Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

03/01/2018

Tượng đá mang phong cách Mạc ở chùa Phổ Chiếu (Hải Phòng)

Tượng đá nhưng hiện nay được phủ lên rất nhiều lớp sơn.

Phát hiện năm 2015.

Bài của Vũ Thu Hiền.








---

HAI TƯỢNG ĐÁ PHONG CÁCH MẠC CHÙA PHỔ CHIẾU


Vị trí cặp tượng đá thời Mạc



Đầu tháng 8 năm 2015, trong chuyến khảo sát điền dã tại chùa Phổ Chiếu (còn gọi chùa Văn Hòa) xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng, đoàn cán bộ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã phát hiện 2 pho tượng nhân vật bằng đá và dựa trên những đặc điểm tạo hình có thể đoán định đây là những di vật còn sót lại từ thời Mạc cùng với tấm bia đá gắn ở hiên phải tiền đường. Những pho tượng này hiện được đặt đối xứng hai bên tượng Đức Ông (bằng gỗ) ở gian trái tiền đường. Nhìn thoáng qua, người ta rất dễ nhầm lẫn đây là đôi tượng bằng gỗ được đặt hầu cận bên Đức Ông. Có lẽ chính bởi vị trí đặt tượng, kích thước nhỏ bé (76-77cm), tư thế đứng chầu và màu sắc tươi tắn được tô phủ kín mà cặp tượng này đã bị các nhà nghiên cứu “bỏ rơi” khi đến tìm hiểu dấu ấn vật chất của thời Mạc hiện còn ở chùa Phổ Chiếu. Trước đó, năm 1996 trong luận án Phó Tiến sĩ khoa học Lịch sử: “Di tích thời Mạc vùng Dương Kinh” (Hải Phòng), nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sơn không thấy nhắc tới cặp tượng này. Ông khẳng định: Vết tích thời Mạc có: tấm bia đá và một pho tượng bà Hoàng [4,tr47]. Thời điểm hoàn thành bản thảo cuốn Mỹ thuật thời Mạc (1985), và in sách năm 1993, các tác giả thuộc Viện Mỹ thuật chưa có khảo sát cũng như liệt kê di tích chùa Phổ Chiếu trong danh sách di tích thời Mạc.

Hai pho tượng tạc bằng đá xanh nguyên khối được sơn kín màu, dáng đứng thẳng nghiêm trang, hai tay chắp trước ngực, bàn tay được giấu dưới lớp khăn phủ, hai cánh tay áo rủ xuôi thẳng theo thân trùng quá gối. Nối ngay dưới mép dưới gấu tay áo là những nét chạm hết sức thoáng tay tạo ra những đường lượn phóng khoáng, gợi tả dải tế tất phần thân trước và các sóng áo chảy xuống từ hai bên hông. Nhìn chung trang phục của hai nhân vật không khác nhau nhiều: Bên ngoài mặc áo đoàn lĩnh - áo cổ kiềng thụng tay màu đỏ, bên trong mặc áo lót giao lĩnh - áo có cổ bắt chéo trước ngực; áo váy trùm kín thân, để lộ mũi giày đen, đầu mũi giày có điểm những chấm nhũ vàng. Phía sau lưng, hai vạt tay áo từ nách chạy chéo sang hai bên hông, riêng tượng nam có đai thắt lưng to bản. Hai nhân vật đều đứng trên một bục nhỏ, bục này chạm liền khối với tượng. Chạm khắc trên trang phục khá đơn giản, gần như không có trang trí hoa văn.
Pho tượng nam (77x24x16cm) có khuôn mặt vuông vức, đôi mắt nhỏ, cánh mũi dày, sống mũi thẳng, môi tươi đầy đặn. Đôi tai to, dài, dái tai dày; chiếc cổ lớn được nhấn mạnh những đường vạch ước lệ tạo ra 3 ngấn; vai xuôi, thân tròn lẳn khỏe mạnh. Nhân vật đội mũ hình trụ màu đen, đỉnh bằng, diềm chân mũ sơn nhũ màu vàng đất chạm nhẹ một tua băng những hạt tròn; mặt trước mũ chạm nổi chữ vương. Tuy nhiên, do tượng bị sơn phủ nhiều lần nên phần chữ vương này khối bị tịt, rất khó phát hiện. Pho tượng nữ (76x22x19cm) có gương mặt đầy đặn, cằm dày, cổ khá to, thô được vạch rõ ba ngấn. Phần môi son tô thu nhỏ trong lòng môi gần như chúm chím nhưng lại phá vỡ khối môi đầy đặn vốn có; tóc phía trước búi cao trên đỉnh, phần tóc còn lại để xõa sau lưng. Mái tóc xõa ngang lưng ở nhân vật nữ chùa Phổ Chiếu cũng có thể thấy được ở cách để tóc xõa ngang lưng trên các pho Diệu Thiện chùa Đại Trà, các pho bà Hoàng Thái Hậu chùa Trà Phương, đền Hòa Liễu, chùa Minh Phúc, chùa Phổ Minh... Nét quý phái, trang nghiêm của nhân vật còn được thể hiện ở những mảng trang sức được chạm nổi khối hình lá đề, hình tròn gắn từ hai thái dương băng qua trán và trên búi tóc (việc tô vẽ nhôm nhoam hiện tại thực sự khiến người xem rất khó hình dung). Tượng đeo hoa tai sơn nhũ vàng có ba ngấn thuôn đều tựa nụ hoa khá duyên dáng chảy dài xuống cổ. Dựa theo đặc điểm trang phục, có thể nhận thấy hai nhân vật đều mặc những lễ phục cao quý.



    
                                                                        
                

Tượng Ngọc Nữ chùa Phổ Chiếu. Đá phủ sơn. 76x22x19cm (trái)

Tượng Kim Đồng chùa Phổ Chiếu. Đá phủ sơn. 77x24x16cm (phải)


Xét về tạo hình, có thể nhận thấy những tương đồng lớn của cặp tượng chùa Phổ Chiếu với chân dung các pho tượng Phật, tượng hậu bằng đá thời Mạc ở Hải Phòng như tượng Ngọc Hoàng chùa Nhân Trai, chùa Bạch Đa, chùa Trung Hành; tượng Ngọc Hoàng, tượng Diệu Thiện chùa Đại Trà, chùa Hòa Liễu... Đặc điểm chung của những pho tượng này là phần đầu chiếm tỷ lệ lớn so với toàn thân. Khuôn mặt bầu thon đều nhưng phần cằm hơi ngang tạo cảm giác vuông vức khỏe mạnh. Chiều ngang mặt (tính từ hai bên thái dương) bằng 2/3 chiều dài đầu (tính từ đỉnh sọ tới cằm). Tỷ lệ ngũ quan trên khuôn mặt khá hài hòa, duy có phần tai thường được kéo dài như dấu hiệu của quý tướng. Những chi tiết rất đặc trưng ở chân dung các pho tượng đá thời Mạc là: Đôi mắt nhỏ; đầu mũi to, cánh mũi dày; đôi môi đầy đặn cân đối, vành môi tỏa đều, phần đầu môi trên và đáy môi dưới thường được nhấn rõ. Các pho tượng nhân vật bằng đá thời Mạc luôn ở tư thế nhìn thẳng. Dù ở tư thế ngồi tọa thiền, ngồi trên ngai, chân co chân duỗi hay tư thế đứng thẳng thì những pho tượng này luôn gợi nên một cảm giác tĩnh tại, vững chãi. Sự bình thản trong nét mặt cùng với nét tĩnh lặng gợi ra từ khối hình đã tạo nên một trạng thái tinh thần hoàn toàn tĩnh tại, bỏ lốt ”phàm tâm” thể hiện ”thiên tâm”. Bên cạnh pho tượng Ngọc Hoàng, phù điêu chân dung bà Hoàng, bà Chúa được phủ đầy hoa văn trang trí, lối thể hiện ”kiệm lời”, ít trang trí hoa văn trên trang phục như ở cặp tượng chùa Phổ Chiếu là khá phổ biến trong điêu khắc tượng tròn và phù điêu nhân vật thời Mạc.

Các lớp sơn dày đặc được tô phủ nhiều lần, lớp sau chồng lên lớp trước đã gây ảnh hưởng ít nhiều tới việc nhận diện hai pho tượng đá chùa Phổ Chiếu. Những hoa văn trang trí hiếm hoi trên mũ, trên tóc nhân vật bị các lớp sơn làm cho nhòe nhoẹt, tịt khối. Những lớp sơn loang lổ, bề mặt sơn dày mỏng không đều; điểm nhãn, tô môi không tinh tế; những họa tiết trang sức trên mũ, trên khăn bị tô vẽ nhôm nhoam làm mất đi vẻ đẹp vốn có của hình khối. Phần khăn phủ tay cũng như các nếp tay áo bị tô vẽ lộn xộn do người thời sau không nắm rõ kết cấu trang phục: khăn phủ bị tô tràn đến tận khuỷu tay! Những nét chấm bi màu vàng nhũ trên nền khăn đen được vẽ hết sức đại khái. Viền cổ tay áo, vạt áo phía trước bị tô màu tùy tiện, ước đoán. Khảo sát hầu khắp các pho tượng đá thời Mạc ở Hải Phòng, Thái Bình, những dấu vết màu sắc còn sót lại khiến ta có thể tin vào truyền thống tô màu những pho tượng đá. Đôi khi những hình vẽ trang trí cầu kì được thay thế cho hoa văn chạm khắc. Tuy nhiên, việc tô vẽ lại tượng nhiều lần, đặc biệt là khi những người thợ sơn ở các giai đoạn sau này bị đứt đoạn với văn hóa và trang phục truyền thống hẳn đã tạo ra những sai khác rất lớn so với tác phẩm nguyên gốc ban đầu. 





Ảnh bà Hoàng chùa Phổ Chiếu. Đá phủ sơn. 60x30x50cm


Không giống những pho tượng Ngọc Hoàng ngự trên ngai trong tư thế ngồi thiết triều ở các chùa Đại Trà, Bạch Đa, Trung Hành, Nhân Trai..., pho tượng nhân vật nam chùa Phổ Chiếu mặc dù trên mũ có khắc chữ vương nhưng lại có tư thế đứng chầu. Xét về trang phục, thế dáng nhân vật này hoàn toàn tương ứng với nhân vật nữ đối xứng tạo thành một cặp Kim Đồng, Ngọc Nữ trên Phật điện. Trong số 6 pho tượng đá thời Mạc mới phát hiện tại chùa Hỗ Đông, An Dương, Hải Phòng ta cũng nhận thấy một cặp tượng tương tự đứng chầu hai bên tượng Ngọc Hoàng. Nhiều khả năng, hai pho tượng phát hiện tại chùa Phổ Chiếu là cặp Kim Đồng Ngọc Nữ ở Phật điện thời Mạc còn sót lại. Rất khó để vẽ ra được một sơ đồ phật điện hoàn chỉnh thời Mạc, tuy vậy qua văn bia và những di vật tượng đá thời Mạc còn sót lại ở một số ngôi chùa xứ Đông, phần nào ta có thể hình dung được. Cụ thể như: chùa Đào Xá (Quỳnh Phụ, Thái Bình) có 10 pho tượng gồm: Tam thế, Tam thanh, Ngọc Hoàng, Mạc Đăng Dung theo truyền ngôn dân gian – nhân vật đội mũ miện có chạm nổi hình chim hạc (?) phía trước (nhiều khả năng có đóng vai trò nào đó trong điện thờ Tam giáo), Diệu Thiện, sư tổ; chùa Chiêu Tường (An Dương, Hải Phòng) có 7 pho tượng gồm: Tam thế, Ngọc Hoàng, Diệu Thiện, tượng sư tổ; cụm đền/chùa Hòa Liễu với 7 pho tượng, 1 phù điêu gồm: Tam thế, Ngọc Hoàng, Diệu Thiện, Mạc Đăng Dung theo truyền ngôn - nhân vật đội mũ miện có chạm nổi hình chim phía trước, sư tổ, chân dung bà Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ (phù điêu); chùa Hỗ Đông (An Dương, Hải Phòng) có 6 tượng pho gồm: Tam thế, Ngọc Hoàng, Kim Đồng, Ngọc Nữ... Văn bia: Đại Từ tự bi (niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592) ghi nhận hệ thống tượng thờ chùa Đại Từ (Thanh Hà, Hải Dương) gồm: Kim Cương (8 pho), Bồ Tát (4 pho), Nam Tào, Bắc Đẩu (2 pho), La Hán (18 pho), Kim Đồng, Ngọc Nữ (2 pho), cô hồn (3 pho), Long thần (2 pho), 7 pho tượng gỗ Trưởng giả, tô 9 pho tượng Phật… cũng trong dịp này còn thuê vẽ Phật cưỡi xe trần [5,tr339].
Cặp tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ chùa Phổ Chiếu về mặt hình thức cũng rất gần gũi với cặp tượng gỗ hiện đang xếp ở hàng thứ 3 trên Phật điện gian thờ bên trái thượng điện chùa Keo, Thái Bình. Ta cũng nhận thấy nhiều nét tương đồng về mặt tạo hình giữa cặp tượng chùa Phổ Chiếu với những cặp tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ ở Am Vô tự (Thái Bình), chùa Cổ Tung (Nam Định), chùa Ngo (Hà Tây cũ, hiện chỉ còn pho Ngọc Nữ), Linh Tiên quán (Hà Tây cũ). Tất cả những di tích vừa nêu ít nhiều đều có dấu vết của loại hình di tích thờ Tam giáo. Chùa tam giáo, làm tượng tam giáo, sự tồn tại đan xen hài hòa giữa Phật giáo và Đạo giáo được nhắc nhiều trong các văn bia thời Mạc. Trong các quán Đạo, cặp tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ được cho tương ứng với Đông Nhạc Đại Đế và Hậu Thổ Hoàng Địa Kỳ. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị cai quản Thiên đình tức triều đình nhà Trời, do đó giúp việc cho Ngọc Hoàng Thượng Đế có 4 vị Thiên đế được gọi là Tứ Ngự, gồm: Nam Đẩu tức Nam Tào trông coi việc nhân gian, tức Dương Phủ. Bắc Đẩu cai quản cả vùng trời vùng đất, nhưng người ta thường cho việc chính của Bắc Đẩu là coi việc tử. Hậu Thổ Hoàng Kỳ là nữ thần vạn vật núi sông, thường được gọi là Địa phủ. Đông Nhạc Đại Đế là thần núi Thái Sơn, thường được gọi là Nhạc Phủ, quản các linh hồn người chết. Như vậy, chữ vương trên mũ nhân vật nam cũng như trang phục cao quý ở hai nhân vật có lẽ phần nào giải thích được.





Phần đầu tượng Kim Đồng chùa Phổ Chiếu


Về pho tượng bà Hoàng bằng đá mà nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sơn nhắc tới năm 1996 hiện không rõ đặt ở đâu. Theo như khảo tả của Nguyễn Văn Sơn, tượng chân dung bằng đá cao 60cm, ngang vai rộng 30cm, ngang gối rộng 50cm. Như vậy pho tượng này có tỷ lệ khá tương xứng với cặp tượng được Kim Đồng cao 77cm, Ngọc Nữ cao 76cm. Theo phán đoán của ông Nguyễn Văn Sơn, đây có lẽ là chân dung bà Hoàng đã mua ruộng cúng tiến vào chùa được nhắc đến trong văn bia, nhưng không nói rõ tên họ và có thể được tạc vào thời gian dựng bia [4,tr47]. Bia hiện được gắn giữa tường bên hiên phải nhà tiền đường ghi lại việc bà Thái Hoàng Thái Hậu mua ruộng cúng tiến vào chùa làm ruộng tam bảo vào năm 1579. Chùa Phổ Chiếu thuộc xã Văn Hòa xưa (nay là xã Hữu Bằng) vào thế kỷ 16 là địa bàn phụ cận với trung tâm Dương Kinh, có vị trí giáp ranh với 2 xã Thụy Hương và Thuận Thiên. Thụy Hương là quê hương của bà Thái Hoàng Thái Hậu Ngọc Toàn - vợ Thái Tổ Mạc Đăng Dung có ngôi chùa Thiên Phúc nổi tiếng còn gọi là chùa Trà Phương (1551); xã Thuận Thiên cũng có ngôi chùa mang tên Thiên Phúc còn gọi là chùa Hòa Liễu (1562). Hai ngôi chùa này đều gắn với những đợt công đức xây dựng lớn của bà Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ và đều còn lưu giữ được các phù điêu chân dung bà Hoàng Thái Hậu bằng đá quý giá. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sơn khi nhận định về pho tượng bà Hoàng tại chùa Phổ Chiếu trong tương quan với các phù điêu chân dung bà Thái Hoàng Thái Hậu ở các chùa Trà Phương, Hòa Liễu, Minh Phúc đã cho rằng tượng có khác đôi chút: khuôn mặt dài hơn, tóc chải nhiều nếp, áo choàng rộng, cổ chéo hình chữ V, tay trái vẫn đặt trên gối, tay phải đưa lên trước bụng [4,tr47]. Dựa trên ảnh chụp và những khảo tả của Nguyễn Văn Sơn, ngoài những chi tiết khác biệt vừa nêu thì ta vẫn có thể nhận thấy những nét tạo hình đặc trưng của điêu khắc nhân vật bằng đá thời Mạc: hình thức mô tả tóc chải nhiều nếp là hình thức phổ biến ở khắp các tượng hậu, tượng Phật ở cả nam và nữ. Những nếp tóc, những nét xước thẳng mô phỏng sợi tóc khi thì tinh và mau mắn khi lại thô phác gợi tả có thể nhận thấy ở hầu khắp các tượng Ngọc Hoàng chùa Phúc Linh (Nhân Trai), chùa Hưng Khánh (Trung Hành), chùa Bạch Đa, chùa Hòa Liễu (nếp tóc lượn sóng ngang)…; các tượng Diệu Thiện chùa Hòa Liễu, chùa Đại Linh (Đại Trà) và đặc biệt là các phù điêu bà Hoàng bà Chúa thời Mạc: chùa Minh Phúc, chùa Phổ Minh… Chiều cao 60cm của pho tượng bà Hoàng, thấp hơn hai pho Kim Đồng, Ngọc Nữ (77-76cm) xét một cách chủ quan cũng loại trừ khả năng vị trí của cặp tượng Kim Đồng Ngọc Nữ là đứng hai bên hầu cận bà Hoàng.
Như vậy, dựa trên khảo cứu tư liệu và thực tế điền dã, những di vật điêu khắc đá thời Mạc ở chùa Phổ Chiếu gồm tấm bia đá niên đại 1579, pho tượng bà Hoàng nhà Mạc và hai pho tượng đá nhiều khả năng là tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ trên Phật điện thời Mạc còn sót lại.
Vũ Thu Hiền
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Du Chi, Trần Lâm, Nguyễn Bá Vân (1993), Mỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ thuật.
2. Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm áo mũ, Nxb Thế giới.
3. Nguyễn Thế Hùng (2003), Quán Đạo giáo ở Hà Tây, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Khảo cổ học.
4. Nguyễn Văn Sơn (1996), Di tích thời Mạc vùng Dương Kinh (Hải Phòng), Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Khảo cổ học.
5. Đinh Khắc Thuân (1996), Văn bia thời Mạc, Nxb Khoa học xã hội.
6. Đinh Khắc Thuân (2012), Góp phần nghiên cứu lịch sử triều Mạc ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.

http://www.vietnamfineart.com.vn/Story/Tapchimythuat/2015/12/4961.html


---

BỔ SUNG

Về nhóm tượng Mạc ở An Đồng và An Phú (Quỳnh Phụ, Thái Bình)


2.

Thứ Tư, 15/01/2014 | 00:00 GMT+7

PHÁT HIỆN PHO TƯỢNG MẠC Ở THÁI BÌNH


Trong chuyến khảo sát gần đây tại một số di tích ở Quỳnh Phụ, Thái Bình, chúng tôi có phát hiện thêm một pho tượng, mà theo nhận định ban đầu thì đây là tượng vua Mạc.
Pho tượng này được đặt ngay trên thượng điện chung với các pho tượng Phật khác của chùa Thanh Quang (thôn An Phú, xã Quỳnh Phụ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình) nhưng lại có dáng vẻ đặc biệt. Tượng tạc một người đàn ông ngồi trong thế xếp bằng, hai tay đặt trong lòng đùi luồn tay dưới tế tất, dải áo buông chùng dưới cân đai. Trang phục của tượng gồm 2 lớp áo. Lớp áo trong là áo Giao Lĩnh, chỉ hở ra chiếc cổ. Chiếc áo Đoàn Lĩnh cổ tròn mặc phía ngoài màu đỏ tươi, chính giữa ngực có bổ tử trang trí rồng trong ô tròn. Hình rồng trong bổ tử của áo do bị sơn thếp lại nên không còn sắc nét. Viền cổ áo có những cụm mây hình lá đề ba vòng xoáy với những tua rua ngắn đều đặn rủ xuống vai phía trước ngực và phía sau lưng. Bụng có lớp khăn quấn được thắt bằng một chiếc cân đai vòng sang cả phía sau với những trang trí theo ô cầu kỳ. Tuy nhiên trang trí này hiện cũng bị nước sơn mới làm cho mờ nét. Các nếp áo được mô tả khá kỹ và phủ trùm lên bệ ngồi của pho tượng.
Chân dung của pho tượng khá dung dị, mũi lớn, hai tai có thùy dài rủ xuống hai bên. Đầu tượng đội chiếc mũ thông thiên hình trụ, kết ba tầng cườm. Chính giữa trán của chiếc mũ, có hình một con chim đang dang cánh sang hai bên và chúc đầu xuống. Qua hình thức mô tả trên, nhận định ban đầu của chúng tôi thì đây là pho tượng vua Mạc và rất có thể tượng này là tượng vua Mạc Đăng Dung.
Qua trang phục của tượng, có thể thấy đây là loại lễ phục thường được tạc trên các tượng vua Mạc: áo giao lĩnh mặc lót phía trong và áo đoàn lĩnh mặc ngoài, dải tế tất quấn thắt ngang bụng, nếu đứng dậy thì buông chùng xuống chân (1). Các tượng này hiện còn khá nhiều ở các di tích vùng Kiến Thụy, Hải Phòng như các chùa Trà Phương, Đại Trà, Hòa Liễu. Pho tượng này đặc biệt giống với pho tượng chùa Diềm (Vạn An, Bắc Ninh), từ trang phục cho đến hình tướng gương mặt.
Đặc biệt là chiếc mũ có hình con chim chạm khắc ngay phía trước trán. Về con chim dang cánh sang hai bên và chúc đầu trên trán mũ pho tượng, hiện có nhiều lý giải khác nhau. Theo tác giả Trần Quang Đức: “Mũ dạng ống, tương tự mũ Thông Thiên với những nếp gấp thẳng, được đính các hạt ngọc châu, tại vị trí trán mũ có trang sức hình chim dang cánh trong tư thế bay chúc đầu thay vì trang sức bác sơn (tam sơn) như ở tượng chúa Trịnh Sâm (chùa Kim Liên, Hà Nội). Loại mũ dạng ống đính trang sức chữ vương và hình chim bay đều là các loại mũ đặc trưng của tượng thời Mạc. Riêng trang sức chim dang cánh, chúc đầu đính trên trán mũ hết sức gần gụi với loại mũ hạt quan của quan võ nhà Hán - Đường (Khang Hy tự điển cho biết: "Hạt là loài chim giống chim trĩ... nếu bị xâm phạm, sẽ lao thẳng vào chiến đấu, dẫu chết chẳng từ"; Hậu Hán - Dư phục chí viết: "Quân Hổ bôn đều đội hạt quan"), dù tính tới thời điểm hiện nay chúng tôi vẫn chưa thể khẳng định được mối quan hệ này (2).
Trần Quang Đức cũng lưu ý rằng, “Mạc Đăng Dung theo lịch sử vốn xuất thân từ Đô lực sĩ, được sung vào quân túc vệ đời vua Lê Uy Mục. Có lẽ, đây là sợi dây liên hệ duy nhất hiện có nối kết giữa chiếc mũ của các vua nhà Mạc với mũ hạt quan của võ quan nhà Hán - Đường” (3). Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm này, bởi trong lịch sử trang phục vương triều Việt, trang phục nhà Đường thường được xem là một tiêu chuẩn. Ví như đáp lời hỏi của người nhà Minh về phong tục Việt, Hồ Quý Ly nói: “Áo mũ như chế độ nhà Đường, lễ nhạc tựa vua quan nhà Hán”. Tất nhiên đây là thời Hồ, chứ không phải thời Mạc, nhưng rõ ràng, qua cách nói này chứng tỏ trang phục thời Đường mang dấu ấn đậm nét trong trang phục Việt. Ngoài ra đến cuối triều Lê Sơ, bên cạnh một số qui chế mũ áo phỏng theo chế độ nhà Minh thì các quy chế còn lại vẫn theo chế độ cũ của thời Trần -Hồ. Cuối đời Hồ, Hồ Quý Ly cũng ra nhiều cải cách mang tính riêng với các loại trang phục Việt.
Đối với chiếc mũ có hình chim chúc đầu, bên cạnh các tư liệu trên khảo về lễ phục của nhà Mạc, chúng tôi cũng có một giả thuyết khác. Trong nghệ thuật Phật giáo, hình tượng con chim ca lăng tần già là một hình tượng rất phổ biến. Hình tượng con chim này trong Phật giáo được xem như là nhân vật đem những lời ca, tiếng hát rao giảng Phật pháp khắp bốn phương. Do đó, con chim này đã được đặt trên cùng vành hào quang của Đức Phật, như với tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn và ba pho Tam Thế ở chùa Bút Tháp.
Từ liên hệ này, chúng tôi xét đến vai trò của vua Mạc Đăng Dung trong lịch sử. Nếu thời Lê Sơ được nhiều nhà nghiên cứu xem là thời kỳ Nho giáo độc tôn (thực tế là Phật giáo bị hạn chế) thì thời Mạc lại được đánh giá là thời phục hưng của Phật giáo. Trong những năm đầu tiên của nhà Mạc, dưới triều Mạc Đăng Dung, bờ cõi tạm yên, đất nước thanh bình… “Từ đấy, người buôn bán và người đi đường đều đi tay không, ban đêm không có trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ mỗi tháng điểm soát một lần, hoặc có sinh đẻ cũng không biết là vật của mình. Trong khoảng vài năm, đường sá không nhặt của rơi, cổng ngoài không đóng, thường được mùa to, trong cõi tạm yên” (4). Phải chăng chính tinh thần Phật giáo thời Mạc đã giúp cho xã hội giai đoạn đầu nhà Mạc được yên bình. Hơn nữa, khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, ông cũng là người cho xây dựng và trùng tu rất nhiều ngôi chùa, góp phần chấn hưng Phật giáo. Do đó, không phải bỗng nhiên ông được đưa vào thờ ở rất nhiều chùa ngoài vùng đất Dương Kinh - nơi phát tích của nhà Mạc. Vị thế của Mạc Đăng Dung trong các ngôi chùa thường không giống với các vua chúa, hoàng thân quốc thích thời Lê -Trịnh sau này là thờ theo lối hậu thần, hậu phật, mà thường được đặt trên chính điện ban Tam Bảo.
Trở lại với chi tiết con chim trên mũ thông thiên, phải chăng hình tượng này có ít nhiều tương đồng với hình ảnh chim trên vành hào quang Đức Phật và mang ý nghĩa về vai trò phục hưng Phật giáo của Mạc Đăng Dung (?). Đây cũng là chi tiết để phân biệt tượng vua Mạc Đăng Dung với phần lớn các vua khác triều Mạc sau này, mũ chỉ có chữ vương.
Riêng về vấn đề niên đại của bức tượng, có 2 giả thuyết: thứ nhất, thời Mạc (có thể là thời Mạc Phúc Hải), năm 1543 (niên hiệu Quảng Hòa thứ 4); thứ hai, năm 1640, đời Lê Thần Tông.
Chùa Thanh Quang hiện nay là mới được dựng lại, nhưng ở chùa còn lưu giữ 4 tấm bia ký, trong đó có 3 bia thời Chính Hòa. Các bia này bao gồm: bia Diên Thọ kiều cổ tích bi, năm Thịnh Đức thứ 4 (1656), nói về sự tích cây cầu Diên Thọ. Cũng liên quan đến cây cầu này có tấm bia An Diên Thọ kiều bi ký, nói về việc làm cầu ở An Phú, Quỳnh Phụ, soạn năm Chính Hòa năm thứ 12 (1691). Một bia Hậu thần bi ký, soạn năm Chính Hòa thứ 26 (1705), nói về việc dựng đình ở An Phú (ngôi đình này hiện không còn). Và, một bia có hai mặt, một mặt đề Diên Thọ kiều bi, niên đại năm Sùng Khang thứ 3 (1568). Mặt sau của tấm bia này đề Trùng tu tân tạo Thanh Quang tự bi ký. Trong số các bia này, chúng tôi đặc biệt chú ý đến 2 tấm bia năm Thịnh Đức 4 (1656) và tấm bia 2 mặt. Tấm bia hai mặt có kích thước 70 x 79cm, người soạn là Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi đó có chức danh là Tứ Ất Mùi khoa Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh Trình Quốc công trí sĩ, Vĩnh Lại Trung Am Hanh Phủ. Bia khắc chữ rõ ràng, gồm hai phần. Phần đầu là bài văn nói về việc dựng cầu đá và một bài minh 8 câu, mỗi câu 4 chữ, ca ngợi việc dựng cầu. Mặt sau tấm bia ghi lại việc trùng tu, tôn tạo chùa Thanh Quang. Theo nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Hữu Tưởng, trong lần khảo sát năm 2000, niên đại khắc trên mặt sau của bia là Dương Hòa tứ niên lục nguyệt thập bát cốc nhật (tức ngày mồng 4 tháng 6 năm Dương Hòa 4,1640) Chữ trên mặt sau của bia khác hẳn so với chữ ở mặt trước. Với việc hai mặt bia có hai niên đại cách nhau 78 năm, có nội dung khác nhau, nét chữ khác nhau, là căn cứ để nhận định rằng, tấm bia này vốn chỉ có một mặt, được tạo vào năm Sùng Khang 3 (1568) để khắc bài văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau đó, nhân việc tu sửa chùa, người ta mới tận dụng mặt sau tấm bia để khắc bài văn về việc này. "Cũng vì lẽ đó mà tấm bia vốn ở đầu cầu đá, ngoài trời, được đưa vào chùa cất giữ” (5).
Tuy nhiên, khi xem xét kỹ niên đại ở mặt sau của tấm bia, chúng tôi thấy rằng dòng niên đại Dương Hòa tứ niên lục nguyệt thập bát cốc nhật khá mờ. Khi xem xét các trang trí ở diềm bia và so sánh với một loạt các văn bia có cùng niên đại Dương Hòa, lại thấy thấy rằng trang trí trên tấm bia này rất khác so với các văn trang trí cùng niên đại. Lối trang trí văn dây tay mướp, khắc chìm và đôi rồng chầu mặt trời có dạng rồng yên ngựa thường thịnh hành hơn đối các tấm bia niên đại thời Mạc. Do đó, chúng tôi cho rằng niên đại Dương Hòa kể trên không chính xác, mà văn bia này phải thuộc về một niên đại khác sớm hơn hoặc là Nguyên Hòa (1533-1548, thời vua Lê Trang Tông) hoặc là Quảng Hòa (1540-1546, thời vua Mạc Hiến Tông/ Mạc Phúc Hải). Sau khi nghiên cứu kỹ lại dấu vết niên đại bị mờ, chúng tôi nghiêng về giả thuyết niên đại Quảng Hòa. Như vậy tấm bia này vốn là tấm bia dựng mới chùa Thanh Quang, hơn 20 năm sau, khi làm cầu, người ta đã khắc thêm bài văn khắc Diên Thọ Kiều bi. Cây cầu này, khi ra đời, rất có thể là một thành tựu xây dựng và là tuyến giao thông quan trọng của vùng Quỳnh Phụ thời bấy giờ.
Ngoài bài minh văn về dựng cầu trên, ở chùa hiện còn lưu giữ 2 tấm bia khác cũng ghi chép về việc dựng cầu. Một bia năm Chính Hòa 12 (1691) và một bia năm Thịnh Đức 4 (1656). Từ chùa ra vị trí của cây cầu ngày xưa cách nhau khoảng 500m. Do đó việc bia dựng cầu được qui tụ về chùa cũng là điều dễ hiểu.
Về nội dung tấm bia dựng năm Thịnh Đức Diên Thọ kiều cổ tích bi ký có phần khác với tấm bia do Trình Quốc Công chấp bút, là có nhắc đến việc hoàng hậu nhà Mạc Vũ Thị Ngọc Toàn hưng công để xây dựng cây cầu Diên Thọ. Cũng theo tấm bia này, toàn bộ vùng đất Quỳnh Côi (Quỳnh Phụ) hiện nay là vùng đất của nhà Mạc. Hiện nay, vùng này còn lưu giữ rất nhiều di tích thời Mạc như chùa Nghinh Phúc (thuộc làng Xuân Trạch, ngôi làng trước đây hợp với An Phú là một làng) còn 2 tấm bia thời Mạc. Xã An Đồng cách đó không xa có ngôi chùa Đào Xá, nơi có 10 pho tượng nhà Mạc, được Trần Quốc Vượng nhắc đến trong cuốn Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm. Điều này giúp chúng tôi vững thêm về giả thuyết niên đại Mạc của văn bia Trùng tu tân tạo Thanh Quang tự bi kýkể trên. Do đó, chùa Thanh Quang này hẳn là ngôi chùa được dựng lại vào thời Mạc theo dấu vết cũ đổ nát từ thời Trần. Nội dung văn bia Trùng tu tân tạo Thanh Quang tự bi ký cho biết năm nay, dân làng quyên tiền sửa sang chùa, tô tượng. Như vậy phải chăng, trong số tượng được tân tạo lại có pho tượng Mạc Đăng Dung... Nếu vậy, niên đại của pho tượng sẽ là năm Quảng Hòa thứ 4 tức năm 1543. Còn niên đại Dương Hòa 1640 xem chừng khó thuyết phục hơn, bởi lẽ hiếm khi đời vua kế cận lại cho phép dân dựng tượng vua thời trước. Hơn nữa, giai đoạn 1640 là giai đoạn nhà Mạc đã tàn lụi, phải rời chuyển lên Cao Bằng, vị thế chính trị trong nước lúc này của nhà Lê - Trịnh là ngọn cờ phù Lê, diệt Mạc, việc có tượng vua Mạc được dựng lại vào năm này là rất khó xảy ra.
Về phương diện tạo hình, pho tượng với hai chi tiết đáng chú ý là hình chạm rồng ngay trước ngực pho tượng và chiếc mũ đính ngọc có con chim chúc đầu xuống có phong cách đậm nét của điêu khắc thời Mạc. Tuy nhiên do sự sơn thếp lại gần đây nên nét mặt của pho tượng bị thay đổi ít nhiều, trông nữ tính hơn, hình rồng chạm khắc trước ngực không còn rõ nét do bị sơn phủ dày. Chiếc mũ cũng bớt sắc nét. Trên đai lưng pho tượng vẫn có dấu vết chạm khắc. Loại hình trang phục và dải tế tất rất đặc trưng cho trang phục Mạc, nếu so sánh với nhiều tượng vua Mạc ở các di tích vùng Kiến Thụy, Hải Phòng. Thậm chí, việc bài bố của pho tượng hiện nay cũng giống với khá nhiều các ngôi chùa ở Hải Phòng, đặt trên thượng điện chứ không để ở ban riêng thành ban thờ vua hay thờ hậu thần hậu phật như lẽ thường, dù cũng có ẩn ý tôn sùng vua Mạc - vị vua có công phục hưng Phật giáo.
_______________
1, 3. Trần Quang Đức, Ngàn năm áo mũ, Nxb Thế giới, 2013, tr.185.
2. Sđd, tr.186.
4. Viện Mỹ thuật, Mỹ thuật thời Mạc, Nxb Mỹ thuật, 1993, tr.14.
5. Nguồn: mactrieu.vn
Nguồn : Tạp chí VHNT số 355, tháng 1-2014
Tác giả : Trang Thanh Hiền
http://vhnt.org.vn/tin-tuc/tu-lieu-trong-nuoc/29028/phat-hien-pho-tuong-mac-o-thai-binh


1.


TRỞ LẠI PHO TƯỢNG ĐÁ CÓ HÌNH CHIM TRÊN MŨ

 
Ảnh tượng Thái tổ Mạc Đăng Dung
   PGS.TS.Đinh Khắc Thuân                                     
Trong một số năm gần đây, người ta phát hiện được khá nhiều tượng có hình chim trên mũ, vùng trán, trong đó có hai tượng đá thời Mạc được cho là tượng của Thái tổ Mạc Đăng Dung. Đó là tượng chùa xã An Đồng, Quỳnh Phụ, Thái Bình và tượng chùa Trà Phương, Kiến Thụy, Hải Phòng. Tuy nhiên, tư liệu về hai pho tượng này rất hiếm hoi, nhất là tư liệu thư tịch và bi kí. Vì thế, không khỏi nảy sinh những sự suy đoán khác nhau. Do vậy, chúng tôi xin trở trở lại hai pho tượng này.
Tượng chùa An Đồng, Quỳnh Phụ được bài trí chung trên điện thờ gồm cả thảy 10 pho tượng đá. Trong đó có 3 pho tượng Phật Tam thế và 7 pho tượng người khác. Trong số 7 pho tượng người, thì 1 pho ở tư thế ngồi, hai pho đứng hai bên, tiếp đó là bốn pho tượng khác ở tư thế ngồi bài trí đối xứng hai bên.
Rõ ràng là trong số 7 pho tượng người đó, duy có một pho ngồi, lại có tượng đứng hầu hai bên, chứng tỏ tượng đó của một người có địa vị tối cao. Xem xét kỹ pho tượng này, thấy đây cũng là pho tượng đá duy nhất trên trán có hình chim bay chúc đầu xuống tương tự tượng có hình chim ở chùa Trà Phương, Kiến Thụy, Hải Phòng.
Tượng đá có hình chim này ở chùa An Đồng "tạc một người đàn ông ngồi trong thế xếp bằng, hai tay đặt trong lòng đùi luồn tay dưới tế tất, dải áo buông chùng dưới cân đai. Trang phục của tượng gồm 2 lớp áo. Lớp áo trong là áo Giao Lĩnh, chỉ hở ra chiếc cổ. Chiếc áo Đoàn Lĩnh cổ tròn mặc phía ngoài màu đỏ tươi, chính giữa ngực có bổ tử trang trí rồng trong ô tròn. Hình rồng trong bổ tử của áo do bị sơn thếp lại nên không còn sắc nét. Viền cổ áo có những cụm mây hình lá đề ba vòng xoáy với những tua rua ngắn đều đặn rủ xuống vai phía trước ngực và phía sau lưng. Bụng có lớp khăn quấn được thắt bằng một chiếc cân đai vòng sang cả phía sau với những trang trí theo ô cầu kỳ. Các nếp áo được mô tả khá kỹ và phủ trùm lên bệ ngồi của pho tượng.
Chân dung của pho tượng khá dung dị, mũi lớn, hai tai có thùy dài rủ xuống hai bên. Đầu tượng đội chiếc mũ thông thiên hình trụ, kết ba tầng cườm. Chính giữa trán của chiếc mũ, có hình một con chim đang dang cánh sang hai bên và chúc đầu xuống"1.
Tượng không có văn tự, nên không rõ được khắc vào thời nào. Tuy nhiên, qua một số hoa văn trang trí tiêu biểu, nhất là hình rồng trong hình bổ tử được chạm nổi, thân dài uốn lượn được gọi là rồng yên ngựa, tương tự nhiều hình rồng trang trí khác thường gặp trên bia thời Mạc. Các tượng đá Tam thế cũng cùng phong cách tượng Tam thế đá quý hiếm khác là kiệt tác ở thời Mạc. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật và khảo cổ học đều xác nhận niên đại của 10 pho tượng người bằng đá ở chùa An Đồng, Quỳnh Phụ này là tượng thời Mạc thế kỷ XVI.
Trên tượng cũng không có văn tự cho biết đây là tượng của nhân vật nào thời Mạc. Song với hình trang trí áo bào có bổ tử hình rồng, lại ở tư thế ngồi oai vệ là biểu trưng của Hoàng đế. So với các tượng thân vương nhà Mạc, thì tượng này cũng có nét đặc thù riêng. Trong khi tượng ở chùa An Đồng và chùa Trà Phương đều ở tư thế ngồi, hai tay để trên đùi, trán có hình chim bay chúc xuống thì tượng thân vương nhà Mạc (như ở chùa Nhân Trai) lại ở tư thế đứng, hai tay chắp lại ở phía trước, trán mũ được khắc chữ Vương. Nếu nhóm tượng có chữ Vương trên mũ là tượng thân vương nhà Mạc, thì tượng có hình chim chạm trên đầu ở chùa An Đồng và chùa Trà Phương là tượng của Hoàng đế nhà Mạc, mà cụ thể là tượng của Hoàng đế Mạc Thái tổ. Bởi tượng có phong thái một võ tướng phản ánh đầy đủ hình dáng, tính cách mạnh mẽ của con người Mạc Đăng Dung như ghi chép trong sử sách. Cũng vì thế, nhà nghiên cứu mỹ thuật Trang Thanh Hiền kết luận rằng: "...đây là pho tượng vua Mạc và rất có thể tượng này là tượng vua Mạc Đăng Dung" (Trang Thanh Hiền, Sđd).
Cùng thờ với tượng đá có hình chim trên trán ở chùa Trà Phương (Hải Phòng), còn có tượng một phụ nữ khác. Đó là tượng bà Thái hoàng thái hậu họ Vũ, mà tượng Thái hoàng Thái hậu họ Vũ thì khá phổ biến, được thờ ở nhiều nơi, có văn bia ghi lại. Bà được xác định là Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, người làng Trà Phương, là chính phi của Mạc Thái Tổ mà dân gian còn truyền ngôn rằng "Cổ Trai đế vương, Trà Phương công chúa". Tượng đá có hình chim khắc trên trán được bài trí ngang hàng với tượng bà Thái hoàng Thái hậu. Điều đó hoàn toàn phù hợp với truyền ngôn của địa phương rằng: "Đây là tượng Thái tổ Mạc Đăng Dung và Thái hoàng thái hậu họ Vũ". Điều đó đã được hai nhà nghiên cứu mỹ thuật Trần Lâm Biền và Nguyễn Tiến Cảnh viết như sau:
"Cùng một dạng với tượng Ngọc Hoàng, ở chùa Trà Phương (Hải Phòng) còn có tượng Mạc Đăng Dung. Đây là một pho tượng bằng đá vôi, cao tất cả 74 cm, mặt cao cả mũ 28cm, ngồi trong thế kiết già, lòng đùi mở rộng 57cm, trong khi đó vai rộng xấp xỉ 35 cm. Về bố cục, tượng không được cân xứng như tượng Ngọc Hoàng chùa Ngo, mà rõ ràng sự tùy tiện mộc mạc có phần thô thiển lại được nổi bật. Đầu tượng cũng đội mũ bình thiên, có thành mũ hình trụ đứng, một con chim nhỏ chạm nổi ở phía trước, không khác với tượng Ngọc Hoàng. Viền vai áo là văn xoắn dấu hỏi, cổ áo cố vân lá sòi bao lấy nửa bông cúc mãn khai, những chi tiết này đơn giản nhưng chạm khá lớn so với tượng. Đó là vài biểu tượng chính của lực lượng tự nhiên gắn với hạnh phúc nông nghiệp. Các hình tượng này được đưa vào tượng thần linh như để nhấn thêm về sức mạnh và một số chức năng mà thần linh cần có cho đời. Tất nhiên, ý nghĩa kể trên không loại trừ đối với tượng Mạc Dăng Dung. Tượng để tay trên lòng đùi và kết ấn Tam Muội, chân khoanh, lòng bàn chân phải được lộ ra ở giữa vị trí hai gối (dưới bàn tay) chứ không lệch sang đùi trái. Đó là một hình thức tạo tác như thiếu tính chuyên nghiệp, mà chỉ cốt phơi bày một ý nghĩa nào đó để nói về một khía cạnh thuộc cuộc đời Mạc Đăng Dung.
Bằng hình thức ngồi kiết già và kết ấn, Mạc Đăng Dung đã là một phật tử. Tuy nhiên, là một phật tử nhà vua nên tượng vẫn đeo đai ngọc và giữa ngực áo vẫn có bố tử chạm rồng. Con rồng này khá thống nhất về một ý thức tạo hình so với tượng, có nghĩa là nó tùy tiện, mộc mạc, nhiều nét đột ngột. Hình thức rồng với các chi tiết như được vũ trụ hóa bộ mặt từ một con trâu. Mặt rồng ở chính giữa, như tư cách của một mặt hổ phù, đôi sừng đơn lởn vởn cong mạnh sang hai bên, cùng mắt, mũi, tai, mặt đều theo kiểu trâu. Chỉ có bộ tóc chải ngắn hất ngược lên và thân mang vẩy rồng đơn để khẳng định đó là một con vật vũ trụ2.
Có lẽ vì ý nghĩa này mà người ta đã dùng biểu tượng hình chim đính trên mũ bình thiên vua Lí Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông khi đúc mới các pho tượng này đặt tại nhà Thái học, Văn miếu Hà Nội vào năm 2003.
Hình tượng chim gắn trên đầu tượng, ngoài trên tượng Mạc Đăng Dung này ra, có thể là sớm nhất hiện biết, còn gặp trên một số pho tượng khác, thuộc thế kỷ XVII, XVIII, trong đó tiêu biểu là chim hai đầu trên tượng gỗ Tam Thế chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Thực ra, đây là hình tượng Thần điểu - chim Thần, có tiếng hót trong trẻo giảng về Pháp vi diệu, ai nghe thấy có thể tức thời mà lĩnh hội Phật pháp. Tương truyền rằng loài chim này là linh vật của ngài Bắc Phương Bất không thành tựu Phật. Đương thời Phật Thích ca Mâu ni giảng kinh Diệu pháp liên hoa cho hàng Bồ tát, từng đàn chim này đến đậu trên cây báu Chiên đàn để nghe và lĩnh hội được ý thâm mật của Phật. Sau đó, đàn chim bay đến các tầng trời để chuyển kinh bằng tiếng hót thuyết pháp của mình. Chúng tượng trưng cho sự lĩnh hội Phật pháp của loài hữu tình và là phương tiện chuyển Pháp đến với chúng sinh. Chim Thần cũng có thể hiểu là hình ảnh thuyết pháp của chư Phật, được người Việt sử dụng trong trang trí điêu khắc nhằm tạo cho tác phẩm có yếu tố siêu thực, làm mọi người liên tưởng đến tiếng hót vi diệu của loài chim thuyết pháp. Về mặt tạo hình, chim đều nằm ở đỉnh cao nhất của tượng trong tư thế bay hướng đầu xuống dưới, tạo thành hai chiều chuyển động: Phật là chúng sinh vươn lên chân lý, còn chim đại diện cho chân lý của Phật pháp sẵn sàng hòa xuống cùng chúng sinh. Cách tạo hình này biểu trưng quan niệm của Phật giáo: Phật pháp bất ly thế gian pháp3. Hình chim tạc trên tượng đá chùa An Đồng và Trà Phương thời Mạc, cũng không ngoài sử dụng điển Thần điểu trong Phật pháp trên4.
Trang trí hình chim trên mũ tượng Mạc Đăng Dung, có thể cho biết Mạc Đăng Dung sau khi mất, muốn quy Phật; cũng có thể là cái cớ nhằm che mắt thế lực thù địch để tránh bị hủy hoại.
Ngoài pho tượng đá còn có một số tượng khác cũng có hình chim trên trán tượng. Những tượng này chủ yếu được làm bằng gỗ, có niên đại muộn hơn. Rất có thể những pho tượng này được làm vào nửa sau thế kỷ XVII trở đi, khi nhà Mạc phải bỏ chạy khỏi Cao Bằng, li tán khắp nơi, trong đó một số trở về vùng Dương Kinh xưa. Những tượng này được tạo tác trên cơ sở mô phỏng hình tượng đá hình chim, nên không hẳn đã là tượng của vua Mạc như tượng chùa Chiêu Tường, Hải Phòng. Những pho tượng này tuy cũng có hình chim và cùng nằm trong môi trường phụng thờ của họ Mạc, nhưng không phải tượng vua Mạc.
Thay lời kết, tượng đá khắc hình chim trên trán duy nhất có hai pho một là ở An Đồng, Quỳnh Phụ, Thái Bình và hai là ở chùa Trà Phương, Kiến Thụy, Hải Phòng là tượng thời Mạc gắn với nhân vật được Hoàng tộc nhà Mạc hết mực tôn sùng: Thái Tổ Mạc Đăng Dung. Trong đó, tượng ở An Đồng có thể được tạo tác sớm hơn, gần với lúc sinh thời của Mạc Đăng Dung hơn; còn tượng chùa Trà Phương có phần nhấn mạnh hơn vẻ uy phong của một võ tướng được đời sau sùng bái. Bên cạnh tượng vua Mạc này, còn có các tượng khác của thân vương nhà Mạc mà phần lớn trên mũ đều có hình chữ Vương, như tượng Vương chùa Trung Hành, Nhân Trai, Phúc Linh, Hoà Niểu (Hải Phòng). Cách thức tạo tác các pho tượng này mang tính đặc thù chỉ gặp ở thời Mạc. Tuy nhiên, không phải cứ tượng nào có hình chim trên đầu cũng là tượng vua Mạc, hoặc tượng của vua; và không phải cứ tượng nào có hình chữ Vương cũng là tượng của thân vương nhà Mạc hoặc của Hoàng tộc. Nhưng hai pho tượng đá thời Mạc ở chùa Trà Phương và chùa An Đồng có hình chim trên mũ bình thiên thì không thể là ai khác, ngoài Thái tổ Mạc Đăng Dung. 
Tháng giữa hè năm Giáp Ngọ
                                                     PGS.TS.Đinh Khắc Thuân








Tượng vua Mạc chùa Trà Phương và An Đồng


1 Trang Thanh Hiền, "Phát hiện pho tượng Mạc ở Thái Bình", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 355, tháng 1-2014.
2 Trần Lâm: "Tượng tròn thời Mạc" in trong Mỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ thuật xuất bản, 1993, tr.71.
3 Xem, Triệu Thế Việt, "Giá trị biểu tượng ở tán lửa Tam muội của tượng Tam thế chùa Bút Tháp", Tạp chí Di sản Văn hóa, số 2/2010, tr.96-110.
4 Đinh Khắc Thuân, Góp phần nghiên cứu lịch sử triều Mạc, Nxb. Khoa học xã hội, 2012, tr.189.
http://mactoc.com/newsdetail/2953/tro-lai-pho-tuong-a-co-hinh-chim-tren-mu.aspx

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.