường tự nhiên. đời sống sản xuất, chiến đấu, xã hội cổ truyền của người Việt và các dân tộc khác sinh sống trên đất nước Việt Nam.



Trong hàng các nữ thần, một số vị được tôn vinh là Mẫu – Thánh Mẫu - Vương Mẫu - Quốc Mẫu… Như vậy, Mẫu là Nữ thần, nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là Mẫu. Về mặt danh xưng “Mẫu" là từ gốc Hán – Việt, còn thuần Việt là “Mẹ”. Mẫu, Mẹ, Mụ là danh xưng chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó, là tiếng xưng hô thân thiết của con cái với người đã sinh hạ ra mình. Tuy nhiên, Mẹ, Mẫu còn bao hàm nghĩa rộng hơn mang tính tôn xưng, tôn vinh: Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu - “Mẫu nghi thiên hạ”. .



Tuy chưa thống kê đầy đủ, nhưng cách tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu thường trên quan hệ tới các trường hợp sau:



- Các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu nhất là Mẫu Tam phủ - Tứ phủ: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng thiên (có lúc đồng nhất với Mẫu Liễu), Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu), Mẫu Thiên Ya Na… 



- Các Thái hậu (Mẹ vua), Hoàng hậu (vợ vua), Công chúa (con gái vua) có tài năng, công đức, khi mất hiển linh và được tôn xưng là Mẫu: Quốc Mẫu, Vương Mẫu. Như Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ Lý Thần Tông, Ỷ Lan, con gái Vua Hùng Nghị Vương thờ ở đền Cao Mại (Lâm Thao – Phú Thọ), Quốc Mẫu Tây Thiên - Tam Đảo - Vĩnh Phúc, Nguyên Phi Ỷ Lan – Mẫu nghi thiên hạ.



- Các trường hợp khác cũng tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu: Diệp Phu nhân – Quốc Mẫu – Thánh ân thờ ở đền Trần Liên – Yên Bái, Mẫu Sơn Quốc Thánh Thượng đẳng thần ( đền thờ tại Mẫu Sơn – Lạng Sơn ), Mẫu thân Thánh Gióng – Vương Mẫu. .



Cùng hệ thống này ở miền Trung và nhất là Nam Bộ, một số nữ thần cũng được tôn vinh là Mẫu: Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen), “chúa” Bà Chúa Xứ (Núi Sam), Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Sắt…



Như vậy các Mẫu – Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân thần, là hình thức tín ngưỡng. “nâng cao”, “lên khuôn” từ cái nền thờ Nữ thần vốn rất phổ biến và cổ xưa của dân tộc ta.




2. Từ thờ mẫu đến thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu)



Không nên đồng nhất hoàn toàn giữa thờ Mẫu với thờ Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu) mà từ thờ Nữ thần, thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ là bước phát triển về nhiều mặt. Tác nhân của sự phát triển ấy vừa có nhân tố nội sinh vừa có nhân tố ngoại sinh.



Mẫu Tam phủ – Tứ phủ so với tín ngưỡng thờ Mẫu thần nói riêng và thờ thần nói chung đã có bước phát triển đáng kể về tính hệ thống. Trước nhất, vốn là một tín ngưỡng dân gian mang tính tản mạn, rời rạc, nay bước đầu quy về một hệ thống tương đối nhất quán về điện thần với các phủ (Thiên Phủ, Địa Phủ, Thoải Phủ, Nhạc Phủ), các hàng thần (Ngọc Hoàng -> Mẫu -> Quan -> Chầu -> ông Hoàng -> Cô -> Cậu…) tương đối rõ rệt. Một điện thần với trên 50 vị thần lớn nhỏ đều quy về vị Thần chủ cao nhất là Thánh Mẫu, mặc dù trên Thánh Mẫu còn có Ngọc Hoàng, nhưng đó là lớp ảnh hưởng Đạo giáo sau này và nặng về hình thức.



Mẫu Tam phủ – Tứ phủ bước đầu đã chứa đựng ‘những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ, một vũ trụ thống nhất chia thành bốn miền do bốn vị Thánh Mẫu cai quản: Mẫu Thượng Thiên – Miền trời, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) – Miền đất, Mẫu Thượng Ngàn – Miền đồi núi, Mẫu Thoải – Miền nước. Mẫu là một lực lượng sáng tạo và cai quản vũ trụ, đã hóa thân thành bốn, cai quản 4 miền của vũ trụ.




Mẫu Tam phủ – Tứ phủ bước dầu đã thể hiện một ý thức nhân sinh, - ý thức về cội nguồn dân tộc, đất nước, chứa đựng lòng yêu nước - một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được linh thiêng hóa mà Mẫu là biểu tượng cao nhất.



Mẫu Tam phủ – Tứ phủ đã bước đầu hình thành một hệ thống thờ cúng trong các Đền, Phủ, những nghi lễ thờ cúng đã được chuẩn hóa, trong đó nghi lễ Hầu bóng (lên đồng) và lễ hội “tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ” là một điển hình.



Trong quá trình biến đổi, phát triển từ thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ, chúng ta đặc biệt chú ý tới giai đoạn từ thế kỷ XVI trở đi – giai đoạn xuất hiện Mẫu Liễu – quan niệm dân gian thường coi Bà là hóa thân, thậm chí đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, trở thành một vị thần chủ của Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ.



Tất nhiên, sự xuất hiện của vị Thánh Mẫu này ở vào khoảng thế kỷ XVI vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển nội tại của tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ trước, vừa phản ảnh khát vọng của quần chúng nhân dân thời Lê mạt, một xã hội buôn bán, nhất là buôn bán chợ quê phát triển, gắn với vai trò của người phụ nữ; xã hội rối loạn, nhân tâm ly tán, mà một trong biểu hiện của nó là các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên. Với vị Thần chủ này, Đạo Mẫu vốn là một tín ngưỡng gần với thiên nhiên, trời đất, nay được “đời thường hóa”, gắn liền và đáp ứng những khát vọng của con người, thân phận của con người nhất là người phụ nữ trong đời sống hàng ngày. tài lộc, chữa bệnh, ban phúc, giáng họa và chính từ đây, Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ có được bộ mặt mới, vừa rất dân tộc, rất truyền thống lại vừa rất cập thời, làm cho nó nhanh chóng phát triển, lan tỏa khắp mọi miền đất nước, theo gót người Việt để “Mẫu hóa” các tín ngưỡng bản địa khác, vừa có cơ hội tập trung thành trung tâm thờ Mẫu lớn, như Phủ Dầy ( Nam Định ), Đền Sòng Sơn ( Thanh Hóa ), Đền Bắc Lệ ( Lạng Sơn ), Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Đền Kì Anh ( Hà Tĩnh ), Điện Hòn Chén (Huê)



Và cùng với sự xuất hiện vị thần chủ này, thì hệ thống điện thần, quan niệm nhân sinh và vũ trụ, đặc biệt là các nghi lễ – lễ hội càng thể hiện tính hệ thống hơn.



Tất nhiên, bên cạnh sự “lên khuôn”, hệ thống hóa nói trên, trong Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ vẫn còn ẩn chứa nhiều yếu tố tín ngưỡng, ma thuật, những sắc thái và biến dạng địa phương. . . khiến nhiều người mới bước vào tìm hiểu có cảm giác như lạc vào thế giới thần linh hỗn độn, phi hệ thống, tùy tiện.



1. Để từ tục thờ Nữ thần, Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ thì ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc có vai trò quan trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung Quốc du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất là từ thời Bắc thuộc. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần thì Lão giáo là một trong “Tam giáo đồng nguyên”. Nhà vua đã từng ra sắc phong cho các đạo sĩ, trong các trường thi cũng có các đề nói về Đạo giáo, nhiều người trong Hoàng tộc cũng là Đạo sĩ. Lý thuyết Lão gia đã ăn sâu vào ý thức của nhiều trí thức đương thời, nhiều phương thuật, ma thuật của Đạo Lão lan truyền trong nhân dân. Đến đời Lê Nho giáo thịnh hành, Lão giáo không được coi trọng, nhưng triết lý cũng như pháp thuật của nó không phải không lưu hành rộng rãi. Điển hình là việc vua Lê Thần Tông ( 1607 - 1662 ) cho phép Trần Lộc lập ra Nội Đạo Tràng.



Đạo Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc về nhiều phương diện. Đó là các quan niệm về tự nhiên, đồng nhất con người với tự nhiên, về quan niệm Tứ phủ – Tam phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Đó còn là các truyện thần tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ ma tà… Ngay lễ Hầu bóng của Đạo Mẫu Việt Nam cũng không phải không chịu ảnh hưởng các hình thức lên đồng của đạo giáo Trung Quốc. Chính những ảnh hưởng này, một mặt giúp Đạo Mẫu “lên khuôn”, hệ thống hóa và bước đầu mang tính phổ quát nguyên lý Mẫu – Mẹ, nhưng mặt khác cũng làm tăng thêm tính ma thuật, phù thủy mà vốn trong dân gian đã từng tiềm ẩn.



Như vậy trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian, với những ảnh hưởng đạo giáo Trung Quốc đã hình thành và định hình Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu), một Đạo giáo dân gian đặc thù của Việt Nam, và có thể gọi một cách ngắn gọn hơn và thực chất hơn – Đạo Mẫu.
Tam Phủ = tức là tam nguyên - tam quan - tam phủ công đồng .



Tứ Phủ = Thiên Tiên - Địa Tiên - Sơn tiên - Thủy Tiên hay còn gọi ( Thượng Thiên - Thượng Ngàn - Trung Thiên - Thủy Phủ ) , như ở miền Trung + Tây nguyên thì xưng danh :



Ngũ Vị Thánh Bà :



1 - Tam Động hỏa Phong Thần Nữ Tiên Bà
2 - Đệ Nhị Đức Chầu Ngoại Thánh Bà ( còn gọi là Mộc Tinh Chúa Lá )
3- Đệ Tam Công Chúa Bạch Ba Thánh Bà
4 - Đệ Tứ Khâm Sai Long Cung Thủy Phủ Thánh Bà
5 - Đệ Ngũ Đức Chúa Thượng Ngàn ( còn gọi là Đực Mụ )
-----
Lục Phủ Tôn Ông :



1 - Đệ Nhất Thượng Thiên Tôn Ông
2 - Đệ Nhị Trung Thiên Tôn Ông
3 - Đệ Tam Giám Sát Thượng Thiên Tôn Ông
4 - Đệ Ngũ Long Cung Thủy Phủ Tôn Ông
5 - Đệ Tam Tam Phủ Tôn Ông
6 - Đệ Nhất Tôn Thần Ngoại - Đệ Nhị Tôn Thần Ngoại Càng - Đệ Tam Giám Sát Ngoại Cảnh Ngoại Càng Tôn Ông 



Cho nên mỗi nơi mỗi khác do địa lý của mỗi miền mà hiện nay vẫn chưa đồng nhất giá hầu cà cách xưnh danh là vậy
Vũ trụ hình thành có bầu trời, trái đất, và sông biển nên mới phân chia ra Tam phủ gồm có Thiên Phủ, Địa Phủ, Thoải Phủ. 
Nhưng đất đai thì rất rộng lớn, không phải là bằng phẳng mà trên đó còn có núi cao, rừng sâu, nên tiếp tục phân chia thêm Nhạc phủ, từ đó hình thành ra Tứ phủ.
Vậy Tứ phủ bao gồm Thiên phủ, Địa phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ.



Văn khấn đúng phải là Công đồng Tam, Tứ Phủ vạn linh



Đạo Mẫu Việt Nam
Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam. Đạo Mẫu được thờ tại các đền, phủ. Ở miền Bắc Việt Nam, hầu hết các chùa cũng có bàn thờ Mẫu (Tiền Phật, hậu Mẫu).



Lịch sử và phát triển
Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vở. Có người cho rằng nó có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian - những người phụ nữ có thật nổi lên trong lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ, và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.
Ngô Đức Thịnh phân chia sự phát triển của đạo Mẫu thành các giai đoạn:
1. Thờ các nữ thần thiên nhiên riêng biệt. Các nữ thần này là các tinh thần thiên nhiên và không có đặc điểm của con người, đặc biệt là đặc điểm của người mẹ.
2. Thờ các Thánh Mẫu. Các nữ thần này đã có đặc điểm của người mẹ. Ví dụ Mẹ Âu Cơ, mẹ của dân tộc Việt.
3. Thờ Thánh Mẫu tam phủ-tứ phủ. 3 hay 4 "Phủ" ở đây không phải là số đơn vị xây dựng như "đền", "phủ", mà là 3 hay 4 thành tố của vũ trụ: Trời (Thiên phủ), Đất (Địa phủ), Nước (Thủy phủ/ Thoải phủ), Núi rừng (Nhạc phủ).



Nghi lễ thờ cúng
Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.



Điều đó thể hiện trong các cầu nguyện và kinh lễ. Các bài kinh lễ là các bài hát về nhiều điều mà người ta mong muốn trong cuộc sống hàng ngày: thời tiết tốt cho mùa màng, sức khỏe cho mọi người, hạnh phúc, tiền tài, v.v.. Nội dung của các bài kinh lễ đơn giản và dễ hiểu, điều này rất khác so với nội dung kinh lễ các tôn giáo khác như Phật giáo hay Kitô giáo.
Đạo Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người đi lễ tham gia. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng). Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ (bà cốt), đôi khi mới do nam giới đảm nhận (ông đồng).



Các giá đồng (các điệu múa linh thiêng) là một phần quan trọng của nghi lễ. Có 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô,... Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn (hay chầu văn). Hát văn là một thể loại hát nói (vừa hát vừa nói). Hát văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ.



Đạo Mẫu có hai dịp lễ hội quan trọng: "Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ", kỷ niệm ngày mất của Đức thánh Trần (Cha) và Liễu Hạnh Công chúa (Mẹ). Ngoài ra, người đi lễ có thể đến các phủ đền vào các ngày mùng Một hoặc ngày Rằm (âm lịch) hàng tháng, dâng đồ cúng lễ để tạ ơn và cầu khấn.



Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày nay thuộc tỉnh Nam Định) vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. 



Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền Sòng tỉnh Thanh Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.



Cho dù cuộc đời của bà được giải nghĩa theo cách nào, Liễu Hạnh đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh của phụ nữ. Bà tách mình ra khỏi Khổng giáo với quan niệm trọng nam khinh nữ. Bà nhấn mạnh vào hạnh phúc, quyền tự do đi lại và độc lập tư tưởng. Vừa được kính sợ vừa được yêu mến, các nguyên tắc của bà về trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt cũng đã gửi một thông điệp về sự bảo vệ và hy vọng vào công bằng xã hội cho nhân dân trong thời loạn lạc của các thế kỷ 17-19. Vừa là thần tiên vừa là người (con gái, vợ, mẹ), Liễu Hạnh chia sẻ vui buồn với những người trần tục. Bà được coi là vị thần cảm thông và độ lượng nhất. Bà trở thành một trong các vị thần của Đạo Mẫu và nhanh chóng được nâng lên vị trí quan trọng nhất, cai trị các vị thần ở dưới và thế giới con người.
Các vị thần khác của đạo Mẫu



Trong các đền thờ của Đạo Mẫu có nhiều vị thần được sắp xếp theo các thứ bậc. Đầu tiên là Ngọc Hoàng. Đây là vị thần tối cao và được đặt ở vị trí danh dự, nhưng lại ít được thờ cúng. Vị thần cao nhất của Đạo Mẫu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Các vị khác được đặt tại các ban thờ tam phủ hoặc tứ phủ. 



Các Chư Linh của ban Tứ Phủ được phân chia như dưới đây:
Bảo Dân Hộ Quốc Thánh Mẫu (越國聖母)
Mẫu Âu Cơ (Thiên Phủ & Nhạc Phủ)
Mẫu Đệ Nhất (Thiên Phủ). Danh hiệu: Mẫu Liễu Hạnh
Mẫu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thượng Ngàn
Mẫu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thoải
Mẫu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Lê Mại Đại Vương
Phụ Vương Đại Thánh (越國聖父)
Lạc Long Quân (Thoải Phủ)
Bát Hải Long Vương (Thoải Phủ). Danh hiệu: Vua Cha



Trần Triều Hiển Thánh (陳朝顯聖)
Đức Thánh Trần. Danh hiệu: Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo - Tiết chế quốc công Hưng Đạo Đại vương)
Đệ Tam Ông Cửa Suốt - Con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương
Đệ Nhất Vuong Cô - Con gái thứ nhất của Hưng Đạo Vương
Đệ Nhị Vương Cô - Con gái thứ hai của Hưng Đạo Vương
Đức Thánh Phạm Danh hiệu: Phạm Ngũ Lão - Con rể của Hưng Đạo Vương
Cô Bé Cửa Suốt -cháu gái của Hưng Đạo Vương
Cậu Bé Cửa Đông-cháu trai của Hưng Đạo Vương



Các Vị Chúa Mường (山林嶽府占卜神婆)
là các vị Chúa Bà chuyên về đáp giải bói bốc. Nếu chỉ tính ba vị Chúa Bói thì gọi là "Tam Toà Chúa Bói."
Chúa Đệ Nhất Tây Thiên(Thiên Phủ)&(Nhạc Phủ)
Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ(Nhạc Phủ)
Chúa Đệ Tam Lâm Thao (Thoải Phủ)&(Nhạc Phủ)
Chúa Cà Phê(Địa Phủ)&(Nhạc Phủ)
Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương(Nhạc Phủ)
Chúa Long Giao(Nhạc Phủ)
Chúa Thác Bờ (Thoải Phủ)&(Nhạc Phủ)
Chúa Mọi(Nhạc Phủ)



Ngũ Vị Tôn Quan (五位神威尊官皇太子)
Trách nhiệm của ngũ vị này là giáng vào thanh đồng để bắt đầu "mở phủ" cho các giá đồng sau được theo vào người đồng.
Quan Đệ Nhất quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm mưa làm gió, và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào mầu đỏ.
Quan Đệ Nhị (Quan Giám Sát) ngày cúng của Đức Giám Sát là Âm Lịch mùng Ba tháng Ba. Châu văn ràng: Quyền cai rừng núi Lâm Cung, lên rừng suống biển tâu về Bát Hải Long Vương. Lúc đánh trận cho nhà vua thánh, Ông Quan là vị giám sát trước để đánh thuận xông pha. Mặc bào mầu xanh lá cây. Lúc lên giá này, ông cầm khăn phủ diện để minh giám hoàn cảnh.
Quan Đệ Tam (Quan Tam Phủ) là con vua Bát Hải Long Vương, ra trận cầm đối đao vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông pha quỉ thế tà giới.
Quan Đệ Tứ (Quan Khâm Sai) là một ông quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ông có trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt. Mặc bào mầu vàng.
Quan Đệ Ngũ (Quan Tuần Tranh) là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể là tướng đi tuần ở Sông Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này, ông cầm cái thanh long đao to như của ông Quan Công của thời Tam Quốc.



Lục Phủ Tôn Ông (六府特臣尊官聖靈)
Đệ Nhất Vương Quan. Danh hiệu: Quan Điều Thất
Đệ Nhị Vương Quan. Danh hiệu: Quan Hoàng Triệu



Tứ Phủ Chầu Bà (四府十二位英靈公主)
Chầu Đệ Nhất (Thiên Phủ)
Chầu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa
Chầu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa
Chầu Thác Bờ (Thoải Phủ & Nhạc Phủ) Có người hầu là giá thứ ba, tức là Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ
Chầu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa
Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40)
Chầu Năm (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Suối Lân Công Chúa
Chầu Ngũ Phương Có người hầu giá này thay vao Chầu Năm, tức là Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương
Chầu Lục (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa
Chầu Bẩy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Tân La Công Chúa
Chầu Tám (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn
Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ.
Chầu Chín Cửu Tỉnh ở Bỉm Sơn Thanh Hoá
Chầu Mười(Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng
Chầu Mười Một
Chầu Bé (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa
Chầu Bà Ngũ Hành (五行聖婆神女)



Đệ Nhất Chầu Bà Kim Tinh Thần Nữ
Đệ Nhị Chầu Bà Mộc Tinh Thần Nữ
Đệ Tam Chầu Bà Thuỷ Tinh Thần Nữ
Đệ Tứ Chầu Bà Hoả Phong Thần Nữ
Đệ Ngũ Chầu Bà Thổ Đức Thần Nữ



Thập Vị Thủy Tế (十位八海龍兒皇子王爺)
Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Quận/ Lê Lợi
Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
Ông Hoàng Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai
Ông Hoàng Năm
Ông Hoàng Sáu
Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bảo Hà
Ông Hoàng Bát (Nhạc Phủ). Danh hiệu:Ông Bát Quốc, là một ông quan gốc người Hán đóng quân ở Lào Cai
Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Cờn Môn
Ông Chín Thượng(Nhạc Phủ)
Ông Hoàng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Nghệ An, có công chống giặc Thanh từ bên TQ



Tứ Phủ Tiên Cô (四府山莊神領聖姑)
Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)
Cô Đệ Nhất Thượng Ngàn(Nhạc Phủ)
Cô Đôi Thượng(Nhạc Phủ)
Cô Đôi Cam Đường(Nhạc Phủ) quê cô ỏ Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai
Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông & Cô Ba Tây Hồ
Cô Tư (Địa Phủ)
Cô năm Suối Lân(Nhạc Phủ)
Cô sáu Sơn Trang(Nhạc Phủ)
Cô bảy Tiên la(Nhạc Phủ)
Cô Tám đồi chè(Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục
Cô Chín Sòng Sơn(Thiên Phủ)
Cô Chín Thượng(Nhạc Phủ)
Cô Chín Thoải (Thoải Phủ)
Cô Mười Đồng Mỏ(Nhạc Phủ)
Cô Bé Đông Cuông(Nhạc Phủ)
Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ)
Cô Bé Thác Bờ (Thoải Phủ)
Cô Bé Thoải(Thoải Phủ)
Cô Bé Đen(Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc



Thập Vị Triều Cậu (十位超靈少聖舅)
Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ)
Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
Cậu Hoàng Bé(Nhạc Phủ)



Quan Ngũ Hổ (五方神虎威靈)
Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (東方甲乙木德青虎威靈)
Nam Phuong Bính Đinh Hoả Đức Xích Hổ Thần Quan (南方丙丁火德赤虎威靈)
Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (中央戊已土德黃虎威靈)
Tay Phuong Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan (西方庚辛金德白虎威靈)
Bắc Phuong Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần Quan (北方壬癸水德黑虎威靈)



Ông Lốt (兩位青蛇白蛇大神將軍)
Thanh Xà Đại Tướng Quân
Bạch Xà Đại Tướng Quân



Giải thích về sự có mặt của cả nam thần lẫn nữ thần trong các vị thần của Đạo Mẫu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng: Do xã hội Việt Nam cổ xưa theo chế độ mẫu hệ, nên phụ nữ có vị thế quan trọng trong xã hội. Tuy nhiên, người phụ nữ chỉ có được quyền lực khi họ đã kết hôn. Do đó, nam giới cũng được xem là có vai trò quan trọng trong cuộc sống, và họ cũng được thờ cúng.




Nguồn : Đạo Mẫu Việt Nam 


Đạo Mẫu



Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam



Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vở. Có người cho rằng nó có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian - những người phụ nữ có thật nổi lên trong lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ, và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.



Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.



Trong tín ngưỡng dân dã của người Việt Nam, việc tôn thờ Nữ thần, thờ Mẫu là một hiện tượng khá phổ biến và có căn cỗi lịch sử và xã hội sâu xa.



Tuy đều là sự tôn sùng các thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ Nữ thần với thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu không hoàn toàn đồng nhất.



Tôn thờ Nữ Thần



Từ rất lâu đời, ở nước ta Nữ Thần đã được nhân dân tôn vinh và thờ cúng. Người xưa cũng đã từng tập hợp các vị tiên có nguồn gốc thuần Việt , thì trong tổng số 27 vị, đã có 14 là Tiên nữ.



Trong truyền thuyết Nữ thần Mặt Trời và Nữ thần Mặt Trăng đã soi sáng và sởi ấm cho mặt đất, tạo lập nên vũ trụ.



Huyền thoại về Bà Nữ Oa đội đá vá trời. Các nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Phong, Pháp Điện tạo ra mây, gió , sấm chớp…



Sinh thành ra dân tộc Việt Nam có Mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng, nở thành 100 người con.



Các bà Mẹ cũng là các vị thần sáng tạo ra văn hoá và các giá trị văn hoá, là tổ của nhiều ngành nghề truyền thống như Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa…



Nhiều Nữ thần là các danh tướng anh hùng ngoài trận mạc, là những nhân tài xây dựng đất nước như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân…



Các vị Nữ thần từ bao đời nay được nhân dân tôn làm Thánh , Thần, được triều đình sắc phong thành các vị Thần, Thành Hoàng của nhiều làng.



Đạo Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người đi lễ tham gia. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng). Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ (bà đồng), đôi khi mới do nam giới đảm nhận (ông đồng).



Các giá đồng (các điệu múa linh thiêng) là một phần quan trọng của nghi lễ. Có 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô,... Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn (hay chầu văn). Hát văn là một thể loại hát nói (vừa hát vừa nói). Hát văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ.



Thờ Mẫu



Tục thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu có quan hệ mật thiết với tục thờ Nữ thần



Mẫu là Nữ thần nhưng không phải tất cả các nữ thần đều là Mẫu, mà chỉ có một số nữ thần được tôn vinh là Mẫu.



Danh từ Mẫu là gốc Hán Việt, còn thuần Việt gọi là Mẹ. Nghĩa ban đầu, Mẫu hay Mẹ đều để chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng của người con đối với người sinh ra mình.



Ngoài ý nghĩa xưng hô thông thường đó, từ Mẫu và Mẹ có ý nghĩa rộng rãi tôn vinh những bà Mẹ chung của mọi người.



Tín ngưỡng thờ Mẫu chứa đựng những nhân tố về một hệ thống vũ trụ luận nguyên sơ, thể hiện một ý thức nhân sinh, ý thức cội nguồn, dân tộc, lòng yêu nước đã được thiêng liêng hoá mà Mẫu là biểu tượng cao nhất.



Đạo Mẫu tiếp thu những ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên,một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.



Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta và một bộ phận quan trọng của nó đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hoá, giữa đạo Phật và đạo Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau khá sâu sắc.



Điều dễ nhận biết là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở nông thôn đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng “ tiền Phật hậu Mẫu “



,phía trước thờ Phật ,phía sau thờ Mẫu.



Tam Toà Thánh Mẫu



Chúng ta thấy trong những điiện thờ Mẫu có một hệ thống được thờ như sau:



Trên cao nhất của thượng điện là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.. Tuy vậy, ít nơi thờ. Vì đúng lẽ chỉ có những vị tiên trên thượng giới mới được thờ Thượng đế.



Tiếp đến là thờ Tam Toà Thánh Mẫu ( Mẫu Tam phủ, Mẫu tứ phủ)



Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất và hoá thân thành Tam vị , Tứ vị cai quản các cõi các miềm khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên,Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn.



Thường chúng ta thấy Tam toà thánh mẫu trong các điiện thờ:






Mẫu Thượng Thiên hay còn gọi là Mẫu Cửu Trùng (Cửu Thiên Huyền Nữ) mặc áo đỏ, ngồi chính giữa.Sau này một số điện thờ Mẫu, nơi chính giữa thờ Mẫu Liễu Hạnh.



Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, gió ,sấm, chớp…



Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào khoảng đời hậu Lê, nhưng nhanh chóng trở thành vị Thần chủ của Đạo Mẫu Việt Nam và được tôn vinh với tư cách là Mẫu Thượng Thiên, được thờ ở vị trí trung tâm, mặc trang phục màu đỏ.



Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày nay thuộc tỉnh Nam Định) vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền Sòng tỉnh Thanh Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.



Tại làng Tây Hồ -Hà Nội có Phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh, dựng trên doi đất trông ra Hồ Tây,, cảnh đẹp , gió lộng từ ba phía, ngoài ra còn có những đền thờ nổi tiếng ở nhiều nơi như Phủ Giầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, đền Sòng, Phố Cát- Thanh Hoá…



Mẫu Thượng Ngàn là hoá thân Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, ngồi bên trái , mặc áo xanh.



Các đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở nhiều nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính được nhiều người biết đến là ở Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ ( Lạng Sơn).



Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Suối Mỡ thờ Mỵ Nương Quế Hoa, con gái Vua Hùng.



Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Bắc Lệ thờ công chúa La Bình, con gái đức Thánh Tản và Ngọc Hoa.



Mẫu Thoải (Mẫu Thuỷ) là vị Thánh trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương, liên quan đến thuỷ tổ dân tộc Việt .ngồi bên phải, mặc trang phục màu trắng.



Mẫu Địa là vị thánh trông coi đất đai, mặc áo màu vàng.



Ngũ vị Quan Lớn



Sau hàng Mẫu là Ngũ Vị Quan Lớn, gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ. Các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích màu sắc trang phục Thoải Phủ màu trắng, Thiên Phủ màu đỏ, Nhạc Phủ màu xanh, Địa Phủ màu vàng.



Các vị Quan lờn đều có nguồn gốc là thiên thần, vâng mệnh trời xuống giúp dân lành.



Nhưng cũng có nơi gắn các vị Quan lớn với các Nhân thần, những vị tướng có công với nước.



-Quan Đệ Nhất quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm mưa làm gió, và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào mầu đỏ.



-Quan Đệ Nhị (Quan Giám Sát) ngày cúng của Đức Giám Sát là Âm Lịch mùng Ba tháng Ba. Châu văn ràng: Quyền cai rừng núi Lâm Cung, lên rừng suống biển tâu về Bát Hải Long Vương. Lúc đánh trận cho nhà vua thánh, Ông Quan là vị giám sát trước để đánh thuận xông pha. Mặc bào mầu xanh lá cây. Lúc lên giá này, ông cầm khăn phủ diện để minh giám hoàn cảnh.



-Quan Đệ Tam (Quan Tam Phủ) là con vua Bát Hải Long Vương, ra trận cầm đối đao vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông pha quỉ thế tà giới.



-Quan Đệ Tứ (Quan Khâm Sai) là một ông quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ông có trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt. Mặc bào mầu vàng.



-Quan Đệ Ngũ (Quan Tuần Tranh) là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể là tướng đi tuần ở Sông Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này, ông cầm cái thanh long đao to như của ông Quan Công của thời Tam Quốc.



Tứ Vị Thánh Bà hay Tứ Vị Chầu Bà được coi như hoá thân , phục vụ trực tiếp của Tứ Vị Thánh Mẫu



Tứ Phủ Chầu Bà



-Chầu Đệ Nhất (Thiên Phủ)



-Chầu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa



-Chầu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa



-Chầu Thác Bờ (Thoải Phủ & Nhạc Phủ) Có người hầu là giá thứ ba, tức là Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ



-Chầu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa



Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40)



-Chầu Năm (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Suối Lân Công Chúa



-Chầu Ngũ Phương Có người hầu giá này thay vao Chầu Năm, tức là Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương



-Chầu Lục (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa



-Chầu Bẩy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Tân La Công Chúa



-Chầu Tám (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn



Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ.



-Chầu Chín Cửu Tỉnh ở Bỉm Sơn Thanh Hoá



-Chầu Mười(Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng



-Chầu Mười Một



-Chầu Bé (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa



Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi theo thứ tự từ Ông Hoàng đệ Nhất đến ông Hoàng Mười.



Thập Vị Thủy Tế



-Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Quận/Lê Lợi



-Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)



-Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ)



-Ông Hoàng Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai



-Ông Hoàng Năm



-Ông Hoàng Sáu



-Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bảo Hà



-Ông Hoàng Bát (Nhạc Phủ). Danh hiệu:Ông Bát Quốc, là một ông quan gốc người Hán đóng quân ở Lào Cai



-Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Cờn Môn



-Ông Chín Thượng(Nhạc Phủ)



-Ông Hoàng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Nghệ An, có công chống giặc Thanh từ bên TQ



Một số đền thờ có các ông Hoàng được nhiều người biết đến như : đền ông Hoàng Bảy ỏ Bảo Hà, Ông Hoàng Mười ở Bến Thuỷ - Nghệ Tĩnh.



Hàng Cô được gọi từ Cô Đệ Nhất (cô cả ) đến Cô Thứ Mười Hai ( cô bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu.Các cô ăn mặc rất đẹp, áo các màu, thắt lưng hồng, tóc cài hoa…




Tứ Phủ Tiên Cô



-Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)



-Cô Đệ Nhất Thượng Ngàn(Nhạc Phủ)



-Cô Đôi Thượng(Nhạc Phủ)



-Cô Đôi Cam Đường(Nhạc Phủ) quê cô ỏ Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai



-Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông & Cô Ba Tây Hồ



-Cô Tư (Địa Phủ)



-Cô năm Suối Lân(Nhạc Phủ)



-Cô sáu Sơn Trang(Nhạc Phủ)



-Cô bảy Tiên la(Nhạc Phủ)



-Cô Tám đồi chè(Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục



-Cô Chín Sòng Sơn(Thiên Phủ)



-Cô Chín Thượng(Nhạc Phủ)



-Cô Chín Thoải (Thoải Phủ)



-Cô Mười Đồng Mỏ(Nhạc Phủ)



-Cô Bé Đông Cuông(Nhạc Phủ)



-Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ)



-Cô Bé Thác Bờ (Thoải Phủ)



-Cô Bé Thoải(Thoải Phủ)



-Cô Bé Đen(Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc



Các Cậu quận là những người chết trẻ hiên linh, họ là những phụ tá của các ông Hoàng.



-Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ)



-Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)



-Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)



-Cậu Hoàng Bé(Nhạc Phủ)



Tại các điện thờ Mẫu ở hạ ban hoặc ngoài sân còn có sự hiện diện của các vị Quan Ngũ Hổ hay ông Lốt (rắn). Trong quan niệm dân gian, thần Ngũ Hổ cai quản núi rừng, là vị thần linh canh giữ các ngội đền.



Quan Ngũ Hổ



-Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan



-Nam Phương Bính Đinh Hoả Đức Xích Hổ Thần Quan



-Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan



Tây Phương Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan



• Bắc Phương Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần Quan



Còn Rắn Thần cai quản nơi sông nước.




Ông Lốt



-Thanh Xà Đại Tướng Quân



-Bạch Xà Đại Tướng Quân



Lễ trình đồng



Đệ tử của Tứ Phủ sau khi đã được tôn lô nhang mà căn mạng vẫn còn quá nặng thì phải ra đàn Tứ Phủ sơn trang để chính thức trở thành ghế đệm cho các Ngài( 38 vị = 38 giá đồng hầu các vị Thánh được tôn thờ trong Tứ Phủ) thì mới hết bị Ngài hành. Đệ tử trong Tứ Phủ quan niệm rằng: sở dĩ gặp những điều không may trong cuộc sống thường nhật là tại các Ngài đã chấm đồng bắt lính mà không chịu ra hầu các Ngài nên bị hành, chỉ cần ra đàn xong là khỏi..



Lễ trình đồng này có mục đích trình diện con đồng với chư vị Mẫu, Mẹ, Vua, Cha, với các ông Hoàng bà Chúa. Mở đàn để ra trình diện với 4 phủ và sau lễ ấy mới được chính thức làm ghế đệm để các Ngài về phán bảo và làm việc quan. Lễ trình đồng hiện nay phải chịu nhiều tốn kém do người ta tự đua nhau: “Ghen vợ ghen chồng không bằng ghen đồng ghen bóng”



Nguời nghèo thì đàn mỏng lễ sơ, người giàu thì tổ chức trình đồng có đàn lễ lên tới con số 20 - 30 triệu đồng VN. Vào những năm 60 một đàn lễ trình đồng to nhất cũng chỉ tốn 50 ngàn đồng... Thông thường tín đồ chỉ đưa tiền cho nhà đền (Thủ đền), nhà đền lo sắm lễ tất cả. Cuộc lễ tổ chức trong 2 hoặc 3 ngày sau. Ngày đầu gọi là lễ mở Đàn hay lễ mở Phủ, ngày thứ 2 có hoặc không, để cách khoảng chứ không có lễ nghi gì quan trọng, và ngày cuối cùng là ngày tiễn Đàn sơn trang nên được gọi là: “Tiền tứ phủ, hậu sơn trang”.Lễ này cần rất nhiều lễ vật như: Hoa quả bầy trên khắp các ban thờ, thường dùng nhất là hoa huệ trắng. Đặc biệt ban thờ trước giá hầu thường được cắm hoa hồng. Có khi người ta lấy tiền giấy kết thành hình con bướm mắc vào cành huệ để các Ngài dùng những cành hoa ấy phát lộc. Rất nhiều trái cây đủ loại được bày thành từng mâm. Trong đó có một vài mâm đặc trưng mà buổi hầu đồng nào cũng phải có: Mâm quạt, mâm lược và mâm gương soi để dâng cho giá cô Bơ phủ. Một mâm hoa quả như: ớt, ổi, dứa, chuối, đu đủ..., gừng, chanh... gọi là lộc sơn trang để dâng cô Bé Thượng Ngàn; một mâm kẹo bánh, đồ chơi trẻ con để dânh cho giá Cậu; một mâm trứng, oản thịt luộc để dâng Ngũ hổ năm dinh; kẹo lạc trà tàu thuốc lá mà đầu thuốc có phết một ít thuốc phiện để dâng giá ông Hoàng Bảy.



Loại lễ thứ hai là đồ mã. Bắt buộc phải có một đài sơn trang, lớn hay nhỏ tùy theo ý muốn của người ra đàn. Đài sơn trang là một cái động nằm trong khu rừng âm u, trong động có các nàng tiên nữ theo hầu bà chúa Sơn Trang, có người gảy đàn, người múa hát... tất cả đều được làm bằng giấy. Bốn hình nhân thế mạng lớn bằng hình người thật, mặc sắc phục khác nhau: Xanh, đỏ, trắng , vàng tượng trưng cho bốn phủ. Mỗi hình nhân mang theo một điệp sớ. một thuyền giấy( thoi), một hình người có 3 đầu, mình rắn ( Lốt), một ngựa, một voi, và nhiều mũ, vàng thoi....



Loại lễ vật thứ 3 là một mâm sớ, 4 quyển sổ, 4 nghiên son, 4 thỏi mực, 4 bút lông. Mỗi sổ dành cho một phủ.



Trên ban thờ hầu được thiết lập thành 4 phủ. Đó là 4 dãy lụa đỏ, xanh, trắng, vàng trải dài trên bàn phủ xuống tận đất. Mỗi vuông lụa ngang khoảng 7 đến 9 tấc, dài khoảng 2,50m. Những vuông lụa đó phủ kín để che dấu bên trong là 1 cái thau, 1 cái gáo múc nuớc để trên thau, 1 hũ nước dán miệng kín bằng 1 tờ giấy cùng màu với phủ, một mâm gạo, một mâm trứng, thuốc lá, trà tàu, một hộp trầu cau. tất cả đều mới và cùng màu với phủ.



Ngoài cửa đề có bày 1 mâm gạo, trứng, muôi và cháo để cúng chúng sinh.



Khi mọi lễ vật đã được chuẩn bị xong, cuộc lễ bắt đầu. Lễ thường được tiến hành từ 10 giờ sáng. Người ra đàn phải tìm cho mình một Quan thày( Có đức cao trọng vọng và có tiếng trong Tứ Phủ ) để hầu mở phủ. Người ra đàn phải mang những y phục mà mình đã may để trình. Những y phục này chỉ có giá trị khi đã dâng lên và được các Ngài “chứng” bằng cách điểm dấu nhang lên trên đó.



Trong khi bà đồng sửa soạn hầu mở phủ thì cung văn tấu nhạc và thầy cúng đọc sớ và người ra đàn lễ bái trước tất cả các ban thờ, xong trở lại ngồi chầu nơi bệ hầu để khấn vái chờ nghe các Ngài phán bảo.



Quan thầy hầu trước là giá Tam tòa thánh mẫu. Rồi đến giá Quan. Gía này quan trọng nhất vì chỉ có các quan mới có quyền mở phủ còn những giá khác chỉ về chứng đàn mà thôi. Bởi vậy quan thầy hôm ấy băt buộc phải hầu giá các quan, còn các giá Cô, cậu,... gọi là hầu cho vui, muốn hầu hay không là tùy.



Mỗi phủ có một quan đầu đồng và quan ở phủ nào thì mở phủ ấy. Thí dụ:



Quan Bơ về mở phủ thứ 3, sắc trắng. Sau những nghi thức thường lệ “Quan” cầm một bó nhang đốt cháy, tay trái cầm chéo khăn và “chống nạnh”, Quan dậm chân hét một tiếng to, lúc ấy chiêng trống nổi lên dồn dập. Quan cầm bó nhang, xoay xoay trước ban thờ và 4 hướng, tiến đến phía các phủ cũng làm dấu điểm nhang. Đoạn ngồi xuống, nghe thầy cúng hoặc cung văn đọc sớ, đọc xong dâng mâm sớ lên cho quan điểm nhang. Quan kiểm sổ bằng cách chấm bút son vào sổ. Rồi đứng dậy tiến tới phủ của mình, Quan giở khăn choàng phủ ra, hầu dâng xếp khăn lại đặt trở lên bàn thờ. Quan lấy vài miếng trầu cau, một quả trứng, thuốc lá, một nhúm gạo bỏ tất cả vào thau sau khi đã điểm nhang trên các vật ấy. Quan lấy gáo chọc thủng nắp thố nước, múc 4 gáo đổ vào thau. Như vậy, là mở phủ xong, Quan trở lại chỗ hầu, nghe văn, ban lộc và xa giá hồi loan. Các quan ở phủ khác cũng đều làm giống như vậy. Sau khi quan thầy hầu mở xong 4 phủ tức là buổi lễ mở phủ đã xong. Suốt trong buổi hầu đồng người ra trình đồng phải hì hục khấn vái và quấn quít bên cạnh Quan thầy. Sau phần nghi lễ chính thức, nhà đền bày tiệc thiết đãi linh đình. Có thể tiễn đàn ngay ngày hôm sau hoặc để cách một hôm. Lễ tiễn đàn. Bà đồng trong cung hầu chuẩn bị sửa soạn hầu tiễn, ở bên ngoài cung văn và thầy cúng nổi chiêng trống và đọc sớ làm lễ tiễn Thổ công. Người ra đàn đi lễ tạ khắp các ban thờ. Các mâm cỗ mặn được bầy cúng trước các ban thờ. Vẫn có gạo muối, trứng, chầu cau, cháo để cúng chúng sinh ở cửa đền. Trước các đầu voi, ngựa, thuyền đều có để bát nhang. Cúng xong bà đồng bắt đầu hầu tiễn. Buổi hầu tiễn đồng này vẫn do quan thầy làm, cũng giống như buổi hầu mở phủ chứng đàn. Khi về giá các Quan. Quan nào chịu tiễn đàn thì Quan sẽ chứng sớ và ra lệnh cho hầu dâng cắm một thanh gươm và một cây cờ sau lưng. Tay trái Quan cầm một góc khăn và chống nạnh, tay phải cầm một góc khăn và một bó nhang to đốt cháy... Chiêng trống đổ dồn dập, mọi người vội vã bày hết đồ mã ra xếp dọc hai bên của đền hướng về phía đường đi. Quan làm dấu nhang trên tất cả cá đồ mã, khai quang điểm nhãn cho các hình nhân, những bông vạn thọ được xé nát ra trộn vào gạo muối rải tiễn các đồ mã và rải tiễn cả 4 phương. Quan cầm cờ múa quay và miệng hét “ há,há...” quan rải rượu và cắm nhang lên hình nhân và đồ mã, ra lệnh cho mang tất cả đi hóa....Bên ngoài các đồ mã được chuyển đi hóa, ở trong chiêng trống đổ dồn, quan trở lại ngồi trước bệ hầu uống rượu, hút thuốc, nghe văn, phát lộc và thăng. Buổi lễ ra đàn hay trình đồng như vậy là hoàn tất.



Người ra đàn có thể hầu bóng ngay hôm đó. Bắt đầu từ đó họ chính thức trở thành một “ Đồng” .



Các Ngôi đền, Chùa ở nước ta thường được xây dựng ở những nơi thanh tú, gần những nơi có sông núi mây trời, xung quanh khuôn viên thường có những cây cao bóng cả, hoa thơm bốn mùa tươi sắc.



Ngày Xuân đi lễ đền chùa, cầu mong Trời Phật Thánh Mẫu phù hộ cho gia đình mình, cho đất nước .Lòng chúng ta hướng về điều thiện và thấy cảnh vật cũng như con người ngày càng tươi đẹp thêm .
Trong tín ngưỡng của người Việt và của một số dân tộc thiểu số khác ở trên lãnh thổ Việt Nam, việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ tứ phủ là hiện tượng khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tât cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, mẫu thần, mẫu tam phủ tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất



Đạo Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến



Các văn bản ghi chép về các thần linh ban đầu đều xuất phát từ thần thoại, huyền thoại, truyện kể dân gian và đồng thời cũng có hiện tượng ngược lại là huyền thoại hóa, dân gian hóa các văn bản thần thần tích, thần phả. Hiện tượng đó về các nữ thần, Thánh Mẫu cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.



Trong truyện kể dân gian về bà chúa Liễu Hạnh lưu truyền trong dân gian khá phong phú, sau này một số được ghi chép lại trong các sách cổ như Việt điện u linh, ngoài ra còn có các truyện kể dân gian khác về các vị nữ thần được các sách sau này tập hợp và ghi chép lại.



Cùng với việc sưu tầm, một số tác giả là các trí thức nho học thời phong kiến đã tiến hành ghi chép lại và sáng tác thêm những huyền thoại, truyền thuyết đã được sưu tầm ghi chép từ trước và thậm chí là sáng tác thêm cho phù hợp tư tưởng lễ giáo thời kỳ đó. Từ thời Hậu Lê, đã có những việc như vậy nhằm phục vụ cho việc phong thần của các vị vua với hai trường hợp điển hình với các ghi chép-sáng tác về Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền bắc Việt Nam của Nguyễn Công Trứ, Đoàn Thị Điểm và trường hợp thứ hai là về Thiên Y A Na ở nam Trung Bộ Việt Nam của Phan Thanh Giản



Ngoài các ghi chép-sáng tác như trên, cũng có một nguồn tư liệu khác được dân gian sáng tác từ các huyền thoại, truyền thuyết và thậm chí là các truyện, thơ về các Thánh Mẫu. Đó là các bài hát văn ở Mẫu Tam phủ Tứ phủ với phần cốt lõi của các bài hát văn là lai lịch, sự tích các vị thần, nhất là các Thánh Mẫu. Ngoài ra còn nhiều tình tiết khác về khung cảnh, dung nhan, tướng mạo của các vị thần được những người sáng tác vô danh diễn tả, tô vẻ thêm



Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nữ thần, Mẫu thần ở Việt Nam đều là các công trình của các nhà khoa học người Pháp như Parmenties, Maspero, Durand, Simond và kế tiếp là các nhà khoa học người Việt như Nguyễn Văn Huyên, Đào Thái Bình,...



Thờ Mẫu ở Bắc bộ



Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời phong kiến một số Nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để thành các Mẫu thần tương ứng thời kỷ từ thế kỷ 15 trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Ỷ Lan nguyên phi, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương



Từ khoảng thế kỷ 15 trở đi, hình thức thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định hình và phát triển mạnh, đây cũng là thời kỳ xuất hiện Thánh Mẫu Liễu Hạnh với các nghi thức ảnh hưởng từ Đạo giáo



Thờ Mẫu ở Trung Bộ



Dạng thức thờ Mẫu này chủ yếu ở khu vực nam Trung bộ, đặc trưng cơ bản của dạng thức thờ Mẫu ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu không có sự hiện diện của mẫu Tam phủ, Tứ phủ mà chỉ có hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần. Hình thức thờ Nữ thần như thờ Tứ vị Thánh nương, Bà Ngũ Hành và hình thức thờ Mẫu thần như thờ Thiên Y A Na, Po Inư Nưgar



Thờ Mẫu ở Nam bộ



So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định với biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ sự phân biệt giữa hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn, hiện tượng này được giải thích với nguyên nhân Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hoá mà còn cả trong tín ngưỡng



Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị Thánh nương, Bà Thuỷ Long, Bà Chúa Động, Bà Tổ Cô,...và những Mẫu thần được thờ phụng như Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Hậu,...



Từ thập niên 1990, nhất là sau hội thảo quốc gia về Thánh Mẫu Liễu Hạnh do Viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam tổ chức tại Văn Miếu (Hà Nội), không khí học thuật liên quan tới tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và tín ngưỡng dân gian nói chung diễn ra sôi động, hàng loạt tác phẩm, công trình nghiên cứu đã được công bố.



Từ các nghiên cứu tổng hợp, các nhà nghiên cứu đã hệ thống hóa được việc tôn thờ Đạo Mẫu Việt Nam trên cả phương diện đồng đại và lịch đại. Về phương diện lịch đại, Đạo Mẫu Việt Nam được hình thành và phát triển trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa, rồi tiếp thu những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa để đạt đến đỉnh cao là đạo thờ Mẫu Tam phủ Tứ phủ. Tới thế kỷ 17-18, khi mẫu Tam phủ Tứ phủ đã được hình thành và phát triển thì nó lại Tam phủ, Tứ phủ hóa tục thờ Nữ thần, Mẫu thần



Về phương diện đồng đại, đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào phương nam trong quá trình nam tiến. đạo Mẫu của người Việt đã giao thoa, tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Chăm, người Khmer từ đó tạo nên các dạng thức địa phương của Đạo Mẫu Việt Nam ở ba miền Bắc bộ, Trung

"
http://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com/t565-topic

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.