Sẽ viết một bài học thuật về chuyến du lãng Hà Nội (để lại một du kí bằng cả quốc ngữ và Pháp văn), và năng lực Nhật ngữ của cụ.
Từ đây trở xuống là một sưu tầm. Nhân sự kiện Trương Vĩnh Ký đầu năm 2017.
Cập nhật dần dần.
---
.
3. Bài của Lê Nguyễn (viết 2013, đưa lên Fb 2017)
* Nhân chuyện lùm xùm liên quan đến quyển sách về nhân vật Trương Vĩnh Ký vừa phát hành, vài bạn có yêu cầu tôi cho biết quan điểm về "công" và "tội" của cụ. Xin post lại một bài cũ của tôi về nhân vật này để các bạn tùy nghi nhận định.
Hầu hết người Việt Nam và nhất là giới nghiên cứu sử học đã quá quen thuộc với Pétrus Trương Vĩnh Ký, một học giả xuất chúng am hiểu nhiều ngoại ngữ và có công lớn trong việc vận dụng chữ quốc ngữ trong giai đoạn sơ khai vào đời sống cộng đồng. Hàng trăm tác phẩm do ông để lại - đã xuất bản cũng như chưa xuất bản - có giá trị rất lớn trong điều kiện một xã hội Việt còn lạc hậu và đang bị ngoại bang chi phối. Tuy nhiên, có một mảng không nhỏ trong cuộc đời ông ít được đề cập đến, hoặc đề cập không đầy đủ, rõ ràng, khiến cho việc tìm hiểu và nhận định về nhân vật đặc biệt này dễ rơi vào trạng thái khiếm khuyết, phiến diện. Đó là mối quan hệ của Trương Vĩnh Ký với triều đình Huế, và nhất là với thực dân Pháp vào nửa sau thế kỷ 19.
***
Nói đến khả năng về ngoại ngữ của Trương Vĩnh Ký, có thể viện dẫn sau đây mấy dòng hồi ký của một du khách người Anh là J. Thomson, trong tác phẩm nhan đề 10 năm du hành ở Trung Quốc và Đông Dương: “ Ông Petrousky (Petrus Ký-LN), một giáo dân Nam kỳ và là giáo sư dạy tiếng mẹ đẻ của ông tại Trường Thông ngôn Sài Gòn, là một ngoại lệ đáng lưu ý trong số những người bản xứ mà tôi vừa giới thiệu cùng bạn đọc. Ông từng theo học tại trường dòng Penang và tôi không bao giờ quên nỗi kinh ngạc khi được giới thiệu với ông. Ông nói chuyện với tôi bằng một thứ tiếng Anh rất vững, với một cách nhấn nhẹ nhàng của người Pháp, còn với tiếng Pháp, ông diễn tả không kém phần trong sáng và lịch sự. Tiếng Y Pha Nho, Bồ Đào Nha, Ý, ông cũng quen thuộc như những ngôn ngữ phương Đông; chính nhờ sự hiểu biết đặc biệt này mà ông đang nắm giữ một địa vị cao. Một ngày nọ đến thăm ông, tôi nhìn thấy ông đang thực hiện quyển Phân tích, đối chiếu các thứ tiếng chủ yếu trên thế giới, tác phẩm mà ông phải bỏ ra 10 năm lao động miệt mài. (Jean Bouchot – Un savant et un patriote cochinchinois – Petrus J.B. Trương-Vĩnh-Ký (1837-1898)- trang 43) . Nhờ sự uyên bác mà vào năm 1863, Trương Vĩnh Ký được tháp tùng phái bộ Phan Thanh Giản trong chuyến đi sứ sang Pháp (*) và quen biết với nhiều nhân vật nổi tiếng tại châu Âu lúc bấy giờ như Victor Hugo, Ernest Renan, Littré, Paul Bert…Trong những thập niên 1860-1870, ngoài tư cách người phụ trách tờ Gia Định báo (từ 16.9.1869), Trương Vĩnh Ký còn giữ nhiều trách vụ khác như: thông ngôn của Soái phủ Nam kỳ, giáo sư trường thông ngôn (Collège des Interprètes), giáo sư trường Tham biện hậu bổ (Collège des Stagiaires), được Pháp phong ngạch trật Huyện hạng nhất năm 1872. Trong thời gian cộng tác với Pháp, Trương Vĩnh Ký đã thực hiện hai cuộc Bắc hành, vào những năm 1876 và 1886. Chuyến thứ nhất được kể lại trong tập hồi ký bằng tiếng Việt, bìa in ba thứ tiếng: Pháp (Voyage au Tonkin en 1876), Việt (Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876)) và Hoa. Chuyến thứ hai đánh dấu bằng nhiều thư từ trao đổi giữa Trương Vĩnh Ký và một nhân vật quan trọng bậc nhất của Pháp lúc bấy giờ là Tổng Trú sứ Paul Bert.
Vấn đề đặt ra cho những người tìm hiểu các chuyến đi quan trọng này của nhà học giả là mục tiêu chính của chúng. Tại trang đầu tiên của tác phẩm Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi, người ta đọc thấy:”Năm Ất Hợi, bãi trường tham biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu; nên xin với quan trên (đây ám chỉ thực dân Pháp-LN), nhơn diệp (sic) chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm (sic) hòm rương áo quần. Rủ thầy ba Hớn với ông sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một người ở Sơn Tây mà vào trong Nam kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê quán….”
Như vậy theo tinh thần đoạn mở đầu, Trương Vĩnh Ký thực hiện chuyến Bắc hành lần thứ nhất nhằm “chơi một chuyến cho biết”, nói chung là một chuyến du hành “phi chính trị”. Đến miền Bắc, ông đi nhiều nơi, từ Hà Nội, Hải Phòng đến Hải Dương, Thanh Hóa…Ở đâu, ông cũng được tiếp đón một cách trọng thị. Các công sứ Pháp và các đại thần như Tổng đốc Hà Nội Trần Đình Túc, Tổng đốc Hải Dương Phạm Phú Thứ, Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn …đã dành cho ông những cuộc hội kiến thú vị.
Tuy nhiên, qua những gì diễn ra trong và sau chuyến đi, nhiều người tin rằng đó không phải là một chuyến du hành suông. Pétrus Ký được hưởng lương trong suốt thời gian 3 tháng du hành và khi về, ông đã lập một báo cáo chi tiết dài 8 trang đề ngày 28.4.1876 gửi Thống Đốc Nam kỳ Duperré (về Pháp từ tháng 2 đến tháng 7.1876) thông qua viên Tham mưu trưởng Regnault de Premesnil. Báo cáo mở đầu bằng câu: “Tôi hân hạnh gửi đến ông bản báo cáo mà ông đã yêu cầu ở tôi về tình hình chính trị Bắc kỳ, nơi tôi vừa đến thăm..” (Jean Bouchot-Sđd-trang 34). Sau đó, Trương Vĩnh Ký trình bày một cách thật chi tiết hành trình của ông trong ba tháng ở miền Bắc, những nơi ông đã đến, những người ông đã gặp, trong đó có đoạn viết:”Các quan lại thường hỏi tôi xem nước Pháp có ý định xâm chiếm xứ sở này không. Tôi đã trả lời rằng không và tôi đã dựa điều tôi nói vào thỏa ước hòa bình và thương mại, vào những lợi ích mà họ (người Pháp-LN) đảm bảo cho An Nam….” (Jean Bouchot-Sđd – trang 39). Nhiều chi tiết khác nữa cho thấy báo cáo ngày 28.4.1876 không phải là câu chuyện kể của một du khách độc lập, mà là bản tường trình của một viên chức chính quyền cho cấp trên về một số vấn đề chính trị. Điều này được chính Jean Bouchot thừa nhận trong tác phẩm dẫn trên, nhất là khi ông liệt kê những gì liên quan đến một Trương Vĩnh Ký có mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước thuộc địa:năm 1872 được phong Huyện hạng nhất với mức lương 2.400 franc/năm, phụ trách các lớp dạy ngôn ngữ Đông phương với mức lương 9.000 franc, được bổ nhiệm làm thành viên Ủy ban tối cao giáo dục….
**
Chuyến Bắc hành lần thứ hai của Trương Vĩnh Ký có liên quan đến một nhân vật cao cấp của chính quyền thực dân mà ông đã gặp trong chuyến tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản năm 1863. Đó là Paul Bert, người từng giữ chức vụ Bộ trưởng trong chính phủ Pháp. Ngày 27.1.1886, Tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh thành lập chế độ bảo hộ ở Trung và Bắc kỳ, và bốn ngày sau, đề cử Paul Bert làm Tổng Trú sứ (Résident général) hai miền này. Nhân vật này sinh ngày 17.10 1838 tại Auxerre (Pháp), là nhà sinh vật học, môn sinh nhà bác học Claude Bernard, đến năm 1868, đã thay chân Bernard tại Collège de France. Vào thời đó, Paul Bert đã là tác giả các công trình nghiên cứu về ghép cơ thể loài vật, về thuốc mê…Sau năm 1870, trong lúc vẫn tiếp tục việc nghiên cứu khoa học, ông ta bước vào chính trường, làm đại biểu Quốc Hội năm 1872, Bộ trưởng giáo dục những năm 1881-1882 .
Paul Bert đến Sài Gòn vào tháng 2 năm 1886, và người Việt Nam đầu tiên mà ông ta nghĩ đến là Trương Vĩnh Ký. Việc trao đổi thư từ bắt đầu diễn ra, Paul Bert đến thăm gia đình nhà học giả Việt Nam. Ngày 8.4.1886, ông ta trở ra miền Bắc, thực sự nhận nhiệm vụ Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ. Tuy khoảng thời gian ở Việt Nam thật ngắn ngủi, nhưng Paul Bert đã miệt mài làm việc, thực hiện được nhiều điều trong cương vị đầy khó khăn của mình. Ông ta thành lập các tòa công sứ, một hệ thống tổ chức mới mẻ, giúp củng cố chế độ cai trị ở cấp tỉnh, thành. Vốn là nhà khoa học, trong tổ chức hoạt động của các tòa công sứ, ông ta rất chú trọng đến vấn đề vệ sinh. Nhờ một hệ thống thuế quan khéo léo, ông ta du nhập vào Bắc kỳ nhiều sản phẩm từ chính quốc (Pháp) mà không làm rối loạn thói quen sử dụng hàng châu Á của người bản xứ. Các mỏ than, đường sắt, việc vận tải đường sông nhờ có Paul Bert mà trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Ông ta đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục, đích thân giám sát các kỳ thi… Đối với triều đình Huế, Paul Bert áp dụng chế độ bảo hộ thực sự, để cho triều đình có một sự tự do rộng rải để hoạt động, từ chối việc đặt một viên đại diện chính phủ Pháp tại Viện Cơ mật. Ngày 10.6.1886, thể theo yêu cầu của ông ta, vua Đồng Khánh phải chia sẻ quyền hành cho một viên kinh lược tại Bắc kỳ. Người đầu tiên đảm trách chức vụ này là Nguyễn Hữu Độ. Để đảm bảo hơn nữa sự hữu hiệu trong chính sách của mình, Paul Bert muốn đặt hẳn một người Việt Nam thân cận với ông ta tại triều đình Huế. Người này sẽ theo sát mọi hoạt động của nhà vua, giúp đỡ nhà vua, theo cách mà chính quyền thực dân muốn.
Cần xác định rõ là vào thời kỳ Paul Bert đến Việt Nam (đầu năm 1886), trong bộ máy cai trị của Pháp, có hai chức danh không thống thuộc nhau, cho dù không ngang nhau về mặt hệ cấp. Đó là chức danh Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) và chức danh Tổng trú sứ Trung và Bắc kỳ, hay còn gọi là Toàn quyền Lưỡng kỳ (Résident général du Tonkin et de l'Annam). Viên Tổng trú sứ chịu trách nhiệm việc cai trị Trung và Bắc kỳ, còn viên Thống đốc chịu trách nhiệm riêng thuộc địa Nam kỳ. Chỉ đến ngày 16.11.1887, sau khi Constans đến Việt Nam nhậm chức Toàn quyền Đông dương đầu tiên thì sự chỉ huy thống nhất ba miền Nam-Trung-Bắc mới thực sự nằm trong tay viên Toàn quyền. Chính vì thế, trong thời gian còn ở Sài Gòn, chờ ra Bắc nhậm chức Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ (dưới đây gọi tắt là Tổng trú sứ), Paul Bert phải đạt được sự thỏa thuận của Soái phủ Nam kỳ trong việc tạm sử dụng Trương Vĩnh Ký cho kế hoạch mà ông ta đã vạch ra. Điều này gần như chỉ có tính hình thức, bởi vì quyền lợi của bọn thực dân thì ở đâu cũng vậy, miễn là có lợi cho họ. Ngày 22.3.1886, Paul Bert gửi cho Trương Vĩnh Ký một lá thư nêu rõ hai việc: nhờ họ Trương lập danh sách những người có khả năng thông dịch tốt để sau này bố trí cạnh các tòa trú sứ của ông ta; mời vợ con ông Ký cùng đi với ông Ký (và Paul Bert) ra Huế. Năm ngày sau (27.3), họ Trương phúc đáp cho Paul Bert, nêu rõ việc đã lập xong danh sách thông ngôn và nêu lý do vợ con không thể tháp tùng ông được (Jean Bouchot-Pétrus J.B.Trương-Vỉnh-Ký (1837-1698) Editions Nguyễn Văn Của-Saigon-1927-trang 54-56). Trong thư trên, Trương Vĩnh Ký có viết câu:”…tôi sẵn lòng đi với Ngài cùng vài thân hữu đáng tin cậy, trong một sứ mạng tạm thời để rồi sau đó, âm thầm quay lại nghề Nho, như ông Cincinnatus đã quay lại với cái cày của ông ta vậy…” (Sđd-trang 56).
Những ngày đầu tháng 4 năm 1886, Paul Bert và Trương Vĩnh Ký đã có mặt ở Huế. Chính sử triều Nguyễn viết về sự kiện này như sau:”Đại thần nước Đại Pháp là Bôn Be sang làm toàn quyền đại thần. Viện Cơ mật tâu nói: Tục các nước phương Đông, phương Tây, phần nhiều vụ lấy danh tiếng; cho nên các bậc sĩ phu học rộng, đi đến nước nào, phàm được dự tuyển vào địa vị thanh cao trọng yếu, thì lấy làm vẻ vang….Vua bèn chuẩn cho tôn toàn quyền đại thần Bôn Be làm Hàn lâm viện trực học sĩ, và ẩn sĩ trong Nam là Trương Vĩnh Ký (người Gia Định đi theo Toàn quyền đến) làm Hàn lâm viện thị giảng học sĩ…”(Đai Nam thực lục chính biên-tập XXXVII-NXB Khoa học xã hội-Hà Nội-1977-trang 147-148).
Xét về mặt phẩm cấp, chức danh Trực học sĩ của Paul Bert cũng chỉ vào hàng chánh tam phẩm, trong khi theo qui định, chỉ riêng viên Khâm sứ Huế (địa vị nhỏ hơn Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ) đã xếp ngang Thượng thư, trật Chánh nhị phẩm rồi. Còn chức danh của Trương Vĩnh Ký cũng chỉ ở vào hàng tòng tứ phẩm. Sau khi để Trương Vĩnh Ký ở lại Huế, Paul Bert ra Bắc và chính thức nhậm chức vào ngày 12.4.1886. Điều mà chúng ta cần tìm hiểu là nhà học giả họ Trương đã nhận những nhiệm vụ gì của Paul Bert trong thời gian ở Huế. Trước tiên có thể khẳng định rằng cho dù chỉ là một quan lại hạng trung, nhưng với tư cách một người thừa ủy nhiệm của Tổng trú sứ Pháp, Trương Vĩnh Ký được vua Đồng Khánh đối xử hậu hơn nhiều so với những bạn đồng liêu cùng cấp. Trong thời gian ở Huế, vị học giả Việt vẫn thường xuyên trao đổi thư từ với Paul Bert. Nội dung bức thư đề ngày 17.6.1886 của Trương Vĩnh Ký hé lộ đôi điều về những việc Paul Bert muốn ông thực hiện. Thư có đoạn viết:” Hiện nay tôi đã đỡ (bệnh) rồi, tôi ở lại đây; tôi sẽ nghiên cứu người và việc, làm thế nào để khi nhà vua trở về, chúng ta có thể bước vào giai đoạn tổ chức và thực hiện những chuyển đổi cần thiết, với một nhân sự xứng tầm với nhiệm vụ. Tôi sẽ loại bỏ tất cả những kẻ được sủng ái và sẽ giúp nhà vua, sắp xếp Viện Cơ mật với những người thực sự có năng lực….
Tái bút: Nhà vua đã đi sáng nay. Các ông Touté và Halais đến trễ vài giờ, sẽ cùng với ông Pène đi gặp nhà vua vào tối nay, lúc trăng lên….” (Jean Bouchot-Sđd-trang 61-62).
Rõ ràng là một trong những việc quan trọng mà Paul Bert muốn Trương Vĩnh Ký giúp ông ta thực hiện là cải tổ sâu rộng thành phần nhân sự của triều đình Huế. Việc này thành hay bại và ảnh hưởng ra sao, sẽ đề cập đến ở phần cuối bài này. Tuy nhiên, qua nội dung bức thư có thể thấy là vua Đồng Khánh đã rời kinh đô đi Quảng Bình ngày 17.6.1886, đúng vào ngày 16 tháng 5 âm lịch như bộ Quốc triều chánh biên đã ghi (Sđd-trang 422) để kêu gọi vua Hàm Nghi quay về và các tổ chức nghĩa quân giải thể. Điều cũng khá rõ là trong lúc nhà vua xuất hành thì Trương Vĩnh Ký ở lại triều nội. Ngày 29.6.1886, Paul Bert viết cho Trương Vĩnh Ký một lá thư thật dài kể lể về chuyện đạo Thiên chúa tại Việt Nam, đồng thời cũng dành một đoạn để biện minh cho chủ nghĩa thực dân và trong phần cuối, đã nhờ vị học giả “phủ dụ” giới nho sĩ Cần vương đừng chống lại “nhà nước Đại Pháp”:”Để tóm tắt lá thư thật dài này, tôi muốn nhờ ông làm cho những bằng hữu theo Nho học, những nho sĩ tài năng của Việt Nam biết rằng trong việc thi hành hòa ước, họ không phải sợ mất đi phẩm cách, tự do, quyền lợi. Thay vì chạy vào rừng kích động những nông dân nghèo tự giết nhau và phá hoại, họ nên hợp tác với tôi vì sự thịnh vượng của xứ sở họ”. (J. Bouchot Sđd-trang 67). Như vậy, Paul Bert cũng muốn Trương Vĩnh Ký phủ dụ các nhân sĩ yêu nước đang theo phong trào Cần vương kháng Pháp. Ngày hôm sau, 30.6.1886, ông ta lại gửi tiếp cụ Trương một lá thư ngắn nêu rõ:”Tôi buộc lòng phải nhờ ông đặc biệt chăm sóc việc học cho Ngự đệ (không rõ là ai –LN). Tuyệt đối phải dạy ông ta học chữ Pháp. À, phải chi ông có thể khuyên nhà vua cũng làm như thế (học tiếng Pháp – LN). Liệu ông có thể nói trực tiếp với Ngài được không…” (J. Bouchot-Sđd-trang 67).
Như vậy, có thể tóm lược sứ mạng được Paul Bert giao cho Trương Vĩnh Ký có ít nhất ba điểm quan trọng:
- Cải tổ bộ máy nhân sự của triều đình Huế, có lẽ theo thâm ý của Paul Bert là đưa những kẻ chủ hòa lên thay những quan lại “chủ chiến”.
- Chiêu dụ giới nhân sĩ đang hoạt động trong phong trào Cần vương.
- Dạy cho vua Đồng Khánh và em trai học chữ Pháp.
Trong lúc tại Huế, Trương Vĩnh Ký thu phục được cảm tình của vua Đồng Khánh thì ở Hà Nội, Paul Bert cũng cải tổ sâu rộng bộ máy thuộc địa, đặt ở mỗi tỉnh một tòa trú sứ. Sự làm việc năng nổ tác hại lên sức khỏe ông ta. Trong một chuyến đi vượt đèo Hải Vân cùng với viên Chánh văn phòng là Klobukowski (sau này làm Toàn quyền Đông Dương –1908-1910) và vài người khác nữa, ông ta đã bắt đầu mang mầm bệnh sốt rét. Trở về Hà Nội, ông ta vẫn lao vào công việc: đi thăm chùa Quảng Đông, nhận lời mời của quan Kinh lược, cùng nhiều việc khác nữa. Bác sĩ Grall (sau này được lấy tên đặt cho một bệnh viện ở Sài Gòn, nay là bệnh viện Nhi đồng 2) nhiều lần khuyên ông ta phải giữ gìn sưc khỏe, nhưng xem ra lời khuyên này không có mấy tác dụng. Hai ngày sau khi đến nhà Kinh lược sứ Nguyễn Hữu Độ, Paul Bert lại đi Kẻ Sở, sau đó về Nam Định, chủ trì kỳ thi Hương. Lần này bệnh trở nặng khiến ông ta phải tức tốc quay lại Hà Nội, ra lệnh cho Klobukowski gửi điện tín về Pháp, yêu cầu Bộ thuộc địa cử người kế nhiệm.
Ngày 11.11.1886, Paul Bert thở hơi cuối cùng, có người thân đứng vây quanh. Ông ta chỉ làm Tổng Trú sứ hơn 6 tháng, nhưng những gì ông ta làm được đã khiến cho nhiều người nhớ tới. Tên ông ta được dùng đặt cho nhiều con đường ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn…
Trước ngày Paul Bert tạ thế, Trương Vĩnh Ký đang nghỉ phép tại Sài Gòn, ngày 4.11.1886 còn gửi cho viên Tổng Trú sứ một lá thư. Trước đó khá lâu, ngày 27.9.1886, ông gửi cho vua Đồng Khánh một thư bày tỏ tình cảm và không quên nhắc nhà vua “học chữ Đại Pháp”…Tiếng là về Sài Gòn để lo việc gia đình và dưỡng bệnh, kỳ thực thông qua thư từ, Trương Vĩnh Ký để lộ tâm trạng bất an trước thái độ của người chung quanh khi ông còn ở cạnh vua Đồng Khánh. Điều này được Khổng Xuân Thu, tác giả quyển Trương Vĩnh Ký 1837-1898 (NXB Tân Việt – Sài Gòn –1958) phát hiện khi sưu tầm tư liệu tại Tổng thư viện Pháp, trong đó có tài liệu của bác sĩ Léon Gautier, bạn thân của văn hào Victor Hugo, viết về Trương Vĩnh Ký. Tài liệu này có đoạn đáng chú ý sau:”Những năm về sau, tiên sinh trao đổi thư từ với các nhà văn hóa Pháp càng thưa thớt dần, và chỉ toàn những lời bi quan, yếm thế, hay nói cho đúng hơn, chỉ là những lời thanh minh, bày tỏ ẩn khuất, bất mãn của mình mà thôi. Theo như dư luận của các nhà cầm quyền cho hay thì trong giai đoạn sau này, Trương tiên sinh gặp nhiều trở ngại về đường chính trị của mình. Có nhiều người dèm pha, muốn tranh giành địa vị của tiên sinh (khi được sung vào Cơ Mật vụ giúp cho nhà vua An Nam – đây có ý nói vua Đồng Khánh đã hết sức sức tin dùng Trương Vĩnh Ký). Hoặc giả cũng có kẻ cho rằng Trương tiên sinh không trung thành với nước nhà….” (Khổng Xuân Thu – Sđd-trang 139).
Quả thật, có thể mấy tháng cộng tác với Paul Bert và hiện diện ở Huế đã gây ra trong lòng vị học giả một cú sốc. Vì thế, cho dù vua Đồng Khánh hết mực ưu ái, ban cho ông một bức thư dài (sau được con ông là Trương Vĩnh Tống dịch ra thành 234 câu thơ), sau khi Paul Bert qua đời, ông cố tình ở lại Sài Gòn, không ra Huế nữa, tiếp tục nghề dạy học cũ. Theo Bouchot, từ năm 1890, Trương Vĩnh Ký gần như nghỉ hẳn công việc chính quyền, chuyên tâm nghiên cứu, viết sách, ông dịch quyển tự điển Littré, tác giả là một người quen biết cũ, đến chữ cheval thì qua đời (1.9.1898). Bài Tuyệt mệnh thi của ông nói lên nỗi trăn trở của nhà học giả trong những năm cuối đời, sau những đóng góp to lớn cho nền học quốc ngữ, đồng thời trong mối quan hệ với thực dân Pháp, tiêu biểu là trường hợp Paul Bert kể trên. Đọc hai câu cuối trong bài thơ tuyệt mệnh của tiên sinh, lòng người đọc không khỏi ngậm ngùi:
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai
*****************
-Chú thích: (*) Xin nhấn mạnh là Trương Vĩnh Ký (cùng Tôn Thọ Tường) đi Pháp với tư cách một viên chức trong bộ máy thuộc địa của Pháp tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản chứ không phải là nhân viên cơ hữu của sứ bộ như nhiều tác giả đã lầm tưởng.
LÊ NGUYỄN
24.11.2013
https://www.facebook.com/lenguyenpd/posts/1160254834072491
2. Bài của Hồng Lê Thọ (tức Người Lót Gạch vắng bóng đã lâu), lên mạng năm 2008
Trước khi qua đời, Pétrus Ký đã để lại những dòng thơ tự sự đầy cảm khái:
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Hồng Lê Thọ
2. Bài của Hồng Lê Thọ (tức Người Lót Gạch vắng bóng đã lâu), lên mạng năm 2008
Vietsciences- Hồng Lê Thọ 01/09/2008 |
MỘT TRÍ THỨC BUỒN
Trước khi qua đời, Pétrus Ký đã để lại những dòng thơ tự sự đầy cảm khái:
“Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gởi tên: con mọt sách,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến mau chơn bước,
Bò xối, côn trùng chắt lưỡi hoài.
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.”
MISEREMINI MEI SATEM VOS AMICIC MEI
(Xin hãy thương tôi, ít ra những bạn hữu của tôi)
Rằng tuy ăn ở cùng Tần
Bâng khuâng nhớ Hán muôn phần xót xa
(Trương Vĩnh Ký)
Bâng khuâng nhớ Hán muôn phần xót xa
(Trương Vĩnh Ký)
Sĩ phu yêu nước hay “nàng Kiều” tây học ?
Vốn kiến thức uyên bác qua trên 118 tác phẩm để lại, tuy không phải là kiệt tác hay công trình học thuật độc đáo mà chủ yếu là những khảo sát, đúc kết lịch sử một cách có hệ thống mặc dù về hành văn còn pha trộn biền ngẫu, nhưng về nhiều phương diện, các trước tác của Trương Vĩnh Ký là đóng góp không thể xem thường: lần đầu tiên một tác phẩm sử học về Việt Nam viết bằng tiếng Pháp (Petit Cours d’histoire d’Anam xuất bản 1875/1877) và hai công trình sử học khác viết bằng tiếng Việt là Truyện đất Nam Kỳ lịch sử đàng trong (1864), Đại nam Việt quốc triều sử ký (1879) đều dựa theo những nguồn thư tịch và truyền thuyết cổ, được biên soạn theo phương pháp mới vào thời đó; hàng loạt tác phầm cổ điển của dân tộc bằng chữ Nôm được phiên âm sang quốc ngữ như Truyện Kiều (1875), Lục Vân Tiên, Phan Trần, Lục súc tranh công…nhiều bộ sách dịch Tứ thư, Ngũ Kinh của Trung Quốc…vào buổi bình minh của nền văn chương quốc ngữ ở nửa thế kỷ thứ 19, xứng đáng nâng tác giả lên tầm cỡ “một nhà bác học, một thủy tổ nghề làm báo, một nhà ngôn ngữ học” như nhiều người ca ngợi(1) . Được tiếp xúc với văn hóa phương tây, thông qua việc học trường đào tạo Thầy tu của các Giáo sĩ thừa sai công giáo, phương pháp tư duy của Trương Vĩnh Ký đã chịu ảnh hưởng rất lớn tư tưởng Khai sáng của Âu tây, khác với tư tưởng Khổng Mạnh của hầu hết nhân sĩ nước Việt thời bấy giờ. Chính nguồn gốc xuất thân đặc biệt của ông và cái vốn tây học phong phú nầy đã quyết định thân phận của một người trí thức thuộc địa, day dứt Trương Vĩnh Ký cho đến ngày tàn hơi mà chúng ta đã thấy ở lời thơ trên. Người mà sự nghiệp chính trị (nếu có) và sự nghiệp văn học luôn đứng giữa làn ranh, đôi bờ của những phê phán, khen-chê gay gắt, không tiếc lời từ trăm năm nay kể từ khi Ông qua đời (1/9/1898) đến ngày nay, khi mà tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ hoàn chỉnh, bác học(2) trong đó có phần đóng góp không nhỏ của những trí thức “tây học” như Huỳnh Tịnh Của, Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký …vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Lê Đình Bảng đã ghi lại những ý kiến khá ấn tượng về Trương Vĩnh Ký, rằng “bên cạnh những hào quang mà người đọc đã tâm phục, đã tôn vinh ông là nhà bác học, nhà văn hóa, nhà ngôn ngữ, nhà Đông phương học, nhà chính trị, nhà ngoại giao…thì trong chừng mực nào đó, Trương Vĩnh Ký lại là “kẻ đưa chân đạp mũi nhọn”, là “cái bia cho người ta vấp phạm” chẳng những bị xóa sổ như người-không-có-công-lênh-gì, mà Trương Vĩnh Ký còn bị lên án, kết tội là một “tên cơ hội, hoạt đầu chính trị, đứa con hoang Nam kỳ gốc La mã; tên học trò ngoan đạo, tay sai, đặc vụ tình báo phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa thực dân…”(3) với cái lẽ đơn giản là khi Pháp chiếm Gia Định(1859), “tại sao Trương Vĩnh Ký, một thức giả, một sĩ phu lại khoanh tay đóng vai bàng quan mà không tham gia cứu quốc, mà lại còn trùm chăn, tích cực hoạt động giúp quân địch ? Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn, có khác gì tình báo, chỉ điểm, bày mưu lập kế để giặc chóng đạt mưu đồ xâm lược”(4) . Những ghi chép của Ông trong chuyến đi thăm ở Bắc Kỳ(1876) có phải là bản báo cáo do thám “tiền trạm” cho quân Pháp tiến quân chiếm đóng sau này như từng bị kết tội ?
Nhận xét của Trương Vĩnh Ký về vai trò của chữ quốc ngữ, rằng việc la-tinh hóa tiếng Việt sẽ giúp cho “xứ sở nghèo khốn không được thừa kế nầy…bước vào cộng đồng các dân tộc và hệ quả to lớn mà phương tây đem lại cho thế giới”(5) có khác gì những phát biểu cùng thời và tương tự của Fukuzawa Yukichi trong “Thoát á luận” thời Minh Trị duy tân mở đường phát triển của nước Nhật vào hậu bán thế kỷ thứ 19, chỉ tiếc rằng, khác với Fukuzawa, Ông đã không gặp được một đấng minh quân và hàng quan lại thức thời của triều đình(6), biết lắng nghe gợi ý tâm huyết của quần thần như Minh Trị Thiên hoàng để phò tá … Còn nhiều lời lẽ phê phán gay gắt của nhiều nhà “sử học” viết về Trương Vĩnh Ký như Tô Minh Trung, Trần Huy Liệu(7)… vào những năm 1960 của thế kỷ trước, hay Nguyễn Đắc Xuân, Võ Xuân Đàn… sau nầy theo quan điểm mác-xít máy móc, có chung một lối nhận định, rằng ông là “con đẻ về mặt ý thức của bọn gián điệp đội lốt thầy tu…của chủ nghĩa thực dân xâm lược Pháp…” tuy nhiên theo chúng tôi, đây là một sự áp đặt phi biện chứng, thể hiện một quan điểm hẹp hòi trong phê phán, không đặt đối tượng vào bối cảnh lịch sử và tình huống mà họ đã sống và gặp phải, nghiên cứu theo lối một chiều, quên rằng Chủ nghĩa Mác-Lê Nin được du nhập vào nước ta sau đó gần hơn ba thập niên, kể từ khi đảng Cộng sản Đông Dương ra đời. Nếu áp dụng phương pháp luận nầy, ai không chống Pháp, ở trong “thành” làm việc cho Pháp đều là tay sai của chúng cả sao? Nói khác đi lối chụp mũ “cá mè một lứa” như vậy sẽ không giúp ích gì cho việc tìm hiểu sự phong phú và đa dạng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, nhất là công cuộc đấu tranh chống Pháp và kháng Mỹ kéo dài hơn một thế kỷ trong đó có những phong trào đấu tranh dưới nhiều dạng thức của nhân dân thành thị sau nầy, một tư duy bao biện máy móc “ai không theo ta là địch” theo kiểu “người làm việc cho Tây, Mỹ đều là kẻ phản động” của chủ nghĩa lý lịch “cách mạng” hẹp hòi. Điều giúp chúng ta phủ nhận sự đánh giá đó, lý giải được tại sao khi toàn dân đứng lên vác tầm vông vạc nhọn chống xâm lăng vào năm 1945, tất cả tượng đồng tưởng niệm thực dân trong thành phố bị triệt hạ thì riêng tên trường học và tượng đài của Trương Vĩnh Ký vẫn còn nguyên vẹn(8), phản ánh tình cảm của nhân dân kính trọng Ông đến thế nào.
Rồi 100 năm sau…nhìn lại
Trở lại với Trương Vĩnh Ký từ thời tấm bé, mồ côi Cha (là một lãnh binh) , mẹ là tín đồ Thiên chúa giáo, vì vậy bị xem là “tội đồ” khi nhà Nguyễn công khai “cấm đạo” buộc Cha ông trốn sang Cao miên và mất ở đây. Có thể nói đây là chính là “thân phận” hay “định mệnh” khắc nghiệt bám đuổi suốt cuộc đời Ông, một mâu thuẫn giữa hiện thực và đạo lý, giữa “ân “ và “oán” luôn dằn vặt và thể hiện rất rõ trong chọn lựa tiến thân của một chàng thanh niên ngoan đạo trước sự đàn áp của một triều đại phong kiến đang suy tàn. Trương Vĩnh Ký được theo các giáo sĩ tây phương ăn học trong một bối cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, lúc người Pháp mang chiến thuyền và quân đội sang uy hiếp vua quan Nhà Nguyễn, buộc phải mở cửa giao thương, chấm dứt việc đàn áp người theo Đạo ( Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã áp dụng chính sách cứng rắn đối với giáo dân, cấm giao thương với Âu Mỹ, 6 lần ra chiếu cấm đạo từ năm 1848-1861, không cho người công giáo ra làm quan và xử thắt cổ nếu không bỏ đạo theo Chỉ dụ số 13 năm 1860)…đến khi quân Pháp chiếm đóng lục tỉnh ở Nam kỳ, dựa vào hòa ước Nhâm Tuất (1862) sau đó, đặt nền móng thống trị thực dân lâu dài. Thời kỳ mâu thuẩn địch-ta (Pháp và dân tộc Việt) căng thẳng, đối kháng một mất một còn… trên 300 cuộc nổi dậy lớn nhỏ ở khắp nơi (9) chống chế độ cai trị hà khắc, bóc lột đến tận xương tủy của bọn thực dân lẫn vua quan phong kiến đã phản ánh sự hờn căm và uất hận của nhân dân thời bấy giờ, đặc biệt là các phong trào “Bình Tây sát tả”, chống giáo dân quyết liệt hơn cả chống Tây gây ra vấn đề mâu thuẫn lương giáo diễn ra rất gay gắt(10). Chính sự hèn hạ bất lực, không thức thời trước trào lưu của thế giới của vua quan thời nhà Nguyễn, đặc biệt là hoạt động của thương nhân và giáo sĩ phương tây triển khai rầm rộ, lập hệ thống thuộc địa và thống trị thực dân khắp nơi từ thế kỷ 16-17…thì Pétrus Ký, người theo đạo công giáo, đã trở thành một đối tượng luôn bị hoài nghi, tội lỗi—là tay sai của bọn thực dân hay nhà trí thức muốn hòa hoãn, mong Việt nam sống chung trong sự bảo hộ của chúng(11)---mà cả đời Pétrus Ký vẫn không biện minh nổi . Nếu chỉ dựa vào những ghi chép “ báo cáo” thành tích của vài nhân vật thuộc kẻ địch (như đề đốc De la Grandière) trong đó nhắc đến vai trò “hữu dụng” của Trương hay lá thư Ông gửi cho Trung tá Hải quân Jauréguiberry(12) , cầu cứu “ngoại viện” trước việc bị kết tội “theo giặc” để qui chụp Ông đã câu kết với thực dân để đồng hóa dân tộc trong hệ thống cai trị (chính trị lẫn văn hóa) của Pháp liệu có thỏa đáng không ? Lúc triều đình nhà Nguyễn (vua Tự Đức) cử Phan Thanh Giản sang Pháp(1863) để đàm phán “chuộc” lại ba tỉnh miền đông không thành, cho rằng Ông đã bị mua chuộc hay lung lạc thậm chí qui chụp là “tình báo” chỉ vì là thông ngôn cho phía Pháp !(13) . Thời gian Trương Vĩnh Ký làm việc cho vua Đồng Khánh ở Huế, người “tốt” với Trương như Paul Bert(a), luôn phụ họa với những suy nghĩ của Ông trong mấy tháng đầu nhưng Trương vẫn bị bọn “xấu” như Paulin Vial--- là giám đốc Nội vụ, cấp trên của Trương Vĩnh Ký ở Nam-kỳ(14)--- không ưa, luôn tìm cách đố kị dèm pha, nghi ngờ , chống đối ra mặt(b). Há Ông đã nhiều lần nói “ ta làm việc cho họ nhưng không theo họ” và thực tế đã chứng minh điều đó khi nhận chức vụ Đốc Học(Hiệu trưởng) Trường Thông ngôn(Collège des Interprêtes) hay Thầy giáo trường Quản trị Tập sự (Collège des Administrateurs Stagières) lẫn lúc rút về Nam sống ẩn dật đó sao. Những huy chương mà nhà nước Pháp trao tặng (Bắc đẩu Bội tinh…), những chức tước (hàm quan-Hàn lâm Thị Giảng học sĩ để dạy Vua học tiếng Pháp hay biệt hiệu Nam Trung Ẩn sĩ và khi trở về Nam, Kim Khánh Bội Tinh và Chức hàm Lễ Bộ Thượng Thư (theo Trương Vĩnh Lễ - Việt Nam, Đâu là sự thật- Où est la vérité ?) của Đồng Khánh ban cho Ông là gì ?(c). Bên nào cũng “tưởng thưởng” cho Ông huy chương hay hàm tước vinh danh để kéo Ông nghiêng hẳn về phía họ…nhưng nếu nhìn vào cuộc sống bệnh tật, nghèo túng của Trương Vĩnh Ký thì rõ ràng Ông đã bị cả hai phía ruồng rẫy vào những ngày cuối đời, cho thấy những lập luận nầy không chính xác, hay quá ư khắt khe. Nếu như thế thì Trương Vĩnh Ký đã có dinh cơ kèm theo chức tước đem lại quyền lợi cụ thể và một cuộc sống đầy đủ sung túc, hơn cả người bình thường vì khả năng đóng góp “to lớn” của Ông(d).
--------------------------------------------------------------
(a) (xem Phụ lục 1)
(b) (xem thêm chú thích số 20)
(c) (xem thêm cuộc đối thoại giữa vua Đồng Khánh và Trương Vĩnh Ký ở chú thích 24)
(d) ( xem phụ lục 2)
Thực tế, cuộc sống “vinh thân, phì gia” hoàn toàn xa lạ đối với Trương. Trong một bức thư gửi bác sĩ Chavannes ngày 8/4/1887, Ông viết “…về danh vọng thì nó không còn quyến rũ được con sư tử già bị đè nặng dưới niềm chua chát…” , còn với vợ mình ( Bà Vương Thị Thọ) Ông tâm sự như trăn trối ” Mọi việc tôi làm còn lưu lại đó. Việc đúng, việc sai hãy để cho đời phán xét, đời nầy chưa tỏ thì đời sau tiếp tục…Trong sáng như cụ Nguyễn Du mà còn phải kêu lên không biết 300 năm sau có ai hiểu được mình huống gì thân phận tôi ! Nếu tôi ra đi trước, bà nhắc con cháu là cả đời tôi cần mẫn, chăm chút để lại cho chúng toàn là sách….”(15)
Vậy Pétrus Ký là ai, một trí thức đau khổ của thời cuộc, của một dân tộc trong chế độ phong kiến suy tàn nằm dưới gọng kìm của đế quốc sài lang ? Trong cuộc trao đổi với Paul Bert trên đường ra kinh thành Huế vào tháng 4/1886, trên tàu thủy, Trương đã phê phán:
“Nhiều lần tôi có nói với thống đốc, những người kháng cự họ có lý do vì chủ nghĩa yêu nước của họ. Một là sự thù hằn đối với đám người theo đạo mà họ coi là những người chạy qua hàng ngũ người Pháp làm chỉ điểm, dẫn đường. Hai là sự ngờ vực sự tráo trở như úp ngửa bàn tay, coi mình như những ông chủ của nhà nước An Nam. Họ có mặt khắp nơi trong thành quách bị chiếm đóng, họ đuổi quan An Nam ra khỏi nha môn, và khi ấy mấy ông quan này mất hết quyền thế, phẫn uất mà hút gió thổi bùng lên ngọn lửa kháng cự”(16).
Và rằng:
“Người ta trách Đại nhân xài quá nhiều tiền và đã đem nhiều người từ Pháp sang, vào thẳng bộ máy của Đại nhân, nhưng họ ngơ ngáo trước công việc của bổn xứ, trong khi có bao nhiêu người Nam kỳ có tài, ngồi đó, không ai coi ra gì Người ta luận xét, Đại nhân có chính sách thiên vị và không để tâm về phía Nhà nước. Tôi mong các nhà Giám sát ghé mắt.”(17)
Thử hỏi một tên “tay sai” hay “siêu Việt gian” , đáng bị “đời đời nguyền rủa” (chữ dùng của Nguyễn đắc Xuân, xem chú thích 12 & 22) có thể nói với người “chủ” của mình như thế không ? Đau đớn thay cho Trương Vĩnh Ký khi phải hứng chịu những lời lẽ thô bạo như vậy.
Tiêu chí của lòng yêu nước không chỉ có một
Qua những trước tác về lịch sử, văn hóa, báo chí của Ông mà ta đọc được ngày nay thì có thể nói những lời qui kết của cả hai phía đều không thỏa đáng. Phải chăng vì Trương Vĩnh Ký không tham gia vào các phong trào chiến đấu của tầng lớp sĩ phu trong khởi nghĩa Yên Thế, chiến lũy Bãi Sậy(1885-1889), khởi nghĩa Văn Thân (1878), Phan đình Phùng… hay phong trào Cần vương theo Vua Hàm Nghi mà ta có thể qui tội cho Ông ? Đành rằng đây là phong trào kháng Pháp, phò vị vua yêu nước quyết liệt, không những hàng vạn người bị chúng cầm tù, tàn sát, truy diệt--- trong đó ba vị Vua nhà Nguyễn đã bị lưu đày tận đảo ở Châu Phi---và đã thất bại hoàn toàn khuất phục trước họng súng của thực dân Pháp. Ngay chủ trương “Pháp việt đề huề” sau nầy cũng đã làm tê liệt Phan Chu Trinh, biến Phan bội Châu thành “ông già bến Ngự”…cho thấy thủ đoạn của bọn thực dân nham hiểm và cay độc với tầng lớp sĩ phu đến nhường nào. Trong tình thế như vậy Trương Vĩnh Ký dù có “yêu nước”, sớm giác ngộ nhận thức về độc lập dân tộc đến mấy cũng phải ngậm ngùi. Đã có bao sĩ phu khác trong các phong trào yêu nước đấu tranh bằng vũ lực như sự kiện “Đầu độc Hà Thành”(1908),“Tiếng bom Sa Diện”(1924) của Phạm Hồng Thái, Khởi nghĩa Yên Bái(1930) trong phong trào Quốc dân đảng sau nầy đã bị quân đội Pháp đưa lên máy chém , tù đày ở Côn Lôn, Phú Quốc và các vùng đất đảo xa xôi tận Châu Phi như chúng ta đã biết.
Tiếc thay, quan điểm đánh giá những nhân vật trong lịch sử kháng Pháp vào hậu bán thế kỷ 19 ở nước ta vẫn còn loay hoay trên một nhận thức kinh điển bao biện, xem “kháng cự (sự đề kháng) như một thước đo phẩm hạnh cũng bao hàm những nguy cơ xuyên tạc nghiêm trọng tương tự” nếu theo lời “cáo” nổi tiếng từ thế kỷ 15 “hào kiệt đời nào cũng có”( Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi)…thì đánh giá nầy cũng có thể áp dụng cho thế kỷ 19(18). Hai chữ “hào kiệt” ở đây đâu chỉ là người cầm gậy gộc, tầm vông chiến đấu với quân thù mà thôi. Chính việc lấy “kháng cự”(bằng vũ lực) làm “tiêu chí” nầy đã phủ lấp mặt tích cực của một trí thức yêu nước, một sĩ phu uyên bác nhưng chất chứa nhiều mâu thuẫn của một thời kỳ đen tối của dân tộc, thậm chí còn chụp lên Ông—một con chiên của Ki tô giáo-- vai trò của một Việt gian(19) mà cơ sở “phán xét” của nó là dựa vào những cuốn sách mỵ dân, bịt mắt người đọc, lẫn lộn “chính”, “tà” của phía mà Trương Vĩnh Ký cộng tác(20) hay chọn lựa những câu chữ cắt xén từ những tài liệu lưu trữ ở Sở Văn khố thuộc địa Pháp theo một ý đồ chính trị đã có sẵn.
Hãy nghe lý lẽ mà Trương Vĩnh Ký đã từ chối quốc tịch Pháp lẫn ân huệ khác của chính quyền thực dân, nói lên nỗi niềm bất hạnh nầy:
“Nước Nam ta tổ tiên Hồng lạc…gia phả truyền lại bồn ngàn năm nay, nhứt đán ta dân tịch theo Tây, phục sắc theo Tây, biến hết làm Tây, không còn cái dấu tích chi là người nam nữa, đó là loài Tịch đàm vong tổ, rồi tới đời con cháu ta nó theo gia phả mới của ta mà đốt quách cái gia phả cũ của tổ tiên, quên đứt là người nam, thì giống ta còn cũng như mất, mà cái cơn diệt chủng tự ta treo lên trước…Người ta sẽ cho tôi là nhu nhược, nhút nhát; tôi đã làm như vậy vì tôi sợ muốn thoát thân ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Vào dân tây tôi sẽ mất hết uy tín, uy lực của tôi và đã mất hết tín nhiệm của Vua, của triều đình và của đồng bào tôi. Không lý trời sanh tôi ra là con quạ, bây giờ biểu thì một hai nói tôi là con cò sao đặng ? Nên là điều trái tự nhiên hết sức”(21)
*
Mấy lời kết
Ngồi bên cạnh ngôi mộ Trương Vĩnh Ký vắng lạnh, điêu tàn và lặng lẽ trên mãnh đất của gia đình người vợ ông ở góc đường Trần Bình Trọng và Trần Hưng Đạo (quận 5, TPHCM), trong căn lều bán bia và ốc”núi” luộc(đặc sản của vùng núi Tây Ninh) lụp xụp, nghèo nàn của người cháu nội năm đời của ông trong khuôn viên vào một buổi chiều cuối tháng 7 năm 2008, chúng tôi ngậm ngùi biết bao dù biết rằng Ông đã yên giấc từ trăm năm nay, để lại cho thế hệ đời sau những công trình và tư liệu mà hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi về mặt học thuật cũng như tồn tại mối nghi ngờ về thái độ và hợp tác của Trương Vĩnh Ký với cả hai phía, Pháp và triều đình nhà Nguyễn chưa được xóa tan. Thời gian ngắn ngủi bên cạnh Vua Đồng Khánh(22) và Toàn quyền(Khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ) Paul Bert của Ông đã bị một số nhà nghiên cứu qui kết tội làm “tay sai”, ”phản quốc”… mà không thấy ngay bản thân Trương Vĩnh Ký cũng đã bị Paul Bert— thống đốc toàn quyền của bộ máy cai trị thực dân, người bạn hiểu Ông nhất-- “trở giọng” vì chủ trương siết chặt thuộc địa bằng sức mạnh quân sự của Hoàng đế “chính quốc”. Trước sự ép buộc và cưỡng chế lộ liễu thực hiện chính sách phân chia Việt nam làm ba phần (Nam, Trung, Bắc kỳ) trong khi Ông đang ra sức thuyết phục Paul Bert và bênh vực Vua Đồng Khánh--- mặc dù hàng ngũ quan lại trong triều vẫn khư khư phủ nhận Trương--- phản đối việc bó hẹp ảnh hưởng của triều đình trong chính sách “chia để trị” của nhà cầm quyền thực dân, thì giới quân đội trong hàng ngũ thống trị thuộc địa đã gây sức ép(23) đè nặng lên Ông sau khi Paul Bert đột ngột qua đời ( ngày 11/ 11/1886). Trương Vĩnh Ký thất vọng đắng cay và “tỉnh ngộ” trong việc hợp tác với Pháp(24), tìm cách lui về Nam sống ẩn dật(25) và biên soạn sách vở cho hậu thế với tất cả tâm huyết và tài năng.
Chúng ta có thể thấy lối nhận định “phê phán” của một số nhà sử học phát xuất từ định kiến hay ý đồ chính trị với một cách nhìn hằn học, phiến diện, sai lệch, thiếu chiều sâu về một giòng lịch sử chống quân xâm lược vô cùng phong phú của dân tộc ta, phủ nhận công lao của tầng lớp trí thức, sĩ phu. Nói khác đi, cuộc chiến đấu để bảo vệ tổ quốc không chỉ có những nông dân, sĩ phu kể cả hàng ngũ quan lại… đứng lên cầm súng, tuốt gươm, vác tầm vông, xây chiến lũy chống giặc mà còn có những con người khiêm tốn, thủy chung âm thầm đóng góp và chịu nhiều hàm oan khắc nghiệt giữa hai gọng kìm thực dân lẫn phong kiến như Trương Vĩnh Ký, một kẻ sĩ thức thời Việt nam trước thời cuộc trong thế kỷ thứ 19.(26)
”Ở với họ mà không theo họ”
(Sic Vos Non Vobis)(27)
Hồng lê Thọ
7/2008 __________________________________________________________________
Chú thích:
(1) Lê Đình Bảng “Chung một đồng cảm: trăm năm cô đơn hay bi kịch cuộc đời Trương Vĩnh Ký”
www.dunglac.org/index.php?m=module2&id=102
và “Thế kỷ 21 nhìn về Trương Vĩnh Ký” Nhiều tác giả, Nhà xuất bán Văn hóa Sài gòn(năm 2006)
(2) Dương Quảng Hàm: “khiến cho tiếng Nam có thể dùng để viết văn, thứ nhất là văn xuôi là một vốn văn xưa ta chưa có” hay “người khai sáng mở đường cho nến quốc văn mới”(Việt Nam Văn Học Sử yếu , Bộ QGGD, Sài gòn 1960)
(3) Lê Đình Bảng, tldd
(4) Mẫn Quốc, Nghiên cứu lịch sử 56,60 tháng 11/1963 và 12/1963
(5) Pétrus Ký “Correspondance 1873-1875” số 105 Thư gửi ngài Perrin, 3/9/1877 Bảo tàng Pétrus Ký. Trích theo Milton E. Osborne trong “Trương Vĩnh Ký và Phan thanh Giản…”
www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12933&rb=0302
(6) Nguyễn trường Tộ (1827-1871) đã dâng lên triều đình (Vua Tự Đức) trên mười lăm bản điều trần về việc cải tân nước trong khoảng thời gian từ 1863 đến 1871. Nguyễn Vọng Các từ Thái Lan trở về cũng trình bày chính sách ngoại giao khéo léo của Xiêm la, không bị hiếp chế nhờ kí kết các hiệp ước cung hiến quyền lợi đồng đều cho các cường quốc Tây phương hay 1881 Lê Đĩnh đi sứ Hương Cảng về cũng tâu là các quốc gia Tây phương sỡ dĩ hùng mạnh là nhờ chú trọng đến việc binh và việc mua bán…nhưng triều đình vẫn giữ thái độ thủ cựu, chỉ trích các dự án cải cách, hẹp hòi, không muốn thay đổi…(xem “Việt Nam thời Pháp đô hộ” của Nguyễn thế Anh, nhà xuất bản Văn học)
(7) thực ra đây cũng là điều dễ hiểu, những nghiên cứu có tính phê phán “một chiều” nầy diễn ra trong bối cảnh chiến tranh chống Mỹ vô cùng ác liệt, không thể đánh giá tích cực hành vi tham gia và cộng tác với thực dân của Trương Vĩnh Ký, điều đó vô hình trung giúp những kẻ phục vụ cho chế độ chính trị ở Sài gòn đang dương cao chiêu bài “chống cộng”. Trần Huy liệu đã viết “ ngày nay tại miền nam—thời điểm năm 1964 -- nước ta, Trương vẫn được đề cao vì tư tưởng và hành vi của Trương gắn liền với công cuộc của bọn cướp nước”. Rõ ràng đây có thể gọi là “hạn chế lịch sử” mà ngày nay chúng ta cần có một cách nhìn thoáng đãng và khách quan hơn, không còn vướng bận bởi những mục tiêu chính trị đương thời (HLT).
Chúng ta hãy đọc một đoạn phân tích của Trần Huy Liệu theo quan điểm giai cấp có “tính chất chỉ đạo” trong thời kỳ quan hệ Trung-Sô bất hòa, đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại đang diễn ra gay gắt và ảnh hưởng không nhỏ đối với miền bắc (vào những năm 1960-64) như sau:
”Lấy về giai cấp mà nói, chúng ta không thể đặt Trương Vĩnh Ký thuộc giai cấp nào khác hơn là giai cấp phong kiến, nhưng trên lập trường tư tưởng Trương Vĩnh Kỹ không còn gì là phong kiến dân tộc, mà chỉ là một kẻ “mất gốc”, ôm chân ngoại địch ngay từ lúc vào đời” (Nhận định về Trương Vĩnh Ký, Nghiên cứu Lịch sử số 5, 2/1964).
(8) Nguyễn Văn Trung “Việc dựng tượng Trương Vĩnh Ký” trong “Thế kỷ 21 nhìn về Trương Vĩnh Ký” Nhiều tác giả, Nhà xuất bán Văn hóa Sài gòn(năm 2006).
Theo lời kể của nhà văn Hoàng Lại Giang, trong buổi hội thảo về Trương Vĩnh Ký vào năm 2002, nhà sử học Trần Văn Giàu xác nhận lúc bấy giờ làm Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời Nam bộ sau khởi nghĩa 25/8/1945, Ông đã ra lệnh “các chú có đập phá tượng ba thằng lính tây thì cứ đập nhưng không được đụng đến tượng cụ Trương Vĩnh Ký” khi được hỏi ý kiến(HLT).
(9) Đời Minh Mạng (1821-1840) có gần 200 vụ nổi loạn lớn nhỏ, đời Thiệu Trị (1841-1847), chỉ bảy năm ngắn ngủi, có hơn 50 vụ, đời Tự Đức (1848-1884) có trên 100 vụ nông dân nỗi loạn, 100 vụ cướp của quân nhà Thanh tràn qua và 60 vụ cướp biển. Đặc biệt là các phong trào “Bình tây sát tả ” xem tín đồ công giáo là tay sai cho địch phải tàn sát không tha. Công việc chém giết này gọi là sát tả. Tất cả Văn Thân và Cần Vương bất cứ ở đâu trong nước đều ôm một mối thù chung, gặp đâu có nhà thờ là đốt phá, gặp đâu có người mặc áo dài thâm là vặt râu gọt đầu, bắt bước qua Thập Giá, thích chữ vào mặt rồi giết chết bỏ. Văn Thân cũng như Cần Vương tưởng phàm những người theo đạo Gia Tô đều là quân nội công của người Pháp và Gia Tô là tả đạo. Sang thời Tự Đức việc cấm đạo lại càng ác liệt hơn. Vừa lên ngôi vua ra Dụ (1848) định rằng “giáo sĩ ngoại quốc vào truyền đạo sẽ bị tử hình, đạo trưởng người Nam không bỏ đạo thì bị khắc vào má hai chữ “tả đạo” rồi đày đi các vùng nước độc, thường dân vì ngu tối hoặc bi mua chuộc bằng tiền bạc thì các quan phải dạy dỗ và đừng có giết hại...”. Năm Tự Đức thứ tư (1851) lại có thêm một chỉ dụ xiết chặt thêm việc cấm đạo. Năm 1859, sau khi Liên quân Pháp -Tây Ban Nha đánh vào Đà Nẳng và Gia Định thì nhà vua liên tiếp ra ba chỉ dụ vào tháng 5, tháng 10 và tháng 12 qui định việc quản lý giáo dân cùng các hình thức trừng phạt thật nặng nề . Chỉ dụ Sát Tả ngày 14 tháng 8 năm 1848 dẫn đến những chiến dịch sát hại hết sức tàn bạo những người giảng đạo cũng như những con chiên theo đạo Thiên Chúa. Cố Long phải tìm cách gởi Petrus Ký lên Cao Miên vào chủng viện Pinhhalu học thần học và triết học bên đó. Năm 15 tuổi ông tốt nghiệp ở đây với vị thứ cao nhất, xuất sắc nhất.
Vua Tự Ðức (1847-1883): 13 Sắc lệnh:
Nếu tính số Sắc lệnh bắt đạo, dưới thời Tự Ðức lên tới 13 Sắc lệnh ký vào những năm 1848, 1851, 1855, riêng trong năm 1857: 4 Sắc lệnh; năm 1859: 3 Sắc lệnh; và năm 1860: 4 Sắc lệnh sau cùng. Nhiều lệnh như thế minh chứng ý chí nhà vua muốn tận diệt đạo Thiên Chúa bằng mọi giá, và tận diệt suốt trong 30 năm chấp chính. Chúng ta sẽ thấy nội dung những Sắc lệnh đó khủng khiếp tới mức nào!
- Ðạo Công Giáo được định nghĩa không những như một " Tả Ðạo" mà còn tệ hơn nữa: như một tôn giáo xấu xa "một dịch tễ" (Sắc lệnh: 7/06/1857).
- Do đó lệnh vua là các cơ quan chính quyền phải ráo riết bài trừ:
- Lệnh cho các xã ủy, cai tổng (Sắc lệnh: Tháng 5 năm 1857): Ai không tuân theo sẽ bị cách chức (Sắc lệnh 7/06/1857).
- Lệnh cho Triều đình và các quan địa phương (Sắc lệnh 24/08/1857).
- Phải bắt tất cả các tầng lớp Công Giáo:
- Hết mọi thanh niên trên 15 tuổi phải trình diện thường xuyên theo thời gian nhất định (Lệnh 17/01/1860). Người Công Giáo, dù học giỏi, có khả năng, cũng không được bổ nhiệm giữ chức vụ nào (Sắc lệnh 18/09/1855).
- Ðặc biệt giới ngư phủ: vì họ luôn luôn di chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các đạo trưởng (Sắc lệnh 18/09/1855).
- Những người chứa chấp đạo trưởng sẽ bị phân thây và buông sông (Sắc lệnh 30/03/1851).
- Giáo dân không chịu đạp lên Thánh Giá sẽ bị khắc hai chữ "Tả Ðạo" trên mặt và đi đầy biệt xứ (Sắc lệnh 18/09/1855). Ai cố chấp xưng đạo: đàn ông sẽ bị cưỡng bách tòng quân, đàn bà bị tuyển làm nội trợ cho các quan (Sắc lệnh 7/06/1857).
- Bắt các thành phần trong Hội đồng giáo xứ (Sắc lệnh tháng 10/1859).
- Binh sĩ Công Giáo không đạp ảnh Thánh Giá sẽ bị giải ngũ, bị khắc hai chữ Tả Ðạo và bị đầy chung thân (Sắc lệnh Tháng 12/1859).
- Giới Quan lại Công Giáo: cả những ai đã chối đạo cũng bị cất chức. Những ai trung kiên sẽ bị trảm quyết (Sắc lệnh 15/12/1859).
- Các Nữ tu: không được cấp giấy thông hành để di chuyển ngoài địa phương mình đang ở, vì họ là những liên lạc viên đắc lực. Ai không tuân lệnh sẽ bị: tù chung thân, hay làm nội trợ cho các quan (Sắc lệnh 17/01/1860 và Sắc lệnh tháng 7/1860).
- Các Linh mục Việt Nam: đạp Thánh Giá hay không đều bị phân thây để nêu gương; Ngoại quốc: bị trảm quyết, đầu phải treo luôn trong 3 ngày, rồi buông sông hay ném xuống biển (Sắc lệnh 15/09/1855).
- Các cơ sở Công Giáo (nhà thờ, nhà xứ, tu viện, nhà trường) bị đốt phá và tiêu hủy (Sắc lệnh 18/09/1855 và Sắc lệnh 8/12/1857). Nhất là cơ sở tại Vĩnh Trị: phải bình địa hóa triệt để (Sắc lệnh 1/12/1857).
- Những khổ hình dã man nhất: Phân sáp (1860): gồm 5 khoản:
- Khoản 1: Hết mọi người theo đạo Thiên Chúa, bất cứ nam nữ, giầu nghèo, già trẻ đều bị phân tán vào các làng bên lương.
- Khoản 2: Tất cả các làng bên lương có trách nhiệm canh gác những tín hữu Công Giáo: cứ năm người lương canh gác một người Công Giáo.
- Khoản 3: Tất cả các làng Công Giáo sẽ bị phá bình địa và tiêu hủy. Ruộng đất, vườn cây, nhà cửa sẽ bị chia cho các làng bên lương lân cận, và các làng bên lương này có nhiệm vụ phải nộp thuế hằng năm cho Chính Phủ.
- Khoản 4: Phân tán nam giới đi một tỉnh, nữ giới đi một tỉnh khác, để không còn cơ hội gặp nhau, con cái thì chia cho những gia đình bên lương nào muốn nhận nuôi.
- Khoản 5: Trước khi phân tán, tất cả giáo dân nam nữ và trẻ con đều bị khắc trên má trái hai chữ Tả Ðạo và trên má bên phải tên tổng, huyện, nơi bị giam giữ, như thế không còn cách nào trốn thoát.
Pháp luật nghiêm khắc như thế, thảo nào số người Công Giáo bị ngã gục đã lên cao: trong tổng số 117 vị Thánh Tử Ðạo, 50 vị đã hy sinh mạng sống dưới đời Tự Ðức!
(10) Những cuộc tàn sát thật ác liệt rùng rợn: từng lớp người, kể ra từng trăm từng ngàn, cứ mỗi lần phải qua một cơn bách hại là cứ tiếp tục ngã xuống, như những trái sung rụng trước cơn gió lộng! Người ta ước lượng: dưới thời các chúa Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn, chừng 30,000 giáo dân bị giết; dưới thời ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức, chừng 40,000 tín hữu bị xử tử hay chết trong lao tù; nhưng dưới thời Văn Thân có tới trên dưới 60,000 người dân Công Giáo bị sát hại, chỉ vì là thành phần trong dân Thiên Chúa. Linh mục Ð. Trần Văn Phát, hồi xưa Tổng Quản Giáo Phận Huế, còn đi xuống những chi tiết "độ 100,000 đấng Tử Ðạo: ước 58 vị Giám Mục và Linh Mục ngoại quốc, 150 vị Linh Mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 1 chủng sinh, 270 Chị Dòng Mến Thánh Giá và 99,182 giáo dân".(Trích tập sách Vụ Án Phong Thánh của tác giả Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ).
(11)Theo Nguyễn Văn Trấn: ‘Tháng 12-1859 Jauréguiberry trở vào nội thành (Sài Gòn) mở rộng diện chiếm đóng ra Chợ Lớn. Nó thiếu một thông ngôn và cậy Giám mục Lefèbre tìm. Ông nầy chỉ Trương Vĩnh Ký .Trương Vĩnh Ký đưa tay’ (Trương Vĩnh Ký con người và sự thật, Tp HCM 1993, trang 17). Trương Vĩnh Ký không chỉ là một người thông ngôn mà theo Jean Bouchot (Pétrus J.B.Trương Vĩnh Ký ) ông còn làm nhiệm vụ ‘phức tạp và quan trọng hơn nữa’. Ông Mẫn Quốc hiểu cái nhiệm vụ quan trọng và phức tạp đó là làm ‘tình báo, chỉ điểm, bày mưu lập kế để giặc chóng đạt được mưu đồ chinh phục của chúng’ (Nghiên Cưú Lịch Sử số 60, 3-1964). Từ 1860, Trương Vĩnh Ký vừa cung cấp những thông tin chính trị cần thiết (Nguyễn Thế Anh, Monarchie et fait colonial au VN, L’Harmattan, 1992, trang 138) và đi cùng với thực dân Pháp suốt chặng đường ngót một phần tư thế kỉ (1860-1885) để đánh chiếm Nam bộ, Bắc bộ và đặt xong nền bảo hộ tại Trung bộ. Trương Vĩnh Ký đã trở thành người đứng đầu danh sách khai quốc công thần của chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam (Vũ Ngự Chiêu, Các nhà Vua dưới triều Nguyễn, tập I, NXB Văn Hóa (Hoa Kỳ) 1999, trang 140).
trong “Xuất và Xử trong cuộc đời của Trương Vĩnh Ký” của Nguyễn đắc Xuân
www.giaodiem.com/tapchi/41/truongvinhky.htm - 47k -
(12) Một phát hiện về mặt tư liệu “chưa hề được trích dẫn trên sách báo xuất bản tại Việt nam trong hơn một thế kỷ qua”(sic) của Nguyễn Đắc Xuân(NĐX) là bức thư của Trương Vĩnh Ký gửi cho Jauréguiberry, được trích dẫn trong bài viết của mình “Xuất và Xử…”( chú thích số 11) như : “tất cả chúng tôi chắc sẽ chịu chết nếu Ngài không kịp đánh đuổi kẻ thù của chúng ta”, xin ”hãy thương xót chúng tôi, hãy thương xót chúng tôi! Ngài là người sẽ giải phóng chúng tôi”, hơn thế NĐX dựa theo Jean Bouchot trong tác phẩm viết về Trương Vĩnh Ký , rằng ông ta còn làm “nhiệm vụ phức tạp và quan trọng hơn nữa” để cùng Mẫn Quốc lý giải đó là công việc làm “tình báo chỉ điểm bày mưu lập kế để giặc chóng đạt được mưu đồ chinh phục của chúng”(Nghiên cứu Lịch sử, số 60, 3/1964).
Thật là một sự “ tưởng tượng ghê gớm”, cố lờ đi việc tìm hiểu “trong hoàn cảnh nào” (hoặc không biết) buộc Trương viết lên những dòng nầy (Trương đang bị bố ráp tả đạo sống chết của vua quan, ngây ngô tin rằng Pháp sẽ đến cứu giáo dân. Điều nầy đã được Trương nhận thức rất rõ—xem chú thích số 24). Hơn nữa văn phong gửi quan chức(quan liêu) chính quyền trong tiếng Pháp là một ngôn ngữ khách sáo tuyệt mỹ thì lối viết như vậy của Trương là điều bình thường, không cần phải nhấn mạnh “Trương Vĩnh Ký dùng cái khả năng tiếng Pháp tuyệt vời của mình… rất ư thống thiết…”(Nguyễn Đắc Xuân) làm điểm nhấn để phê phán, chứng tỏ người sử dụng trích dẫn không am tường ngữ khí (nuance) của tiếng Pháp.
Mặt khác, Võ Xuân Đàn trong bài viết “Trương Vĩnh Ký-Một thế kỷ nhìn lại” (trong “Thế kỷ 21 nhìn về Trương Vĩnh Ký”, NXB Văn Hóa Sài gòn) nêu lên việc ” Đại tá Jauréguiberry đánh giá Trương “là một phụ tá đặc biệt quí báu đối với quan chỉ huy quân đội Pháp đang tổ chức và bình định những vùng mới chiếm đóng” cũng với mục đích kết tội Trương Vĩnh Ký tương tự như Nguyễn Đắc Xuân.
Với tiền đề xem Paul Bert là “một tên thực dân cáo già”, Võ Xuân Đàn cho rằng ông ta đã sử dụng Trương Vĩnh Ký trong vai trò “nội ứng” trong thời gian Trương làm việc tại Triều đình Huế !(tlđd). Liệu có ổn không khi nâng Paul Bert lên một tầm mức “thực dân cáo già” để kết tội “đáng nguyền rủa” của Trương như thế ? (HLT)
(13)Từ năm 1919 và 1921, tờ Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH, Bản tin của Hội Những nguời bạn của cố đô Huế) đã có những loạt bài dịch tập Nhu Tây sứ trình nhật ký của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ. Các tài liệu này đều xác nhận thông ngôn chính của sứ đoàn Nguyễn là Linh mục Nguyễn Hoằng. Petrus Key và Tôn Thọ Tường là phụ tá của Trung tá Aubaret, thông dịch viên chính thức cho sứ đoàn Phan Thanh Giản trong thời gian tại Paris và Madrid. Xem, chẳng hạn, “L’Ambassade de Phan Thanh Gian,” traduit par Trần Xuân Toạn et Nguyễn Đình Hòe; BAVH (1921), pp. 147-187, 243-281; hay A. Delvaux, BAVH (1926), pp. 69-80. Năm 1919, Cửu phẩm Ngô Đình Diệm tại Tân Thơ Viện Huế cũng dịch và giới thiệu tập nhật ký của Phan Thanh Giản-Phạm Phú Thứ (Nguyên Vũ, tldd)
(14) “P. Vial – Công sứ Bắc Kỳ đã ám chỉ Trương Vĩnh Ký là “nhân vật quan trọng” ở bên cạnh toàn quyền Paul Bert, và ông đã lợi dụng thế lực của Paul Bert, để giúp cho triều đình Huế xây dựng lực lượng để chống lại Pháp!”( theo Lê Tùng Minh—Thiên tài và Nhân cách)
www.daiviet.org/ dvc2.asp?action=vdt&mdn=615&chude_id=60 - 81k
Theo Hoang Phong ghi lại trong cuốn “Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ 1861”(dịch) thì Paulin Vial là sĩ quan Hải quân(Trung úy), năm 1865 được cử làm Giám đốc Nội chính(nội vụ) tại Sài gòn và sau đó giữ chức thừa nhiệm Tổng Công Sứ hay Khâm sứ(Résident Général) tại Bắc Kỳ từ 11/11/1886 đến 28/1/1877 sau khi Paul Bert chết.
(15) Hoàng Lại Giang “Trương Vĩnh ký—Bi Kịch muôn đời” trang 588/598
(16) Hoàng Lại Giang, tldd trang 543
(17) Thư của Trương Vĩnh Ký gửi Paul Bert ngày 5/10/1886 (theo Lê Tùng Minh,tldd)
(18) Milton E. Osbone , tldd
www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12933&rb=0302 - 94k -
(19)Petrus Key và bao người đồng thời khác chỉ là sản phẩm của chế độ thực dân Âu châu nói chung, và trực hoặc gián tiếp là nạn nhân của chính sách thực dân Ki-tô/vật bản của Pháp. Chính vì thế mà mới có những trăn trở cuối đời Petrus Key về “công và tội,” khi thức ngộ được rằng dẫu có “đưa cả hai tay ra mà nắm lấy người Pháp” thì mình vẫn chỉ một thứ “người bản xứ được khai hóa” để phục vụ quyền lợi Pháp và Hội truyền giáo. Bài học “người bản xứ được khai hóa,” “văn minh hóa” hay “Pháp hóa” này quốc dân Việt sẽ còn phải suy gẫm suốt thế kỷ XXI, nếu không phải lâu hơn. Để cường điệu cho lối lập luận nầy, Nguyên Vũ đã dựa trên những tác phẩm ca ngợi Petrus Key của Henri Cordier (“Pétrus Truong Vinh Ky;” T’oung Pao, Séries II, 1 (1900), tr. 261-8) để tưởng nhớ ông, và đặc biệt là Jean Bouchot, một viên chức quản thủ văn khố [archivist]. Bouchot bỏ ra một thời gian dài thu thập tư liệu của gia đình Petrus Key hầu viết tiểu sử ông (Petrus J. B. Truong Vinh Ky, 1837-1898, Saigon, Paulus Cua, 1927) v.. v... để buộc tội Petrus Key thủ diễn vai trò trung gian bản xứ ngoại hạng(?!) trong cuộc xâm lăng và bình định xứ Nam Kỳ của Pháp, cũng như mở rộng cuộc xâm lăng ra Bắc và Trung Kỳ (1859-1886), hay sát nhập nước Ai Lao vào Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (1893).
(20) Dựa vào bức thư của Trương Vĩnh Ký gửi Paulin Vial “Chánh trị mà tôi đeo đuổi trên cương vị khó khăn ở Huế, cũng chẳng qua là chánh trị của ông Paul Bert. Thiếu điều là ổng đọc cho tôi làm, tôi đã làm theo những chỉ biểu cần thiết…” để Võ Xuân Đàn lấy đó kết tội Trương Vĩnh Ký trong khi quên rằng Paulin Vial, Giám đốc Nội vụ là cấp trên của Trương , luôn cảnh giác, theo dõi và đố kị với Trương Vĩnh Ký vì được Paul Bert “tin dùng” hơn mình, có thể lý giải được tại sao Trương phải nói như thế với ông ta(tldd, xem chú thích số 10). Paulin Vial đã từng nhận xét “Trương Vĩnh Ký là hiện thân phần tử đáng nghi ngờ trong đám người Việt nam”(theo Đinh Xuân Lâm, lấy từ “P.J.B Trương Vĩnh Ký- Un savant et un patriote cochinchinois(Một nhà bác học yêu nước ở Nam kỳ 1927).
(21) Dương Mạnh Huy, “Một người tốt của nước Việt nam “, Lục tỉnh tân văn (1927) trích dẫn theo Nguyễn Vy Khanh “Về Trương Vĩnh Ký và một số văn bản, lối nhìn…”
(22)”Lịch sử Việt Nam cận đại luôn luôn phải nhắc đến Trương Vĩnh Ký như một nhân vật phản diện điển hình. Đấy là một trường hợp có một không hai trong lịch sử VN. Chúng ta cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, đầy đủ để có một sự đánh giá đúng đắn về tội làm tay sai cho giặc của nhà ‘bác học’, ‘siêu nhân’, siêu Việt gian Trương Vĩnh Ký . Cuộc đời làm tay sai cho giặc của Trương Vĩnh Ký đã để lại cho các thế hệ sau ông một bài học lịch sử: Một người tài như Trương Vĩnh Ký mà thiếu đức, mà phản quốc vẫn bị đời đời nguyền rủa” ( Nguyễn Đắc Xuân, tldd).
Lối lập luận nầy không có gì mới, chỉ lời nhắc lại(tóm tắt) quan điểm của một số người như Nguyễn Anh trong “Vài ý kiến về Trương Vĩnh ký”(Nghiên cứu Lịch sử số 56, 11/1963) hay Nguyễn Khắc Đạm trong “Cần nhận rõ chân tướng Trương Vĩnh Ký để đánh giá cho đúng” (Nghiên cứu Lịch sử số 59, 2/1964) mà nguồn tư liệu chủ yếu để phê phán của những bài viết nầy trích dẫn từ cuốn “Petrus J.B Trương Vĩnh Ký—Un savant et un patriote cochinchinois” của Jean Bouchot(1927) hay bản in trước đó
(23)Trong một bức thơ gởi cho Paul Bert đề ngày 10-5-1886 Trương Vĩnh Ký cảnh báo “....Tôi bị nhiều người dại dột hoặc hung ác, họ ganh ghét tôi nên tôi không muốn vì đại nhân mà thêm một số người ganh ghét nữa. Vậy tôi muốn về lập tức...”(Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Ký” - Bằng Giang –trang 188) nhưng Paul Bert cũng không làm gì khác, và không may (?) nửa năm sau thì Ông ta qua đời vì bệnh tả.
(24) Ngày 4/11/1886( tức chỉ một tuần trước khi Paul Bert qua đời) Trương Vĩnh Ký đã gửi một bức thư bày tỏ sự thất vọng trước khả năng không thể vượt qua rào cản(chủ trương tách ra nước Việt Nam ra 3 phần) mà Paul Bert đã nói với Ông “Làm chính trị phải biết chấp nhận rào cản, nếu không thì mọi cái sẽ trở về con số không”, rằng:
“…Ngài cũng thừa biết như tôi rằng sự tách ra 13 tỉnh Bắc Kỳ làm rướm máu con tim của nhà vua và dân chúng An Nam…”(theo Hoàng lại Giang,“Trương Vĩnh Ký—Bi kịch muôn đời”(nhà xuất bản Văn hóa và Thông tin) , trang 579.
(25) xem Hoàng Lại Giang,tldd, chương 40-41, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ quan hệ “thân mật” giữa Trương Vĩnh Ký và Paul Bert, nội dung trao đổi và thuyết phục của Ông đối với Vua Đồng Khánh và Paul Bert. Những góp ý thức thời của Ông trước tình thế của đất nước trước hiểm họa chiếm đoạt, thừa “nước đục thả câu” từ Trung Hoa cũng như thái độ lạnh nhạt, đa nghi và bất bình của Paul Bert đối với Trương Vĩnh Ký sau khi chủ trương của Mẫu quốc đối với thuộc địa thay đổi. (Xem thêm Phụ lục 1)
(26) “Các nhà nghiên cứu sử học thế hệ trước quá nhấn mạnh tới tội ác, tiêu cực của triều đình phong kiến, người Pháp, Mỹ mà lại viết quá sơ sài về các giá trị kinh tế, văn hóa mà tầng lớp trí thức sống trong “vùng tạm chiếm” để lại. Đặc biệt, đã “lãng quên” hoặc đánh giá phiến diện một loạt nhân vật lịch sử, trên chừng mực nào đó có những đóng góp tích cực vào lịch sử dân tộc như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Thu, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn ... Nếu chỉ dừng lại như trước đây, họ sẽ phải gánh chịu “bi kịch muôn đời”. Nhưng GS Phạm Xanh cho rằng, đây chính là thời kỳ mà “sử học đang mở lối” cho các nhà sử học trẻ "khỏa lấp" khoảng trống đó...”(Phục dựng một mảng lịch sử - Việt Anh, Tia Sáng 03/08/2007)
http://www.tiasang.com.vn/print?id=1808
(27) ngạn ngữ la tinh, biện minh cho việc ra nhận lời làm thông ngôn cho Trung tá Hải quân Jauréguiberry.
-Trong một thư khác viết bằng chữ La-ngữ gửi cho bạn là bác-sĩ Chavannes, ông cũng bày tỏ rõ quan-điểm của mình: “Đây là việc tôi ở với các anh chứ không phải vì theo các anh, đó chỉ là phận sự tôi phải làm và điều này làm tôi an lòng”, ông nói: “sic vos non vobis, hoc est mea sors et consolatio.” (Nguyễn Văn-Tố, Tựa cuốn Trương Vïnh Ký của Lê Thanh, Bằng Giang, Sương Mù Trên Tác phẩm Trương Vïnh Ký, Văn Học tb, 1994. tr.71).
-Theo Hoàng Lại Giang ( tldd, trang 546-547):
Vua Đồng Khánh hỏi:
-Trẫm nghe người Phang sa đưa Khanh vào đây là để dò xét mọi việc triều chính của triều đình*
…Trương Vĩnh ký hiểu rằng dầu gì đi nữa, trong ngài vẫn mang dòng máu dân tộc Đại Việt. Suy nghĩ một lúc, Trương Vĩnh ký nói:
-Tâu bệ hạ, chắc bệ hạ biết việc Quan Vân Trường hàng Tào Tháo, nhưng lòng vẫn thuộc về Lưu Bị.
Vua Đồng Khánh gật đầu.
Trương Vĩnh Ký tiếp:
-Nhờ người Pháp, thần được ăn học và trước tiên là thoát được bao cửa tử do chính sách“sát tả” của tiên vương Hoàng thượng. Nhưng lịch sử đã nhắc nhở thần là con cháu Đại Việt. Thần với bệ hạ xa xưa vốn cùng một dòng máu của bà Âu Cơ. Và vì vậy không lý do gì thần lại phản nghịch tổ tiên mình. Thần hứa với mình, phải học Quan Vân Trường: Theo họ nhưng không lệ thuộc họ…”
*Có tư liệu ghi đây là lời của Hoàng Kế Viêm
_______________________________________________________________________
Phụ lục 1.
Người bạn “tốt” của Trương Vĩnh Ký
Từ chuyến sang Pháp tháp tùng phái bộ Phan Thanh Giản cho đến các hội nghị khoa học quốc tế mà ông tham dự, Pétrus Ký đã đặt mối quan hệ, trao đổi thư từ thường xuyên với các học giả trên thế giới, những người có ý tưởng nhân đạo cao đẹp, với mong muốn sau này họ có thể giúp đỡ người Việt trên nhiều lĩnh vực: khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội... Trong số đó có ông Paul Bert, người mà Pétrus Ký đã có được mối quan hệ có lẽ là thân thiện nhất.
Ông Paul Bert là bác sĩ, giáo sư Đại học khoa học ở Bordeaux và Paris, thành viên Hàn lâm viện Pháp, bộ trưởng Bộ Giáo dục và nghị sĩ Quốc hội Pháp. Giữa hai ông đã có hơn 20 năm liên hệ với nhau qua thư tín, hướng tới mục tiêu cải tổ VN để tiếp cận được với các nước văn minh trên thế giới, theo phương châm “hợp tác, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau” thay vì chính sách “đồng hóa” (assimilation) của thực dân Pháp.
Sau này, khi được bổ nhiệm làm toàn quyền Đông Dương, chỉ trong vài tháng đầu tiên ở cương vị mới ông Paul Bert đã cho thành lập một Hàn lâm viện Bắc kỳ (Académie Tonkinoise) để duy trì và phục hưng nền văn hóa truyền thống VN.
Cùng sang VN với ông Paul Bert còn có các cộng sự thân tín của ông như J.Chailley; G.Dumoutier (nhà VN học đã kêu gọi sự hợp tác của các nhà Nho học để cùng bảo tồn bản sắc dân tộc qua việc phục hồi chữ Hán - Nôm).
(Theo Mai bá Triều)
Paul Bert tổng-trú-sứ lưỡng kỳ (Bắc và Trung-kỳ) mới được bổ nhiệm 8-4-1886. Trước khi nhiệm chức Paul Bert đã gặp Trương Vĩnh Ký, nhờ cả ông soạn giùm bài hịch (thư 22-3-1886) mà cuối cùng chính họ Trương đọc trước Vua, trình bày 7 điểm để cứu vãn tình hình bất an gay cấn giữa Pháp-Việt và lương-giáo (xem đề nghị 7 điểm nầy trong « Trương Vĩnh Ký—Bi Kịch muôn đời » của Hoàng Lại Giang, chương 40.
Phụ lục 2
Trương Vĩnh Ký thân thiết với Paul Bert và theo thuyết ông này chủ trương hoà hoãn, bình định, trong khi những người Pháp khác chỉ muốn áp đặt guồng máy thống trị toàn cõi Việt Nam! Như vậy, người Pháp dùng Trương Vĩnh Ký nhưng thường vẫn ngại ông. Joseph Chailley-Bert trong cuốn “Paul Bert au Tonkin” viết về Trương Vĩnh Ký : "Ðể thêm người làm việc cho vua, Paul Bert đã cho vào Cơ Mật Viện một nhà trí thức nổi tiếng của nước Nam-kỳ thuộc địa tên Trương Vĩnh Ký. Ðây là người vẫn được người Pháp bàn tán tranh cãi đặc biệt và có những ý kiến quá trớn" . Phải chăng quá trớn cho quyền lợi Pháp? Trong một văn thư gửi toàn quyền Noel Pardon, văn thư cuối cùng liên hệ với cầm quyền Pháp, họ Trương trình bày những ưu tư và giải pháp ông nghĩ để giải quyết những rối loạn ở Ðông dương! Nhiều lần Trương Vĩnh Ký đã tận dụng chức vụ để bày tỏ với người Pháp những ưu tư của ông đối với người dân thường, như trong tường trình ngày 28-4-1876 về Bắc kỳ, tường trình vốn bị nhiều người lên án làm chỉ điểm cho Pháp chiếm Bắc-kỳ sau đó. Ông ưu tư trước hiểm họa chiến tranh hao người tốn của như cụ Phan Thanh Giản trước đó đã bầy tỏ qua cử chỉ nộp thành và quyên sinh! Biết thua thiệt, nên "bất cượng chớ cượng làm chi" (tựa sách viết năm 1882), do đó ông muốn dựa vào kẻ mạnh khoa học và giáo dục, hầu mong dân nước mình tiến bộ theo! Hơn nữa, khác với Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký không bao giờ kết án những người Việt chọn con đường yêu nước võ trang chống Pháp và cũng không hề nịnh hót chính phủ thuộc địa để được quyền lợi vật chất. Người Pháp đã không "bằng lòng" về Trương Vĩnh Ký nhiều lần khác. Như khi ông lo cho học sinh được triều đình Huế gửi vào Sài-Gòn học trường thông ngôn, có người đã nghi ông "phản" Pháp và chăm lo cho triều đình Huế, viên thống đốc Nam-kỳ lúc đó chỉ trả lương chức Ðốc học cho ông và có khi còn bày trò trả lương trễ cho ông! Chính những trò đời này và ông dư sức đã hiểu tâm địa người Pháp sau một thời gian "hợp tác", cho nên sau đó cho đến chết ông sống thanh bần, lo viết và in sách để phổ dương văn học và văn hóa Việt Nam(Nguyễn Vy Khanh, tldd)
Phụ lục 3.
Trương Vĩnh Ký tận tụy, hăng say “viết sách cho đời” với cả trái tim của kẻ sĩ! Ông chẳng hề nhận một sự tài trợ nào của chính quyền thuộc địa của Pháp. Ông cũng không có nhận sự giúp đỡ tiền bạc của Giáo Hội hay của một Mạnh Thường Quân nào! Ông chỉ sử dụng số tiền dành dụm của gia đình, trong những năm ông còn làm việc, để thanh toán các khoản tiền in ấn, phát hành. Chính vì thế, vào những năm cuối đời, gia đình ông đã hoàn toàn khánh tận, nên phải chịu mắc nợ nhà in Rey et Curiot một số tiền lớn, không có cách nào thanh toán nổi! Cho nên học giả Lê Thanh đã cảm than rằng: “Vì quá tận tụy cho nhà, cho nước, cho văn chương, tư tưởng mà Tiên sinh đã phải trả giá đắt bằng cả sức khỏe, và sau cùng bằng cả cuộc đời của Tiên sinh!”(Trương Vĩnh Ký của Lê Thanh)
Phụ lục 4
Vài tác giả Pháp cũng viết về Petrus Key như Henri Cordier (“Pétrus Truong Vinh Ky;” T’õoung Pao, Séries II, 1 (1900), tr. 261-8) để tưởng nhớ ông, và đặc biệt là Jean Bouchot, một viên chức quản thủ văn khố [archivist]. Bouchot bỏ ra một thời gian dài thu thập tư liệu của gia đình Petrus Key hầu viết tiểu sử ông (Petrus J. B. Truong Vinh Ky, 1837-1898, Saigon, Paulus Cua, 1927), v.. v... Đây quả là vinh dự cá nhân cho Petrus Key. Nhưng, đồng thời, những tư liệu trên cũng hùng hồn chứng minh vai trò trung gian bản xứ ngoại hạng mà Petrus Key thủ diễn trong cuộc xâm lăng và bình định xứ Nam Kỳ của Pháp, cũng như mở rộng cuộc xâm lăng ra Bắc và Trung Kỳ (1859-1886), hay sát nhập nước Ai Lao vào Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (1893) (Nguyên Vũ—Góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký)
Tài liệu tham khảo (tiếng Việt)
-Lịch sử 80 năm chống Pháp tập I-II /1957 (Trần Huy Liệu), NXB Văn Sử Địa
-Trí thức Nam Kỳ đối mặt với cuộc chiến tranh xâm lược của Thực dân Pháp trong nửa sau thế kỷ 19—Luận án Tiến sĩ của Trần Thị Kim Nhung (2003), bản đánh máy, Đại Học Quốc gia Thành phố Hồ chí Minh.
-Giáo sĩ Thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt nam(1857-1914) Cao Huy Thuần (2002) do Nguyên Thuận dịch. NXB Tôn Giáo
-Xứ đàng trong—Luận án Tiến sĩ của Li Tiana(1992) NXB Trẻ
-Trương Vĩnh Ký, Nhà văn hóa—Nguyễn văn Trung (1993). NXB Hội Nhà Văn
-Trương Vĩnh Ký--Con người và sự thật—Nguyễn văn Trấn (1993). NXB Thành phố Hồ chí Minh( Ban Khoa học Xã hội Thành ủy)
-Nguyễn Trường Tộ--Con người và di thảo—Trương Bá Cần (1998). NXB Thành phố Hồ chí Minh
-Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa— Luận án Tiến sĩ của Yoshiharu Tsuboi(1990). NXB Thành phố Hồ chí Minh(Ban Khoa học Xã hội Thành ủy)
-Trương Vĩnh Ký—“Bi Kịch muôn đời” trong Hòang Lại Giang Tuyển tập (2008). NXB Văn Hóa
-Thế kỷ 21 nhìn về Trương Vĩnh Ký—nhiều tác giả (2006) NXB Văn Hóa Sài gòn
-Việt Nam Pháp thuộc sử : 1862-1945 / Phan Khoang (1961)
-Lịch Sử Cuộc Viễn Chinh Nam Kỳ năm 1861 của Leopold Pallu do Hang Phong dịch và bình. NXB Phương Đông 2008
Và nguồn tư liệu tiếng nước ngoài (lược), trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử và các trang mạng Giao điểm, Talawas, Đất Việt… như đã trích dẫn.
Các quan ta tiếp đãi Simon, thuyền trưởng chiến hạm Le Forbin, đến Đà-Nẵng yêu cầu triều đình gửi Toàn quyền đại thần vào Gia-định thương thuyết.
Thông ngôn: Trương Vĩnh Ký và Cố Trường (Le Grand de la Liraye)
Trương Vĩnh Ký đang giảng bài
Tượng Trương Vĩnh Ký đặt trong công viên sau lưng nhà thờ Đức Bà (Sài gòn), trước Dinh Độc Lập (dinh Thống Nhất ngày nay) đã bị dời đi sau ngày 30/04/1975
http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/tacgia/truongvinhky-hlt.htm
1. Bài của Nguyễn Vy Khanh (viết năm 2000, lên mạng từ năm 2008)
Về Trương Vĩnh Ký và một số vấn đề văn bản, lối nhìn …
Vietsciences- Nguyễn Vy Khanh 11/09/2008 |
Những năm cuối thế kỷ XX có một hiện tượng tiêu cực và đặc biệt ngày càng trầm trọng, đó là việc các nhân vật lịch sử và văn hóa Việt Nam liên tục bị hạ bệ, vẽ trấu: Nguyễn Huệ, Gia Long, Nguyễn Du, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, ... cũng như một số lãnh tụ, tướng lãnh bất kể phe phái nào. Có khi là những nỗ lực đi tìm sự thực lịch sử, có khi là những đánh giá lại, có khi gián tiếp chửi bới một chế độ, phe nhóm, có khi vì kỳ thị tôn giáo hay vì mặc cảm, dị ứng, biến ứng, có người riêng rẻ, lại có những tổ chức qui mô. Sự kiện 30-4-1975 đã chứng minh vai trò của "hoả mù" tuyên truyền, phản thông tin trong cuộc chiến tranh đó! Trong một tình cảnh chung của người Việt lúc này sống chết với ... lịch sử, với hiện tượng hồi ký tạp loại, nhất là tiểu thuyết lịch sử, dã sử. Dĩ nhiên đó cũng là lý do trong nước gần đây (4-2000), tại đại hội Nhà văn lần thứ 6, việc sáng tác về các đề tài lịch sử đã được Ban Chấp hành Hội Nhà văn đề ra như là một phương hướng nhiệm vụ cần thiết cho ngũ niên tới, 2000-2005 (1). "Hoả mù" cứ thế mà tiếp tục thôi ! Dĩ nhiên, Trương Vĩnh Ký không thoát những đòn hỏa mù đó! Từ ngày ông qua đời đến nay và qua nhiều cuộc đổi đời, đã có nhiều công trình biên khảo và nghiên cứu về ông, khen có chê có. Trong bài này chúng tôi với chủ ý đặt lại một số vấn đề nghiên cứu căn bản, do đó chỉ xin nêu ra một số sai lầm và nghi vấn về con người và sự nghiệp Trương Vĩnh Ký, một người Việt Nam-kỳ, theo đạo Thiên chúa, làm việc cho Pháp và là người mở đường báo chí và văn học chữ quốc ngữ ở hậu bán thế kỷ XIX. Ông sống đồng thời với Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, ... nhưng mỗi người một cuộc đời khác nhau, đại diện cho các khuynh hướng người Việt lúc bấy giờ đối với thực dân Pháp thôn tính Nam-kỳ.
1. Người ta thường phê phán Trương Vĩnh Ký làm việc với kẻ thù ngoại bang tức người Pháp.
Bước đầu là làm thông ngôn cho Hải quân Pháp là những người sẽ đánh chiếm lục tỉnh. Phê phán dễ nếu không đặt vào hoàn cảnh của đương sự. Sau khi đi tu đạo Thiên-Chúa không thành và du học từ năm 14 tuổi ở Poulo Penang, ông về thọ tang mẹ năm 1858 (2), lúc đó 21 tuổi và nay mồ côi cả cha lẫn mẹ, cũng là lúc triều đình vua Tự Đức gay gắt cấm đạo, từ năm 1848 đến năm 1861 sáu lần ra chiếu cấm đạo, như chỉ dụ 13 (1860) nói rõ không cho người theo đạo làm quan chức và nếu đang làm quan phải bỏ đạo nếu không sẽ bị hình phạt ("thắt cổ chết ngay"). Có đạo là một "tội hình", Trương Vĩnh Ký sẽ làm nghề gì nếu không làm rẫy ruộng, nhưng ông lại mồ côi, không thân thích! Năm 1860, sau khi trốn khỏi trường Cái Nhum nơi ông tá túc và dạy trẻ em, vì bắt đạo, ông phải trốn lên Sài-Gòn ở và làm việc cho giám mục Lefèbvre, nên khi người Pháp cần thông ngôn gấp vì không thể tiếp xúc với dân chúng, chính giám mục này đã tiến cử Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho trung tá Hải quân Jauréguiberry, tư lệnh Sài-Gòn. Lúc này thành Gia-Định đã thất thủ, Trương Vĩnh Ký lập gia đình năm 1861 ở Chợ Quán. Nhưng công việc này không được lâu vì Trương Vĩnh Ký đã có thái độ và quyết tâm làm theo ý nguyện của ông. Theo một tài liệu ông Nguyễn Đình Đầu mới tìm thấy, Trương Vĩnh Ký từng tỏ ra dù hợp tác với Pháp, vẫn cho họ biết ông có con đường của ông. Một bức thư của chỉ huy trưởng D’Ariès gửi đô đốc Charner đề ngày 21-5-1861 đề cử Trương Vĩnh Ký : "trong số người Nam nói được ngôn ngữ của chúng ta chỉ có một người tên là Petrus Ký là biết khá rành rẽ có thể giữ các chức vụ Ngài muốn thiết lập bên cạnh các thẩm quyền quân sự của chúng ta", nhưng D’Ariès than phiền thái độ hợp tác lơ là của người thanh niên 23 tuổi này: "từng là nhân viên Sở Sự vụ bản xứ Sài-Gòn, ông ta đã bị sa thải vì thiếu mẫn cán và tận tụy, rất thông minh, rất có khả năng làm tốt công việc, nhưng ông ta dần dà đánh mất sự tin tưởng tạo được. Tôi không muốn chỉ định ông ta để ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta". Dù vậy vị tổng chỉ huy Charner nói trên vẫn chọn Trương Vĩnh Ký và đưa ra các điều kiện để D’Ariès chuyển lại họ Trương "40 đồng một tháng và phải luôn có mặt tại Sài-Gòn". Nhưng Trương Vĩnh Ký không chấp thuận điều kiện đó và nhân tiện bộc lộ tư cách của ông khiến D’Ariès bực tức trong thư sau đề ngày 28-5-1861**: "Tính kiêu căng và các yêu sách của ông ta hơn tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng về ông ta (...) đòi 110 đồng với quyền làm công việc mà ông ta ưa thích và rút lui khi nào không còn thích hợp..." (3). Léonard Charner là người đã đánh hạ đồn Chí Hòa ngày 24-2-1861.
14 tàu chiến của liên-quân Pháp và Tây-ban-nha bắn vào cửa Hàn (Đà Nẵng) lần đầu ngày 1-9-1858, và cũng như sau này tấn công Bắc-kỳ lần thứ nhất (1873), người Pháp đều gặp nhiều khó khăn vì người Việt theo đạo Thiên-Chúa đã không hưởng ứng nổi dậy làm nội ứng như người Pháp tiên liệu.
Ngày 17-2-1859, hải quân Pháp và Tây-ban-nha đã chiếm thành Gia Định, rồi đến tháng 12-1861 chiếm hết ba tỉnh miền Đông Nam-kỳ, đưa đến hoà ước Nhâm Tuất (5-6-1862). Trương Vĩnh Ký ra Đà Nẵng làm thông ngôn trong việc ký hoà ước và đòi bồi thường chiến phí này, ông đã tỏ ra có khả năng nghị luận và thẳng thắn khi phải tế nhị giữa hai bên, đã được cả hai phe để ý. Cho nên tháng 6-1863 cụ Phan Thanh Giản đã yêu cầu Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho phái đoàn đi Paris và Madrid xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông - trong khi đó một số người như "sử gia" Vũ Ngự Chiêu sai lầm khi nói ông làm cho Pháp, tức theo phái đoàn Pháp. Không thành, và rồi ba tỉnh miền Tây cũng bị Pháp chiếm nốt. Cụ Phan Thanh Giản đã phải uống thuốc độc tự vận ngày 20-6-1867 sau khi đành nộp thành Vĩnh Long cho Pháp để tránh chết chóc cho người dân vì cụ đã thấy và hiểu ta không thể chống cự lại khí giới tối tân của người Pháp. Trương Vĩnh Ký lựa chọn con đường hợp tác sau mới rõ ra là ảo tưởng vì người Pháp không thực tâm "khai hóa", nhưng lúc đó, họ Trương không có lựa chọn khác. Đó chỉ là bước đầu vì Trương Vĩnh Ký đi xa hơn và để lại cho hậu thế một gia tài văn hóa quan trọng mà chúng ta nên bình tâm luận xét. Cụ Phan hiểu thế yếu đã tự xử cho trọn đạo quân-thần, Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương tự tìm cái chết cũng cho phải đạo. Cụ Nguyễn Đình Chiểu ở hoàn cảnh khác, cũng trốn tránh kẻ thù, không hợp tác. Tất cả trung thành với đạo nho, hôm nay có người phê bình là "hủ nho" (4). Trong bối cảnh lịch sử đó, Trương Vĩnh Ký đã lựa chọn con đường hợp tác với kẻ thù và mong chờ cơ hội để người Pháp hiểu con người Việt Nam, cũng là cách để người công-giáo trở về với dân tộc - như Nguyễn Trường Tộ sau này, chứng minh với người Pháp là người Việt theo đạo Thiên-Chúa không hẳn sẽ dễ bảo, dễ theo Pháp để phản bội lại dân tộc! Hôm nay chúng ta phê bình dễ dàng, vì không sống trong hoàn cảnh. Còn phê bình hợp tác với kẻ thù, sau ông, "chúng ta" cũng đã hợp tác với kẻ thù Trung-Hoa rồi Pháp và Mỹ ! Nếu suy luận từ những thư tín của các vị thừa sai thì cũng nên xem lại những lá thư mà ông Nguyễn Đình Đẩu đã khám phá như nói trên! Ngoài ra, cũng nên ghi nhận Trương Vĩnh Ký từng làm thông ngôn cho sứ thần Tây-ban-nha yết kiến vua Tự Đức năm 1870 và làm việc cho đại sứ nước này ở Trung-Hoa năm 1874!
2. Trương Vĩnh Ký làm báo cho Pháp
Gia Định Báo lúc đầu là một thứ công báo của chính quyền thực dân Pháp, nhưng từ 1869 (nghị định 189 ngày 16-9-1869), Trương Vĩnh Ký, một cộng tác viên từ 1865, được cử làm Chánh-tổng-tài và Huình Tịnh Paulus Của làm chủ bút, Tôn Thọ Tường, Trương Minh Ký, v.v., trong ban biên tập. Gia Định Báo được thêm phần truyền bá chữ quốc ngữ, khuyến khích dùng thứ chữ này để viết báo viết văn - báo khuyến khích độc giả viết chuyện ở các địa phương họ ở bằng chữ quốc ngữ; và cổ động cho lối học mới. Từ 4 trang lên 16 trang. Vô tình, Gia Định Báo đã đóng vai trò tiền phong truyền bá cái về sau gọi là văn học chữ quốc ngữ. Đến năm 1874, J. Bonet được cử làm chánh tổng tài thay Pétrus Ký, thì tờ Gia Định Báo trở lại với vai trò thông tin tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa và rút lại 4 trang như trước. Trương Vĩnh Ký chỉ làm báo cho Pháp một thời gian ngắn trong suốt quá trình hoạt động văn hóa của ông. Ngoài ông ra, làm báo theo lệnh Pháp hay nhận tiền của Pháp còn có Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Đức Quỳnh, ... Nếu thêm danh tính các khuôn mặt lớn khác đã làm báo cho Pháp, Trung-cộng, Liên Xô, cho Mỹ trước và sau 1975,... danh sách sẽ dài ra!
3. Chữ quốc ngữ
Trương Vĩnh Ký thông thạo nhiều thứ tiếng và cả chữ Nôm chữ Hán, nhưng ông đã có cái nhìn thực tiễn khi cổ động việc sử dụng chữ quốc ngữ để thay thế hai thứ chữ không đến được dân gian. Ông viết, phiên âm và phiên dịch các tác phẩm chữ Nôm, Hán qua chữ quốc ngữ, mà các bản dịch Tứ Thư Ngũ Kinh đã là những công trình quí hiếm vì trước đó chưa bậc tiền bối nào đã dịch ra chữ Nôm! Ông lại soạn tự điển và viết sách văn phạm tiếng Việt, làm chuyện đến lúc đó chưa ai làm qui mô. Trong bộ Sơ Học Qui Chánh (Manuel des écoles primaires) gồm 3 tập mà cuốn đầu Syllabaire Quốc ngữ xuất bản năm 1876, Trương Vĩnh Ký đã cho biết "Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy, người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện ..." (5)
Cuốn Chuyện Đời Xưa (6) của Trương Vĩnh Ký in năm 1866 là ấn phẩm văn xuôi đầu tiên bằng chữ quốc ngữ; chúng tôi nhấn mạnh ấn phẩm vì trước ông đã có những bản viết tay bằng chữ quốc ngữ của các vị thừa sai và tu sĩ người Việt, như Bento Thiện đã viết về lịch sử Việt Nam năm 1659, và đã có những cuốn tự điển của A. de Rhodes (Đắc Lộ), Tabert và Phan Văn Minh, v.v. Tập từ điển của Tabert (1838) có phụ lục chuyện I Tử Đạo Văn gồm 560 câu thơ lục bát.
Người ta đã cho rằng vì ông làm tay sai cho thực dân và vì là người theo đạo Thiên-Chúa nên cổ động chữ quốc ngữ là chữ của thực dân và nhà Chung. Phạm Long Điền (nhấn?) mạnh ý này nhất. Ở đây cũng nên nêu một hiểu lầm khác: trước nay dư luận vẫn cho rằng các vị thừa sai người Bồ rồi Pháp đã buộc người Việt theo đạo Thiên-Chúa phải dùng chữ quốc ngữ và có người còn gán tội người Thiên-Chúa giáo đã đồng hoá chữ Nôm và Hán là chữ của "ngoại đạo". Đây chỉ là một thuần suy diễn thiếu căn bản lịch sử. Những khám phá gần đây ở Việt Nam của nhóm các linh mục Thanh Lãng và Nguyễn Hưng đã góp phần làm sáng tỏ sự "mất gốc" của người Việt Nam theo đạo Thiên-Chúa : chỉ riêng thế kỷ XVIII, các nhà tu hành và giáo dân đạo Thiên-Chúa đã biên soạn khoảng 14 tác phẩm chữ Nôm gồm khoảng 1 triệu hai trăm ngàn chữ với bốn ngàn hai trăm trang hiện còn tìm được, trong khi trong cùng thời gian, họ chỉ biên soạn khoảng 700 trang chữ quốc ngữ, tức sáu lần ít hơn (7)! Vậy đồng hoá người theo đạo Thiên-Chúa với chữ quốc ngữ làm "mất nước" và mất "hồn nước" tựu trung cũng chỉ một huyền thoại, một suy diễn thiếu căn bản lịch sử! Ngoài ra có những tu sĩ Việt Nam đã có cái nhìn nếu không dân tộc thì cũng đi trước thời đại, như linh mục Lữ-Y Đoan đã diễn dịch Kinh Thánh thành Sấm Truyền Ca năm 1670. Ông đã dùng những ý niệm và ngôn ngữ của tam giáo á-đông và văn hóa dân gian Việt Nam để hiểu và diễn dịch Kinh Thánh và giới giáo quyền từ thời đó đã không cho phổ biến vì "trái" luật đạo - cho đến thời Vaticano thứ hai (1962-65) (8). Một trí thức dù theo đạo vẫn không mất gốc, Trương Vĩnh Ký sau này cũng đi theo con đường của ông! Sự thực thì chữ quốc ngữ trước hết là một phương tiện cho các nhà truyền giáo dùng trong nội bộ giúp nhau ghi lại và hiểu tiếng Việt, rồi đến các cộng đoàn đạo, đến giữa thế kỷ XVIII chữ quốc ngữ phát triễn hơn vì lý do cấm đạo và việc sử dụng bắt đầu tiện lợi. Theo nhà nghiên cứu Rolland Jacques, chữ quốc ngữ lúc đầu chủ yếu mô tả phát âm nhằm giúp người ngoại quốc mới học, nhưng về sau khi đã phổ biến đối với người Việt thì khía cạnh âm-vị-học được ưu tiên hơn, dấu vết hãy còn đó trong các tự điển và tranh luận về các cách phiên âm Nôm ra quốc ngữ (9)!
Thứ nữa là lý luận chữ quốc ngữ là chữ của thực dân xâm lược. Đây là một suy diễn khác. Chữ quốc ngữ nguyên do các thừa sai người Bồ-đào-nha và người Nhật sang truyền đạo ở Việt Nam từ những năm 1620 lập ra để tiện lợi hoá việc biên chép và giao thiệp. Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) chỉ là người đã phụ trách việc tu chính lại những tự điển đã có lúc đó nhưng phổ biến hạn chế trong nội bộ, và in ấn cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên : Tự điển Việt-Bồ-La / Dictionarivm annamiticvm, et t(l)atinvm... (xin chú ý: Việt-Bồ-La chứ không có chữ Pháp trong cuốn tự điển này cũng như cuốn kể sau!), và Phép Giảng Tám Ngày.../ Cathechismvs pro ìs.... Ông đã tổng soạn lại những công trình trước đó của các thừa sai người Bồ (10) và lúc linh mục Đắc Lộ người Pháp in ấn cuốn tự điển nói trên năm 1651, Pháp chưa đem hải thuyền chiếm Việt Nam vì lúc đó là thời của Bồ-đào-nha và Tây-ban-nha làm chủ mặt biển, và đến một thế kỷ rưỡi sau, khi giám mục Bá-Đa-Lộc cầu cứu vua Pháp giúp chúa Nguyễn Ánh, vua Louis XVI dù đã ký hiệp ước Versailles hứa giúp chúa Nguyễn vẫn không hề nghe theo để lợi dụng cơ hội xâm chiếm Việt Nam ! Thứ nữa, giáo sĩ Đắc-Lộ đi á-đông truyền giáo đã thề phục vụ vua Bồ-đào-nha. Suy luận có thể diễn dịch từ sinh quán Avignon của ngài ở Pháp. Ngộ nhận thứ hai do câu văn A. de Rhodes viết tường trình chuyến đi lần sau.Trong Divers voyages et missions (Paris, 1653) đoạn cuối chương 19, phần 3, ông viết như sau : "J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises...". Chữ "soldats" ở đây phải hiểu theo nghĩa thứ nhì là "chiến sĩ" mà phải là "chiến sĩ phúc-âm, nhà truyền giáo", thứ nữa không nên quên sinh quán của ngài là đất của giáo hoàng! Lính Pháp vào năm 1653 chưa lên đường đi chiếm thuộc địa mà Hội Truyền giáo Paris cũng chỉ được lập sau đó, năm 1661! Những người chỉ tra từ điển thường, đã cố ý bới móc chi tiết với ý bôi xấu, bẻ quặt lịch sử dễ rơi vào cái bẫy kiến thức chủ quan, thiên kiến hoặc ám ảnh paranoiac! Cuốn A. de Rhodes Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam Và Chữ Quốc Ngữ (11) là một thí dụ điển hình, một thủ thuật khả nghi, vơ địch chính trị làm đồng minh để chống địch tôn giáo, thu góp bài viết mù mờ lý luận, thường đã cũ 30, 50 năm và cũng không cho biết diễn biến tư tưởng các người viết, coi thường độc giả ! Trong nước, sau nhiều "cơn bão", cái nhìn của người nghiên cứu đã theo sự thật. Mới đây trong Giao Lưu Văn Hóa Và Ngôn Ngữ Việt Pháp của Viện Ngôn ngữ học do Tòa đại sứ Pháp ở Hà-nội giúp xuất bản, Lý Toàn Thắng đã đánh giá lại sự đóng góp của Alexandre de Rhodes đối với sự thành hình chữ Quốc ngữ kết luận de Rhodes chỉ là người đóng góp một phần và chữ quốc ngữ của ông dù khá hoàn chỉnh vẫn chưa có hình thức như nay, do đó "cũng không thể nói là ông đã kiện toàn hay hoàn thành chữ quốc ngữ" (12) mà nên dành công đó cho Pigneau de Béhaine!
Thật ra chỉ là một tình cờ của lịch sử mà chữ quốc ngữ đã trở thành công cụ cai trị của người Pháp. Phải nói chính người Pháp đã "lợi dụng" thứ chữ lúc đó đã thông dụng trong giới tu hành đạo Thiên-Chúa để làm ngôn ngữ công văn và hành chánh, sau đó người Pháp mới có ý muốn người Việt quên đi văn hóa dân tộc để dễ đồng hoá khi cho dịch Hán Nôm ra quốc ngữ. Và chính người Pháp đã đánh sai dư luận, như Georges Taboulet trong La Geste francaise en Indochine đã viết "Cha Alexandre de Rhodes đưa Kitô giáo và nước Pháp vào Việt Nam" (13). Một loại tuyên truyền chính trị ! Người Việt thiển cận đã không tham chiếu và đã lập lại luận điệu của ... thực dân! Dĩ nhiên có những vị thừa sai thực dân như giám mục Puginier đã tiếp tay cho nước Pháp của họ khi đánh Bắc-kỳ lần thứ nhất, nói là để vinh danh "nước Chúa" thật ra chỉ vì quyền lợi nước họ, hai thế kỷ sau câu viết gây hiểu lầm (ngoan cố) của A. de Rhodes nói trên! Ngoài ra lịch sử cũng ghi rằng các sĩ quan hải quân Pháp đã ngần ngại dùng các giáo sĩ trong việc đánh chiếm Nam-kỳ cũng như Bắc-kỳ! Pháp đến để bảo vệ người theo đạo đã trở thành huyền thoại, vì đó chỉ là cái cớ, phương tiện cho mưu đồ xâm lăng của thực dân! Và chữ quốc ngữ đã là công cụ của Pháp, trong thực tế lịch sử cũng không hẳn vậy vì sau vài bước đầu, thực dân Pháp đã thay thế chữ quốc ngữ bằng chữ Pháp trong chương trình giáo dục, chữ quốc ngữ trở thành thứ yếu, "chỉ là ngôn ngữ thông dụng chứ không phải là một ngôn ngữ văn hóa", nói theo Bằng Giang (14). Trương Vĩnh Ký đóng góp cả đời với tin tưởng ở chữ quốc ngữ, trong khi thực dân chỉ lợi dụng chữ quốc ngữ khi cần đến; nhưng cũng nhờ những tiền bối như ông, nếu không nước ta đã rơi vào tình trạng của Phi-luật-tân!
Không những cổ động chữ quốc ngữ, Trương Vĩnh Ký còn có một chủ trương rất dứt khoát về tiếng Việt. Có hai khía cạnh: thứ nhất ông chủ trương dùng tiếng Việt của tổ tiên khởi từ Bắc sau Nam tiến, thứ tiếng tìm thấy trong văn chương truyền khẩu và một số truyện Nôm như tuyện Kiều, Phan Trần,... Tức không pha chữ Hán, như thầy giảng Lữ-Y Đoan đã làm với Sấm-truyền ca trước thời Trương Vĩnh Ký. Câu văn cũng được Trương Vĩnh Ký chăm sóc và nếu so sác(n)h các văn bản lúc đầu như bài viết trên Gia-Định Báo và Chuyện Đời Xưa (1866) với các bài viết cuối đời ông sẽ thấy có sự "tiến bộ" tức hợp lý, sáng sủa và dễ hiểu hơn. Chính Phạm Long Điền cũng công nhận tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Paulus Của, .. không có nhiều lỗi chánh tả như tiếng Việt trên sách báo trong Nam hồi đầu thế kỷ XX (15)! Các nhà nghiên cứu văn học đã gọi đó là trường phái Trương Vĩnh Ký, đồng thời và sau ông có Nguyễn Trọng Quản, Trương Minh Ký, ... Nhưng bên cạnh có những người Nam viết sai theo nói sai. Chính đó là lý do văn viết trong Thầy Lazarô Phiền dễ hiểu hơn nhưng đã bị trường phái "bình dân" lấn lướt! Mà ngày nay hai khuynh hướng viết ngôn ngữ miền Nam này vẫn còn thấy rõ ở Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Tấn Hưng, Phùng Nhân, ... hoặc Nguyễn Văn Sâm, Hồ Trường An, Kiệt Tấn.
4. Ông đã viết rất nhiều sách báo giới thiệu đất nước và con người Việt Nam,
dĩ nhiên bằng tiếng Pháp: Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, Précis de géographie de l’Indochine, Produits de l’Annam, Dictionnaire biographique Annamite,v.v. Ngoài ra ông còn biên soạn nhiều bộ sách khảo cứu bằng tiếng Việt như Đại Nam Tam Thập Nhứt Tỉnh Thành Đô,... Ông là người đầu tiên làm cái việc mà ngày nay người ta gọi là Việt-Nam-học, sau ông có G. Dumoutier, L. Cadière, v.v. Vì là người đầu tiên làm việc một cách khoa học nên đã bị nghi làm rapport cho "Tây" chăng ? Những công trình này đã được giải thưởng của Hội địa lý Pháp và được "quốc tế" nhìn nhận như những tài liệu căn bản. Tưởng cũng cần nhắc ở đây công dìu dắt Trương Vĩnh Ký ở bước đầu của một nhà truyền giáo người Pháp, Bovillevaux, người đã có công phát hiện Đế Thiên Đế Thích, Trương Vĩnh Ký vẫn hay nhắc đến với tên Việt "cố Long" (3), bạn của thân sinh ông thuở sinh thời, trong thực tế là cố đạo duy nhất đã ảnh hưởng lên Trương Vĩnh Ký nếu có!
Việc giới thiệu này của ông đã bị các ông Mẫn Quốc, Phạm Long Điền, ... kết án là cung cấp tài liệu cho thực dân dễ chiếm hữu lãnh thổ Việt Nam. Đây là nói đến cuốn Chuyến Đi Bắc-kỳ năm Ất Hợi và bản báo cáo đính kèm gửi đô đốc Duperré! Ông Mẫn Quốc kết án ông có "nhiệm vụ đặc phái" làm " gián điệp, tình báo, giòi trong xương giòi ra"(16). Phạm Long Điền kết : "Chuyến đi Bắc-kỳ của Trương Vĩnh Ký năm 1876 không ngoài mục đích xem xét tình hình để báo cáo tường tận cho Soái phủ Nam-kỳ và từ đó, Soái phủ Nam-kỳ chuẩn bị tiến quân ra Bắc trong một cuộc xâm lăng đại qui mô nhằm đặt toàn cõi Đông dương dưới quyền thống trị của thực dân Pháp" (17). Có thể Trương Vĩnh Ký ngây thơ vì quá thành thật và tự tin vào vai trò trung gian của mình mà không thể ngờ là người Pháp lợi dụng ông chăng ?
5. Phương pháp nghiên cứu của Trương Vĩnh Ký đã khoa học, bằng giả thuyết và văn bản.
Đến hậu bán thế kỷ XX bên Âu tây mới có thuyết đề cao văn bản, thế mà Trương Vĩnh Ký ở hậu bán thế kỷ XIX đã sử dụng để nghiên cứu văn học ! Trương Vĩnh Ký đã sử dụng phương pháp khoa học tiến bộ so với phương pháp biên niên sử theo Trung Hoa của thời đó, ông là người đầu tiên biên soạn lịch sử Việt Nam mà lại bằng tiếng Pháp. Hai tập Petit cours d’histoire annamite (Giáo Trình Lịch Sử An-Nam) xuất bản năm 1875 và 1877, cả hai tổng cộng khoảng 462 trang. Tập 1 viết về thời lập quốc đến nhà hậu Lê (2874 AD - 1428), tập sau từ 1428 đến 1875. Ông là người đầu tiên đã chứng minh lịch sử Việt Nam đã khởi đầu từ hơn 4000 năm, theo ông thời xa xưa nhất của lịch sử Việt Nam khởi từ năm 2874 trước Công-nguyên với 20 đời vua Hồng Bàng, 18 đời vua Hùng Vương và đời Thục An Dương Vương (tr. 7-17). Vận dụng, khai thác nguồn văn thư tịch và truyền thuyết, truyện cổ, ông đã dựng cơ sở lịch sử cho thời "huyền sử", ông dựng lại đời sống, con người và xã hội thời xa xưa đó . Theo ông, "các sử gia biên niên xưa nhằm xu nịnh vua chúa, đã đặt ra những huyền thoại để khẳng định thiên mệnh của nhà vua. Còn dân gian thì trong các chuyện truyền khẩu, đã biết ngược dòng thời gian xa xôi trong cái thời điểm mà lịch sử không còn dấu vết, có chăng chỉ còn dấu tích trong các ngọn nguồn thâm sâu huyền hoặc của thần thoại. Người ta không thể coi thường những chuyện kể ở những thời xa xưa, bởi vì mặc dù chúng có khó hiểu, thậm xưng, hoặc không chặt chẽ nhưng người ta vẫn có thể rút ra, từ sự tưởng tượng và cả những nhận thức sai lầm trong đó, những kiến thức về những cái có thể có thực, hoặc ít ra là một phương hướng một dấu vết khả dĩ dùng được để tìm ra sự thực" (18).
Thật vậy, ông đã vận dụng nhiều phương pháp khoa học và là người đi đầu viết lịch sử dân gian thay vì chỉ chú trọng giới vua chúa quan quyền, mà khi viết về mỗi triều đại ông cũng đã viết về đời sống xã hội cũng như các khía cạnh kinh tế, văn hóa, ngoại giao, v.v.. Không bị ràng buộc như các quan sử lịch triều, sống ở đất thuộc địa, lại có một căn bản bác học, nhờ đó ông có cái nhìn tổng quát và chứng tỏ cố gắng khách quan. Khi viết chuyện vua Lê Chiêu Thống chết bên Tàu được liệm để đưa về chôn ở quê nhà, khi liệm người ta đã tìm thấy tim vua còn tươi đầy máu, ông bàn "Đó chỉ là một chuyện bịa đặt không căn cứ, kết quả của những trò phỉnh gạt thô bỉ và phạm thượng” ("C’est une invention fantaisiste, le résultat de quelque grossière et profane mystification" (tr. 207). Ông đã luận công tội các triều đại xưa và vinh danh các anh hùng dân tộc. Ngòi bút trở nên đanh thép khi viết về Hai Bà Trưng : "Suốt 149 năm (111 av CN đến 38 CN) nước An nam đã phải chịu đựng cái ách của các viên quan cai trị Trung quốc. Nhưng cuộc đô hộ rồi cũng phải bị tiêu diệt, như tất cả những gì bắt nguồn từ những quá độ của bạo lực: ách đô hộ đã bị bẻ gãy bởi bàn tay của một người phụ nữ"(19).
Hay khi xét mặt trái chuyện Sĩ Vương :
"Sĩ Vương đã du nhập sang ta nền văn học Trung quốc, cũng như đạo lý Khổng Tử, ép buộc nhân dân An-nam phải tiếp nhận làm của mình, và cấm dùng thứ chữ viết phiên âm đặc biệt riêng của người An-nam. Vì biện pháp nghiệt ngã ấy mà người An-nam đã hoàn toàn mất đi thứ chữ viết riêng của mình". (20).
Xét chuyện xưa đưa đến phê phán nặng nề chuyện nay : "Dù người An-nam là công dân của nước Pháp hay của Bắc, Trung kỳ đều có chung một nguồn gốc. Dù bị ngăn chia (với phần còn lại nước Việt) vì vận mạng chính trị, chúng tôi vẫn phải phản đối mạnh mẽ cái chế độ cai trị lầm lạc đã biến dân chúng thành bầy thú của vua, và là một sự bóc lột trầm trọng, có tội với xứ sở". Ông liền ghi chú xin lỗi :"Nhưng xin người đọc đừng giận tôi vì trong tôi tràn ngập một nỗi buồn cay đắng khi thấy đất nước phải ra nông nỗi này, chuyện đáng ra không đáng phải xảy ra" (21). Đây là lần hiếm hoi ông lộ rõ bất bình đối với vua quan Tống-nho nhà Nguyễn. Bộ Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký xuất bản sau (1879) (8) cũng được viết ngoài vòng cương tỏa của triều đình nhà Nguyễn, như bộ của Trương Vĩnh Ký, nhưng bộ sử của họ Trương có cái nhìn quán triệt và tổng quan hơn nhiều! Cụ Nguyễn Văn Tố trong bài tiếng Pháp "Petrus Ký" trên tập Kỷ yếu của Hội Trí tri Bắc-kỳ năm 1937 đã dành 10 trong 42 trang để phân tích và phê bình cuốn sử này, đã đề cao phương pháp sử có cơ sở : "… Đã đến lúc tính uyên bác Nam kỳ thay thế cho những quyển sách cũ kỹ ấy, đến lúc đó loại trừ, một mặt, tất cả những thứ tạp nhạp gọi là thông tin mượn ở sách vở Trung quốc và mặt khác dành một vị trí xứng đáng cho những dữ kiện chính xác và phong phú rất mực do sử ký ta cung cấp" (22). Trương Vĩnh Ký cũng đã để lại một bản thảo "Truyện Đất Nam-kỳ lịch sử Đàng Trong” bằng chữ quốc ngữ viết năm 1864 "xưng tụng các chúa Nguyễn bằng vua"(23). Ông còn tỏ ra là một nhà ngôn ngữ học thông thái, với những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Việt, á-đông và nhiều nước như Étude comparée sur les langues, les écritures, les croyances et les moeurs de l’Indochine, Analyse comparée des principales langues du monde, v.v. Những công trình được nhiều nhà nghiên cứu Việt và Âu-Mỹ đánh giá cao như J. Thomson trong Dix ans de voyages dans la Chine et l’Indochine (1873), J. Bouchot trong Un savant et compatriote cochinchinois : Petrus J.B. Trương Vĩnh Ký (1925), cả nhà ngữ học Cao Xuân Hạo trong nước qua bài "Trương Vĩnh Ký trong lịch sử ngôn ngữ học VN". (24).
6. Nhưng trên hết, qua sự nghiệp để lại, Trương Vĩnh Ký đã chứng tỏ có chủ trương làm công tác văn hóa cho dân tộc.
Nổi tiếng bác học quốc tế, tinh thông hơn hai chục sinh và tử ngữ, ông lại cổ võ luân lý Nho giáo, ông là người có nhiều ấn phẩm về đạo lý hơn các nhà văn hoá tiền phong chữ quốc ngữ khác như Huình Tịnh Paulus Của, Trương Minh Ký. Hành trang của Trương Vĩnh Ký là của một con người trí thức, ngoài những chức chính thức khi làm việc với Pháp, suốt đời cặm cụi vì văn hóa, có khi trong những hoàn cảnh khó khắn về tài chính và cô đơn không được người đồng thời thông hiểu cho, còn người Pháp dĩ nhiên lợi dụng hơn là hợp tác về văn hóa! Trong Sĩ-Viện Thư-Phổ tức Catalogue sách xuất bản của ông in năm 1894, ông đã bày tỏ tư duy của mình, một ý tưởng dẫn đạo công việc của ông : "Vì cũng nghĩ thế cục ngày nay như những lớp sóng xô tình người đến chỗ phụ nghĩa, chính đạo mỗi ngày một suy đồi, thuần phong mỹ tục ngày càng bị buông xuôi" (25). Trái với ngộ nhận của nhiều người, ông không hề dịch sách Pháp ra quốc ngữ và không hề giới thiệu văn hóa Pháp; có chăng là ông giới thiệu văn hóa và đất nước Việt Nam bằng tiếng Pháp. Ông cũng là soạn giả nhiều cuốn tự điển đã xuất bản hoặc mới in thạch bản. Ông giới thiệu địa lý, lịch sử văn hóa của Việt Nam với hy vọng người Pháp hiểu dân tộc nhược tiểu bị trị hơn. Ông không hề khuyến khích, cổ động đồng bào ông học tiếng Pháp, theo văn hóa và phong tục ngoại lai. Suốt đời dù làm với Pháp hay không, ông chỉ mặc bộ áo dài thuần Việt! Thông hiểu chuyện thế giới, nhìn thấy sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật của người, ông đã có sẵn kết luận cho dân tộc ông, con đường mà ông đã vạch và đi đến cuối đời. Hợp tác với chính quyền thực dân nhưng con người và tâm hồn ông vẫn gắn chặt với đất nước, tổ tiên, ông vẫn coi mình là đồng bào với người Trung Bắc. Ngược lại, Trương Vĩnh Ký luôn đề cao và phổ biến đạo lý đậm truyền thống dân tộc. Khi làm việc lãnh lương của chính quyền Pháp, như khi làm Gia Định Báo, ông lợi dụng để phổ biến thơ văn yêu nước, phiên âm ra quốc ngữ - nhờ đó mà thơ văn này có thêm dịp may lưu lại cho hậu thế. Vào cuối đời, hết được người Pháp trọng dụng, ông vẫn bền chí biên soạn sách vở và trực tiếp lo việc xuất bản. Năm 1888, Trương Vĩnh Ký xuất bản tạp chí Thông Loại Khóa Trình (Miscellannées ou Lectures instructives pour les élèves des écoles primaires, communales, cantonales et les familles - bìa tiếng Pháp nhưng ruột tựa và bài vở quốc ngữ, để dễ qua mắt thực dân chăng?) với mục đích cổ động phong hóa cũ, phổ biến văn hóa dân tộc kể cả văn thơ chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Tri Phương, Bùi Hữu Nghĩa,... nhưng thiếu vốn, tạp chí chữ quốc ngữ tư nhân đầu tiên đó chỉ ra được 18 số (tháng 5 đến 10-1889). Từ số 4 tăng từ 12 lên 16 trang và ngoài TVK ra, từ số 6 tăng cường thêm Huình Tịnh Paulus Của, Trương Minh Ký, Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh,... Mỗi số giá 60 xu thời bấy giờ bằng giá một tạ lúa, bưu điện chưa có, người mua phải đến tận Chợ Quán để mua!
Trương Vĩnh Ký dịch trọn bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh nhưng đến khi qua đời mới chỉ xuất bản được hai cuốn là Đại Học và Trung Dung (1889) của bộ Tứ Thư. Còn hai cuốn Luận Ngữ và Mạnh Tử chỉ mới in ở dạng thạch-bản. Trong khi Võ Phiến đề cao Phạm Quỳnh trừu tượng hóa tiếng Việt (TK21) thì giáo sư Nguyễn Văn Trung đã thán phục Trương Vĩnh Ký đã dịch cả phần siêu hình học trong khi ngôn ngữ ta lúc đó chưa có sẵn chữ (26)! Trương Vĩnh Ký chăm sóc ra bộ học báo Thông-Loại Khoá-Trình để phổ biến văn hóa và thơ văn dân tộc, cả thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Tri Phương, Phan Văn Trị,...
Bằng Giang trong Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Ký sau khi lược qua cuốn Sơ Học Vấn Tân của Trương Vĩnh Ký đã thú nhận : "Đọc hết tác phẩm, người ta tưởng tác giả là một nhà Nho chính tông chớ không phải là một người thuộc đạo dòng (Thiên-Chúa giáo)" (27). Trương Vĩnh Ký có cái nhìn tổng hợp, ông muốn dung hòa cũ mới . Theo ông, "học thì chẳng phải là học cho biết chữ, cho thuộc tiếng mà thôi, mà lại phải học nghĩa lý, phép tắc, lễ nghi, cang thường luân lý là giềng mối mà xử trí trong việc ăn ở trong đời với thiên hạ ấy là lịch là thanh. Nên phải do cựu tùng tân mới là phải, chẳng nên mới chuộng cũ vong mà mang tiếng yểm cựu nghinh tân..." (28). Để nhấn mạnh cái nhìn tổng hợp cần thiết cho người Việt Nam này mà khi xây trường trung học mang tên ông ở Sài-Gòn đã có câu đối được khắc trước cổng (nay đã bị Hà Nội đục bỏ) : "Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt / Tây Âu khoa học yếu minh tâm". Một lời nhắn nhủ khác, ghi lại ở đầu sách Petit cours d’histoire annamite, nhắm kẻ hậu sinh : "Cho học trò các trường đất Nam-kì. Ớ các trò trai, ta xin kiếng sách nầy cho các trò vì làm nó ra là làm cho các trò coi (...). Đến sau, khi anh em học đã thành tài, biết bắt, biết hạch được, thì xin hãy dong thứ cho kẻ lớp trước anh em, vì những kẻ ấy thuở trước chẳng có được những phương tiện mà học-hành như anh em bây giờ nhờ...” (tr. 4).
Ông lại chứng tỏ tài cao về chữ Nôm lúc bấy giờ chưa có tự điển và gần như ai viết sao thì viết. Chính Nguyễn Văn Tố trong lời Tựa cuốn Trương Vĩnh Ký của Lê Thanh đã ghi nhận: "Những truyện nôm như truyện Kiều, truyện Phan-Trần, mà ông dịch ra quốc ngữ đầu tiên, tất cũng có chữ sai, nhưng không nên vin vào đấy mà phê bình, vì chữ nôm của ta là một thứ chữ không có tự điển, mỗi người viết một cách, khó lòng đọc cho đúng ngay: thử lấy một quyển nôm nào chưa ai dịch ra quốc ngữ mà đọc xem, có lắm chữ không tài nào đọc nổi, thế mới biết cái tài học của Trương Vĩnh Ký đáng tôn trọng, đáng kính phục biết bao nhiêu". Cả về chữ Hán: "Về Hán văn ông có dịch bộ Tứ thư và quyển Minh Tâm bảo giám ra quốc ngữ, kể cũng có công với Hán học khi gần tàn, và tỏ ra là một nhà nho gồm cả văn học Âu Á, mà vẫn giữ được tính cách người Đại Nam" (29). Cụ Nguyễn Văn Tố cũng như Lê Thọ Xuân ở trong Nam vốn là những học giả uyên bác. Riêng về cụ Nguyễn Văn Tố, nhà văn Võ Phiến xếp vào lớp nhà phê bình "chỉ nói cái sai cái quấy" (30) tức không bao giờ khen ai (!). Vậy mà cụ Nguyễn Văn Tố đã khen Trương Vĩnh Ký đủ bề! Xin đừng suy diễn rằng cụ Tố cũng lãnh lương Pháp vì làm việc tại trường Viễn-đông bác-cổ (EFEO)!
7. Trương Vĩnh Ký in thạch bản cuốn Vân Tiên Chú Giải
năm 1887 để dùng ở trường Thông ngôn, sau đó cuốn Lục Vân Tiên Truyện phiên âm được xuất bản năm 1889, với quảng cáo "bản nhỏ, bán rẻ tiền cho người ta mua mà coi, chính chữ lại không sai chạy nguyên bản" (31). Người nay nêu ba vấn đề : Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên phiên âm Kim Vân Kiều Truyện năm 1875, 14 năm trước cuốn Lục Vân Tiên. Tại sao? Phạm Long Điền trong bài báo trên Bách Khoa đã dẫn kết án Trương Vĩnh Ký "có chủ đích chánh trị núp dưới chiêu bài văn hóa" khi in cuốn Kim Vân Kiều Truyện diễn quốc ngữ năm 1875, 14 năm trước phiên âm cuốn Lục Vân Tiên (1887). Theo ông Phạm Long Điền, Trương Vĩnh Ký đã không nhìn thấy sự tiêu biểu văn hóa của truyện Lục Vân Tiên trong Nam cũng như niềm hãnh diện người của vùng đất quá mới với chốn "ngàn năm văn vật" mà đã "lại tiếp nhận đứa con tinh thần của đất Bắc để rồi Kim Vân Kiều Truyện diễn quốc ngữ ra chào đời đúng một năm trước khi họ Trương lên đường thăm sĩ phu đất Bắc trong một chuyến đi đầy bí mật...". Thứ hai, Phạm Long Điền lại thêm lý luận Trương Vĩnh Ký hay Tôn Thọ Tường muốn đề cao Kiều vì thân thế "đáng thương hơn đáng trách". Như lời Tôn Thọ Tường vịnh Kiều "Để lòng thiên cổ thương rồi trách / Chẳng trách chi Kiều, trách Hoá công" (32). Và sau cùng, theo họ Phạm, Trương Vĩnh Ký xuất bản Kim Vân Kiều trước để chuẩn bị chuyến đi Bắc Kỳ năm sau, 1876! Thuần suy diễn ! Chúng tôi chỉ thấy qua toàn bộ sự nghiệp, Trương Vĩnh Ký vẫn tự hào là người Việt, yêu văn chương và văn hóa dân tộc, yêu tiếng Việt của Kim Vân Kiều, đến cả quên phiên âm Lục Vân Tiên của miền Nam yêu dấu của ông cho ... hậu sinh như ông Điền hài lòng. Trương Vĩnh Ký xuất bản "trễ" có thể vì đã có bản phiên âm năm 1873 của G. Janneau (Paris) và bản dịch ra tiếng Pháp năm 1864 của Aubaret ! Tuy ra sau nhưng chính bản phiên âm của Trương Vĩnh Ký mới là bản đã góp phần đáng kể trong việc san định văn bản Lục Vân Tiên xuất bản hiện nay. Họ Phạm quên giáo sư Nguyễn Văn Trung của ông, trong Chữ Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc lúc đó (1974) đã lý luận rằng thực dân Pháp dùng chữ quốc ngữ có ích cho công việc cai trị hành chánh của họ mà còn ích lợi cho việc phục vụ mục tiêu xâm lược tinh thần người bản xứ (33). Trương Vĩnh Ký có thật đi chung đường với thực dân đâu!
8. Trương Vĩnh Ký còn có công đem hột giống những cây ăn trái từ "Miền Dưới"
tức Mã Lai, Nam Dương và Java như chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, mãng cầu, ... đem về trồng trước hết ở Cái Mơn (Vĩnh Long) miền quê ông. Trong thời gian sáu năm tu học ở Penang, mỗi lần hè về thăm mẹ, ông đã có dịp đem trái cây "Miền Dưới" về, hột sanh cây, một ươm hai, sau nhiều năm đã thành đặc sản miền lục tỉnh. Đây là một việc có thể chính Trương Vĩnh Ký cũng không ngờ đến. Ông Quán Phong trong một bài báo (34) đã kể rõ công của họ Trương đối với nhà nông nhà vườn Nam-kỳ lục tỉnh ! Trong khi đó có những nhóm nói bâng quơ suy luận đã do các nhà buôn Nam Dương, Mã Lai đem sang mà không hề trích dẫn văn liệu! (35). Nguyễn Tấn Hưng trong một trường thiên tiểu thuyết có tính cách tự sự, Một Giấc Mơ Tiên 3, cũng đã ghi nhận "chính ông (TVK) đã du nhập chiếc áo bà ba và rất nhiều cây ăn trái lấy giống từ Mã Lai và Nam Dương như bòn bon, lôm chôm, mãng cụt, sầu riêng, sa kê,.. "(36).
9. Trương Vĩnh Ký đã là một "tay sai" đắc lực cho Pháp?
Trên đã bàn qua, nay thêm vài chi tiết : Khi Trương Vĩnh Ký ra Huế được vua Đồng Khánh sắc phong chức Cơ Mật Viện Tham-tá ngày 12-4-1886, sau thêm chức Hàn Lâm Thị Giảng Học Sĩ dạy vua tiếng Pháp. Ông ra Huế vì tình bạn với Paul Bert tổng-trú-sứ lưỡng kỳ (Bắc và Trung-kỳ) mới được bổ nhiệm lúc bấy giờ (8-4-1886). Trước khi nhậm chức, Paul Bert đã gặp Trương Vĩnh Ký, nhờ cả ông soạn giùm bài hịch (thư 22-3-1886) mà cuối cùng chính họ Trương đọc trước Vua, trình bày 7 điểm để cứu vãn tình hình bất an gay cấn giữa Pháp-Việt và lương-giáo! Nhưng vị toàn quyền muốn áp dụng chính sách trấn an hơn là độc trị gây ra kháng chiến. Hàm Nghi này không tại vị lâu, ông mất mấy tháng sau đó, ngày 11-11-1886. Trương Vĩnh Ký nay như có vai trò dòm ngó hành tung triều đình để báo cáo cho Pháp, nên ông từ chức trở về quê nhà sống thanh bần ở Chợ Quán, cho đến khi qua đời, 1-9-1898. Từ ngày 5-10-1886, Trương Vĩnh Ký đã viết thư cho Paul Bert từ Sài-Gòn và ông toàn quyền này hiểu con người họ Trương đã phải mời ông trở ra Huế. Trương Vĩnh Ký chỉ thật sự ở Huế sáu tháng. Huế, nơi lúc đó Tống Nho cực thịnh, quần thần bắt chước đàn anh Trung Hoa khinh rẻ người theo Âu-tây (bạch quỉ) hoặc biết tiếng lang-sa, nơi sẽ bỏ thi Hương sau cùng, hơn 20 năm sau Nam-kỳ và 4 năm sau Bắc-kỳ. Ông bỏ về Sài-Gòn viết sách, do tự ý chứ không phải vì bị bó buộc hay cách chức như nhiều người nghĩ (37). Có chăng là Paulin Vial vốn là thượng cấp của Trương Vĩnh Ký ở Nam-kỳ và không ưa ông, ngày 11-12-1886 đã viết thư chỉ thị Trương Vĩnh Ký phải báo cáo về 6 tháng làm việc cạnh vua và nhắn đừng trở ra Huế nữa : "... Tốt hơn là ông không nên trở ra Huế nữa vì xét về mặt quyền lợi của đất nước thì thiết yếu nước Pháp phải được thay mặt ở thủ phủ ấy bằng một người duy nhất, đại diện chính thức, mà không có nhân vật nào khác ở bên cạnh vị đại diện ấy để hưởng một thế lực, có lúc sẽ ảnh hưởng trái ngược trở lại trên người đại diện chính thức ấy". Vua Đồng Khánh ban cho Trương Vĩnh Ký biệt hiệu Nam Trung Ẩn Sĩ và vẫn trao đổi thư từ với ông đến khi vua mất, 25-12-1888! Paul Bihourd và Noel Pardon toàn quyền kế nghiệp Paul Bert cũng như xử lý Paulin Vial đều không dùng Trương Vĩnh Ký, vì họ không tin ông. Trương Vĩnh Ký thân thiết với Paul Bert và theo thuyết ông này chủ trương hoà hoãn, bình định, trong khi những người Pháp khác chỉ muốn áp đặt guồng máy thống trị toàn cõi Việt Nam! Như vậy, người Pháp dùng Trương Vĩnh Ký nhưng thường vẫn ngại ông. Joseph Chailley-Bert trong cuốn Paul Bert au Tonkin (38) viết về Trương Vĩnh Ký : "Để thêm người làm việc cho vua, Paul Bert đã cho vào Cơ Mật Viện một nhà trí thức nổi tiếng của nước Nam-kỳ thuộc địa tên Trương Vĩnh Ký. Đây là người vẫn được người Pháp bàn tán tranh cãi đặc biệt và có những ý kiến quá trớn" . Phải chăng quá trớn cho quyền lợi Pháp? Trong một văn thư gửi toàn quyền Noel Pardon, văn thư cuối cùng liên hệ với cầm quyền Pháp, họ Trương trình bày những ưu tư và giải pháp ông nghĩ để giải quyết những rối loạn ở Đông dương! Nhiều lần Trương Vĩnh Ký đã tận dụng chức vụ để bày tỏ với người Pháp những ưu tư của ông đối với người dân thường, như trong tường trình ngày 28-4-1876 về Bắc kỳ, tường trình vốn bị nhiều người lên án làm chỉ điểm cho Pháp chiếm Bắc-kỳ sau đó. Ông ưu tư trước hiểm họa chiến tranh hao người tốn của như cụ Phan Thanh Giản trước đó đã bày tỏ qua cử chỉ nộp thành và quyên sinh! Biết thua thiệt, nên "bất cượng chớ cượng làm chi" (tựa sách viết năm 1882), do đó ông muốn dựa vào kẻ mạnh khoa học và giáo dục, hầu mong dân nước mình tiến bộ theo! Hơn nữa, khác với Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký không bao giờ kết án những người Việt chọn con đường yêu nước võ trang chống Pháp và cũng không hề nịnh hót chính phủ thuộc địa để được quyền lợi vật chất.
Người Pháp đã không :"bằng lòng" về Trương Vĩnh Ký nhiều lần khác. Như khi ông lo cho học sinh được triều đình Huế gửi vào Sài-Gòn học trường thông ngôn, có người đã nghi ông "phản" Pháp và chăm lo cho triều đình Huế, viên thống đốc Nam-kỳ lúc đó chỉ trả lương chức Đốc học cho ông và có khi còn bày trò trả lương trễ cho ông! Chính những trò đời này và ông dư sức đã hiểu tâm địa người Pháp sau một thời gian "hợp tác", cho nên sau đó cho đến chết ông sống thanh bần, lo viết và in sách để phổ dương văn học và văn hóa Việt Nam.
Ở đây xin ghi sai lầm, xuyên tạc của ông Đỗ Mậu trong Tâm Thư khi ông này tố cáo "vai trò cố vấn bí mật của ông ta (Trương Vĩnh Ký) do cha đỡ đầu là Paul Bert trong cuộc "đánh lừa chiến lược" với quan lại chóp bu của triều đình Tự Đức trong chuyến công du Bắc-kỳ 1876, tạo điều kiện cho bọn Pháp đánh chiếm Bắc-kỳ lần thứ hai..."(39). Đỗ Mậu ghi là viết theo tài liệu của Đỗ Quang Hưng. Ông Mậu xuyên tạc vì trong tài liệu của ông Đỗ Quang Hưng (40), không thấy viết như thế. Sau nữa, ông Mậu sai lầm lớn, vì năm 1876, Paul Bert còn ở Pháp, đến 1886 mới qua Đông-dương và khi ở Pháp Paul Bert làm hội viên viện Hàn Lâm và là nghị sĩ, không làm linh mục và từng là người chống giáo-hội Thiên Chúa Giáo vì ông theo phe Cách mạng - nên khi qua nhận chức mới, ông chủ trương không thiên vị người theo đạo Thiên Chúa vì phải bảo vệ tư do tôn giáo cho mọi người! Và theo ông, nếu một số nước Âu châu tiến chiếm thuộc địa các nước khác thì đó là những quy luật tất yếu của lịch sử (41). Vả chăng Bắc-kỳ đã bị Pháp chiếm năm 1885 sau khi đã ký hoà ước Giáp Thân 1884! Có chăng là vua Đồng-Khánh du hành ra các tỉnh Bắc Trung-kỳ và bị nghĩa quân nhiều lần uy hiếp phải trở về sớm, có phải là do lời cố vấn của Trương Vĩnh Ký hay không thì chưa thấy văn liệu xác nhận!
10. Trương Vĩnh Ký tin đạo Thiên-Chúa nhưng không hề tin theo đạo mà trở nên mù quáng, bất công, nhất là khi đụng đến quyền lợi tổ quốc. Trước việc cấm đạo, ông đã lên tiếng : "Người An-Nam đâu có thù ghét đạo Gia-Tô! Họ chỉ bất bình và phản đối những hành vi quá mức của một số linh mục dựa vào sự che chở của quân đội và chánh quyền Pháp-lang-sa, để tiếp tục thi hành những việc bạo ngược. Bởi vì, xét cho kỹ, Gia-Tô giáo và Phật giáo chẳng khác nhau bao nhiêu" (42).
Trương Vĩnh Ký cũng không xin theo quốc tịch Pháp hay ân huệ như những người cộng tác lớn khác. Trong một thư ông trả lời bạn: "Đại phàm văn minh là ở tinh thần, chớ không ở vật chất. Ta muốn văn minh như người Tây thì cố hết là phải luyện lấy tinh tâm trí não để bổ lấy tinh thần văn minh, chớ nếu tâm não ta vẫn hủ bại dã man, mà ta chỉ ghé cái danh hiệu vào sổ văn minh, khoác cái y phục của người văn minh, đó là giả dạng văn minh, thì tôi e rằng không xứng đáng, và có điều bất lợi về sau nữa (...) Vả chăng mỗi nước riêng một tộc loại và để duy hệ tinh thần. Nước Nam ta tổ tiên Hồng Lạc (...) gia phả truyền lại bốn ngàn năm nay, nhứt đán ta dân tịch theo Tây, phục sắc theo Tây, biến hết làm tây, không còn cái dấu tích chi là người Nam nữa, đó ta là loài Tịch Đàm vong tổ, rồi tới đời con cháu ta nó theo cái gia phả mới của ta mà đốt quách cái gia phả cũ của tổ tiên đi, quên đứt là người Nam, thì giống ta còn cũng như mất, mà cái gương diệt chủng tự ta treo lên trước. (...) Người ta sẽ cho tôi là nhu nhược, nhút nhát; tôi đã làm như vậy vì tôi sợ muốn thoát thân ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Vào dân Tây tôi sẽ mất hết uy tín, uy lực của tôi và đã mất hết tín nhiệm của Vua, của triều đình và của đồng bào tôi. Không lý trời sanh tôi ra là con quạ, bây giờ biểu tôi thì một hai nói tôi là con cò sao đặng? Nên là điều trái tự nhiên hết sức" (43). Trong một thư trả lời Blamcsudé, Trương Vĩnh Ký còn viện dẫn lịch sử. phong tục và luật pháp để giải thích thêm. Ông Mẫn Quốc trong bài viết trên Nghiên-cứu Lịch-sử (44) của Hà-nội thì cắt trích dẫn rồi suy diễn cho là Trương Vĩnh Ký khôn ngoan không theo quốc tịch Pháp vì sợ mất uy tín với vua quan ta và không phục vụ được cho Pháp!
Trương Vĩnh Ký cả cuộc đời làm báo, soạn sách, để lại khoảng hơn trăm tác phẩm lớn nhỏ. Ông làm những việc đó toàn thời gian cả cuộc đời trong khi ông lãnh lương của Pháp khoảng 20 năm. Về chính trị ông đã cô đơn; nhưng ông đã làm với lòng yêu nước, muốn nước được hùng mạnh, dân tộc được trường tồn. Mặt khác, lúc bấy giờ thực dân Pháp muốn sử dụng chữ quốc ngữ như là công cụ, phương tiện đô hộ; nhưng ông cũng như Huình Tịnh Paulus Của và các vị tiền bối khác lại tận dụng kẻ hở đó để gây dựng một nền văn học hiện đại. Đi xa hơn trong thái độ tìm hiểu tiền nhân đã làm gì trong những hoàn cảnh đặc biệt thì tốt, nhưng nếu phê bình gay gắt họ, thì ai sẽ phê phán những cá nhân và tập thể đã nhận viện trợ hoặc chịu áp lực của Hoa Kỳ, Trung-quốc, Liên Xô, Pháp để đè nén nhân dân, gây chiến tranh chống những đế quốc nghịch thù qua anh em mình hoặc để làm những việc gọi là "làm mới" văn học? Và thế nào là yêu nước? Lịch sử sẽ luận xét sự "yêu nước" của tất cả, từ những vị Cần vương, Văn thân Tống Nho tổ chức chống Pháp, chống chữ quốc ngữ, từ những Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, ... tích cực xông xáo với khả năng và cơ hội, Trần Chánh Chiếu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... chủ trương minh tân và duy tân, đến các nhà cựu học Đông-Kinh nghĩa thục chủ trương dùng chữ quốc ngữ, hoặc Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, v.v. !
11. Hạ giá Trương Vĩnh Ký có Phạm Quỳnh.
Cùng não trạng với Phạm Duy Tốn kỳ thị và tự hào văn hóa ngàn năm văn vật đối với người đất mới, vô Nam làm báo viết bài trên Lục-tỉnh Tân-văn chê nhà văn nhà báo trong Nam như Lê Hoằng Mưu, Tân Dân-Tử,.. đã bị họ phản đối. Riêng Phạm Quỳnh có thể vì ghen tương hay nghe lời quan thầy người Pháp, trong bút ký "Một Tháng Ở Nam-kỳ", đã viết về Trương Vĩnh Ký : "Nay có một ông Nam-kỳ bàn về các vấn đề ấy một cách rất kỳ khôi đọc đến không thể nhịn cười được tuy lời lẽ có lắm chỗ quá đáng "nôm na là cha mách qué... Ông Trương chẳng qua là một nhà làm sách giáo khoa thường cho con nít học mà thôi đã có công gì với Tổ quốc. Chẳng dám khinh gì người trước nhưng những danh sĩ nước Nam cứ như ông Trương cả thì cũng không lấy gì làm vẻ vang cho nước lắm" (45). Ngài chủ bút Nam-Phong tạp-chí cũng làm báo cho Pháp, hơn nữa lại làm cho trùm mật thám Đông-dương là Louis Marty, ngài đã tổng quát hóa cái viết của người Nam vốn có hai trường phái một bình dân viết theo lối đang nói, và một theo trường phái Trương Vĩnh Ký, viết đúng tiếng Việt của ông bà từ Bắc theo nam-tiến (8). Khoảng năm 1934, trên tờ Phụ-Nữ Tân-Văn có cuộc tranh luận về chữ viết của người Nam, nhà văn Phan Khôi đã tuyên dương lối viết tiếng Việt của trường phái Trương Vĩnh Ký và chê lối viết Nam "bình dân" kia sai lầm. Và không lẽ ngài họ Phạm quên Trương Vĩnh Ký từng được quốc tế tuyên dương là nhà bác-học từ năm 1874, chưa kể những huân chương nhiều nước khác ngoài Pháp và là hội viên nhiều hội chuyên gia quốc tế !
Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên: Văn Học Hiện Đại 1862-1943 (1963) đề cập một cách sơ sài về cái mà ông gọi là "sự manh nha văn quốc ngữ ở Nam-kỳ". Theo giáo sư Phạm, hai ông Pétrus Ký và Paulus Của là những "vì sao mọc quá sớm... dóng lên những tiếng chuông có giá trị song "điệu cao họa quả", họ đã "làm tài liệu cho một nền học Việt Nam, nhưng nền học này đã không được thiết lập nên công việc ấy bị bỏ rơi". Lý do vẫn theo ông, "vì Nam-kỳ không hiến hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển của văn học, nhất là văn học quốc gia". Giai đoạn "manh nha" này đã chỉ "đề xướng lên những công việc mà rồi nhóm Nam Phong ngoài Bắc tiếp tục" nhưng đã "làm được một việc mà nhóm Nam-phong không dám làm, ấy là cuốn tự vị Việt Nam", rằng "quốc văn do đó trong nhiều năm về sau ở Nam Kỳ chỉ bày tỏ trong hình thức báo chí phổ thông, với trình độ trí thức khá ấu trĩ hoặc ở tác phẩm tiểu thuyết cho một công chúng hạ lưu dễ dãi" (46). Cái "manh nha" đó thật sự đã gây thành nếp, thành phong trào mà chúng tôi đã có lần chứng minh trong bài "Miền Nam khai phóng" (47). Và hoàn cảnh mà giáo sư Phạm nói đó, thật ra một phần do người Pháp khi họ chuyển nền cai trị thực dân ra Hà Nội, lập phủ Toàn quyền, trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) và viện đại học, vì người Pháp đã hiểu người Nam-kỳ tuy học tiếng Pháp và có vẻ chịu đồng hóa nhưng trong thực tế người Nam-kỳ rất thủ cựu dân tộc chủ nghĩa. Theo thiển ý giáo sư họ Phạm đã tỏ ra khá chủ quan và hẹp hòi địa phương khi cho rằng "Nam-kỳ không hiến hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển của văn học, nhất là văn học quốc gia"!
Giáo sư Nguyễn Văn Trung thời trước 1975 cũng theo quan niệm chung đó, đã nghiêm khắc phê phán tác phẩm văn học thời Pétrus Ký là "nghèo nàn", ngưng đọng, vì các Pétrus Ký, Paulus Của chỉ là những viên chức ăn lương của thực dân để thực hiện chính sách "văn hóa, báo chí, giáo dục của thực dân", lợi dụng chữ quốc ngữ và văn học chữ quốc ngữ cho việc "trực trị và đồng hóa". Dù vậy ông cũng đã nhìn nhận Pétrus Ký "có tư cách hơn ... vì làm chính trị thì làm một cách kín đáo, còn làm văn hóa thì chỉ làm văn hóa thuần túy trong chính sách của thực dân, không như Phạm Quỳnh hay Tôn Thọ Tường" (48). Trong khi việc người Pháp cưỡng bách dùng chữ quốc ngữ chỉ vì người Pháp muốn tiêu diệt truyền thống đạo lý, luân thường xuất phát từ sách vở Nho học, người Pháp sợ những sách này nhắc nhở ý thức về đạo lý dân tộc trong đó có lòng ái-quốc! Trong Nam, người Pháp dùng báo chí chữ quốc ngữ để thông tin, cai trị, nhưng những người cộng tác như Trương Vĩnh Ký có đầu óc khai-phóng, thức thời, đã lợi dụng để đặt nền móng cho văn học chữ quốc ngữ. Các nhà nghiên cứu văn học của Hà Nội như Mẫn Quốc, Tô Minh Trung, Hồ Song, Nguyễn Anh, Hoàng Văn Lân, Trần Huy Liệu,... ở trong quỹ đạo "yêu nước", chống "đế quốc" và vinh quang thắng Pháp thời trước 1975, thắng Mỹ trước Đổi Mới 1986, không thể có lời lẽ tốt và công bằng hơn với Trương Vĩnh Ký ngoài luận điệu xem Trương Vĩnh Ký là "tên tay sai đắc lực", là "một nhân vật phản diện điển hình của nhân dân ta" (37) hay "phản quốc, làm đặc vụ, tay sai, tình báo cho địch" "giòi trong xương giòi ra" (16)! Trong cùng chiều hướng tố cáo và xóa bỏ, Phạm Long Điền và Nguyễn Sinh Duy (49) sau mấy bài báo trên Bách Khoa đã xuất bản Cuốn Sổ Bình Sanh Của Trương Vĩnh Ký đầu năm 1975. Hai ông xóa toàn bộ sự nghiệp văn hóa của Trương Vĩnh Ký vì theo hai ông các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký phục vụ cho quyền lợi của Pháp. Một trong những lý luận là sách Trương Vĩnh Ký được người Pháp mua cho, bình tâm mà xét thì cũng thường, vả lại hai ông quên bộ Thông-Loại Khoá-Trình mà Trương Vĩnh Ký chăm chút đã phải đình bản vì thiếu nợ nhà in. Sau 1975 không thấy hai ông lên tiếng, chỉ biết hai ông là sinh viên của giáo sư Nguyễn Văn Trung và nhà xuất bản Nam Sơn đã in sách hai ông. Hai bài báo nói trên khiến ông Vương Hồng Sển đau lòng, "lấy làm tội nghiệp cho nhà học giả tiền bối miền Nam, chết được dựng tượng, mà nay có trẻ nhỏ dám đến đái dưới gốc chân tượng" (50) (Có người trích lại câu này và cắt nghĩa theo nghĩa đen mà không hiểu trẻ nhỏ là họ Vương ám chỉ hai hậu sinh họ Phạm và Nguyễn kia !).
Cùng chiều hướng này nhưng động cơ có thể "đa diện" hơn, có ông Đỗ Mậu từng làm ủy viên (bộ trưởng) và phó thủ tướng "văn hóa" của đệ nhị cộng hòa, gần đây về nước lên đài truyền hình, đã gọi Trương Vĩnh Ký là "tên đại phản quốc, một tên Việt gian dùng văn hóa, báo chí giúp thực dân Pháp thống trị Việt Nam" (51). Ở hải ngoại còn có các nhà khoa bảng nhóm Giao Điểm, "sử gia" Vũ Ngự Chiêu và "tác giả" Lê Trọng Văn! Trong nước, người cộng sản vốn chỉ có một thái độ hạ bệ Trương Vĩnh Ký vì mặc cảm (!) với dân Nam-bộ, vì dị ứng với chuyện "yêu nước" theo chủ trương của họ, nên đã hạ tượng, xóa tên trường, nhưng nay đã có những tiếng nói tuy rời rạc nhưng đã có, của Sơn Nam, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Đình Đầu hay của Nguyễn Văn Hoàn của Viện văn học là người đã phát biểu rằng Trương Vĩnh Ký là "một nhà văn hóa lớn không chỉ riêng của Nam-kỳ" và đã nhìn nhận rằng "bộ phận văn học quốc ngữ đã phát sinh và phát triển trong một không gian chính trị - xã hội phức tạp... "!
Trần Chánh Chiếu chủ báo Lục-Tỉnh Tân-văn và là người từng vận động phong trào Minh Tân sau lại hổ trợ cụ Phan Bội Châu đã viết về Trương Vĩnh Ký khi hô hào dựng tượng - về sau bị Pháp can thiệp "lấy lại" chủ động: "Ông nầy khi sanh tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan Lang-Sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà Annam cho khỏi chỗ xích mích nhau, làm cho mẹ gà phải thương con vịt. Đêm ngày lo nghĩ đặt sách này dịch sách kia cho kẻ hậu sanh dễ học. Thật(!) là quan thầy của cả Nam-kỳ" (52). Học giả Nguyễn Văn Tố trong bài viết bằng tiếng Pháp đã nói ở trên đã tóm lược thân thế Trương Vĩnh Ký vào ba tiếng "Science, Conscience et Modestie" (bác-học, tâm thuật và khiêm tốn) (22)! Trong bài Tựa cuốn Trương Vĩnh Ký Biên-Khảo của Lê Thanh đã dẫn, học giả họ Nguyễn đã liệt TVK vào hạng những nhà lập ngôn bất hủ : "Nước ta có đức Trần Hưng-Đạo là bậc lập đức, vua Lê Lợi và vua Gia Long là bậc lập công, ông Phan phu-Tiền đời Trần và một vài ông sứ thần nữa là bậc lập ngôn. Văy thì hạng người làm sách để dạy đời là một hạng trong ba hạng người bất hủ ấy. Ông Trường vĩnh Ký có thể liệt vào hạng người đó, vì không những Hán học uyên thâm, Pháp học uyên bác, ông lại còn tinh thông các thứ chữ ở Viễn đông (...) thực là một nhà bác ngữ uẩn súc, nước ta chưa từng có bao giờ...." (53).
Nhà phê bình văn học Lê Thanh từ Bắc vào Sài-Gòn nghiên cứu tác phẩm và văn khố ở nhà thờ Trương Vĩnh Ký ở Chợ Quán đã viết lại cảm tưởng năm 1943: "Hơn một lần, nghiêng mình trên di cảo vàng úa, tôi cảm thấy tâm hồn tôi săn lại, khi thấy, bằng những dòng chữ rời rạc, tiên sinh ghi những nỗi lo phiền, buồn tủi, tôi đã cảm thấy lạnh trong tâm hồn khi đọc mấy chữ mà trên ấy tôi nhận thấy sự đau đớn nhiều hơn sức mạnh, tôi được biết rằng, vì quá tận tụy cho nhà, cho nước, cho văn chương, tư tưởng mà tiên sinh đã phải trả cái giá đắt bằng cả cái sức khoẻ và sau cùng, cả cái đời tiên sinh" (54).
Thuần Phong thì khen Trương Vĩnh Ký khi so sánh với Phạm Quỳnh: "Trương Vĩnh Ký là người học trò thứ nhứt của chữ tây và đã cộng tác với Pháp trong cuộc định đoạt vận mệnh quốc gia ta, đáng lẽ ra tạp chí ấy ông phải làm tay sai cho Pháp để đàn áp dư luận, thâu phục nhân tâm cho Pháp và để tận diệt dấu tích chữ Nho và tinh thần ái quốc trong tâm hồn nhân dân ta, như về sau này (1917) Phạm Quỳnh đã ra làm tạp chí Nam-Phong cho Louis Marty một cách khôn khéo. Song trong tạp chí đó, người ta không thấy manh tâm ẩn ý nào theo Pháp phản dân, không tìm được sự có mặt của Pháp, ngoại trừ mươi hàng dạy tiếng Pháp ở cuối mỗi số..." (55) . (Mà phần này chưa chắc đã do Trương Vĩnh Ký soạn dù ông là Chánh tổng tài tờ báo!).
Bằng Giang trong Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Ký trình bày Trương Vĩnh Ký có "giải pháp phi truyền thống, mặc dầu có đối kháng nhưng không có một lần nào Trương Vĩnh Ký công khai xúc phạm đến danh dự của nghĩa quân là những người yêu nước kháng chiến, vì chứng tỏ họ Trương cũng nhìn nhận tinh thần đó ở những người (qua bức thư gửi cho Paul Bert ngày 5-10-1886) hay những phong trào nghĩa quân cần vương hoặc Văn thân" (56).
12. Vấn-đề diễn tiến tư tưởng của tác giả :
Nhiều nhà biên soạn sách hay rơi vào sai lầm hay thiếu sót khi trích dẫn các tác giả mà cuộc đời đã thay đổi tư tưởng nhiều lần, thay đổi vì đổi đời, vì chính kiến, ý thức hệ, hoặc tiến bộ, chính xác và qui mô hơn. Các sách và bài báo của các giáo sư Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan trước 1975 được viết trong hoàn cảnh chiến tranh ý thức hệ tư bản-cộng sản, thiên tả vì họ chủ trương một xã hội không tư bản; sau 1975, tư tưởng và lý tưởng của họ đã đổi khác trong một xã hội độc tài, chuyên chính, sau một thời gian ngắn hồ hỡi vui chiến thắng và thống nhất, họ đã có những sách báo không còn chung chiều hướng. Lữ Phương, linh mục Trần Tam Tĩnh, có những sách báo nặng nề phê phán ngay sau "chiến thắng" 30-4-1975 nhưng sau thời Đổi mới, họ có còn nghĩ như vậy không? Giáo sư Nguyễn Văn Trung trước 1975 phê phán nặng nề Trương Vĩnh Ký và "bất công" với văn học miền Nam như chính ông thú nhận (26) nhưng sau 1987 ông đã có những bài viết "công bằng" hơn nhưng đôi khi gây nghi ngờ thêm (57)! Trích dẫn Phạm Long Điền hay Nguyễn Sinh Duy nên hiểu hai ông đều là sinh viên chịu ảnh hưởng của giáo sư Nguyễn Văn Trung trước 1975 (58). Hơn nữa phải hiểu mục đích chống TVK thời bấy giờ như Phạm Long Điền lộ cho thấy "cho nên bài học TVK còn là bài học lớn, súc tích, đầy ý nghĩa cho người trí thức cũng như người cầm bút hôm nay suy gẫm chọn một thế đứng trên con đường đi tới của lịch sử dân tộc" (59).
Luận án của Cao Huy Thuần tựa đề Christianisme et colonialisme au Vietnam, 1857-1914 (Université de Paris, 1968) trước 1975 đã bị một nhóm người có mưu đồ tiêu cực dịch ra tiếng Việt, năm 1988 ở hải ngoại "nhà xuất bản" Hương Quê ở California in lại (Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam 1857-1914), tác giả không hề hay biết, do đó không thể xem bản dịch tiếng Việt là của ông Thuần. Chính ông Thuần đã đính chính việc này trên tờ Thời Luận ở Los Angeles số ra ngày 1-7-1988, trong đó tác giả còn cho biết luận án của ông chỉ có một "mục đích khoa học"! Vậy mà nhiều người đã xem con thuyền phương tiện đưa người sang sông là mục đích, rồi tôn thờ con thuyền! Hơn nữa, trong bản in năm 1990, Les Missionnaires et la politique coloniale française au Vietnam 1857-1914 (60), tác giả đã lược bớt nhiều trang, nên có thể xem như ông cập nhật hóa luận án hơn 20 năm trước. Để chứng tỏ lương thiện trí thức ("honnêteté intellectuelle"), người viết ít ra phải nói rõ đó là những gì tác giả trích dẫn đã viết vào giai đoạn nào. Xin nhắc ở đây là các cây viết thuộc hệ cộng sản như Phan Cự Đệ, Vương Trí Nhàn, Hoàng Ngọc Hiến, Chương Thâu, Trần Văn Giàu, ... đã "tiến hóa" tư tưởng nếu không muốn nói là "mâu thuẫn" từ thời 1954 đến nay, về văn học tiền chiến, phong trào Thơ Mới, Tự Lực văn-đoàn, Phạm Quỳnh, Nam-Phong tạp-chí, v.v. Chế Lan Viên khi chết đã để lại Di Thảo như để nói thật lòng tức phủ nhận hết những lách, né trong quá khứ! Như vậy nay đã đầu một thế kỷ và thiên niên mới, đất nước lòng người đã trãi qua nhiều chuộc chiến tranh chống thực dân và nội bộ, sao lại phải khơi những tro tàn 30, 50 năm trước mà chính người liên hệ đã thay đổi, mở mắt và hoàn cảnh đã khác? Với hậu ý gì ?
13. Vấn đề thư tịch:
Mất nước, mất tất cả, do đó thư tịch và văn hóa cũng không tránh bi trạng đó! Những ngưởi có chút bận tâm cho lịch sử, văn học sử và thư tịch học không thể không bất bình trước hiện tượng có những ấn phẩm không tôn trọng văn bản và bản quyền tác giả; hơn thế nữa còn cắt xén tác phẩm của người khác, thu góp bài làm một tuyển tập (anthology) rồi ghi tên người thu lượm là "tác giả", hay trích dẫn sai nguyên văn dĩ nhiên vì có dụng ý, hoặc thu góp bài và thư tín riêng tư mà không hề xin phép các tác giả. Ngoài cuốn Pétrus Trương Vĩnh Ký Tuyển Tập (35), còn có các ấn phẩm kể sau xin nêu tượng trưng : A. de Rhodes Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam Và Chữ Quốc Ngữ (11), Thiên Hồ! Đế Hồ! (của Chương Thâu bị Mr Le ở hải ngoại thêm bớt bài, từ bài gốc cuả cụ Phan Bội Châu), Ki Tô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền-Thoại (có một số bài hoặc phát biểu riêng, in không xin phép tác giả). Có hiện tượng "cầm nhần" cố tình lẫn lộn tác giả (author / auteur) với người chủ biên hoặc chủ trương (editeur intellectuel / éditor) ở Âu Mỹ là người đứng ra mời hoặc chủ trương dĩ nhiên xuất bản với sự thỏa thuận của các các tác giả. Nhiều tuyển tập in ở hải ngoại rất mập mờ điểm này, thường để tên người sưu tập và đánh máy (chứ không hẳn đã là chủ biên) vào chỗ của tác giả, như cuốn Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử Trong Thế Kỷ 20, ... Trong nước dù sao vẫn ghi rõ tên người sưu tầm giới thiệu và ở chỗ khiêm tốn hơn! Tưởng tượng nếu là người Hoa kỳ hay Pháp, Anh... thì đây là những vi phạm luật pháp! Mà "honnêteté intellectuelle" bị "quí vị" này hiếp đáp hơi kỹ ! Cùng những "quí vị" này lại hay nói đến lòng "yêu nước". Thiển nghĩ chỉ có một tình yêu nước khi thành thật, không mưu đồ, điều kiện, tình đó không thể có ở những trò lộng giả thành chân, ăn cháo đái bát và vô ơn với tiền nhân !
14. Người Việt Nam có truyền thống trọng chữ tín, sĩ diện và danh dự
nhưng không có những hành động ngoạn mục như người Nhật (có nhưng hiếm hoi Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, một số sĩ quan Việt Nam Cộng hòa,..), thành ra mới có chuyện người sống viết hồi ký để tự đề cao, tự đính chính đồng thời bôi xấu người chết hoặc đối nghịch và bôi nhọ nhau trên báo chí, đối xử tàn tệ với bạn hơn cả với kẻ thù. Có người dựa trên kẻ chết để tự dánh bóng, để làm chính trị, ... Trương Vĩnh Ký, "toàn-cầu bác-học danh-gia" được quốc tế công nhận từ năm 1874, thông thạo trên 20 thứ tiếng, mà sống khiêm tốn, sống theo lễ nghĩa căn bản có thể lỗi thời, vác ngà voi cho tập thể và hậu thế...! Quí học giả, nhân sĩ Nguyễn Văn Tố (22, 29), Đào Duy Anh (61), Hồ Hữu Tường (42), Vương Hồng Sển đã có những nhận xét đáng kể. Cụ Vương cụ thể trong cuốn Nửa Đời Còn Lại (1996), cuốn in những bài viết cuối đời, đã kết luận về những "cái gương sáng suốt": " "Trương Vĩnh Ký đứng đầu, chí khí như họ Từ đời Tam quốc, sống đất Tây mà lòng vẫn hiên ngang, không theo phò tá mà vẫn một lòng vì cố quốc, nước nhà, tuy tượng đồng bị hạ bệ mà nghe đâu sẽ có ngày xây dựng lại như cũ..." (62). Cả Nguyễn Đình Đầu (3), Nguyễn Văn Trấn, Đỗ Quang Hưng (40) xuất thân từ đảng cộng sản Việt Nam, các ông đều tôn vinh công trạng của Trương Vĩnh Ký đối với văn học và văn hóa nước nhà. Nguyễn Văn Trấn cho rằng TVK không sợ phỏng tay khi "thành thật đưa tay ra nắm lấy tay người Pháp, ông muốn nhờ ở sự gần gũi với châu âu, đem lại văn minh tiến bộ. Mà văn minh tiến bộ chỉ tồn tại trong sự đồng song phát triển của trí tuệ, đạo đức và hạnh phúc" vì "TVK bản thân không để mất gì hết, từ quốc tịch đến quốc hồn, bộ khăn đóng áo dài..." (63). Tiếng nói những "hậu sinh" vì tị hiềm tôn giáo, địa phương hoặc mưu đồ chính trị hoặc cá nhân có thể sẽ bay mất, ấn phẩm của họ sẽ bị đào thải, nhưng hiểm nguy đánh giá sai lịch sử còn đó, vì nói như một nhà tuyên truyền giỏi, cứ nói dù sai, sẽ có cái gì đó lưu lại ! Hôm nay với tài liệu thư tịch dù thất lạc nhưng vẫn còn, mà con người đã xuyên tạc như thế, người ở các thế hệ sau sẽ hiểu thế nào !
Hồ Hữu Tường từng xét trường hợp Trương Vĩnh Ký là "cái quá trình từ một nhà trí thức hợp tác với ngoại bang đế đến một bậc sĩ phu đối với thời đại của mình" (64). Thiển nghĩ hơn thế nữa, Trương Vĩnh Ký là hành trình rất trí thức của một con người "mất gốc" (theo đạo, làm việc cho Pháp, sống ở đất thuộc địa) lúc đầu đời, đi đến một con người thuần thục yêu nước và văn hóa dân tộc ! Xin mở một dấu ngoặc rằng sách sử từng ghi lại rằng gia đình Nguyễn Nhạc vốn theo đạo Thiên-Chúa nhưng khi anh em Tây Sơn nổi dậy thắng thế đã bỏ đạo. Tuy nhiên Nguyễn Lữ, một người anh khác của vua Quang Trung sống thời thế kỷ XVIII mà đã có cái nhìn tổng hợp về tôn giáo, đã chấp nhận hành lễ theo nghi thức đạo Thiên-Chúa (65) và cũng không cấm những tín ngưỡng khác bắt đầu phát triển ở Nam-hà.
Vì nguồn gốc, quá khứ, tín ngưỡng, chiến tranh và chính trị, v.v., người Việt đến nay vẫn đối đầu nhau trong nhiều vấn đề liên hệ đến dân tộc và đất nước. Thiển nghĩ chúng ta sẽ mất hết, mất cả cái "nhau" chúng ta vẫn nghĩ còn ("Chúng ta mất hết chỉ còn nhau"). Có những cái mất mát mà chúng ta coi như định mệnh hoặc bất khả kháng vì người sống không thể làm được gì để níu kéo ngoài việc tưởng nhớ, như những chiến sĩ đã nằm xuống vì lý tưởng, những nạn nhân chiến tranh, những đồng bào chết dưới lòng biển, ... Nhưng đối với người chết và nhất là các tiền nhân, tổ tiên, thiển nghĩ chúng ta khó có thể chấp nhận thái độ phỉ báng một cách hàm hồ, ác ý. Dù gì thì Trương Vĩnh Ký vẫn là người có liên hệ đến lịch sử thời người Pháp đến thôn tính Việt Nam, đã năng nổ ra tay, với lập trường phục vụ tổ quốc và dân tộc, đã tích cực đương đầu với "ngoại lai", tiếp nhận và thu thập tinh hoa của "người", giúp người Việt đến với khoa học, tiến bộ, làm giàu học thuật, đồng thời đã giúp đồng bào của ông làm người Việt về mặt đạo đức, văn hóa! Ngay sau "chiến thắng" 30-4-1975, Hà Nội liền phá bức tượng Trương Vĩnh Ký ở công viên gần dinh Độc Lập (66), đổi tên trường Petrus Trương Vĩnh Ký và phá bức tượng bán thân trong khuôn viên trường dựng từ 9-1928 (67); đến nay dù Đổi Mới và sau nhiều thay đổi, tượng A. de Rhodes được dựng lại, Trương Vĩnh Ký vẫn bị xóa, không phục hồi. Vì lý do chính trị chăng? Tượng A. de Rhodes được dựng lại, "tuyên truyền" rằng ông là ông tổ chữ quốc ngữ chỉ gây thêm ngộ nhận, "mây mù", vì muốn làm vui lòng người Pháp chăng? Để trường Viễn-đông bác-cổ mở lại ở Hà-nội, để người Pháp nghiên cứu và in sách Hán-Nôm - việc Trương Vĩnh Ký đã từng làm! Một trí thức Nam-kỳ, theo đạo Thiên-Chúa,.. hình như vẫn là ám ảnh chính trị của guồng máy độc tài cộng sản? Mới hiểu tại sao hơn thế kỷ trước, Trương Vĩnh Ký đến chết vẫn ôm một tâm sự buồn, ghi lại rõ nhất ở hai câu kết "bài thơ tuyệt vọng" :
"Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khơi"! (68)
Chú-thích:
(1) Phương hướng nhiệm vụ thứ năm : "Tiếp tục dòng chảy không đứt đoạn của ký ức văn hóa, Hội Nhà Văn tạo mọi điều kiện đãy mạnh sáng tác về đề tài lịch sử và chiến tranh cách mạng..." (Hữu Thỉnh. "Báo Cáo của Ban chấp hành Hội nhà văn khóa V... "Văn Nghệ, 17, 22-4-2000, tr. 6). Ngoài ra, Nguyễn Hữu Sơn (Viện văn-học) trong bài "Sáng tác về đề tài lịch sử" (Văn-Nghệ 24, 16-9-1999, tr. 6) đã ghi nhận: "... bởi tâm lý tự cường mong muốn khẳng định bản lĩnh văn hóa dân tộc trong bước chuyển gia tốc giao lưu và hội nhập quốc tế; hơn nữa được kích thích bởi những định hướng lớn của Đảng và Nhà Nước trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc truyền thống dân tộc khiến cho tâm thế sáng tác ‘hướng về cội nguồn’ ở các nhà văn càng có dịp nảy nở và phát triển...".
(2) "Sử gia" Nguyên Vũ (Vũ Ngự Chiêu) đã cho rằng Trương Vĩnh Ký bị thân mẫu "bán" cho cha cố người Pháp (Paris Xuân 1996. Houston : Văn Hóa, 1997, tr. 68). Đã bị bán mà TVK vẫn về thăm mẹ mỗi hè và khi mẹ mất đã về thọ tang! Thật ra cậu bé TVK 3 tuổi mồ côi cha được cố đạo Tám (người từng được ba cậu là lãnh binh Trương Chánh Thi che chở khỏi bị sát hại vì cấm đạo) và sau là cố Long nuôi cho ăn học chữ Hán trước chữ quốc ngữ và latinh. Riêng TVK đã có lần tự nhận là "con nuôi" của nước Pháp cộng hòa!
(3) Bài nói chuyện tại Nhà văn hóa lao động thành phố Hồ Chí Minh ngày 11-10-1998 và tường thuật lại trên báo Thanh Niên số ra ngày 21-10-1998. Không thấy sử gia Vũ Ngự Chiêu nhắc đến mấy lá thư này!
(4) Xem tranh luận về thơ Lục Vân Tiên trên tạp chí Văn Học (CA) các số 141, 142, 148, 149 (1-9, 1998).
(5) Trích lại từ Bằng Giang. Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Ký. (TpHCM) : Văn Học, 1993, tr. 41.
(6) Nguyên tựa là : Chuyện Đời Xưa Lựa Nhón Lấy Những Chuyện Hay Và Có Ích. Sài-Gòn. 1866. 74 tr.
(7) Thanh Lãng. "Thử thiết lập hồ sơ về hai người con gái : một con của Phật, một con của Chúa", tr. 14 in Về Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế Kỷ XVII-XIX): Tài Liệu Tham Khảo. (TpHCM: Trường Đại học tổng hợp Tp HCM, Khoa Ngữ Văn, 1993), và "Tiếng và chữ người Sài-Gòn" (di cảo). Dòng Việt, 6, 1999, tr. 158-179.
(8) Xem Nguyễn Vy-Khanh. "Tiếng Việt qua một số tác phẩm" tr. 63-91 In Văn Học Và Thời Gian. (Westminter, CA : Văn-Nghệ, 2000), và tập Sấm Truyền Ca (Montréal :Tạp chí Y Sĩ, 2000. 186 tr.).
(9) Rolland Jacques. "Bồ Đào Nha và công trình sáng chế chữ quốc ngữ : phải chăng cần viết lại lịch sử?" Định Hướng, 17, mùa thu 1998, tr. 18-62, tr. 40.
(10) Theo linh mục Đỗ Quang Chính, linh mục Dòng Tên Francisco de Pina người đã dạy tiếng Việt cho linh mục Đắc-Lộ, sau chết đuối ở cửa biển Đà Nẵng, mới chính là "một trong những người đầu tiên đem mẫu tự abc vào tiếng Việt" (Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659. Sài-Gòn : Ra-Khơi, 1972, tr. 89). Chính A. de Rhodes trong lời Tựa cũng ghi thừa hưởng công của Jaspar d’Amaral và Barbosa. Về dấu vết chữ quốc ngữ, xem R. Jacques. "Un document de linguistique comparée, japonais-chinois-vietnamien, rédigé à Macao en 1632". Định Hướng, 19, mùa hè 1999, tr. 141-157; 21, mùa đông 1999, tr. 86-106, và Nguyễn Khắc Xuyên. Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ 1651 . Garden Grove, CA : Thời Điểm, 1993; Giáo Sĩ Đắc Lộ.http://vietcatholic.net/
(11) Garden Grove, CA : Giao Điểm, 1998. 299 tr.
(12) "Về vai trò của Alexandre de Rhodes đối với sự chế tác và hoàn chỉnh chữ quốc ngữ" in Giao Lưu Văn Hóa Và Ngôn Ngữ Việt Pháp (TpHCM : NXB TpHCM, 1999), tr. 236.
(13) Paris: Maisonneuve, 1955-56, tome 1, quyển 1, chương 1, trang 9-22. Hà Nội cũng theo lý luận này để kết án A. de Rhodes có mưu đồ xui người Pháp xâm chiếm nước Việt Nam.
(14) Văn-Học Chữ Quốc Ngữ ở Nam kỳ 1865-1930. TpHCM : Trẻ, 1992. Tr. 295.
(15) Phạm Long Điền, " Trương Vĩnh Ký trong quĩ đạo xâm lăng văn hóa của thực dân Pháp" Bách-Khoa, 408, 11-1974, tr. 40.
(16) Mẫn Quốc. "Trương Vĩnh Ký, một nhà bác học trứ danh đã ngang nhiên đóng vai đặc vụ tình báo, làm tay sai đắc lực cho giặc Pháp".Nghiên-Cứu Lịch Sử, 60, 3-1964, tr. 40.
(17) Phạm Long Điền. Bđd, tr. 37.
(18) "Les monuments littéraires étant rares dans le pays des ... qu’elles prennent naissance aux sources obscures de la mythologie" (v. 1, p. 5-6) Avant-propos. Petit cours d’histoire annamite à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine. Saigon : Impr. du Gouvernement, 1875-1877.
(19) "Pendant 149 ans, l’Annam eut à subir des gouverneurs chinois. Mais cette domination périt, comme tout ce qui tient de la violence, par ses excès: Le joug fut brisé par les mains d’une femme". Op. cit., p. 23.
(20 ) "Il introduisit la littérature chinoise en entier, (...). Les Annamites perdirent complètement leur propre écriture par suite de cette mesure rigoureusement employée". Op. cit., v. 2, p. 27.
(21) "Nous n’oublierons point qu’Annamites de la France, ou Annamites de la Cochinchine et du Tonquin, nous avons des origines communes. Bien que séparés par les destinés politiques, nous nous élèverons de toutes nos forces contre ce système erroné d’administration, contraire à la saine économie politique, qui fait du peuple le bétail des rois; qui n’est que l’exploitation maladroite et criminelle d’une nation par la caste des fonctionnaires avides et ambitieux". (Op. cit., v. 2, p. 251); "Je demande pardon de cette digression, que la centemplation des faits historiques m’a arrachée. On ne m’en voudra point, si un sentiment de tristesse amère me domine, lorsque je considère ce que sont devenus ces pays et ce qu’ils auraient pu être" (p. 252).
(22) "Petrus Ký". Bulletin de l’enseignement mutuel du Tonkin, t. XVII, nos 1-2, janv-juin 1937, p. 25-67. Trích theo Bằng Giang, Sđd tr. 39.
(23) Vân-Đằng Trần Văn Rạng. " Trương Vĩnh Ký với Truyện Đất Nam-kỳ". Văn (TpHCM), 11-1990, tr. 102.
(24) Phụ lục, tr. 160-168 In Trương Vĩnh Ký, Nhà Văn Hóa. Sđd; và Về Sách Báo... (chú 7).
(25) Trích theo Bằng Giang, Sđd tr. 132.
(26) Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã nhiều lần cho biết: : "Có thể chúng tôi cũng có trách nhiệm phần nào trong việc dẹp bỏ tượng Trương Vĩnh Ký vì nhiều năm trước 1975, chúng tôi đã đề ra một cuộc vận động phê phán Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký về phương diện chính trị và văn hóa" (Trương Vĩnh Ký, Nhà Văn Hóa . Sđd, tr. 44); "Trước 1975 tôi đã viết nhiều bài, sách phê phán nghiêm khắc Trương Vĩnh Ký đặc biệt về chính trị, hơn nữa tôi còn gợi ý khuyến khích một vài bạn trẻ đi vào con đường đó như Phạm Long Điền, Nguyễn Sinh Duy. Những loạt bài phê phán của chúng tôi đã gây phiền muộn bất mãn trong giới văn hóa miền Nam lúc đó đặc biệt hai người Hồ Hữu Tường và Vương Hồng Sển..." ("RFI phỏng vấn nhân dịp 100 năm ngày giỗ Trương Vĩnh Ký", Đi Tới, 13, 9-1998, tr. 22. In lại trong Nhận-Định X (Montréal : Tác giả xb, 1999), tr. 151).
(27) Trích theo Bằng Giang, Sđd, tr. 56.
(28) Trích theo Bằng Giang. Sđd, tr. 134.
(29) "Tựa". Lê Thanh. Trương Vĩnh Ký Biên-Khảo. Hà Nội : Tân Dân, 1943 (Phổ Thông bán nguyệt san, 9-1943), tr. 4.
(30) "Phỏng vấn nhà văn Võ Phiến về bộ sách "Văn Học Miền Nam"". Văn Học (CA) 169, 5-2000, tr. 10.
(31) Bằng Giang. Sđd, tr. 65.
(32) Phạm Long Điền. Bđd, tr. 35.
(33) Nguyễn Văn Trung. Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc. (Sài Gòn : Nam Sơn, 1974), Xuân Thu tb, 1989, tr. 42.
(34) Quán Phong. "Trương Vĩnh Ký". Nắng Mới (Montréal), 21, 6-1993, tr. 20-24.
(35) Pétrus Trương Vĩnh Ký Tuyển Tập. (San Diego: Việt Nam/Mr Le, 1996), tr. 89. (Ngoài bìa ghi "tác giả" là Cửu Long Lê Trọng Văn, trang trong ghi "tác giả giữ bản quyền" và ghi thêm "mọi trích dịch, in hay sao ... phải có sự đồng ý của tác giả" - Người đọc tự hỏi ai là "tác giả" và không biết ông "tác giả mới" này đã xin phép các tác giả nguyên bản chính chưa!).
(36) Trích bản thảo.
(37) Như Tô Minh Trung. "Trương Vĩnh Ký tên tay sai đắc lực đầu tiên của chủ nghĩa thực dân Pháp trong lịch sử nước ta". Nghiên Cứu Lịch Sử, 59, 2-1964, tr. 45 (Lập lại ý bài của H.H. "Giới thiệu TVK" đã đăng trước đó (NCLS, 56, 11-1963, tr. 13-23) là loạt bài mở đầu "cuộc bình luận về TVK" kết thúc với Trần Huy Liệu ("Nhận định về TVK". 63,6-1964, tr. 29-31)).
(38) Paul Bert Au Tonkin. Paris : G. Charpentier, 1887.
(39) Tâm Thư. Houston, TX : Văn-hóa, 1995, tr. 99-100.
(40) Đỗ Quang Hưng. Một Số Vấn Đề Lịch Sử Thiên-Chúa Giáo Ở Việt Nam. Hà Nội : Trường đại-học tổng hợp, khoa lịch sử, 1990. Ông Hưng tường trình và có kể công của Trương Vĩnh Ký, lời phê duy nhất, nếu có thể xem đó là lời phê, là khi ông gọi Trương Vĩnh Ký là "trí thức nửa dân tộc" (tr. 68).
(41) Thư in lại trong Jean Bouchot. Un savant et un patriote Cochinchinois : Pétrus J.B. Trương Vĩnh Ký. Sài Gòn : Nguyễn Văn Của, 1927, tr. 65.
(42) Trích theo Hồ Hữu Tường. "Hiện tượng Trương Vĩnh Ký hay hóa trình từ người trí thức đến kẻ sĩ phu". Bách-Khoa, 404, 5-9-1974, tr. 22.
(43) Dương Mạnh Huy, "Một người tốt của nước Việt Nam", Lục Tỉnh Tân Văn 1927 (Trích theo Bằng Giang. Sđd, tr. 94-95).
(44) Mẫn Quốc. Bđd, tr. 43.
(45) "Một tháng ở Nam-kỳ". Nam-Phong tạp-chí 17 (1919), Trích từ Nguyễn Văn Trung. Nhận Định X. Sđd, tr. 150, chúng tôi trích lại với dè dặt vì chúng tôi không tìm thấy câu trích trong bản in lại trong Hành Trình Nhật Ký (Yerres : Y Việt, 1997).
(46) Tập 3. Sài Gòn : Tác giả xuất bản, 1965, tr. 84-85.
(47) "Miền Nam khai phóng", tr. 15-61 In Văn-Học Và Thời Gian. Sđd.
(48) Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc. Sđd, tr. 44, 86 và 112-115.
(49) Nguyễn Sinh Duy. "Thương xác cùng học giả Hồ Hữu Tường về hiện tượng Trương Vĩnh Ký", Bách Khoa, 406, 10-1974, tr. 15-25.
(50) Vương Hồng Sển. Hơn Nửa Đời Hư . Tp Hồ Chí Minh : NXB Tổng hợp, 1992, tr. 232.
(51) Tâm Thư. Sđd, tr. 83.
(52) "Ông Đốc Ký". Lục-Tỉnh Tân-văn số 29, 4-6-1908. Trích lại theo Nguyễn Văn Trung (Trương Vĩnh Ký, Nhà Văn Hóa, Sđd, tr. 34) . Câu này được nhiều sách báo trích dẫn lại nhưng sai, hoặc thành "ông thầy của cả nước và của cả Nam-kỳ", hoặc "ông thầy đạo lý của Nam-kỳ"! Những chữ in nghiêng không có ở nguyên bản đăng lại!
(53) Lê Thanh Sđd. Tr. (3).
(54) Lê Thanh. Sđd, tr. 10-11.
(55) Đồng-Nai Văn-tập, 3, 1966, tr. 43-44, trích lại theo Bằng Giang. Sđd, tr 63.
(56) Bằng Giang. Sđd, tr. 187.
(57) Như bài viết "Nghi vấn về tác giả Lục Vân Tiên". Khởi Hành (CA), 45, 7-2000, tr. 7-10 : ông chủ trì ông là người đầu tiên lập lại nghi vấn của M.E. Villard trong một bài báo xa xưa tháng 8-1880 nghi rằng Lục Vân Tiên xuất phát từ Bắc từ ... thời thượng cổ, và vô danh!
(58) "RFI phỏng vấn nhân dịp 100 năm ngày giỗ Trương Vĩnh Ký". Bđd, chú 25.
(59) Phạm Long Điền. Bđd, tr. 41.
(60) New Haven, CT : Council on Southeast Asia Studies, Yale Center for International and Area Studies ; Amiens, France : Centre de relations internationales et de science politique, Université d’Amiens, 1990. 420p.
(61) "Người đầu tiên có công khiến văn học ta thành sinh-diện mới ấy là Trương Vĩnh Ký (...), một nhà học giả trứ danh ở Nam-Việt ngay từ khi Nam Việt mới thành thuộc địa đã dùng chữ quốc ngữ để chuyển tả những văn Nôm hay (...) rồi lại dùng Việt ngữ để phiên dịch sách Tàu (...), sách Tây (...) và trứ thuật các sách chuyện đời xưa, phép lịch sự an nam, cờ bạc nha phiến, bằng một trhứ văn rất giản dị". (Việt Nam Văn Hóa Sử Cương . Sài-Gòn : Bốn Phương, sd, tr. 276).
(62) Nửa Đời Còn Lại (Westminster, CA : Văn nghệ, 1996), tr. 369.
(63) Nguyễn Văn Trấn. Trương Vĩnh Ký, Con Người Và Sự Thật. TpHCM : Ban Khoa-học xã hội thành ủy, 1993, tr. 210. Sách bị tịch thu sau khi in, nhưng hiện có ở nhiều thư viện Mỹ.
(64) Hồ Hữu Tường. Bđd, tr. 19.
(65) Lê Thành Khôi. Le Viêt Nam : histoire et civilisations, le milieu et l’histoire. Paris : Minuit, 1955, tr. 310-311.
(66) Bức tượng nhà bác học Trương Vĩnh Ký được dựng từ năm 1927 ở công viên gần nhà thờ chánh toà Sài-Gòn lúc đầu do dân chúng và nhà báo hô hào thu góp đúc tượng từ năm 1908, sau nhà cầm quyền người Pháp muốn "lôi kéo" về cùng phe đã hoàn thành đúc tượng và khánh thành, khi kháng chiến chống Pháp nổi dậy ở Sài-Gòn năm 1945 vẫn được tôn trọng không bị phá đổ như tất cả các tượng hình dấu vết của thực dân khác. Nhưng đến 30-4-1975 thì bức tượng bị giật đổ vì bị kẻ "chiến thắng" xem như là tàn tích của ... quá khứ ! Giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng đã thú nhận đã hiểu sai việc dựng tượng nên đã mạnh tay với Trương Vĩnh Ký trước 1975 (Trương Vĩnh Ký, Nhà Văn Hóa. Sđd, tr 46).
(67) Với thiên kiến, "sử gia" Nguyên Vũ VNC đã sai lầm gán cho "chính phủ Nam-kỳ tự trị của y sĩ Nguyễn Văn Thinh lấy tên Petrus Ký đặt cho trường học bản xứ lớn nhất SG" từ năm 1946 (Sđd, chú 2, tr. 70). Trong thực tế lịch sử, trường khai giảng khoảng tháng 9 năm 1927 với tên Collège de Cochinchine, đến ngày 18-12-1927, thống đốc Blanchard de la Brosse ra quyết định đổi tên thành Petrus Trương Vĩnh Ký và năm sau khánh thành tượng đồng TVK bán thân và trường trở thành Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký.
(68) Đào Văn Hội. Danh Nhân Nước Nhà. Sài-Gòn : Tác giả tái bản, 1948, tr. 223.
------------------------------------------
** Bài viết được trích từ Đặc San Petrus Ký 2002 do Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Petrus Ký Bắc California thực hiện
Nguyễn Vy Khanh
5-2000
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.