Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

29/07/2017

Xung quanh một bài viết của nhà văn Sơn Tùng, về mối quan hệ Nguyễn Ái Quốc - Phạm Quỳnh

Bài của nhà văn Sơn Tùng đăng trên trang Đại Đoàn Kết vào tháng 4/2017. Cuối bài ghi niên đại 2008, có lẽ là năm nhà văn đã chấp bút xong.

Sau đó, trên website của Tuần Báo Văn Nghệ Tp.Hồ Chi Minh xuất hiện bài của Đặng Minh Phương, vào tháng 5 cùng năm, để phản luận lại một số điểm. Rồi tác giả này đi đến kết luận: bài của Sơn Tùng có nhiều bịa đặt.

Để rộng dư luận, tiện bề quan sát, trước hết đưa cả hai bài đó về đây đã. Xếp theo thứ tự ngược như mọi khi.

Xuất nguồn của bài đánh số 1 (bài trên Đại Đoàn Kết) thì chắc là từ những tư liệu đưa lên từ năm 2009 trên Blog Phạm Tôn - trang của con cháu cụ Phạm Quỳnh. Bởi vậy, các tư liệu từ Blog Phạm Tôn sẽ đưa về mục số 0.

Blog Phạm Tôn đăng nhiều lần, từ năm 2009 đến nay. Vì cách đưa tư liệu của Phạm Tôn rất phồn tạp, nên chỉ chọn ra 3 tư liệu chính (đánh số từ 1 đến 3).

Các ảnh trong các bài.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên đến thăm và trò chuyện với nhà văn Sơn Tùng (14/12/2008).





---











TƯ LIỆU



2. Bài của Đặng Minh Phương





Bài “Một mối thân tình” của ông Sơn Tùng nhiều điều bịa đặt


Báo Tinh Hoa Việt, cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, số 47 (ngày 10-3 đến 25-3-2017) đăng bài Một mối thân tình, kể chuyện ít được biết tới về quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc với học giả Phạm Quỳnh của Sơn Tùng.
1. Tác giả Sơn Tùng “Ghi theo lời Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (không rõ là ông Huỳnh kể cho tác giả nghe vào ngày, tháng, năm nào).
Xin trích đoạn nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp khách sau ngày 4-9-1945:
“Ngày 5-9-1945, Chủ tịch nghênh tiếp cựu hoàng Bảo Đại – Vĩnh Thụy tại Bắc Bộ Phủ từ 8 đến 9 giờ. Và ngày 10-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23/SL cử ông Vĩnh Thụy làm cố vấn Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tiếp theo (tác giả không nói rõ ngày nào), các vị cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, cựu Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, cựu Tổng đốc Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Hồ Đắc Điềm ứng đáp lời mời của Hồ Chủ tịch ra gánh vác việc nước. Trong thời khắc này, ông Tôn Quang Phiệt, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên – Huế, đến số 8 phố Lê Thái Tổ bên hồ Gươm gặp Bác Hồ…
“Ông Vũ Đình Huỳnh kể:
Ông Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên – Huế Tôn Quang Phiệt đến Bắc Bộ Phủ. Đồng chí thường trực văn phòng đưa khách vào phòng đợi rồi đến báo với tôi (ông Huỳnh). Tôi vào phòng họp báo cáo với Bác, ông Tôn Quang Phiệt trong Huế ra đang ở phòng khách, xin Bác cho gặp chiều hôm nay có được không…? Chiều hôm ấy, Hồ Chủ tịch làm việc với ông Tôn Quang Phiệt (tại số 8, phố Lê Thái Tổ). Chính trong buổi làm việc, ông Tôn Quang Phiệt báo với Hồ Chủ tịch: “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi!”. Bác thu hai cánh tay vào sát ngực tựa lên bàn, lặng ngắt một lúc… Người duỗi hai tay ra mặt bàn: “Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với cụ Phạm ở Pháp… Đó không phải là người xấu”.
Đọc đoạn ghi này của ông Sơn Tùng, tôi không tin đó là sự thật. Ông Tôn Quang Phiệt và Bác Hồ không lạ gì hành động phản quốc chất chồng của ông Phạm Quỳnh. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần tội Phạm Quỳnh làm tay sai cho thực dân Pháp trong bài giảng cho học viên cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1926, lại nói cụ Phạm không phải là người xấu. Điều này, chúng tôi đã vạch trong bài “Trở lại chuyện Phạm Quỳnh” trên báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 447 ngày 27-4-2017. Ông Phạm Quỳnh bị xử tội ngay trong những ngày sôi sục Cách mạng tháng Tám ở Huế. Các tầng lớp nhân dân ở Huế xem đó là điều khó tránh vì thực dân Pháp đang tìm cách bắt liên lạc với Phạm Quỳnh để tập hợp lực lượng đánh chiếm Huế, thiết lập lại chế độ thống trị của Pháp ở miền Trung Việt Nam. Chứng cứ rất đầy đủ. Cụ Tôn Quang Phiệt là nhà cách mạng tham gia lãnh đạo cách mạng ở Thừa Thiên trước Tổng khởi nghĩa, liền sau khi cách mạng thành công, cụ được bầu là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời tỉnh Thừa Thiên sao lại phải khẩn trương ra Hà Nội báo cáo với Hồ Chủ tịch là “cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi”. Nhà trí thức lớn, nhà cách mạng Tôn Quang Phiệt không thể gọi Phạm Quỳnh một cách trân trọng là Cụ, và lại dùng từ “khử” rất thô thiển.
Trong tập sách “Tôn Quang Phiệt 1900-1973”, phần Hồi ký, Quyển I, trang 413, cụ Tôn Quang Phiệt viết về Tổng khởi nghĩa ở Huế: … “Chúng tôi ra lệnh cho các địa phương phụ cận Huế huy động một lực lượng khoảng 15 vạn người… đến khoảng 3, 4 giờ chiều thì kéo đến sân vận động Huế để lật đổ chính quyền bù nhìn, thành lập chính phủ lâm thời… Bắt đầu từ 12 giờ trưa, các đoàn đi bắt Việt gian thân Nhật và thân Pháp, đầu sỏ là Ngô Đình Khôi và con hắn là Ngô Đình Huân, làm thư ký riêng cho cố vấn Nhật Y-cô-a-ma, Phạm Quỳnh đã về vườn ở An Cựu và con rể hắn là Nguyễn Tiến Lãng, hiện làm Phủ Thừa tỉnh Thừa Thiên và một số lặt vặt nữa, nhất là bọn theo Nhật mà biết có vũ khí…”.
Pham-Duy-Ton-Pham-Quynh-Nguyen-Van-Vinh
Từ trái – Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh
Từ ngày Tổng khởi nghĩa ở Huế 23-8, cho đến mấy tháng liền, với cương vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng tỉnh, rất bận rộn với bao nhiêu công việc quan trọng, khẩn cả đối nội và đối ngoại tại Thừa Thiên, Huế mấy tháng liền. Cho đến cuộc bầu cử Quốc hội, Khóa I, ngày 6-1-1946, cụ trúng cử đại biểu Quốc hội. Cụ viết: “Sau khi trúng cử Quốc hội ở Huế, thì tôi thôi không làm Chủ tịch Thừa Thiên nữa và ra Hà Nội”. Không thấy cụ viết câu nào về sự kiện cụ ra Hà Nội gặp Cụ Hồ vào những ngày đầu tháng 9-1945 như trong bài ông Sơn Tùng “Ghi theo lời kể của ông Vũ Đình Huỳnh”. Rõ là câu chuyện sáng tác, giống như giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, viết rằng, khi hay tin Phạm Quỳnh bị xử chết ở Huế, Cụ Hồ nói: “Cụ Phạm (tức Phạm Quỳnh) là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này” (Báo Thanh niên, 6-9-2012).
Tạp chí Hồn Việt, số 63, tháng 10 – 2012, hỏi giáo sư Đinh Xuân Lâm “làm ơn cho biết xuất xứ câu nói đó của Bác Hồ. Nó được in ở đâu (Hồ Chí Minh toàn tâp?), ở tư liệu nào, hay là do truyền ngôn bịa đặt? Rồi vẽ rắn thêm chân?”.
Bốn năm liền, từ cuối năm 2012 đến trước khi qua đời, ngày 25-1-2017,
GS. Đinh Xuân Lâm đã không trả lời nổi câu hỏi của báo Hồn Việt.
2. Chuyện Nguyễn Ái Quốc gặp Phạm Quỳnh ở Paris năm 1922. Ông Sơn Tùng ghi lại lời kể của cụ Đào Nhật Vinh, một người cùng làm việc trên tàu viễn dương với Văn Ba – Nguyễn Tất Thành mà ông được gặp ở thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5-1975. Đầu năm 1976, cụ Vinh ra Hà Nội thăm cố hương vào thăm lăng viếng Bác Hồ.
Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể:
“Năm 1919, tôi rời đại dương, lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn Ái Quốc và thăm cụ Nghè Ta (Phan Châu Trinh) và cụ Nghè Tây (Phan Văn Trường) và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa “8 yêu sách của Người An Nam” đến Hội nghị Hòa bình Versailles, anh em thợ thuyền, lính thợ và các giới khác đến số 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng “Ngũ Hổ” – Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền.
Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923, “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận báo đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3-1922, vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội chợ thuộc địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu Vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’Humanité…
Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc “được” A. Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”… “Hội chợ thuộc địa” mở cửa từ đầu tháng 4-1922, công việc chuẩn bị cho Hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cẩn, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria… Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyên Minh Quang, anh Vũ Văn Long… Cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng Nhà vua, như quan Tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh, Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đổng Văn Nhật báo, Đông Dương tạp chí Notre Journal, Notre Revue… Ông đã từng dự cuộc đấu xảo Marseille 1906. Ông Vĩnh, ông Quỳnh quen biết nhau từ Trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907, cụ Cử Can là Hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cẩn đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc…
Đầu tháng 7-1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong Hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước. Chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm… Tôi và anh bạn quay trở lại… Chiều hôm ấy, tôi về nhà ông Tạ Văn Cẩn, gặp Cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với tôi: Thứ năm tuần tới, ngày 13-7, Vinh đến “Cụ Nghè Đông Ngạc nhé”. Đến sớm sớm, đó… Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ Nghè Đông Ngạc là Tiến sĩ Luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa tự hỏi: Không biết vị khách quí nào đến mà cụ Nghè Tây (Phan Văn Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Hơn 8 giờ, thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ, tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh khen:
- Bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quen. Nhất là, món lòng lợn, đặc biệt là món dồi…
Sau bữa cơm đầm ấm tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille. Hà Nội – Chiếu Văn, 8-12-2008 (12-11 – Mậu Tý) – [* trích thư của nhà văn Sơn Tùng gửi nhạc sỹ Phạm Tuyên].
Những đoạn ghi chép của ông Sơn Tùng trên có nhiều điều sai sự thật:
- Nói “ông Vĩnh, ông Quỳnh quen biết nhau từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục là bốc thơm lố bịch. Hai ông ấy có học hay làm việc ở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ngày nào đâu! Năm trường Đông Kinh Nghĩa Thục khai giảng, ông Vĩnh 25 tuổi, đã làm báo, ông Quỳnh mới 15 tuổi đang học trường thông ngôn của Pháp. Nếu hai ông ấy quen nhau ở phố phường hay một nơi nào đó thì còn có thể, chứ ở trường Đông Kinh Nghĩa Thục thì là chuyện lừa bịp, nhằm làm cho người đọc lầm tưởng hai ông này cũng là những người yêu nước có tầm cỡ đây. Vì trường Đông Kinh Nghĩa Thục do các sĩ phu yêu nước sáng lập và dạy ở đó. Thực dân Pháp theo dõi, thấy rõ các cụ dạy lòng yêu nước cho con em, thế là nó đóng cửa, mới sau 9 tháng khai giảng.
Thời ấy, năm 1907, ông Quỳnh còn thiếu niên, ông Vĩnh đã 25 tuổi mà lảng vảng đến trường Đông Kinh Nghĩa Thục thì Tây cho ăn đòn ngay, ngoại trừ đến để làm gián điệp.
Ngày nay, những kẻ đề cao các ông Quỳnh, Vĩnh là người yêu nước, là chí sĩ mới sáng tạo ra chuyện hai ông “quen biết nhau từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục”.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Đại học Văn khoa Sài Gòn trước năm 1975, viết về ông Nguyễn Văn Vĩnh (NXB Trí Đăng, Sài Gòn 1972) như sau:
“Nguyễn Văn Vĩnh có thể là một nhà báo giỏi nhưng lại rất vụng về chính trị. Ngôn ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh, không những không tranh thủ được ai, đặc biệt giới sĩ phu, mà còn gây thêm đố kị, hận thù; Vĩnh tuyên truyền đề cao thực dân Pháp một cách quá lộ liễu, “gia nô” và mạt sát nhà Nho, giới sĩ phu thậm tệ, đặc biệt những người làm cách mạng. Khi Đông Dương tạp chí vừa ra đời đã lớn tiếng chửi những chiến sĩ mưu sát, ném bom tại khách sạn Hà Nội giết hại mấy sĩ quan Pháp
(26-4-1913) là “lũ sài lang, đồ dối trá, đồ vô học, dùng chước ăn mày” và hăm dọa nếu bắt được thì bỏ dọ lăn sông.
… Trong bài xã thuyết “Gốc luận” (Đông Dương tạp chí, số 2, ngày 22-5-1913), Nguyễn Văn Vĩnh đã bộc lộ tất cả chân tướng của tầng lớp tân học, tay sai, đầy tớ được chủ chia cho ít quyền lợi lên mặt mạt sát những nhà Nho chỉ nghĩ đến chuyện làm loạn chống các quan bảo hộ… Vĩnh chĩa mũi dùi đả kích vào giới sĩ phu cách mạng mà Vĩnh gọi là bọn Ngụy Nho:
“Nay lại nói đến những bọn đã ra nước ngoài mà gây loạn mà nó tưởng cách khôi phục lại nước An Nam, thoát ra khỏi Lang Sa bảo hộ để tha hồ mà xâu xé với nhau. Thử xét xem trong bọn ấy, thực không có tay Tây học nào, không có đến một người gọi là biết tiếng Lang Sa.
Khởi thủy là bọn Phan Bội Châu là một bọn Ngụy Nho. Bọn ấy thấy nước Lang Sa sang đây, dụng nhân tài một cách mới đã là một sự thiệt hại cho họ, xưa nay chỉ biết lấy mấy chữ chi, hồ làm thang mây lên chốn cung đường. Chẳng được làm quan thì cũng nhờ cái lối cổ nước Nam chuộng Nho, mà hưởng các lợi quyền danh dự riêng trong đoàn thể. Ngày nay vì cách Nhà Nước kén chọn lấy thực tài mà thành ra đồ nghêu ngao vô dụng, chẳng ai mời rước như xưa, thì cũng là một điều hẳn rồi …”.
- Ông Sơn Tùng ghi lời kể của Đào Nhật Vinh: “Đầu tháng 7-1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi (cụ Vinh) trong hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước. Chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm…”.
Lại thêm một chuyện bịa đặt. Vì trong 12 ngày đầu tháng 7-1922, ông Phạm Quỳnh không hề có lần nào gặp ông Nguyễn Ái Quốc. Ông Quỳnh ghi nhật ký như sau:
“Thứ bảy mồng 1 tháng 7: Hôm nay đi chơi Saint Cloud, cách Paris chừng 15 cây lô mét… Thứ ba mồng 4 tháng 7: Tối mai đây đã phải diễn thuyết ở Hội Đông Pháp Ái hữu. Mấy hôm nay nằm hầm ở nhà để soạn bài, không đi chơi đâu cả. Thứ tư, mồng 5 tháng 7, … 8 giờ diễn thuyết ở Kinh tế Cục cho các hội viên Hội Đông phương Ái hữu nghe…”. Từ ngày 6-7 cho đến ngày 11-7, ông Quỳnh đi thăm chơi nhiều nơi ở Paris, nói chuyện ở nơi này nơi nọ, gặp gỡ nhiều người bạn Pháp, không hề thấy ông ghi là có gặp và “sóng bước” với ông Nguyễn Ái Quốc!
Về cuộc gặp Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… ở Paris, ông Phạm Quỳnh ghi: Thứ năm 13-7-1922. “Cụ V. hôm nay đưa đến chơi ông De Naléche, chủ nhà báo Journal des Débats ở đường Saint Germain…, không phải là “… Hơn 8 giờ sáng ông Quỳnh tới” nhà cụ Nghè Phan Văn Trường. Cũng không hề có chuyện “ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng” như ông Sơn Tùng ghi. Xin đọc tiếp nhật ký của ông Quỳnh:
“Chiều hôm nay (13-7) ăn cơm An Nam với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi, nên bọn mình đến chơi, không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi; nhưng họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu nay không được ăn cơm ta ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta, thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no uống say, cười cười nói nói, không ngờ buồng bên cạnh có người đương hấp hối chết, đến lúc xuống thang mở cửa ra đi chơi mới thấy lão quản gia nói, các ông có ý trách sao lão không bảo trước để cho bọn mình khi ngồi bàn ăn biết mà tĩnh túc hơn một chút; lão giơ hai tay lên, tựa hồ như cho việc đó là không quan hệ gì. Trong một nơi đô hội ba bốn triệu con người này, một người chết đi có lẽ cũng không quan hệ gì thật…”.
Ngày 14-7, ông Quỳnh đi xem điểm binh ở trường đua ngựa… Ngày 15, đến thăm bác sĩ Lyon Caen là vĩnh viễn thư ký Hội Hàn lâm, Ban Chính trị Luân lý học…
Đến ngày chủ nhật, 16-7, ông ghi:
“Hôm nay không đi chơi đâu, ngồi hầm trong buồng, viết mấy cái thư về nhà.
Trưa, mấy ông chí sĩ cùng ăn cơm bữa trước lại chơi ở trọ, nói chuyện giờ lâu. Nghe nói các ông đi đâu cũng có bọn trinh tử theo sau, chắc bọn đó đứng đâu ngoài cửa cả. Người đồng bang ở nơi khách địa không thể không gặp nhau, gặp nhau không thể không nói chuyện nước nhà, lòng người ai chẳng thế, tưởng cũng chẳng phải là sự phi phạm gì. Vả chính phủ Pháp vẫn có tiếng là khoan dung đại độ, xem như mấy ông ở đây bấy lâu vẫn được yên ổn ở dưới quyền bảo hộ của pháp luật, vẫn được tự do như người Pháp, thì đủ biết. Còn sự trinh sát là phận sự của các Chính phủ, dân nước nào cũng vậy, chẳng lấy gì làm lạ…” (Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh, NXB Hội Nhà văn, 2004).
Cả hai lần gặp gỡ (chiều 13 và trưa 16-7), ông Phạm Quỳnh chỉ ghi gọn trong 30 dòng nhật ký. Ông cũng không nói rõ “mấy tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi” này là ai, không kể nội dung các cuộc gặp ấy là gì, chỉ nói qua là “ăn cơm ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ thỏa thích… gặp nhau không thể không nói chuyện nước nhà, lòng người ai cũng thế …”.
Theo ông Sơn Tùng (ghi theo lời kể của cụ Đào Nhật Vinh) thì các chí sĩ ấy là cụ Nghè Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc. Còn cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Cũng không thấy nói có ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Năm 1922, ông Quỳnh sang Pháp, như chính ông viết là “Tôi được quan Thống sứ Bắc kỳ cử sang Đại Pháp thay mặt cho Hội Khai trí Tiến Đức để dự cuộc đấu xảo Marseille, lại được quan Toàn quyền đặc phái sang diễn thuyết tại mấy trường lớn ở Paris…”.
Đến lúc này, ông Quỳnh làm chủ bút báo Nam Phong do Pháp lập ra đã 5 năm. Bộ mặt phản động, làm tay sai cho Pháp đã phơi bày rất rõ. Cho nên ông được Thống sứ, Toàn quyền Pháp tin cậy giao trọng trách là vậy. Ông Quỳnh ca ngợi “Chính phủ Pháp vẫn có tiếng là khoan dung đại độ, xem như mấy ông (chí sĩ) ở Tây bấy lâu vẫn được yên ổn dưới quyền bảo hộ của pháp luật, vẫn được tự do như người Pháp thì đủ biết…”.
Chưa đầy một năm sau khi ông Quỳnh ghi nhật ký như trên thì ông Nguyễn Ái Quốc bị truy lùng phải lánh sang Nga.
Từ năm 1922 về sau, Nguyễn Ái Quốc chưa hề gặp lại Phạm Quỳnh và giữa hai người cũng không hề có bất cứ mối quan hệ thân thiện nào. Ông Phạm Quỳnh cứ dấn sâu vào con đường quỳ gối phục vụ bọn thực dân. Ông Trần Đình Nam – Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính phủ Trần Trọng Kim, người tiếp quản Bộ Lại của ông Phạm Quỳnh, sau khi đọc các tài liệu của bọn cầm quyền (Pháp) sai bảo Phạm Quỳnh mà Phạm Quỳnh ngoan ngoãn tuân thủ, nói: “đây là việc làm của một người phản quốc” (theo Nguyễn Văn Trung, Tủ sách Tìm về dân tộc – Nam Sơn, Sài Gòn, 1975).
Ngay từ năm 1926, khi giảng bài cho học viên Việt Nam ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã nói rằng tạp chí Nam Phong mà Phạm Quỳnh làm chủ bút là “cái loa để quảng cáo cho cái chiêu bài “văn minh khai hóa” của thực dân Pháp ở Đông Dương” (theo Nguyễn Văn Trung, sđd).
Làm gì có chuyện vào những ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nói: “cụ Phạm không phải là người xấu”. Ông Sơn Tùng ghi là câu nói đó Cụ Hồ nói với ông Tôn Quang Phiệt vào đầu tháng 9-1945. Oái oăm thay, những ngày này, ông Phiệt đang ở Huế với bao nhiêu công việc quan trọng chất chồng, mãi đến sau ngày bầu cử Quốc hội 6-1-1946, ông mới ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới như trên kia chúng tôi đã viết.
Sau hai lần gặp nhau ngắn ngủi giữa những người “đồng bang” (cùng một nước) đang ở Pháp (năm 1922) trò chuyện với nhau, không rõ nội dung cụ thể. Lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc là nhà cách mạng chống thực dân Pháp, còn Phạm Quỳnh là người được Thống sứ Bắc kỳ, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương tin cậy, phái sang Pháp làm nhiệm vụ chúng giao.
Suốt 23 năm (1922-1945), hai người không hề có mối liên hệ nào. Một người thì bôn ba khắp thế giới, vào tù ra tội, vượt bao gian nguy, quyết chiến đấu đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp, giành độc lập tự do cho dân tộc. Một người thì từ nhà báo trở thành quan đầu triều (như thủ tướng) làm mọi việc phản dân hại nước cực kỳ xấu xa do bọn cầm đầu xâm lược giao cho, bỗng nhiên ngay sau ngày Cách mạng thành công lại được tôn vinh có “một mối thân tình” với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh!
Báo Tinh Hoa Việt, khi đăng bài của ông Sơn Tùng đã đăng dòng chữ có ngoặc kép đặt trong khung tròn nổi bật dưới chân ảnh ông Phạm Quỳnh giữa trang:
“Tôi đã từng gặp, giao tiếp với cụ Phạm ở Pháp… Đó không phải là người xấu” – Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xin hỏi báo Tinh Hoa Việt, câu đó Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lúc nào, ở đâu? Hay là trích nguyên câu bịa đặt của ông Sơn Tùng?
Bịa đặt ra lời Bác Hồ là có tội lớn, ngoài tội không trung thực khoa học còn là tội xuyên tạc lịch sử.

Đặng Minh Phương

Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 450

http://tuanbaovannghetphcm.vn/bai-mot-moi-than-tinh-cua-ong-son-tung-nhieu-dieu-bia-dat/







1. Bài của Sơn Tùng




 09:05:00 - Thứ 5, 06/04/2017






Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với cụ Phạm ở Pháp.... Đó không phải là người xấu!”- Chủ tịch Hồ Chí Minh

1. Cụ Vũ Đình Huỳnh ở số 5 Hai Bà Trưng, Hà Nội. Cụ xuất thân trong gia đình Thiên Chúa giáo yêu nước; là nhà trí thức yêu nước dấn thân trong các phong trào đấu tranh cách mạng kiên cường bất khuất, bị tù qua Hỏa Lò, ngục Sơn La… Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào ngày 16 và 17/8/1945, cụ Nguyễn Lương Bằng đưa cụ Vũ Đình Huỳnh đến giới thiệu với Cụ Hồ ở nhà sàn làng Kim Lung, tên mới là Tân Trào. Cụ Hồ “kết” ngay cụ Vũ Đình Huỳnh là tâm phúc.
Tổng khởi nghĩa – Cách mạng tháng 8/1945 thành công, Cụ Hồ về Hà Nội tại “Đại bản doanh” 48 Hàng Ngang, ngày 25/8/1945. Cụ Hồ sở cầu ngay cụ Vũ Đình Huỳnh làm Bí thư cho Chủ tịch nước từ việc “cầu hiền” để lập Chính phủ Lâm thời; Đặc phái viên của Hồ Chủ tịch đến Phát Diệm, “thuyết khách” Giám mục Lê Hữu Từ và về Yến Mô Ninh Bình – mời Linh mục Phạm Bá Trực rồi đến Liên Bạt, Hà Đông kính trao thư Hồ Chủ tịch với cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, xuống Thái Bình chuyển giao nhiệm vụ cho đồng chí Ba Ngọ, cựu chính trị phạm ở Thái Bình nay là phái viên của Hồ Chủ tịch mời cụ Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Thái Bình ra gánh vác việc nước. Cụ Vũ Đình Huỳnh làm Bí thư – tâm phúc của Bác Hồ cho tới cuối 1953…
Ghi theo lời Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Bác Hồ rời Tân Trào, Tuyên Quang Việt Bắc. Ngày 22/8/1945. Ngày 25/8/1945, Người về nhà 48 Hàng Ngang, Hà Nội lúc thành phố lên đèn.
Ngày 26/8, Người triệu tập và điều hành phiên họp đầu tiên thường vụ Trung ương Đảng tại đây; Quyết định lớn: Thiết lập Chính thể Dân chủ Cộng hòa, các thành viên Chính phủ Lâm thời thật tiêu biểu của dân tộc, của nhân dân; phải có Tuyên ngôn Độc lập trước quốc dân đồng bào và thế giới với một cuộc mít tinh lớn hàng mấy chục vạn ở Thủ đô Hà Nội. Chính phủ ra mắt nhân dân và ngày ra mắt của Chính phủ cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính phủ Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 28/8/1945, Hồ Chủ tịch đến làm việc tại Bắc Bộ Phủ, ở số 12 phố Ngô Quyền. Một phái đoàn Trung ương – ông Nguyễn Lương Bằng, ông Trần Huy Liệu, ông Cù Huy Cận đã vào Huế dự lễ vua Bảo Đại thoái vị. Hôm phái đoàn lên đường rồi, Hồ Chủ tịch mới về Hà Nội, như chợt nhớ Người nói với ông Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng – Tổng Chỉ huy quân đội – Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi), Thứ trưởng Bộ Nội vụ; ông Lê Giản, Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam và Vũ Đình Huỳnh: “Chú Bằng (Nguyễn Lương Bằng), chú Liệu (Trần Huy Liệu), chú Cận (Cù Huy Cận) vô Huế rồi mình mới nhớ ra thì đã trễ, giờ chú Nam (Hoàng Hữu Nam) hoặc xem có ai thay được chú Nam vô Huế gặp cụ Phạm Quỳnh, trao thư tôi mời cụ”…
Hai hôm sau, ông Hoàng Hữu Nam đến báo cáo với Hồ Chủ tịch; “ông Phạm Quỳnh đã bị bắt, hai người con gái của ông ở Hà Nội, gặp tôi thổ lộ việc nầy…” Hồ Chủ tịch để điếu thuốc đang hút dở xuống gạt tàn, nói lửng: “Bất tất nhiên!” (Không nhất thiết phải như thế, có thể ra cách khác được). Người hỏi ngay ông Hoàng Hữu Nam: “Hai chị ấy tên là gì?” 
Ông Hoàng Hữu Nam trình bày:
- Dạ… Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức, thưa Bác.
- Chú mời hai chị em cô ấy gặp tôi, chú Tư (Vũ Đình Huỳnh) sẽ sắp xếp ngày giờ gặp…
Ông Hoàng Hữu Nam tươi cười kể lại với Bác là chị Giá, chị Thức bày tỏ xin được gặp Cụ Hồ nhưng chẳng dám hứa chắc vào lúc nào… 
Sau buổi làm việc này, ông Vũ Đình Huỳnh trao đổi với ông Hoàng Hữu Nam, Hồ Chủ tịch sẽ tiếp “thân nhân cụ Phạm” vào cuối buổi sáng ngày 31/8, tại phòng khách Bắc Bộ Phủ.
Ngày 31/8, buổi sáng Hồ Chủ tịch rà xét lần cuối bản thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ông Nguyễn Hữu Đang, Trưởng ban tổ chức Ngày lễ Tuyên ngôn Độc Lập 2/9/1945 và bốn người nữa đến báo cáo với Hồ Chủ tịch về công việc chuẩn bị cho ngày lễ…
Đến 10h30, ông Hoàng Hữu Nam báo với ông Vũ Đình Huỳnh: “Đã mời thân nhân cụ Phạm đến, đang ở phòng khách…” 
Cụ Vũ Đình Huỳnh khi kể lại với tôi sự việc này, cụ nói trầm trầm như tâm sự: “Tôi nghe danh ông Phạm Quỳnh từ một bỉnh bút, Chủ nhiệm, Chủ bút báo Nam Phong và Tổng Thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức. Có đôi lần nhìn thấy ông khăn xếp, áo the, kính trắng, đi từ trụ sở Nam Phong, phố Hàng Da qua Hàng Bông đến trụ sở Khai Trí Tiến Đức, phố Hàng Trống, bên hồ Hoàn Kiếm. Tôi có biết chị Phạm Thị Giá, vợ anh Tôn Thất Bình, dạy Pháp văn Trường Thăng Long, cùng với cụ Phó bảng Bùi Kỷ dạy Hán văn, Giáo sư Hoàng Minh Giám dạy Pháp văn, Giáo sư Đặng Thai Mai dạy Pháp văn,  Giáo sư Võ Nguyên Giáp dạy văn - sử - địa, Giáo sư Vũ  Đình Hòe dạy văn, anh Nguyễn Xiển dạy toán - lý… Còn chị Phạm Thị Thức là vợ bác sĩ Đặng Vũ Hỷ, cùng quê Nam Định, tôi lại còn thân thuộc nữa. Cho nên, cái phút giây tháp tùng Hồ Chủ tịch đến phòng khách tiếp chị Giá, chị Thức, tôi bùi ngùi thấy hai chị rụt rè, sợ sệt; chỉ một thoáng, hai chị xúc động mạnh trước cử chỉ Hồ Chủ tịch cầm tay hai chị thân tình, an ủi và mời ngồi vào ghế đối diện với Người. Người nói: 
- Tôi ở chiến khu Việt Bắc mới về Hà Nội, nghe tin chẳng lành với cụ nhà, ở Huế… 
Hồ Chủ tịch ngừng giây lát, rồi tiếp: 
- Trong lúc cuộc khởi nghĩa bùng nổ, khó tránh được sự lầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi đang trên đường về Hà Nội (ngày 22-8-1945 Hồ Chủ tịch rời Tân Trào, Tuyên Quang). 
Chị Phạm Thị Giá trình bày sự việc cha bị bắt trong lúc đang làm việc tại nhà riêng. Chị Phạm Thị Thức hai tay nâng phong thư lên Bác, Người nhận và chuyển sang tay cho tôi, dặn “Chú chuyển sang Bộ Nội vụ”.
Bác thân mật hỏi han hai chị em về tình hình gia đình ở trong Huế, ở Hà Nội và tham gia công việc chính quyền đoàn thể… Người dặn: “Những việc hai cháu vừa đề đạt, hai cháu sẽ trực tiếp gặp ông Hoàng Hữu Nam, Bộ Nội vụ nhá…”. Đồng chí Bảy (Luật sư Phan Mỹ), Đổng lý Văn phòng vào thỉnh thị Chủ tịch… Người đưa tay cầm chặt bàn tay chị Giá, chị Thức: “Hai chị em về nhá, tôi có việc khẩn”…
*
Sau khi thoái vị, Cựu Hoàng Bảo Đại – Vĩnh Thụy nhận lời mời của Hồ Chủ tịch ra Hà Nội ngày 4/9/1945. Ngay hôm sau, ngày 5/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghênh tiếp Cựu Hoàng Bảo Đại – Vĩnh Thụy tại Bắc Bộ Phủ từ 8h đến 9h. Và ngày 10/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23/SL cử ông Vĩnh Thụy làm Cố vấn Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tiếp theo, các vị cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, cựu Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, cựu Tổng đốc Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Hồ Đắc Điểm ứng đáp lời mời Hồ Chủ tịch ra gánh vác việc nước. Trong thời khắc này, ông Tôn Quang Phiệt, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên – Huế, đến nhà số 8 phố Lê Thái Tổ bên hồ Gươm gặp Bác Hồ. Từ Chiến khu Việt Bắc về Hà Nội, Bác ở nhà 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ, một nhà tư sản yêu nước, danh nho. Bác viết Tuyên ngôn Độc lập tại đây. Sau ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập 2-9, Bác về nhà số 8 phố Lê Thái Tổ, hàng ngày đến Bắc Bộ phủ làm việc.
Ông Vũ Đình Huỳnh kể: 
- Ông Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên – Huế Tôn Quang Phiệt đến Bắc Bộ Phủ, đồng chí thường trực văn phòng đưa khách vào phòng đợi rồi đến báo với tôi. Tôn Quang Phiệt, một danh sĩ tôi nghe tiếng từ lâu, nay mới gặp lần đầu. Hai chúng tôi tay bắt mặt mừng… Anh xin được gặp Ông Cụ, nhiều vấn đề phải thưa ngay với Cụ. Tôi hẹn anh Tôn Quang Phiệt, hiện giờ Ông Cụ đang bàn công việc khẩn, tướng Lư Hán đến Hà Nội rồi. Sáng mai Ông Cụ hội đàm với Lư Hán… Tôi vào phòng họp, báo với Bác: Ông Tôn Quang Phiệt trong Huế ra, đang ở phòng khách, xin Bác cho gặp chiều hôm nay, có được không? Lúc nói đến ông Tôn Quang Phiệt, Bác và anh Võ Nguyên Giáp đều biểu lộ sự vui mừng tái ngộ. Bác nói: “Ông Tôn Quang Phiệt là chỗ quen biết. Ngày còn nhỏ tôi theo cha lên Võ Liệt, Nguyệt Bổng, huyện Thanh Chương để học, Tôn Quang Phiệt bấy giờ độ 4, 5 tuổi. Chú Tư hẹn với chú Phiệt đúng 16 giờ gặp nhau ở “Bát Phố” (số 8 phố Lê Thái Tổ - tiếng lóng, mật hiệu)”. Chiều hôm ấy, Hồ Chủ tịch làm việc với ông Tôn Quang Phiệt tại đây. Chính trong buổi làm việc này, ông Tôn Quang Phiệt báo với Hồ Chủ tịch: “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi!”. Bác thu hai cánh tay vào sát ngực tựa lên mặt bàn, lặng ngắt một lúc… Người duỗi hai tay ra mặt bàn: “Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với cụ Phạm ở Pháp... Đó không phải là người xấu!”.
***
Hồ Chủ tịch, Thượng khách thăm chính thức nước Cộng hòa Pháp từ 31/5 đến 20/9/1946. Ông Vũ Đình Huỳnh tháp tùng Hồ Chủ tịch. Ông Vũ Đình  Huỳnh vừa nói, vừa mở tập: “Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch bốn tháng sang Pháp – Đ.h viết” là sở cứ: … “Pháp không chịu công nhận Việt Nam độc lập, mở chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ từ 23/9/1945 đang lan rộng ra Nam Trung Bộ mà lại mời Chủ tịch Hồ Chí Minh thượng khách thăm chính thức nước Pháp, đó là điều chưa từng có trong lịch sử. Còn kỳ lạ hơn, sau lễ đón nghi thức nguyên thủ quốc gia tại phi trường Le Bourget ngày 22/6/1946, Hồ Chủ tịch về nhà khách chính phủ Royal Monceau. Tại đây, liên tiếp các chính khách, các nhà văn hóa danh tiếng, các tướng lĩnh, các văn nghệ sĩ, báo giới, các đảng lớn ở Pháp… đến chào Hồ Chủ tịch.
Người đến chào Hồ Chủ tịch đầu tiên là Đại tướng Juin, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp. Rồi Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại Moutet, Bộ trưởng Justin Godart, nhà kiến trúc sư danh tiếng Francis Jourdain, giáo sư nghị viện Privet CTS Paillet, tướng Petit, Chủ tịch báo giới Cộng hòa Pháp Bayet, trạng sư Nordman, văn sĩ Bloch, bà Cotton lãnh tụ phụ nữ Dân chủ. Điều lạ là, Đảng Cộng hòa bình dân (MRP- đảng của Thủ tướng Bidault) do ông Schuman Chủ tịch đảng dẫn đầu đoàn, ông Francisque Gay – Bộ trưởng, ông Michelet – Bộ trưởng, ông Collin - ủy viên trung ương, ông Gortais - ủy viên trung ương, ông Debey - ủy viên trung ương, ông Ammury - ủy viên trung ương, ông Terrenoir – ủy viên trung ương, ông Max André- trưởng đoàn đại biểu Pháp, Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau. Kế đến là đoàn Đảng Xã hội Pháp đến chào Hồ Chủ tịch gồm có bà Morty Capgras, ông Moutet – Bộ trưởng, ông Philip-Bộ trưởng, ông Luyssy nghị viên, ông Rosenfeld -Viện sĩ, ông Boutbrien - bác sĩ và các ủy viên trung ương Roux, Stble, Dechezelles… Hồ Chủ tịch từng sinh hoạt trong Đảng Xã hội… các vị vui chuyện với Người suốt 8 giờ tối đến 2 giờ sáng… Đoàn Đảng Cộng sản Pháp: Hai ông bà Cachin, Thorez Phó Chủ tịch chính phủ, bà Braun Phó chủ tịch Quốc hội, bà Jeannette Vemersche nghị viên, bà Vaillant Couturier nghị viên, Duclos Phó Chủ tịch Quốc hội, Marty ủy viên trung ương, Mauvais ủy viên trung ương, Billoux Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Tillon Bộ trưởng Bộ quân khí…
Một đoàn văn sĩ, thi sĩ lừng danh thế giới đến chào Hồ Chủ tịch: Triolet, Aragon, Richard Bloch, Boene, Moussinac, Masson, Séghers, Pierre Emmanuel. Ông bà Joliot Curie hai nhà bác học thế giới đến chào Hồ Chủ tịch rất thân tình, đàm đạo gần hai tiếng đồng hồ. Về sau, hai nhà bác học Joliot Curie còn gặp Hồ Chủ tịch mấy lần… Lại… không thể tưởng tượng nổi, nhà danh họa Picasso gặp Hồ Chủ tịch ôm choàng lấy nhau hồi lâu! Vừa hàn huyên Picasso vừa ký họa chân dung Hồ Chủ tịch. Bức chân dung lịch sử ấy người giao cho tôi cất giữ. Hơn hai mươi năm sau tôi gặp họa, bị khám nhà nên không còn nữa…
Đến như cựu Toàn quyền Đông Dương hai lần A.Saraut cùng với con rể là Thượng sứ Sainteny đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và ôm chặt lấy Nguyễn Ái Quốc năm xưa trước quan khách trong bữa tiệc long trọng!
Trước ngày khai mạc hội nghị Việt - Pháp tại Fontainebleau, Hồ Chủ tịch gặp mặt tất cả phái đoàn: ông Phan Anh, ông Bửu Hội, ông Hoàng Minh Giám, ông Nguyễn Văn Huyên, ông Trịnh Văn Bính, ông Dương Bạch Mai, ông Nguyễn Mạnh Hà, ông Tạ Quang Bửu, ông Đặng Phúc Thông, ông Huỳnh Thiện Lộc, ông Chu Bá Phượng, ông Hoàng Văn Đức. Trưởng đoàn là ông Phạm Văn Đồng. Lúc các thành viên đoàn Việt Nam vào đủ trong phòng, Hồ Chủ tịch nói với ông Phạm Văn Đồng, có ông Đỗ Đình Thiện và tôi (Vũ Đình Huỳnh): “Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì…” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT). Người im lặng. Ông Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…” Mà cũng chỉ có Bác Hồ! Sau khi ở Pháp về, ngày 4-12-1945, trong phiên họp Chính phủ Người đề nghị trợ cấp hằng tháng cho hai bà Thành Thái, Duy Tân mỗi bà 500 đồng Đông Dương…”
***
Nhạc sĩ Phạm Tuyên đến thăm và trò chuyện với nhà văn Sơn Tùng (14/12/2008).
Cụ Đào Nhật Vinh, ở số 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Quê ở Trực Ninh, Nam Định.
Năm 1913, cụ Đào Nhật Vinh cùng làm việc trên tàu viễn dương với Văn Ba – Nguyễn Tất Thành từ Le Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Đông qua Âu – Á – Phi – Mỹ, tận Argentine tới Terre de Fen. Đào Nhật Vinh có vốn chữ Nho, chưa biết chữ quốc ngữ: “Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ”… Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho tới năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga Xôviết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch là thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình” – Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước”. Với tình cố cựu, cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất về Sài Gòn.
Năm 1975, ngày 30 tháng 4, Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi (nhà văn Sơn Tùng – BTV) vào cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…. để sưu tầm tư liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5/1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở cách mạng ở Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, Quận 3, gặp Giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang, sáng lập viên công ty Liên Thành và Trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân Hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở nhà số 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, với bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc. Sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn ở nước ngoài. Đầu năm 1976, cụ ra Hà Nội thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ.
Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: 
“Năm 1919, tôi rời đại dương, lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn Ái Quốc và thăm cụ Nghè Ta (Phan Châu Trinh) và cụ Nghè Tây (Phan Văn Trường) và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa “8 yêu sách của Người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versaills, anh em thợ thuyền, lính thợ và các giới khác đến số 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng “Ngũ Hổ” – Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền.
Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923, “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận báo đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3/1922, vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội Chợ thuộc địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu Vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’ Humanité…  Những bài gây xôn xao nhất “Les lamentations de Trưng Trắc” (Lời than vãn của Bà Trưng Trắc) đăng trên tờ  L’ Humanité số ra ngày 24/6/1922; “Les civilisateurs” số 22, 6/1922 và bài “Hygiene mental” trên báo Joarnal du Peunple ; “La Haine dé races” (Hận thù chủng tộc)…. Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở kịch “Con Rồng Tre” chưa in trên báo, mới công diễn một lần ở Club du Fanbourg mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí sĩ Phan Châu Trinh nhục mạ Nhà vua Khải Định bằng “Thư Thất Điều”, chữ Nho. Cụ Phan Văn Trường chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ…
Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc “được” A. Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”… Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội chợ thuộc địa” mở cửa từ đầu tháng 4/1922, công việc chuẩn bị cho Hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria… Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn Long… Cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng Nhà vua, như quan tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh, Tổng Thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật báo, Đông Dương tạp chí Notre Journal, Notre Revue…
Ông đã từng dự cuộc đấu xảo Marsrille 1906. Ông Vĩnh, ông Quỳnh quen biết nhau từ Trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907, cụ Cử Can là Hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu đóm của các cụ. Có một cuộc đàm dạo, ông Bạch Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là “bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn là Thư ký “Hội Thân ái” mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lập Hội. Nhờ ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút ít lai lịch của các cụ.
Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong Hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước. Chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm… Tôi và anh bạn quay trở lại… Chiều hôm ấy, tôi về nhà ông Tạ Văn Cần, gặp Cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với tôi: Thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “Cụ Nghè Đông Ngạc” nhé. Đến sơm sớm, đó… Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc là Tiến sĩ Luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa tự hỏi – Không biết vị khách quí nào đến mà cụ Nghè Tây (Phan Văn Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Hơn 8h thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11h, tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền - và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh khen: 
- Bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quen. Nhất là, món lòng lợn, đặc biệt là món dồi.
Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù, tương đắc. Tôi chợt nhớ đến câu ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:
“Nhìn mặt mà đặt hình dong
Con lợn có béo, miếng lòng mới ngon”.
Đủ tim, gan, cổ hũ, ruột non
Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòng”.
Cụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên nhìn tôi tươi cười và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu rồi cụ Phan cũng nâng ly chúc mừng. Ông Phạm Quỳnh nghiêm trang nói: 
- Anh Đào Nhật Vinh đã hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu, Phi, Mỹ mà hồn quê, quốc túy không phải mờ. Chúc mừng anh! 
Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:
- Đồng bàn, đồng bát, đồng bang
Hồn quê theo áng mây ngàn cố hương. 
Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn bình dân…
Sau bữa cơm đầm ấm tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille. 
Hà Nội – Chiếu Văn 8/12/2008 (12/11- Mậu Tý)  
* Trích thư của nhà văn Sơn Tùng gửi nhạc sĩ Phạm Tuyên

http://daidoanket.vn/tin-tuc/tinh-hoa-viet/chuyen-it-duoc-biet-toi-ve-quan-he-giua-nguyen-ai-quoc-voi-hoc-gia-pham-quynh-mot-moi-than-tinh-368816

































0. Tư liệu trên Blog Phạm Tôn








.

1). Năm 2009


Tháng Ba 30, 2009

Tư liệu của NV Sơn Tùng (Mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc và Phạm Quỳnh)-P1

Filed under: Ý kiến — phamquynh @ 2:42 chiều 


TƯ LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG



thu-son-tung-revisedTrang đầu và trang cuối (có con dấu và chữ ký của tác giả) tập bản thảo của nhà văn Sơn Tùng.


Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội – Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.


MẤY LỜI KÝ THÁC

nv-son-tungNhà văn Sơn Tùng trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Văn Nghệ, tháng 3/2009

Thân gửi: Nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí.
Thưa Anh,
Đời cầm bút của tôi: viết báo, viết văn, chí thành với đề tài lịch sử và danh nhân Bác Hồ.
Sống trước viết.
Từ sau Cách mạng tháng 8-1945 đến năm 1970, tôi dấn thân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước; xông pha khắp ba miền Bắc-Trung-Nam tìm tòi, tích lũy vốn sử liệu về các nhân vật lịch sử ,sự kiện, khảo sát, khảo chứng,… Năm 1971, tôi bị thương nặng trong trận giặc Mỹ đánh phá quyết liệt vùng hậu cứ miền Đông Nam Bộ. Sau gần một năm cáng thương qua Trường Sơn, tôi được về lại Thủ đô Hà Nội.

Pham Tuyen_Son Tung

Chiến tranh có kết thúc. Vết thương chiến tranh trên cơ thể chỉ khép lại khi người mang vết thương ấy tắt nghỉ! Gần 40 năm qua, vừa vật lộn với vết thương mỗi khi tái phát hành hạ, vừa moi cái vốn tích lũy được mà viết, viết cho vơi bớt nỗi đau! Cho đến ngày hôm nay, tôi mới viết được trên 20 đầu sách, đã xuất bản. Bản thảo còn đang viết tiếp, vốn có rồi mà chưa viết được bao nhiêu; một số bậc danh nhân trong đó có danh nhân văn hóa Thượng Chi – Phạm Quỳnh đã chuẩn định mà chưa thực hiện được. Giờ đây, tôi đã ngoài tám mươi, liệu còn làm xong được những chuẩn định? Vì vậy tôi thành tâm chép lại những điều tôi sưu tầm được về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh, xin trân trọng ký thác tới gia đình bậc danh nhân văn hóa Phạm Quỳnh.

MINH CHỨNG

I. Ghi theo lời Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh

CỤ VŨ ĐÌNH HUỲNH-số 5 – Hai Bà Trưng, Thủ đô Hà Nội. Cụ xuất thân trong gia đình Thiên Chúa giáo yêu nước. Là nhà trí thức yêu nước dấn thân trong các phong trào đấu tranh Cách mạng kiên cường bất khuất, bị tù qua Hỏa Lò, ngục Sơn La…Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào ngày 16,17/8/1945, cụ Nguyễn Lương Bằng đưa cụ Vũ Đình Huỳnh đến giới thiệu với Cụ Hồ ở nhà sàn làng Kim Lung tên mới là Tân Trào. Cụ Hồ “kết” ngay cụ Vũ Đình Huỳnh là tâm phúc. Tổng khởi nghĩa – Cách mạng tháng 8-1945 thành công, Cụ Hồ về Hà Nội tại “Đại bản doanh”48 Hàng Ngang ngày 25/8/1945; Cụ Hồ sở cầu ngay cụ Vũ Đình Huỳnh làm Bí thư cho Chủ tịch nước, từ việc “Cầu hiền”để lập chính phủ lâm thời; đặc phái viên của Hồ Chủ tịch đến Phát Diệm “thuyết khách” Giám mục Lê Hữu Từ và về Yên Mô (Ninh Bình) mời Linh mục Phạm Bá Trực, rồi đến Liên Bạt (Hà Đông) trao thư Hồ Chủ tịch vời cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, xuống Thái Bình chuyển giao nhiệm vụ cho đồng chí Ba Ngọ, cựu chính trị phạm ở Thái Bình – nay là phái viên của Hồ Chủ tịch mời cụ Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Thái Bình ra gánh vác việc nước. Cụ Vũ Đình Huỳnh làm Bí thư – tâm phúc của Bác Hồ cho tới cuối năm 1953…

Ho Chi Minh_Vu Dinh Huy

PHẦN 1: “BẤT TẤT NHIÊN”

Bác Hồ rời Tân Trào, Tuyên Quang, Việt Bắc ngày 22 tháng 8 năm 1945. Ngày 25/8/1945, Người về nhà 48 Hàng Ngang, Thủ đô Hà Nội, lúc thành phố lên đèn.
Ngày 26/8, Người triệu tập và điều hành phiên họp đầu tiên Thường vụ Trung ương Đảng tại đây. Quyết định lớn: Thiết lập chính thể Dân chủ Cộng hòa, các thành viên chính phủ lâm thời thật tiêu biểu của dân tộc, của nhân dân; phải có Tuyên ngôn Độc lập trước quốc dân đồng bào và thế giới với một cuộc mít tinh lớn hàng mấy chục vạn người ở Thủ đô Hà Nội. Chính phủ ra mắt nhân dân và cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể Dân chủ Cộng hòa.

ho-chi-minhHồ Chí Minh – Năm 1945
Ngày 28/8/1945, Hồ Chủ tịch đến làm việc tại Bắc Bộ phủ, 12 phố Ngô Quyền. Một phái đoàn Trung ương – ông Nguyễn Lương Bằng, ông Trần Huy Liệu, ông Cù Huy Cận đã vào Huế dự lễ vua Bảo Đại thoái vị. Hôm phái đoàn lên đường rồi, Hồ Chủ tịch mới về Hà Nội, như chợt nhớ Người nói với ông Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng – Tổng chỉ huy quân đội – Bộ trưởng Bộ Nội vụ; ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) – Thứ trưởng Bộ Nội vụ; ông Lê Giản- Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam, Vũ Đình Huỳnh: “Chú Bằng (Nguyễn Lương Bằng), chú Liệu (Trần Huy Liệu), chú Cận (Cù Huy Cận) vô Huế rồi mình mới về thì đã trễ, giờ chú Nam (Hoàng Hữu Nam) hoặc xem có ai thay được chú Nam vô Huế gặp Cụ Phạm Quỳnh, trao thư tôi mời Cụ…” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT).
Hai hôm sau, ông Hoàng Hữu Nam đến báo cáo với Hồ Chủ tịch: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt (Chúng tôi nhấn mạnh – PT)hai người con gái của ông ở Hà Nội, gặp tôi thổ lộ việc này”. Hồ Chủ tịch để điếu thuốc đang hút dở xuống gạt tàn, nói lửng: “Bất tất nhiên”!* (Chúng tôi nhấn mạnh – PT). Người hỏi ông Hoàng Hữu Nam:
– Hai chị ấy tên là gì?
Ông Hoàng Hữu Nam trình bày:
– Dạ…Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức, thưa Bác.
– Chú mời hai chị em cô ấy gặp tôi, chú Tư (Vũ Đình Huỳnh) sẽ sắp xếp ngày giờ gặp…
Ông Hoàng Hữu Nam tươi cười kể lại với Bác là chị Giá, chị Thức bày tỏ xin được gặp Cụ Hồ, nhưng chưa dám hứa chắc vào lúc nào…
Sau buổi làm việc này, ông Vũ Đình Huỳnh trao đổi với ông Hoàng Hữu Nam, Hồ Chủ tịch sẽ tiếp “thân nhân Cụ Phạm” vào cuối buổi sáng ngày 31/8/1945 tại phòng khách Bắc Bộ phủ.
Ngày 31/8/1945, buổi sáng Hồ Chủ tịch rà xét lần cuối bản thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ông Nguyễn Hữu Đang, Trưởng ban tổ chức ngày lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 và bốn người nữa đến báo cáo với Hồ Chủ tịch về công việc chuẩn bị cho ngày lễ…
Đến 10 giờ 30 phút, ông Hoàng Hữu Nam báo với ông Vũ Đình Huỳnh: “Đã mời thân nhân Cụ Phạm đến, đang ở phòng khách…”. Cụ Vũ Đình Huỳnh khi kể lại với tôi sự việc này, cụ nói trầm trầm như tâm sự: “Tôi nghe danh ông Phạm Quỳnh từ một bỉnh bút, chủ nhiệm, chủ bút báo Nam Phong và Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức. Có đôi lần nhìn thấy ông khăn xếp áo the, kính trắng đi từ trụ sở Nam Phong phố Hàng Da, qua Hàng Bông đến trụ sở Khai Trí Tiến Đức, phố Hàng Trống, bên hồ Hoàn Kiếm. Tôi có biết chị Phạm Thị Giá, vợ giáo sư Tôn Thất Bình dạy Pháp văn ở trường Thăng Long cùng với cụ Phó bảng Bùi Kỷ, dạy Hán văn; các giáo sư Hoàng Minh Giám dạy Pháp văn, giáo sư Đặng Thai Mai dạy Pháp văn, giáo sư Võ Nguyên Giáp dạy văn, sử, địa, giáo sư Vũ Đình Hòe dạy văn, giáo sư Nguyễn Xiển dạy toán, lý… Còn chị Phạm Thị Thức là vợ bác sĩ Đặng Vũ Hỷ, cùng quê Nam Định với tôi, lại còn thân thuộc nữa. Cho nên, cái phút giây tháp tùng Hồ Chủ tịch đến gặp chị Giá, chị Thức tôi bùi ngùi thấy hai chị rụt rè, sợ sệt, chỉ một thoáng, hai chị xúc động mạnh trước cử chỉ Hồ Chủ tịch cầm tay hai chị thân tình, an ủi và mời ngồi vào ghế đối diện với Người. Người nói:
– “Tôi ở chiến khu Việt Bắc mới về Hà Nội, nghe tin chẳng lành về Cụ nhà ở Huế…”. Hồ Chủ tịch ngừng giây lát, nói tiếp: “Trong lúc cuộc khởi nghĩa bùng nổ khó tránh được sự lầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi đang trên đường về Hà Nội (ngày 22/8/1945, Hồ Chủ tịch rời Tân Trào, Tuyên Quang). Chị Phạm Thị Giá trình bày sự việc cha bị bắt trong lúc đang làm việc tại nhà…Chị Phạm Thị Thức hai tay nâng phong thư lên Bác, Người nhận và chuyển sang tay cho tôi, dặn: “Chú chuyển sang Bộ Nội vụ”. Bác thân mật hỏi han hai chị em về tình hình gia đình ở trong Huế, ở Hà Nội…Người dặn: “Những việc hai cháu vừa đề đạt, hai cháu sẽ trực tiếp gặp ông Hoàng Hữu Nam, Bộ Nội vụ nhá…”.
Đồng chí Bảy (Luật sư Phan Mỹ) Đổng lý văn phòng vào thỉnh thị Chủ tịch… Người đưa tay cầm chặt bàn tay chị Giá, chị Thức: – “Hai chị em về nhá, tôi có việc khẩn…”
* Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội 1992) thì Bất tất nhiên có nghĩa là: “Không nhất định phải như thế, có thể ra cách khác được.”

Lời bình của Phạm Tôn: Việc hai người con gái đầu của Phạm Quỳnh xin và được Hồ Chủ tịch tiếp từ 11 giờ sáng ngày 31/8/1945 đã được chính người chị là cụ Phạm Thị Giá sau này thuật lại tỉ mỉ trong bài Phạm Quỳnh, Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, cơ quan của Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, số 140, tháng 8/2006, từ trang 99 đến trang 116, và bài Người nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 267, tháng 9/2006, từ trang 15 đến trang 20.

Điều này chứng tỏ đã là sự thật thì trước sau gì cũng được xác nhận từ các góc nhìn của những nhân chứng rất khác nhau. Thời đầu Cách mạng thật trong sáng. Chính quyền và nhân dân thật gần gũi. Người đứng đầu chính quyền Cách mạng lúc ấy dẫu bận trăm công nghìn việc, vẫn sẵn sàng, chân tình tiếp và lắng nghe tiếng nói của người dân, dù họ “thuộc diện có vấn đề”, không hề né tránh, để những bức xúc của người dân rơi vào “sự im lặng đáng sợ” như sau này.

https://phamquynh.wordpress.com/2009/03/30/t%C6%B0-li%E1%BB%87u-c%E1%BB%A7a-nha-van-s%C6%A1n-tung/
.




2). Năm 2009


Tháng Tư 5, 2009


Tư liệu nhà văn Sơn Tùng (Phạm Quỳnh dùng cơm cùng Nguyễn Ái Quốc)-P3


Filed under: Ý kiến — phamquynh @ 6:57 sáng 


II. Ghi theo lời cụ Đào Nhật Vinh

CỤ ĐÀO NHẬT VINH – 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1 Sài Gòn – nay là quận 1 Tp. Hồ Chí Minh.
Cụ Đào Nhật Vinh quê Trực Ninh, Nam Định. Năm 1913, Đào Nhật Vinh cùng làm việc trên tàu Viễn Dương với Văn Ba – Nguyễn Tất Thành từ Le Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Tây qua Âu-Á-Phi-Mỹ, tận Argentine tới Terre de Feu. Đào Nhật Vinh có vốn chữ nho, chưa biết chữ quốc ngữ; “Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ…

cu-dao-nhat-vinh3
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga – Xô Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình” – Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất về Sài Gòn.
Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi  (tức nhà văn Sơn Tùng-PT chú) vào Cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…để sưu tầm tư liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ




PHẦN 4: NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÍCH THÂN TỔ CHỨC “BỮA CƠM BẮC, THẾT KHÁCH BẮC”

Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại Marseille, có mang theo một cuốn nhật ký tùy thân nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong đó có ghi: “Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins). Còn trên tạp chí Nam Phong, khi đăng Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ông viết công khai: “Thứ năm 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói…Mai là ngày hội kỷ niệm dân quốc (tức ngày quốc khánh Pháp 14/7-PT chú)…Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nào.

nhat-ky-di-phap1Một trang nhật ký Phạm Quỳnh

—-o0o—-

Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: – Năm 1919 tôi rời đại dương, lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn Ái Quốc và thăm hai cụ “nghè ta” (Phan Châu Trinh) cụ “nghè Tây” (Phan Văn Trường) và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa ra “Tám yêu sách của người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versailles, anh em thợ thuyền, lính thợ và các giới khác đến 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng “Ngũ Hổ” – Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền.
Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923 “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận báo, đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3/1922 vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội Chợ Thuộc Địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’Humanité (Báo Nhân Đạo của Đảng Cộng Sản Pháp – PT chú) ,…Những bài gây xôn xao nhất: Les lamentations de Trưng Trắc (Lời than vãn của bà Trưng Trắc – PT chú), đăng trên tờ báo L’Humanité số 24/6/1922; Les civilisateurs (Những nhà khai hóa – PT chú) số 22/6/1922 và bài Hygiène mental (Phép vệ sinh tinh thần-PT chú); La haine des races (Hận thù chủng tộc – PT chú)…Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở Con Rông Tre, chưa in trên báo, mới công diễn một lần ở Club du Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô-PT chú) mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí sĩ Phan Châu Trinh nhục mạ vua Khải định bằng “Thư Thất Điều” chữ nho. Cụ Phan Văn Trường chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ.
Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh ông Nguyễn Ái Quốc “được”A. Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”…Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội Chợ Thuộc Địa” mở cửa từ đầu tháng 4/1922. Công việc chuẩn bị cho hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria.
Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội Chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn Long…cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng nhà vua như: quan tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh – Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật Báo, Đông Dương Tạp ChíNotre Journal, Notre Revue…Ông đã từng dự cuộc Đấu xảo Marseille 1906, ông Quỳnh quen biết cụ Phan Châu Trinh từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục 1907, cụ cử Can là hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu đóm của các cụ. Có một cuộc đàm đạo, ông Bạch Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là “bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn là thư ký “Hội Thân Ái” mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lập hội. Nhờ ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút ít lai lịch của các cụ.
Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm…(Chúng tôi nhấn mạnh – PT) Tôi và anh bạn quay trở lại…chiều hôm ấy tôi về nhà ông Tạ Văn Cần, gặp cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với tôi: thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “cụ nghè Đông Ngạc” nhé. Đến sơm sớm, đó…Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc là tiến sĩ luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa tự hỏi – Không biết vị khách quý nào đến mà cụ nghè Tây (Phan Văn Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Hơn 8 giờ thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa (Chúng tôi nhấn mạnh –PT) và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ, tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương Bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền – và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh khen: bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quan. Nhất là món lòng lợn, đặc biệt là món dồi.
Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù tương đắc. Tôi chợt nhớ đến câu ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:
Nhìn mặt mà đặt hình dong
Con lợn có béo, miếng lòng mới ngon
Đủ tim, gan, cổ hũ, ruột non…
Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòng
Cụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên nhìn tôi tươi cười và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu, rồi cụ Phan cũng nâng ly chúc mừng. Ông Phạm Quỳnh nghiêm trang nói:
– Anh Đào Nhật Vinh đã hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu, Phi, Mỹ mà hồn quê, quốc túy không phai mờ! Chúc mừng anh.
Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:
Đồng bàn, đồng bát, đồng bang
Hồn quê theo áng mây ngàn cố hương.
Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn bình dân!…”
Sau bữa cơm đầm ấm, tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille.
Hà Nội – Chiếu Văn
8-12-2008
12/11 Mậu Tý
(Chữ ký và con dấu của nhà văn Sơn Tùng)
Lời bình của Phạm Tôn: Sáng 20/3/2009, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Nghiên cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động ở nước ngoài từ năm 1911-1941. Trong 43 tham luận của các nhà nghiên cứu, cán bộ bảo tàng gửi đến, có tham luận của Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, nhan đề Những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động trên đất Pháp 1917-1923. Chúng tôi thiết nghĩ, những tư liêu của nhà văn Sơn Tùng như Nguyễn Ái Quốc đích thân tổ chức “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc” (thuật chuyện năm 1922 tại Marseille và Paris) và Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì… (thuật chuyện năm 1946 tại Fontainebleau), cả hai đều diễn ra trên đất Pháp, sẽ là những tư liệu bổ sung quý giá và hiếm có.

Advertisements



https://phamquynh.wordpress.com/2009/04/05/t%C6%B0-li%E1%BB%87u-s%C6%A1n-tung-ph%E1%BA%A7n-3/
.




3). Năm 2016

Tháng Mười 1, 2016


Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi Phạm Quỳnh


Filed under: Ý kiến — phamquynh @ 11:15 chiều 


TƯ LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG



VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH

thu-son-tung-revisedTrang đầu và trang cuối (có con dấu và chữ ký của tác giả) tập bản thảo của nhà văn Sơn Tùng.

Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội – Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Năm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc theo dõi phần 4 trong tập tư liệu có một không hai này.


—o0o—

Ghi theo lời cụ Đào Nhật Vinh

CỤ ĐÀO NHẬT VINH – 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1 Sài Gòn – nay là quận 1 Tp. Hồ Chí Minh.
Cụ Đào Nhật Vinh quê Trực Ninh, Nam Định. Năm 1913, Đào Nhật Vinh cùng làm việc trên tàu Viễn Dương với Văn Ba – Nguyễn Tất Thành từ Le Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Tây qua Âu-Á-Phi-Mỹ, tận Argentine tới Terre de Feu. Đào Nhật Vinh có vốn chữ nho, chưa biết chữ quốc ngữ; “Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ…
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga – Xô Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình”
– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất về Sài Gòn.
cu-dao-nhat-vinh3
Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi vào Cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…để sưu tầm tư liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ.

PHẦN 4: NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÍCH THÂN TỔ CHỨC “BỮA CƠM BẮC, THẾT KHÁCH BẮC”

Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại Marseille, có mang theo một cuốn nhật ký tùy thân nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong đó có ghi: 
Nhat ky tai Phap
Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins).” Còn trên tạp chí Nam Phong, khi đăng Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ông viết công khai: “Thứ năm 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói…Mai là ngày hội kỷ niệm dân quốc (tức ngày quốc khánh Pháp 14/7-PT chú)…Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nào”

—o0o—
Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: – Năm 1919 tôi rời đại dương, lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn Ái Quốc và thăm hai cụ “nghè ta” (Phan Châu Trinh) cụ “nghè Tây” (Phan Văn Trường) và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa ra “Tám yêu sách của người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versailles, anh em thợ thuyền, lính thợ và các giới khác đến 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng “Ngũ Hổ” – Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền.
Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923 “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận báo, đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3/1922 vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội Chợ Thuộc Địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’Humanité (Báo Nhân Đạo của Đảng Cộng Sản Pháp – PT chú) ,…Những bài gây xôn xao nhất: Les lamentations de Trưng Trắc (Lời than vãn của bà Trưng Trắc – PT chú), đăng trên tờ báo L’Humanité số 24/6/1922; Les civilisateurs (Những nhà khai hóa-PT chú)số 22/6/1922 và bài Hygiène mental (Vệ sinh tinh thần-PT chú); La haine des races (Hận thù chủng tộc – PT chú)…Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở Con Rông Tre, chưa in trên báo, mới công diễn một lần ở Club du Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô-PT chú) mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí sĩ Phan Châu Trinh nhục mạ vua Khải định bằng “Thư Thất Điều” chữ nho. Cụ Phan Văn Trường chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ.
Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh ông Nguyễn Ái Quốc “được”A. Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”…Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội Chợ Thuộc Địa” mở cửa từ đầu tháng 4/1922. Công việc chuẩn bị cho hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria.
Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội Chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn Long…cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng nhà vua như: quan tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh – Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật Báo, Đông Dương Tạp ChíNotre Journal, Notre Revue…Ông đã từng dự cuộc Đấu xảo Marseille 1906, ông Quỳnh quen biết cụ Phan Châu Trinh từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục 1907, cụ cử Can là hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu đóm của các cụ. Có một cuộc đàm đạo, ông Bạch Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là “bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn là thư ký “Hội Thân Ái” mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lập hội. Nhờ ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút ít lai lịch của các cụ.
Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm…(Chúng tôi nhấn mạnh – PT) Tôi và anh bạn quay trở lại…chiều hôm ấy tôi về nhà ông Tạ Văn Cần, gặp cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với tôi: thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “cụ nghè Đông Ngạc” nhé. Đến sơm sớm, đó…Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc là tiến sĩ luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa tự hỏi – Không biết vị khách quý nào đến mà cụ nghè Tây (Phan Văn Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Hơn 8 giờ thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa (Chúng tôi nhấn mạnh –PT) và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ, tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương Bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền – và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh khen: bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quan. Nhất là món lòng lợn, đặc biệt là món dồi.
Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù tương đắc. Tôi chợt nhớ đến câu ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:
Nhìn mặt mà đặt hình dong
Con lợn có béo, miếng lòng mới ngon
Đủ tim, gan, cổ hũ, ruột non…
Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòng
Cụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên nhìn tôi tươi cười và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu, rồi cụ Phan cũng nâng ly chúc mừng. Ông Phạm Quỳnh nghiêm trang nói:
–  Anh Đào Nhật Vinh đã hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu, Phi, Mỹ mà hồn quê, quốc túy không phai mờ! Chúc mừng anh.
Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:
Đồng bàn, đồng bát, đồng bang
Hồn quê theo áng mây ngàn cố hương.
Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn bình dân!…”
Sau bữa cơm đầm ấm, tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille.

Hà Nội – Chiếu Văn
8-12-2008
12/11 Mậu Tý
(Chữ ký và con dấu của nhà văn Sơn Tùng)

Lời bình của Phạm Tôn: Sáng 20/3/2009, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Nghiên cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động ở nước ngoài từ năm 1911-1941. Trong 43 tham luận của các nhà nghiên cứu, cán bộ bảo tàng gửi đến, có tham luận của Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, nhan đề Những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động trên đất Pháp 1917-1923. Chúng tôi thiết nghĩ, những tư liệu của nhà văn Sơn Tùng như Nguyễn Ái Quốc đích thân tổ chức “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc” (thuật chuyện năm 1922 tại Marseille và Paris) và Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì… (thuật chuyện năm 1946 tại Fontainebleau), cả hai đều diễn ra trên đất Pháp, sẽ là những tư liệu bổ sung quý giá và hiếm có.

Cụ  Đào Nhật Vinh vốn có giao tình lâu năm với cụ Lê Văn Nghiêm là nhạc phụ chúng tôi, nên ngày 2.9.1978 cụ đã dự lễ cưới chúng tôi và còn nói chuyên thân mật với mọi người có mặt hôm đó.

https://phamquynh.wordpress.com/2016/10/01/tu-lieu-cua-nha-van-son-tung-ve-moi-than-tinh-giua-nguyen-ai-quoc-ho-chi-minh-voi-thuong-chi-pham-quynh-2/


.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.