Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

01/12/2016

Từ Hà Nội, lên Việt Bắc, tới Khu học xá Nam Ninh (hồi kí Nguyễn Chí Công)

Thật ra, đúng hơn là "từ Hà Nội lên Việt Bắc, tới Khu học xã Nam Ninh, và trở lại Hà Nội".

Về tác giả Nguyễn Chí Công - một chuyên gia tin học lớp đầu tiên của Việt Nam - thì có thể đọc một bài cũ về ông (ở đây), hay một chút về họ Nguyễn làng Đông Tác ở Hà Nội (ở đây).

Hồi kí dưới đây của ông đang được đưa dần lên trang của nhóm CESP (viết tắt của Con em sư phạm).

Tôi thì quan tâm đến các thông tin về Khu tự trị Việt Bắc và Khu học xá Nam Ninh (về khu học xá này, đã nhắc đến một học sinh trưởng thành từ đây là nhà khảo cổ học Nguyễn Lân Cương - một entry nào đó đã đi trên blog này).

Từ đây trở xuống là của Nguyễn Chí Công.

Tháng 12 năm 2016,
Giao Blog



---

1.

21/7/2016

TỪ VIỆT BẮC SANG TÂM HƯ
Là một CESP tôi muốn kể về môi trường sư phạm thời trước, nhờ đó mà mình đã nên người và sau này cùng bạn bè cũng đóng góp được đôi chút cho đất nước.

SUỐI NGUỒN VIỆT BẮC

Lần ngược lại hơn 60 năm trước, tôi hầu như quên hết những chi tiết cụ thể đầu đời. Cũng may còn giữ được vài bức ảnh mờ, sổ sách cũ và một tờ giấy khai sinh ố vàng với nét chữ của Ba tôi là nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo. Rồi các anh chị và bạn bè tôi lại cung cấp những tư liệu khác của xa xưa làm cho mối liên hệ giữa các mẩu ký ức thêm rõ ràng.
Redsvn-Lang-Son-1950-25
Vùng Lạng Sơn năm 1950. Photo courtesy of LIFE magazine.
Tôi sinh ra trong kháng chiến chống Pháp, giữa sương mờ Việt Bắc, theo chữ Ba ghi là tại “phố Kéo Coong, phủ Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn”. Khi ấy, chị Hiến Chi đã thoát ly đi kháng chiến như Ba, anh Hải Hoành xin nghỉ học cả năm trời để bế tôi và chị Quốc Ân vừa lớn đã phải cáng đáng việc nhà giúp Mợ. Bây giờ điều này có lẽ hiếm hoi, nhưng trước kia thường xuyên xảy ra.
Các thiếu niên ngày ấy dù từ xuôi lên hay sinh ra ở địa phương đều có thể đi học. Mỗi lần có dịp suy nghĩ và so sánh, tôi càng thấy rõ nước Việt Nam độc lập ngay từ đầu đã tự xây dựng được một hệ thống trường phổ thông đa cấp, phủ đến tận núi rừng, một kỳ tích khu vực nếu không nói là quốc tế. Tiếc rằng cho đến nay dường như công lao của các bậc mở đường, trong đó có Ba, lớp người đào tạo ra những thầy giáo đầu tiên cho nền giáo dục dân tộc, còn chưa được đánh giá đúng mức và ghi đầy đủ vào sử sách.
Nhiều lần trở lại Việt Bắc, tôi cảm thấy non xanh nước biếc và không khí trong lành vẫn như không thay đổi, nhưng đáng buồn là những chứng tích hoang tàn và tội ác khủng khiếp do quân Trung Quốc gây ra trong cuộc xâm lược năm 1979 thì dường như dần bị lãng quên.
Trong gia đình, tôi vốn được săn sóc đặc biệt vì ra đời cuối cùng, khi Mợ đã vắt kiệt sức sau bao lần sinh nở và nuôi nấng các con. Trải qua quá nhiều thiếu thốn trong những năm tháng rời Hà Nội chạy giặc quanh các tỉnh Việt Bắc cho nên sức khoẻ của cả nhà tôi đều sút kém. Mợ hầu như không còn sữa, thường phải nhá ngô non để mớm cho đứa con út quặt quẹo hay khóc ngằn ngặt. Ba lặn lội mở trường Sư phạm Việt Bắc trong những vùng hẻo lánh, đôi khi mới tạt về thăm và đưa cho vài cân gạo. Nghị lực và tài đảm đang của Mợ thật phi thường mới có thể giúp cho đàn con nhỏ đều sống sót qua thời kỳ kháng chiến gian nan.
Từ cuối năm 1951 một vài anh chị và tôi đã có các điều kiện tốt hơn hẳn, do được theo Ba Mợ vượt biên giới vừa khai thông sang sống ở Quảng Tây. Số là theo Nghị định số 276/NĐ ngày 11/10/1951 của Bộ Quốc gia Giáo dục các trường Sư phạm Sơ cấp, Trung cấp và Cao cấp Trung ương được thành lập và đóng tại Khu học xá Nam Ninh. Hồi đó, chiến tranh Triều Tiên đang diễn ra đẫm máu, quân đội Mỹ và Trung Quốc nhảy vào đánh nhau ác liệt. Tỉnh Quảng Tây ở phía nam, tuy là một vùng đất khách hoàn toàn xa lạ và vẫn còn thổ phỉ, nhưng ít ra đã hết nội chiến rồi.

TÂM HƯ MỜ ẢO

Trước tiên, gia đình chúng tôi sống khoảng hai năm ở Tâm Hư, một ngôi làng nghèo của người Chuang. Tộc Chuang còn gọi là Tráng hoặc Đồng, một trong các tộc Bách Việt đã bị Hán hoá từ đầu Công nguyên. Ấn tượng về Tâm Hư đọng lại rất ít và mờ ảo vì tôi còn ở tuổi đi vườn trẻ, ít khi rời tay Mợ. Đáng tiếc rằng tôi chưa có dịp nào quay trở lại nơi đây.
Tới khi rời đi Nam Ninh, tôi mới chỉ loáng thoáng nhớ rằng làng Tâm Hư rất lớn lại nhiều ngõ ngách, thường thấy lũ lợn thả rông vẫy đuôi nhởn nhơ. Có một cây đa che bóng mát rượi, trên đường lác đác những phụ nữ có bàn chân bé tý do bị bó chặt, họ địu con trên lưng, còn đàn ông tóc tết đuôi sam gánh thùng gỗ qua lại. Ao tù xanh rêu, ruồi nhặng bay vù vù. Thế mà lại có một sân bóng rổ, kéo không ít thanh niên đến chơi mỗi buổi chiều. Ô tô rất hiếm thấy, nếu nghe có tiếng chiếc nào chạy qua thì lũ nhóc lại chạy ra vẫy, dù khói bụi tung lên mù mịt.
Hầu hết nông dân đều ở nhà đất, mái thấp lè tè, có chỗ còn dựng lều tạm. Bạn Hoàng Đình Cường nhớ rõ là người ta xếp cho các GS Hoàng Ngọc Cang (hộ 3 người), Nguỵ Như Kon-Tum (4 người) và Nguyễn Xiển (5 người) mỗi gia đình một gian trong ngôi nhà ngói vốn của địa chủ, bên ngoài có sân gạch. Vườn trẻ do chính các bác gái tự quản, kiêm luôn việc bảo mẫu. Trước vườn trẻ là một cái ao, các “mẹ” dắt chúng tôi đến đó men theo bờ ruộng khúc khuỷu, đầy bụi cây dại với chuồn chuồn.
Các lớp Sư phạm được tạm đặt tại một khu nhà to, lúc ấy mới có hơn trăm giáo sinh. Nước đục, muốn dùng phải đánh phèn và dùng thuốc để khử trùng, mùi hơi hắc… Mỗi giáo sinh khi đi học tự mang theo một cái ghế con để ngồi.
Tổng GĐ Khu học xá TƯ Võ Thuần Nho từng kể: “Khi tôi đến Tâm Hư vào tháng 12/1951 thì ở đó đã có thầy trò các trường Khoa học Cơ bản, Sư phạm Cao cấp, SP Việt Bắc chuyển sang với một số công nhân Việt Nam. Ngay năm 1952, lần lượt thành lập các trường SP Sơ cấp, Trung cấp rồi tách SP Trung cấp thành hai hệ KH Xã hội và KH Tự nhiên. Các trường phổ thông, nhà trẻ và mẫu giáo cũng sớm được tổ chức… Số lượng cán bộ, giảng viên, giáo sinh Khu học xá lúc đông nhất vào khoảng 2500 người, lớp giáo sinh tốt nghiệp về nước lại có lớp khác sang. Đến 1956, chuyển toàn bộ hệ Sư phạm về nước, Khu học xá TƯ chỉ còn lại học sinh phổ thông.” (theo Trần Duy Hiển,ANTG).
Tâm Hư còn gắn với một kỷ niệm không thể xoá khỏi đầu tôi. Có lần Mợ dắt tôi đi ra chợ, bỗng chợt thấy một đám đông hung dữ đang chỉ trỏ, quát mắng ầm ỹ và đập ghế, nhổ nước bọt vào mấy người bị trói quỳ lạy giữa sân to. Tuy tôi không hiểu họ nói gì, Mợ vẫn vội vàng kéo mũ che mắt tôi và bế thốc chạy về nhà.
Lớn lên, tôi được giải thích đó là một buổi đấu tố xảy ra trong cải cách ruộng đất ở Trung Quốc mà tôi may mắn đã không phải nhìn thấy cảnh xử bắn. Ba buồn bã bảo : dù họ có tội tình gì thì cũng không được làm nhục họ, những kẻ bị trói tay bịt miệng, mất hết quyền tự biện hộ… Ai ngờ về sau đến lượt làng quê mấy tỉnh Bắc Bộ cũng gặp kiếp nạn này và chú ruột tôi là cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha phải chịu oan khuất mà tự vẫn dù vốn được coi như một vị “Bồ Tát giữa đời thường”.
Rút gọn từ hồi ký
Nguyễn Chí Công, SP66
(Xem phần tiếp theo)
https://cespsite.wordpress.com/2016/07/21/viet-bac-quang-tay-ha-noi-1/





2.


25/7/2016
KHU HỌC XÁ NAM NINH


NHỮNG NGÔI NHÀ LỚN
Những chuyện xảy ra từ khi theo Ba Mợ rời làng Tâm Hư về sống tại Nam Ninh (thủ phủ tỉnh Quảng Tây) cho đến lúc trở về Hà Nội (1955) thì tôi nhớ được nhiều hơn. Hồi đó, trụ sở Khu học xá trung ương vừa mới xây xong, rộng mênh mông. Chính nơi đây, lần đầu tiên trong đời tôi được biết đến những toà nhà quét vôi màu sáng, có nhiều cửa sổ rộng và một dãy cột cao to trông rất khác lạ. Đó là khu vực trường học với những giảng đường nhỏ và hội trường lớn ; mỗi khi tan lớp, các giáo sinh đổ ra đông nghịt, cười nói ầm ỹ.
Bên ngoài các giảng đường là các bãi cỏ, vườn hoa, bể nước với hòn non bộ v.v. nhưng ở đó không có cây cổ thụ nào cả. Những ngày trời đẹp tôi thường đến xem hoa, ngắm cá vàng bơi, bắt bướm hoặc chơi trốn tìm quanh quẩn với bạn bè. Lũ nhỏ chúng tôi thường đi tắt ngang các bãi cỏ, mặc dù có lối đi sạch sẽ đến từng giảng đường, sân bóng, bếp ăn và dãy nhà tập thể gia đình.
Khu gia đình hầu hết gồm các dãy nhà gạch một tầng, trước mỗi căn hộ thường có một vườn rau gọi là đất “tăng gia”. Căn hộ nơi gia đình tôi sống tuy nhỏ nhắn nhưng ấm cúng, hầu hết các bạn tôi ở ngay xung quanh. Chính tại đây tôi đã trải qua những cơn sốt nóng bỏng, chân tay vật vã, môi khô miệng đắng, đầu nhức ghê gớm, có cảm giác như đang bay bỗng bị lôi tuột xuống, rơi thun thút rồi thiếp đi lâu lắm, khi tỉnh lại luôn luôn thấy phía trên là những khuôn mặt lo lắng và ánh mắt tràn đầy yêu thương của Ba Mợ.
Theo nghiệp cũ của một gia tộc nhiều đời làm thầy, mấy anh chị lớn của tôi cũng chọn và được xếp vào học các bậc sư phạm trung cấp và sơ cấp, nhằm nhanh chóng đáp ứng nhu cầu cấp bách của các trường phổ thông trong nước. Chị Hiến Chi trở về nước đầu tiên và dạy học ở tỉnh Lai Châu. Tại đây chị kết hôn với anh Nguyễn Hanh và sinh cháu đầu lòng năm 1954, đặt tên là Minh Châu để kỷ niệm mối tình giữa vùng rừng núi xa xôi này. Anh Hải Đạm về dạy học ở tỉnh Nghệ An, sau lại chuyển về Thái Bình. Anh thứ năm là Hải Khoát đỗ đầu khóa nhưng không được cử đi học tiếp mà phải về dạy học ở tỉnh Phú Thọ. Mãi sau này, tốt nghiệp đại học xong rồi được đi Liên Xô làm nghiên cứu sinh, dường như anh mới hết bị mặc cảm thua thiệt. Chị Quốc Ân ra trường khoảng năm 1956 về dạy học ở Hải Phòng.
Ba Mợ hồi ở Nam Ninh rất hiếm khi có được các con từ Quế Lâm về chơi, cho nên gặp dịp nắng đẹp cả nhà lại rủ nhau đi chụp ảnh chung. Các anh chị thường ca hát, kể chuyện hoặc dạy cho tôi cách sống. Tôi vốn được Ba Mợ chiều chuộng nâng niu, 5 tuổi rồi mà nhiều việc nhỏ cũng chưa biết làm, khác với các anh chị phải tự lập ngay từ khi học cấp một.
Người anh liền kề chỉ cách tôi hơn 3 tuổi nhưng nhanh nhẹn, đã biết đầu têu nhiều trò. Anh sinh ra tại Hà Nội khi nước Việt Nam vừa độc lập và tràn đầy hy vọng về một thế giới mới, vì vậy Ba đặt tên là Đại Đồng. Lúc đầu anh Đồng được sống cùng Ba Mợ như tôi. Anh chơi giỏi cờ Hoà bình, thắng cuộc lại cho tôi những hòn bi trong vắt sặc sỡ. Lớn lên tôi trở thành một trong những tay chơi bi cừ khôi.
Về sau anh Đồng đi học, phải vào ký túc xá nhưng thỉnh thoảng vẫn về thăm và cho tôi xem chung vài quyển truyện tranh liên hoàn mượn của các anh lớn hơn. Tôi nhớ rõ là truyện tranh vẽ đẹp, các nhân vật chính trong đó đều có nét riêng rất dễ nhận biết, mặc dù tôi hoàn toàn mù Trung văn. Cứ như thế các khuôn mẫu anh hùng võ hiệp cổ đại đã len lỏi dần dần vào đầu thế hệ chúng tôi.

“CON DẠI CÁI MANG”

Như mọi gia đình có con nhỏ ở Khu học xá, nhà tôi rất chật chội, Ba Mợ thì bận liên miên. Thành ra những khi có dịp là tôi đi tìm phiêu lưu ở bên ngoài. Nhân dịp gì đó, tôi được tặng một khẩu súng gỗ làm đồ chơi, thế là bao nhiêu giáo sinh đi ngang qua nhà bếp tập thể bị tôi từ chỗ núp chạy ra đòi giơ tay hàng, bắt chước những cảnh tương tự trong loạt phim chiến tranh được chiếu hàng tháng.
Khu Học xá to như thế và vào các giờ học, giờ ngủ của giáo sinh các trường thì vắng lặng nên Ba Mợ rất lo tôi bị lạc lối. Tôi tuy nhát gan vẫn muốn biết tin đồn bên ngoài có mẹ mìn rình bắt trẻ con là thật hay không. Rồi anh Đồng cũng mò ra vị trí và cách chui qua tường rào, anh cho tôi chui theo và lang thang cùng chơi trên cánh đồng của người Choang, thích lắm. Tôi nghĩ hoá ra chẳng có gì đáng sợ trừ mấy cái ao sâu, mà anh ấy thì không để tôi xuống nước bao giờ. Mặc dù đôi khi bại lộ, anh em tôi cũng chỉ bị bảo vệ nhắc nhở riêng, không nêu tên, cho đến một lần nghịch dại thì bị cấm hẳn. Chúng tôi quả thật đã làm tàn lửa bén vào một đống rơm to. Các anh trong Khu học xá nhìn thấy khói bốc cao đã kịp thời khua kẻng báo động và túa ra dập tắt, nếu không có lẽ còn cháy mất thêm nhiều thứ.
Anh em tôi bị Ba phạt nặng và những lời bàn ra tán vào phải ít lâu sau mới lắng xuống, rồi cuộc sống lại mang đến những chuyện mới khác. Giờ mới thấy rằng cần phải dạy cho trẻ em sớm biết rõ về các mối nguy hiểm thực sự đang rình mò chúng và cách đối phó phù hợp phòng khi có chuyện. Những lời đồn thổi hoặc đe doạ chỉ làm tăng trí tò mò tưởng tượng và kích thích sự liều lĩnh non dại của tuổi thơ.
Tôi muốn nói thêm cách xử sự của người lớn sau khi có một chuyện không may xẩy ra đã ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ. Trẻ em có thể chấp nhận rồi quên rất nhanh một hình thức kỷ luật nếu thấy là chính đáng và được thông báo đàng hoàng tới những bên liên quan ; nhưng người lớn thì không bao giờ nên đụng chạm đến tên tuổi phụ huynh hoặc danh dự cá nhân của trẻ. Vụ việc trên kia cho đến nay đã không thể biến khỏi đầu tôi bởi vì nó bị cố ý đào bới lên ; không biết từ đâu lại đã tung ra nửa câu lấp lửng “Nhất Đồng, nhì Công…” ám chỉ Ba là nhà giáo dục lý thuyết. Mợ cằn nhằn trong nhà, nhưng thái độ bình tĩnh của Ba khiến những xì xào phải lắng dần.
Mỗi lần nhớ lại, tôi vô cùng hối hận thấy mình đã bắt đầu làm khổ Ba Mợ từ bé tý. Sau này có dịp nghe bác Xiển gái và Mợ nhắc lại chuyện cũ mới biết tôi đã nghịch dại từ lúc ở Lạng Sơn. Lần đó tôi nhét một hột lạc vào mũi và bị ngạt thở. Mợ phải giữ chặt lấy tôi cho bác Xiển gái khéo léo dùng thủ thuật để lấy hột lạc ra. Anh Đồng cũng có những mẩu chuyện giật gân và tôi nghĩ nhiều người trong số chúng ta thủa nhỏ đã từng chơi dại.

LỚP MẪU GIÁO

Rồi tôi gặp may mắn vì một cánh cửa khác chợt mở : tôi đã được nhận vào một lớp mẫu giáo đầy tiếng cười vui vẻ, có lẽ thuộc loại tiên phong của nước Việt Nam mới. Bên cạnh sự săn sóc ở nhà của Ba và Mợ, từ nay lớp đã mang đến cho tôi thêm tình đồng đội và sức khoẻ thể chất.
Sàn lớp có lát gạch men bóng loáng, rộng hơn nhà tôi nhiều, đồ chơi ít nhưng mới toanh, lại chỉ phải chia sẻ với khoảng hai chục nhóc con, phần lớn là gái. Mỗi đứa được phát một cái yếm thêu có túi và luôn luôn ăn no mặc ấm. Tôi bé nhất lớp, một số cô bảo mẫu lại chính là mẹ của mấy bạn, thành ra trừ những lần mắc lỗi bị phạt úp mặt vào tường thì tôi được chiều chuộng sung sướng lắm.
Bọn nhóc nhanh chóng thân nhau và đám bạn trai với những “hạt nhân” của vườn trẻ Tâm Hư như Hoàng Đình Cường, Võ Thạch Sơn, Nguyễn Lân Tráng… đã bắt đầu hình thành từ hồi đó. Không như lũ bạn gái ngoan ngoãn, nhóm chúng tôi buổi trưa hay vờ nhắm mắt ngủ, chỉ chờ các cô bảo mẫu đi ra là lại rì rầm nói chuyện riêng. Tôi không rõ ngày nay trong trường đào tạo các cô được dạy tâm lý học thế nào nhưng chắc chắn các cô bảo mẫu tự học của chúng tôi đã không thể ngờ bọn nhỏ lại sớm biết so sánh các quan sát của trẻ, dù còn lung tung.
Ngoài các buổi đến lớp, chúng tôi vẫn thường tìm nhau để tiếp tục chơi chung. Một tối, chơi xong cả bọn giải tán như bình thường, không ai để ý tôi đã chui rúc ngủ quên ở góc nào đó trong ngôi nhà rộng lớn của bạn Sơn, con chú Võ Thuần Nho, giám đốc Khu học xá. Thế là cả xóm tập thể náo loạn cùng Ba Mợ đi tìm hàng giờ mới ra…
Cho đến nay mấy đứa con trai cùng lớp mẫu giáo của chúng tôi vẫn giữ được mối quan hệ bè bạn, dù đã có biết bao biến cố xã hội trôi qua và xảy ra những sự xa cách do chuyển trường hoặc chiến tranh. Những năm tôi ốm nặng, con trai lớn phải chở tôi đến các cuộc gặp gỡ ngày Tết và cháu đã rất xúc động khi thấy các bậc cha chú cư xử thân mật với nhau như thế nào.

XÓM TRÍ THỨC

Từ khi đến Tâm Hư rồi sống hơn hai năm tiếp theo ở Khu học xá Nam Ninh, tôi lớn khá nhanh, đặc biệt về mặt tinh thần, trước hết nhờ vào một môi trường giáo dục rất thuận lợi mà sau này có dịp so sánh tôi mới nhận ra. Lúc đó hàng loạt thầy giáo danh tiếng đã cùng sang đây và mang theo nhiều kiến thức phong phú trong các lĩnh vực chuyên môn riêng. Tôi có thêm nhiều bạn mới và lại còn được hưởng sự chăm sóc của các bà các cô đến từ khắp ba miền trong nước.
Các thầy mà tôi nhớ khá rõ gồm có : Nguyễn Xiển, Nguỵ Như Kon Tum và Dương Trọng Bái dạy môn vật lý, Trần Văn Khang và Trần Văn Giáp dạy sử, Nguyễn Văn Chiển và Lê Bá Thảo dạy địa lý, Hoàng Ngọc Cang dạy hoá học, Lê Khả Kế và Đào Văn Tiến dạy sinh học, Trương Chính và Hoàng Như Mai dạy văn chương, Ngô Thúc Lanh và Lê Văn Thiêm dạy toán học, Nguyễn Lân dạy giáo dục học, v.v.. Còn có kỹ sư Đinh Văn Hớn, rồi các bác sĩ Hồ Đắc Di và Nguyễn Tấn Gy Trọng nữa… Nếu kể hết thì phải được đến mấy chục bậc thầy trong những lĩnh vực khác nhau, từ khoa học, văn chương, kỹ thuật đến y khoa, ngoại ngữ, thể dục, thể thao…
Hầu hết các thầy đã có con, nhưng cũng có những thầy chưa có con hoặc còn sống độc thân. Đặc điểm chung của các thầy là sự am hiểu chuyên môn và thái độ nghiêm túc trong việc truyền bá kiến thức của mình. Và học trò cứ kính trọng gọi họ là giáo sư như thời Pháp thuộc, mặc dù rằng về nước rồi mãi sau này cũng chỉ rất ít thầy được nhà nước chính thức phong học vị trên.
Hoàng Đình Cường chia sẻ ký ức của bạn ấy về 3 giáo sư sống dưới một mái nhà ở Tâm Hư. Gian bên phải dành riêng cho bác Xiển vì gia đình đông nhất. Gian bên trái ngăn tấm liếp chia đôi cho bác Cang ở ngoài, bác Kon Tum ở trong, đều có cửa thông ra gian giữa là phòng ăn và nơi họp chung 3 gia đình. Ba bà hàng ngày phụ trách bếp tập thể, có thêm u Lộc nhà bác Xiển phục vụ. Dịp Tết và Trung Thu đều có cỗ dù rất đơn sơ. Bếp núc do bà Xiển người Hà Nội cầm chịch và trực tiếp làm vì nấu rất tài. Bà Cang cũng biết sơ sơ thôi vì xuất thân quý phái từ Huế ít phải lao động. Còn bà Kon Tum càng ít phải đụng tay vì bị lao phổi.
Đối với riêng tôi thì ảnh hưởng của những phụ nữ lớn tuổi ở xóm này là cực kỳ quan trọng, vì kiến thức thực tiễn của họ dễ tiếp thu hơn nhiều so với các giáo sư. Đấy là những bà nội tướng nắm quyền chi tiêu và biết cách chăm sóc chồng con tốt nhất trong mọi hoàn cảnh. Hầu hết họ tỏ ra mẫu mực về lời ăn tiếng nói, không khoe khoang hợm hĩnh. Các bà thường nghiêm khắc với con mình hơn là đối với con nhà khác. Một số bà sinh ra trong các gia đình giàu có, hồi trẻ may mắn được học thêm kiến thức về y tế, bếp núc, dinh dưỡng, bây giờ có dịp chia sẻ lại với những chị em trong xóm.
Điển hình quý mến của tôi là bà Xiển. Phu nhân các vị giáo sư lớn tuổi thường được gọi theo tên chồng, đến khi bác mất tôi mới biết họ tên thật của bác là gì. Trong khi ở Khu học xá thì họ tên vợ chồng các cô chú mới cưới vẫn cứ độc lập như cũ. Như vậy có sự phân biệt trước-sau giữa hai thế hệ phụ nữ qua cách xưng hô. Lũ nhỏ chúng tôi còn quan sát và so sánh thêm một số trường hợp khác, càng làm nổi bật giá trị của những phụ nữ kín đáo ẩn mình. Hồi đó có khá nhiều vợ con của các cán bộ cao cấp trong nước cũng được gửi đến Khu học xá. Không biết do quen được phục vụ hay do xa chồng mà một số trong đó tỏ ra kênh kiệu khó gần, hoặc ngược lại có những cử chỉ nhõng nhẽo yếu đuối.
Mợ thường dắt tôi sang chơi nhà các bác gái cùng trang lứa với Mợ như bà Hớn, bà Phúc, bà Lân, bà Xiển, bà Nam, v.v.. Các bác luôn luôn coi tôi như con và dạy bảo cho rất nhiều điều hay lẽ phải. Sau này về nước, thỉnh thoảng có dịp tôi vẫn đến thăm cho đến khi các bác qua đời.
Chính vì tôi còn nhỏ mà lại hiếu động khó có thể để ở một mình nên thường được dắt theo mỗi khi Ba đi tìm đồng nghiệp bàn việc. Thỉnh thoảng có những mẩu chuyện trao đổi giữa người lớn bỗng dưng thu hút sự chú ý và tôi nghe lỏm được không ít điều từ đó. Các giáo sư cũng khá cảnh giác và thường chuyển sang nói bằng tiếng Pháp những chuyện không cần cho trẻ con biết.
Lúc ấy chiến tranh đã diễn ra khá lâu và dần dần đang đi tới hồi kết thúc. Ngay từ đầu, lãnh đạo Khu học xá đã tổ chức những buổi báo cáo tình hình chiến sự và bình luận chính trị nóng bỏng. Tôi nghe lỏm người lớn tán dương những diễn giả nói sang sảng, rất đanh thép, lôi cuốn được giới thanh niên. Nhưng Quảng Tây nào có xa Hà Nội và Hồng Kông, các giáo sư cũng có vài nguồn tin khác để nghi ngờ rằng những thông tin tuyên truyền đôi khi đã cường điệu sự thực, thiếu bằng chứng khách quan hoặc tỏ ra một chiều, thậm chí có thể hoàn toàn sai.
Tại Khu học xá, ảnh hưởng hàng ngày của chính trị và văn hoá Trung Quốc tới một lớp các nhà khoa học và thầy giáo tương lai của Việt Nam hình như vừa là điều tốt vừa là mối lo đối với nhiều trí thức. Tôi còn bé không hiểu tại sao họ lo, nhưng tôi cũng biết ghét sự bắt chước quá mức những tác phong giả dối đến lố bịch. Thí dụ sự phân biệt thứ bậc vừa phiền toái vừa không chính xác : cấp trên nào đối với cấp dưới cũng là “thủ trưởng” hết, mà cần xưng danh với đầy đủ mọi tước hiệu dài dòng, dù phải lặp lại lặp lại nhiều lần ; thái độ con người thay đổi theo vị thế tương quan giữa hai bên : quan chức thì hách dịch với thuộc cấp nhưng lại khúm núm sợ hãi nịnh bợ các bề trên. Nhiều người đi họp cũng cố cầm theo một quyển sách dày cho giống lãnh tụ Mao Trạch Đông trong tranh ảnh tuyên truyền…
Các giáo sinh cũng tự biết mình có thể phát biểu hăng hái khi sau lưng có đông bạn bè ủng hộ, nhưng nếu chỉ còn đơn độc để ứng phó trước một sự việc mới lạ thì lại thường tỏ ra rụt rè, thiếu tự tin. Ngay cả các giáo sư tuy rất khâm phục các thành tựu của Liên Xô, Trung Quốc được tuyên truyền rầm rộ, nhưng về nhà vẫn nghi ngờ hỏi lẫn nhau, có lẽ vì vốn quen vừa sống theo truyền thống cảnh giác của dân tộc ta, vừa suy nghĩ theo phương pháp khoa học thực nghiệm của phương Tây.
Mãi về sau tôi mới được biết những trí thức Tây học hồi đầu kháng chiến được kính trọng gọi là nhân sĩ, đến gần ngày chiến thắng họ bị nhiều cán bộ tổ chức coi là lớp người cũ, thậm chí chụp mũ “tiểu tư sản”, bắt về nước tham gia cải cách ruộng đất để “tiếp thu tư tưởng công nông tiên phong”. Không chỉ ở Khu học xá, khi trở lại Hà Nội họ càng phải sống kín đáo hơn, nhất là sau thời kỳ “Nhân văn giai phẩm” đầy xáo động và điên rồ.

MÔ HÌNH KHU TẬP THỂ

Nhiều lần suy nghĩ, tôi vẫn không biết có phải mô hình khu tập thể đã xuất hiện ở Trung Quốc hay Liên Xô với hình ảnh các chung cư hoành tráng nhưng đơn điệu, thường thấy qua những cuốn phim được chiếu phổ biến thời ấy. Nhưng chắc chắn kiểu tổ chức cuộc sống ở Khu học xá đã có ảnh hưởng rõ rệt tới nhiều người và trở thành quen thuộc đến mức như một mô hình hiển nhiên trong mắt họ. Rồi có thể giả thiết mô hình này đã từ chính Khu học xá nhanh chóng du nhập vào miền Bắc Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 20.
Sống ở Khu học xá, các gia đình không chỉ chia sẻ một số không gian chung như sân chơi, hành lang, lối đi, vườn hoa, nhà bếp, nhà vệ sinh, hố rác… mà còn rất dễ đi đến chia sẻ cả một số thông tin riêng, bởi vì thế nào là bảo vệ sự riêng tư thì chưa bao giờ có đủ các quy định chi tiết, cụ thể, tỏ tường. Nhiều lãnh đạo có lẽ chỉ quan tâm đến các mục tiêu chính trị mà quên mất sự hài lòng và tự do của các cá nhân. Bên cạnh một số mặt tốt như gia tăng tính cộng đồng giao lưu cởi mở, phổ biến kiến thức vệ sinh, phát huy sức mạnh tập thể, v.v. lối sống tập thể mang lại không ít phiền toái, bất tiện, trong đó một thiểu số những người chín chắn lại thường bị đa số quần chúng hấp tấp áp đảo. Đã có những đám cưới đông nghịt khách không mời và sự kiện những đứa hài nhi ra đời thì một giáo sinh chẳng hề liên quan cũng có thể kể lại vanh vách, cứ như là hàng xóm.
Từng sống hầu như liên tục trong các năm sau đó tại khu tập thể trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy mô hình nói trên được áp dụng triệt để ở ngay thủ đô. Một thực tế không hay của nó là lối sống luộm thuộm tuỳ tiện của những vùng dân cư thưa thớt đã thâm nhập vào nơi đô thị đông đúc. Đâu đâu cũng có thể họp chợ cóc. Từ người lớn đến trẻ em, tất cả đều bị một hệ thống loa phóng thanh dựng cổ dậy sớm, kể cả vào ngày duy nhất được nghỉ hồi ấy là chủ nhật.
Rồi sau đó phải chứng kiến và trải nghiệm sự xuống cấp thê thảm của khu tập thể Kim Liên ở nơi quê nhà, suốt nửa thế kỷ từ trước khi Mỹ ném bom cho đến hôm nay, tôi thấy rõ càng ngày mặt xấu càng lấn át mặt tốt trong mô hình này. Không thể nào quay lại thời đại Khu học xá được nữa, bởi vì bây giờ những thông lệ văn hoá cộng đồng đáng tôn trọng đã bị số đông lờ đi, dẫm đạp lên, những con người gia giáo đã hầu như tuyệt chủng. Một hậu quả của lối sống bon chen ích kỷ là nạn ách tắc giao thông thường xuyên và sự ô nhiễm khủng khiếp đã giết chết mọi con sông thơ mộng từng có ở Hà Nội.

NHỮNG NGUỒN TIN KHÁC

Trừ giờ học và giờ nghỉ, mỗi ngày vào đầu ba buổi sáng, trưa, chiều, cả một hệ thống loa phóng thanh ở Khu học xá nhắc đi nhắc lại các bản tin thời sự và bình luận sôi nổi, xen lẫn ca nhạc vui vẻ. Nhiều lần anh em chúng tôi suýt bị bẹp ruột khi cố chen lấn tìm chỗ tốt để xem các bộ phim truyện và phim tài liệu, thứ hấp dẫn bọn con trai giống như trò chơi điện tử bây giờ. Ngoài ra còn có tranh vẽ, ảnh in khổ to và băng-rôn treo khắp nơi.
Bên cạnh các bộ tranh truyện đã nói, tất cả những phương tiện nghe-nhìn hiện đại này đã nhét biết bao thứ hổ lốn Đông Tây vào đầu chúng tôi. Quả thật lần đầu tiên tôi học khái niệm và biết phân biệt hai phe “địch ta” chủ yếu thông qua phim ảnh, một phương pháp tuyên truyền đạt hiệu quả rất nhanh. Nhờ các giáo sinh công kênh trên vai tôi đã biết cái cảm giác vừa háo hức chờ máy bay “địch” rụng như sung, vừa sợ run lên khi bom nổ hoặc hoả tiễn Cachiusa của “ta” gầm thét toé lửa phóng vun vút trong bóng tối.
Các nam nữ giáo sinh dù vô tình hay hữu ý, đã mang không ít thông tin mới lạ đến với tôi. Đó là những khi có dịp nghe họ kể chuyện say sưa hoặc trả lời các câu hỏi của chúng tôi, nghe họ tranh luận sôi nổi với nhau sau các sự kiện chính trị, thể thao và liên hoan văn nghệ hoặc chỉ đơn giản do họ bỗng dưng chạnh nhớ tới gia đình, quê hương, tổ quốc.
Ba dạy chúng tôi phải kính trọng các giáo sinh vì hơn nửa chữ cũng là thầy. Ba nhắc nhở rằng nhiều người trong số đó lớn hơn 18 tuổi, thậm chí có cả những người đã từng đỗ tú tài hoặc dạy tiểu học trước khi phải bỏ dở vì Pháp đem quân đánh chiếm lại các thành phố Việt Nam. Về sau, một số giáo sinh của Khu học xá đã được chọn đi học đại học hoặc trên đại học ở Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Nhiều người bây giờ nổi tiếng đã từng trải qua cái lò luyện xuất sắc đó ở Nam Ninh.
Ngày ấy ở Khu học xá lại còn có không ít nghệ sĩ tài ba trong số những con người mà chúng tôi được tiếp xúc và truyền cho tình yêu cái đẹp. Các giáo sinh có thể học đàn hát, ít ra cũng biết nhảy một điệu “giao tế vũ” phương Tây như valse. Lớp tôi từng có lần chuẩn bị biểu diễn hoạt cảnh “Nhổ củ cải” trên sân khấu Đại lễ đường, tôi cùng mấy bạn đóng vai Thỏ, Mèo, Dê, Lợn, Chó, Vịt, Gà, mà thầy dạy hát chính là chú Phạm Tuyên, và chỉ huy dàn nhạc là chú Nguyễn Hữu Hiếu (người sau đó vài năm sẽ trở thành nhạc trưởng Đài Tiếng nói Việt Nam), v.v..
Với đống kiến thức tưởng chừng dễ tiêu hoá sau khi “trộn” hoặc “tách” qua quýt từ những nguồn tin nói trên, đôi lúc tôi nổi hứng tỏ ra hiểu biết và bị Ba Mợ nghiêm khắc chỉnh liền, tuy nặng nhất cũng chỉ bị gọi là “ông cụ non”. Ba riễu cợt tính ba hoa “cao đàm khoát luận” nhưng không hề ngăn tôi tò mò đặt những câu hỏi mà bản thân Ba thường cố gắng trả lời sao cho dễ hiểu nhất.
Nhìn lại có thể nói bạn bè của tôi cùng các anh chị ở Khu học xá đã được đào tạo trong hoàn cảnh đặc biệt như thế, và phần lớn trong đó sau này trở thành những nhà khoa học hoặc thầy giáo giỏi.
Rút gọn từ hồi ký

Nguyễn Chí Công, SP66

(còn nữa, sẽ đăng ảnh sau)
https://cespsite.wordpress.com/2016/07/25/viet-bac-quang-tay-ha-noi-2/



3.

NGÀY: THÁNG SÁU 13, 2017
VIỆT BẮC – QUẢNG TÂY – HÀ NỘI (3)

NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN

So với đa số các thầy giáo của Khu học xá, Ba trông rất vạm vỡ và phong trần. Mắt Ba hiền hậu, mũi sư tử, trán có nhiều nếp nhăn, tai to, lưng vuông, dáng hơi cao, tóc cắt ngắn. Ba ra ngoài luôn luôn mặc chỉnh tề, đi khoan thai, nói rõ ràng, chậm rãi. Tuy nhiên ở nhà Ba lại hay đùa với tôi, cho trèo lên vai lên cổ và cù vào nách, vào rốn thoải mái. Ba quả thật không có “máu buồn”, còn tôi chỉ cần Ba dứ dứ ngón tay vào bụng đã bật cười như nắc nẻ. Ba dạy tôi lau mình bằng cách kéo hai đầu chiếc khăn mặt vắt nước nóng, chính Ba thường xuyên làm như thế để lấy lại sự tỉnh táo mà không mất thời gian.
Ba sống điều độ, bữa chính không bao giờ ăn quá ba bát cơm. Ba thích rau, cá, đậu phụ luộc chấm tương hoặc rán ướp hành lá. Hôm nào ngon miệng, Ba ăn thêm một miếng cháy chấm muối vừng. Rất hiếm khi thấy Ba dùng rượu, bia và nước lạnh. Nếu lên cơn đau dạ dày thì Ba chọn cơm nếp. Hàm răng Ba rất trắng, đều đặn, chắc khoẻ. Ba không uống trà đặc, không thích đồ ngọt. Hàng ngày Ba có thể làm việc từ sáng sớm đến nửa đêm, buổi trưa cũng chỉ ngả lưng độ mươi phút. Nhưng khi ngủ Ba thường ngáy rất to, rung cả giường.
Ba thuận tay trái, hầu như chẻ củi xách nước đều dùng tay trái, nhưng viết trên giấy hay trên bảng đều bằng tay phải, theo đúng quy định nhà trường. Ba không bao giờ quên tuân thủ làm việc theo một thời biểu chính xác, nếu rảnh rang Ba lại lấy sách ra đọc và ghi chép cẩn thận vào các cuốn sổ to nhỏ, dán nhãn khác nhau. Tôi nhớ rằng những cuốn sổ tay của Trung Quốc thường rất đẹp và Ba không bao giờ viết ngoáy hoặc để dây mực ra giấy. Trên bàn, Ba xếp ngăn nắp đủ thước kẻ, hai lọ mực xanh đỏ, giấy thấm, tẩy và bút chì vót nhọn. Ba ngồi thẳng lưng trên chiếc ghế cứng, viết chữ chỉ hơi nghiêng một chút, đều đặn và đủ nét. Trong khi đó chữ của 10 anh chị em tôi đều nhỏ tí, không thẳng và thiếu nét, người lạ khó có thể đọc được dễ dàng.
Ba có tác phong hơi khác với nhiều bậc trí thức ở Khu học xá, thí dụ ngày nào Ba cũng tập thể dục và lao động chân tay, tắm nước lạnh… Nhờ những thói quen tốt này mà Ba luôn luôn giữ được cơ thể khoẻ mạnh, rắn chắc và dáng vẻ bình tĩnh, điềm đạm. Tôi chưa từng thấy Ba bị ốm dài ngày ở Khu học xá, ngoài việc thỉnh thoảng bị cơn đau dạ dày và tái phát sốt rét hành hạ. Thời ấy thuốc men vừa thiếu vừa không tốt như ngày nay, Ba chịu biết bao khổ sở vì những tàn dư bệnh tật có từ hồi ở chiến khu. Riêng Mợ phải nấu cơm thật dẻo cho Ba, tôi dần dần đâm ra quen ăn cơm nát cho đến tận bây giờ. Sau này những năm 1980 phải ăn bo bo và đạp xe đi làm xa tôi cũng bị đau dạ dày hệt như Ba, khi đó mới thấu hiểu những dày vò thể xác đối với một người cần làm việc trí óc là như thế nào.
Buổi tối, các giáo sinh rất hay đến nhà hỏi Ba về bài vở, đôi khi kể lể cả những thứ chuyện riêng tư mà tôi không hiểu nổi. Nép mình trên góc chiếc giường con, tôi nghe tiếng Ba kiên nhẫn giảng giải trong căn phòng ngoài chật chội, một điều anh, hai điều chị và không bao giờ nặng lời với học trò. Các giáo sinh nam cũng rất chiều tôi, họ kể những đêm lạnh, Ba thường xuống ký túc xá kiểm tra và đắp lại chăn cho những anh có thói quen mặc phong phanh, thậm chí ngủ cùng họ để lắng nghe tâm sự.
Cũng theo các giáo sinh kể lại, đầu thập kỷ 1950 ở Khu học xá, Ba là một trong số ít những nhà giáo đã bước qua tuổi “tri thiên mệnh”. Với vốn liếng khoa học tự nhiên, Pháp văn và Trung văn uyên thâm tích luỹ từ ba mươi năm trước, Ba được phân công phụ trách biên soạn sách và dạy tâm lý-giáo dục học, một bộ môn hoàn toàn mới được du nhập. Vì vậy học trò (kể cả những cán bộ lớn tuổi đi học) sau khi xem bộ phim “Bài ca sư phạm” của Liên Xô, đã gọi Ba là “Thầy Makarenko”, bên cạnh danh xưng đặc biệt thân yêu: “Ba Tảo”. Chỉ có bác Khang cũng được họ gọi là “Ba Khang”.
Dù đã tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông Dương rồi đi dạy học, lương rất cao, Ba vẫn sống giản dị, không vào “làng Tây” và không màng danh lợi, khác với nhiều người. Tuy vô cùng kính trọng người em ruột là cư sĩ Thiều Chửu nhưng Ba chủ yếu tin ở lý trí và nghiên cứu Phật giáo như một triết học chứ không phải tôn giáo. Đặc biệt, Ba đã nhìn ra rất sớm vai trò quan trọng hàng đầu của kỹ nghệ đối với một nước nông nghiệp mà vẫn đói ăn như Việt Nam. Ba khuyên mấy anh em tôi đang học phổ thông quan tâm đến khoa học tự nhiên, nhờ đó hầu hết chúng tôi sau này đã tốt nghiệp đại học và trên đại học ở những chuyên ngành kỹ thuật.
Hồi ký của Thế Lữ do Xuân Diệu ghi năm 1974 có một đoạn kể lại về Ba thời kỳ ở trường trung học Bonnal Hải Phòng như sau: “Từ năm 1924-1925 tinh thần ái quốc nhóm lên trong học sinh qua báo Việt Nam hồn từ bên Pháp gửi về, cộng thêm ảnh hưởng tốt của các thầy giáo: Trịnh Đình Rư, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Hữu Tảo. Thầy Nguyễn Hữu Tảo dạy khoa học, khuyên học sinh thành nhà khoa học giỏi để sau này giúp nước, cuối năm học trò đến thăm thầy, thầy nói tâm sự, thầy trò tâm đắc với nhau”.
Sau này một học trò cũ nhiều tuổi của Ba cho tôi biết: “ông cụ” nhà cậu vốn có khí chất nhà nho không biết cúi đầu trên con đường hoạn lộ đầy bọn hãnh tiến. Khi Hồ Chủ tịch ghé qua Khu học xá, “ông cụ” đã từng cùng mấy nhân sĩ cao niên như Nguyễn Xiển, Trần Văn Khang… phản ánh việc thiếu coi trọng trí thức. Một số lãnh đạo có bị nhắc nhở nhưng sau khi Hồ Chủ tịch ra đi thì đâu lại vào đấy như trước. Trải qua thăng trầm “ông cụ” cứ bình thản, không bao giờ nhắc đến lợi ích nào của cá nhân mình ngoài việc học và dạy học. Không ít học trò cũ trở thành lãnh đạo muốn giúp thầy chuyển sang vị trí cao hơn, nhưng “ông cụ” luôn luôn từ chối, chỉ thích dạy học.
Khi thấy tôi tỏ ra thích xem những sách báo có tranh ảnh thì Ba bắt đầu dạy chữ quốc ngữ cho tôi. Ba lấy những tờ giấy loại nhưng còn trắng một mặt và đóng thành mấy quyển gọi là “vở tiết kiệm”. Ba kẻ dòng rồi viết bằng bút chì những chữ to, nghiêng nghiêng và đều đặn, lại có râu nên trông rất đẹp. Tôi tô lên bằng bút lá tre, mực dây ra đầy tay. Nhưng rồi Ba sớm phải đi công tác vài tháng trong nước vào lúc tôi chỉ mới biết đọc bập bõm và viết như gà bới. Chị Ân cách đây mấy năm có trao lại cho tôi một lá thư viết nguệch ngoạc đầy lỗi chính tả của tôi gửi đến người anh rể tương lai đang chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Anh là người rất cẩn thận, chinh chiến suốt mấy mươi năm từ Bắc đến Nam vẫn không quên dặn vợ giữ gìn mọi kỷ vật, trong đó có bút tích đầu đời của tôi.
Như đã nói Khu học xá được trang bị một mạng lưới loa phóng thanh nội bộ. Ngày ấy các bài hát tiếng Việt không có nhiều bằng các bài hát tiếng Trung, tiếng Nga mà bọn nhóc chúng tôi không hề hiểu lời, nhưng nghe mãi thành quen, cũng nhớ một số giai điệu. Ngoài ra còn được xem phim “phe ta”. Phần lớn các bộ phim được chiếu đi chiếu lại nhiều lần cho nên những cái tên như “Bài ca sư phạm”, “Công phá Bá Linh”, “Chiến hạm Pô-tem-kin”, “Tinh cầu”, “Bạch Mao Nữ”, “Thượng Cam Lĩnh”, v.v. đã tự nhiên từ từ khắc sâu vào trí nhớ của trẻ con.
Tháng 5-1954, một tin vui chưa từng có bay đến Khu học xá: tiền đồn đại binh viễn chinh Pháp đã đầu hàng quân ta vô điều kiện. Bài ca “Giải phóng Điện Biên…” hùng tráng bắt đầu thường xuyên vang trên loa phóng thanh. Bọn trẻ con vỗ tay hét vang khi xem phim thời sự có tin Việt Nam thắng lợi trên nhiều mặt trận, mặc dù chẳng hiểu hết được ý nghĩa của bước ngoặt lịch sử vĩ đại này. Đã lõm bõm đọc được báo chí nhưng tôi chủ yếu vẫn chỉ biết nhận thông tin qua hình ảnh.
Mấy tháng liền, cả Khu học xá bỗng hầu như quên cả cuộc sống hiện tại. Hy vọng được sớm trở về Tổ quốc và gặp lại quê hương, đoàn tụ gia đình tràn ngập khắp nơi. Người lớn bàn tán, tiên đoán đủ kiểu, nhưng phải chờ đến khi Hiệp định Geneva được ký kết rồi Hội nghị Trung Giã thành công thì mới biết rõ những điều kiện liên quan đến ngừng bắn, tập kết lực lượng, trao trả tù binh hai bên và chuyển giao chính quyền. Bên cạnh niềm vui to lớn, những lo lắng thực tiễn cũng bắt đầu xuất hiện ở các bậc phụ huynh, nhất là những người có thân nhân ở miền Nam.

GIÃ TỪ NAM NINH

Cuối mùa thu 1954, quân ta tiến về tiếp quản thủ đô và miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Trước đấy, trong những đợt phải quay về Việt Nam tham gia cuộc Cải cách Ruộng đất, rồi Sửa sai Cải cách Ruộng đất, Ba đều cố gắng tìm kiếm tin tức các người thân và quê nhà. Khi quay lại Ba chỉ bàn bạc riêng với Mợ, không cho các con biết tý gì, tuy nhiên nhìn vẻ ngoài buồn bã của Ba và nét mặt âu lo của Mợ chúng tôi cũng cảm thấy có điều gì không ổn đã xảy ra.
Hoà bình lập lại, theo kế hoạch chị Ân sẽ về dạy học ở Hải Phòng, anh Hoành sẽ đi Thượng Hải học đại học. Trong đợt hồi hương đầu tiên chỉ có tôi được theo Ba Mợ về Hà Nội. Các anh Bằng, Bật, Đồng phải tiếp tục ở lại học phổ thông cho đến khi nào hoàn toàn giải tán Khu học xá.
Nhớ lại hồi ấy, tôi thấy có một sự thực quan trọng đã đem lại may mắn đối với các anh chị của tôi là nhiều dịch vụ văn hoá giáo dục trong Khu học xá được cung cấp miễn phí. Thói quen thụ hưởng bao cấp tuy thế đã ngấm sâu vào cán bộ và học sinh, mãi khi ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế cuối thập niên 1980 tôi mới hiểu thêm mặt trái của nó. Tôi chợt nghĩ nếu không có truyền thống thực tiễn của phụ nữ Việt Nam thì xã hội ta có lẽ đã bao lần phải sụp đổ nhanh chóng. Từ năm 1954 Mợ đã cho tôi xem kỹ và dạy phân biệt các loại tiền giấy và tiền kim loại của Trung Quốc, cả cách gẩy bàn tính còn bập bõm của Mợ, tuy nhiên vì ít được thực hành nên tôi đã nhanh chóng quên những kiến thức đó. Hơn mười năm sau tôi mới có dịp đầu tiên để tiêu đồng Nhân dân tệ trên con tàu hoả chạy qua Trung Quốc sang Đông Âu du học.
Đầu năm 1955, Ba Mợ đã chuẩn bị xong xuôi, đóng các hòm gỗ đầy sách vở và chăn bông, áo bông… sẵn sàng rời Nam Ninh về nước.
Một buổi tối, Ba Mợ dắt tôi đi xe đến một đại tửu lầu của thành phố Nam Ninh để dự tiệc chia tay do Biện sự sứ Nguyễn Lưu và ông Đăng Minh Trứ chiêu đãi riêng. Lần đầu tiên tôi được ăn một bữa tiệc Tầu ngon đến thế. Nhớ nhất là chiếc nồi lẩu chạm rồng rất lớn, chứa than hồng ở giữa, lại có nhiều ngăn riêng người ăn có thể tự xoay và chọn được dễ dàng. Theo yêu cầu, nhân viên phục vụ gắp thực phẩm tươi sống vào muôi và dìm trong ngăn chứa loại nước dùng thích hợp đang sôi, sau đó đổ vào bát cho khách ăn nóng, vị nào ra vị ấy hoàn toàn được giữ nguyên vẹn, khác hẳn những thứ lẩu mà tôi từng biết sau này. Còn có những món lạ lùng nhưng đẹp đẽ như thịt nhồi trong một quả bí đao to chạm thành hình con cá chép, đôi mắt là hai quả trứng chim, và đĩa quả đốt cồn thơm phưng phức sáng lên trong ngọn lửa xanh kỳ ảo… Sau khi ăn uống no nê tôi còn được chở ô tô đi xem đoàn xiếc tỉnh Quảng Tây biểu diễn với nhiều tiết mục tung hứng, nhào lộn, đu bay, uốn dẻo, quay đĩa… và ảo thuật rất tài tình. Trên đường về tôi đã ngủ thiếp đi ngon lành trên cánh tay Ba.
Vui nhiều buồn ít, nhìn lại hơn 60 năm qua, có thể nói những tháng ngày ấu thơ kể trên là quãng đời đẹp nhất của tôi, mặc dù có những đợt Ba phải vắng nhà và những đợt anh em tôi đã trót dại gây ra đau khổ, lo lắng cho cả Ba Mợ.
Advertisements

https://cespsite.wordpress.com/2017/06/13/viet-bac-quang-tay-ha-noi-3/

https://cespsite.wordpress.com/2017/06/13/




4.





VIỆT BẮC – QUẢNG TÂY – HÀ NỘI (4)





TRƯỜNG TRUNG CẤP SƯ PHẠM HÀ NỘI

Ngày trở về Tổ quốc mong mỏi mãi rồi cũng đến. Ba, Mợ và tôi bước lên một toa xe lửa sang trọng có những phòng riêng nhỏ xíu. Đoàn tàu liên vận rời ga Nam Ninh, chạy rất nhanh đến Bằng Tường, qua biên giới thì tôi thiếp đi lúc nào không biết. Tôi chỉ tỉnh giấc khi nghe tiếng loa báo “Đoàn tàu đang tiến vào ga Hàng Cỏ”. Ôi cái tên Hàng Cỏ thân yêu quen thuộc tự bao giờ dù mới được biết qua các câu chuyện kể của phụ huynh.
Không kịp nghỉ ngơi thăm thú Thủ đô vừa giải phóng, Ba được lãnh đạo Bộ Giáo dục phân công ngay làm hiệu trưởng trường Trung cấp Sư phạm Hà Nội, hồi ấy coi như một nơi khá xa nội thành. Mợ đưa tôi lên tàu điện từ bờ hồ Hoàn Kiếm rồi xuống bến cuối cùng ở Cầu Giấy, còn phải đi xích lô tiếp đến cột cây số thứ 8 trên đường quốc lộ Hà Nôi – Sơn Tây mới nhìn thấy chiếc cổng trường có hàng trụ xây gạch rất to, nhưng bên trong hầu như chỉ là những dãy nhà lợp lá gồi đơn sơ. Ba đã chở đồ đạc đến trước bằng một chiếc xe thồ với chú ngựa bé tý so với ngựa Quảng Tây.
Cả nhà dọn vào sống trong một căn buồng nhỏ nằm bên góc tây-nam khu tập thể, lưng quay ra đường, chỉ cách hàng rào nứa và con mương bảo vệ sơ sài. Từ trong trường nhìn ra xa, trước cổng là làng Dịch Vọng Hậu, mé phải là làng Mai Dịch. Bốn phía toàn đồng không mông quạnh, Mợ nói ban đêm nghe ếch nhái kêu buồn bã thật khó ngủ.
Vài tháng sau thì xảy ra vụ trai làng vào trêu chọc nữ sinh, dẫn đến đánh nhau với nam sinh, Mợ lo lắm. Rất may, Ba được trường cấp cho một cái xe đạp công. Ngày chủ nhật tiếp theo Ba đạp xe về nội thành liên lạc ngay với ông Long Điền trong nhóm “Tam hữu” (Ba người bạn thân) hình thành từ hồi ở Hải Phòng và được ông đồng ý cho chúng tôi tạm trú ở trong căn phòng trên gác của ngôi nhà chỗ góc phố Bà Triệu giao cắt phố Hồ Xuân Hương. Ba Mợ và tôi đã sống tại đây trong khoảng gần một năm.
https://cespsite.wordpress.com/2017/06/13/viet-bac-quang-tay-ha-noi-4/

https://cespsite.wordpress.com/2017/06/13/



5.

 





VIỆT BẮC – QUẢNG TÂY – HÀ NỘI (5)


PHỐ THỢ NHUỘM

Khoảng cuối năm 1956, chúng tôi chuyển đến nhà chị Chi ở phố Thợ Nhuộm. Chị vừa sinh thêm cháu Minh Hà, chăm nuôi hai đứa con nhỏ rất vất vả, lâu lâu mới được chồng ghé qua nhân có những chuyến công tác từ miền núi xa xôi về. Tôi thấy chiếc xe con cũ nát chở anh rể thường dính đầy bùn đất tất cả mọi phía. Ba nói đường Hà Nội – Lai Châu lắm vực sâu đèo cao nguy hiểm, thổ phỉ vẫn còn rình trên núi và đất đá có thể lăn xuống bất cứ lúc nào.
Anh Hanh người cao lớn, khoẻ mạnh, tóc rất đen và cũng cắt ngắn như Ba. Tính anh hiền lành, ít nói nhưng nói rất khéo. Anh kiên nhẫn dạy tôi hai tay đập hai quả bóng tennis trên sàn nhà. Mỗi lần có mẹ anh từ Bắc Ninh sang thăm, buổi tối Mợ lại nằm cạnh bà thông gia -một nông dân thuần phác- rì rầm trao đổi đủ mọi thứ chuyện đến tận khuya. Sau này tôi thấy Mợ vẫn thế, luôn luôn thân mật với mọi người, không hề phân biệt nguồn gốc.
Ngày ấy chị Chi vừa được chuyển từ Lai Châu về Hà Nội dạy học tại trường Lý Thường Kiệt. Trường này xây theo kiểu Pháp rất to đẹp và vừa được Bộ Giáo dục CHDC Đức tặng cho một số vật dụng hiện đại. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở trong lớp có những chiếc ghế liền bàn có thể gấp lại gọn gàng và loại phấn viết hình vuông lạ mắt. Cầm thỏi phấn này viết rất thích vì nó không dễ bị gãy như loại phấn tròn.
Cuộc sống diễn ra thật vui vẻ, ngoại trừ nhà chật người đông cũng bất tiện. Căn phòng chị Chi được ngăn làm đôi, ngủ trên sàn gỗ lim nghe rõ tiếng lũ chuột chạy rào rào bên dưới. Nó thuộc về một biệt thự ở phố Thợ Nhuộm, chủ nhà đã bỏ đi Nam từ 1954, có mấy hộ dân chiếm tất cả các phòng của nhà trên, nhà dưới. Họ phải chung nhau buồng vệ sinh, căn bếp, chiếc cổng sắt và cái sân con, ngôi biệt thự trở thành một kiểu xóm tập thể thu nhỏ nhưng lại thua xa Khu học xá vì không ai bảo được ai. Tình trạng nông thôn hoá như thế và cả nạn hôn nhân đa thê đang phổ biến ngay tại nội thành Hà Nội. Hay cãi nhau nhất ở xóm tôi là hai bà vợ của một ông lái xe khách liên tỉnh. Xe của ông ta có một cái lò than to, khi cháy cứ như sắp nổ, kinh khủng lắm, nhưng chở khách mang lại thu nhập rất khá.
Phố Thợ Nhuộm chẳng hề có hiệu nhuộm nào. Đầu con ngõ sâu hình thước thợ ăn thông sang phố Dã Tượng có một ngôi nhà bí ẩn, cửa đóng then cài suốt ngày, lại nuôi chó béc-giê dữ tợn. Nhưng tại đó còn có một gốc đa lớn, cho nên dù sợ hãi chúng tôi vẫn cứ đến nhặt lá đa và búp đa làm đồ chơi. Công trình hoành tráng gây cho tôi ấn tượng lớn nhất của phố Thợ Nhuộm chính là khu nhà tù tường xây cao vút, dây thép gai nhằng nhịt, cổng lớn ở phố Hỏa Lò nhìn sang Toà án luôn luôn có công an đứng gác trông rất uy nghiêm. Lũ trẻ chúng tôi thích chơi trên bãi cỏ rộng cạnh sân Toà án. Bên phải Toà án là nghĩa trang Liệt sĩ ở phố Lý Thường Kiệt, lúc ấy người ta đào bới khắp những nơi quân tự vệ Thủ đô từng đánh nhau với giặc Pháp để tìm hài cốt chiến sĩ ta và mang về chôn ở đây.
Trời ấm lên, tôi được phân công chiều chiều đẩy chiếc xe inox bốn bánh bọc cao-su chở bé Hà đi dạo dọc theo hè hai phố Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo rộng thênh thang vào bậc nhất Hà Nội. Chị Chi nuôi con mát tay, cháu rất bụ bẫm và ngoan ngoãn. Một lần tôi để cháu Hà trong vườn cỏ mát rượi của Toà án, mải chơi cùng bạn để người lạ bế mất. Tình cờ đúng lúc Ba đi ngang gặp ngay ông kia và lấy lại được. Cả nhà lại thêm một phen kinh hồn vì tôi.
Tôi bắt đầu được Ba Mợ sai đi mua những thứ lặt vặt gần nhà. Hồi đó mua từ tờ báo, giấy bút cho đến bát phở, mớ rau, chẳng thấy bị ai lừa. Quy củ văn minh lấp ló khắp nơi, thí dụ mọi lợn thịt đều phải có dấu kiểm dịch xanh mới được xẻ bán, mua gì có giá trị lớn đều thấy kèm đủ giấy bảo đảm và hoá đơn, nhỏ như quầy bánh mỳ cũng treo biển hiệu với tên và địa chỉ rõ ràng, v.v..
Khi lên cơn đau dạ dày, Ba thường bảo tôi đến hiệu Gia Long bên phố Trần Hưng Đạo mua bánh mỳ, bánh ở đó không cần kẹp pa-tê chỉ rắc muối rang ăn cũng ngon lắm. Thỉnh thoảng Mợ lại dắt tôi đến rạp Majestic (tức rạp Tháng Tám sau này) ở phố Hàng Bài không xa mấy, lúc đó còn chiếu nhiều tác phẩm điện ảnh cũ nhưng mê ly như Người rừng Tác-giăng, rồi loạt phim câm trắng đen với hề Sác-lô và xê-ri phim màu hoạt hình Walt Disney có nhạc và lời thoại rất hay.
Bỗng trong thành phố rộ lên tin đồn về phong trào chống Nhân văn – Giai phẩm đã được phát động trong giới văn nghệ sĩ nay đang lan sang các trường Đại học Tổng hợp và Sư phạm Hà Nội. Mợ và chị Chi thì thào bàn bạc rất kín đáo với vẻ sợ hãi. Hình như Ba đã phải kiểm thảo nội bộ nhưng không bị đấu tố công khai. Hồi đó Ba đôi khi vẫn giao du với vài văn nghệ sĩ, trong đó có những học trò cũ như Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Văn Cao. Một lần mưa nhỏ Ba khoác áo che kín mặt, dắt tôi đi đến gần hồ Bảy Mẫu thì gặp chú Văn Cao, hình như hai người có hẹn trước, thấy Ba trao cho chú một gói nhỏ và đi ngay. Nhưng rồi sau đó không lâu Ba ít gặp lại những người quen cũ, Ba đã lo điều gì đó bạc cả mặt, dạ dày đau tái phát dữ dội không đạp xe đi xa được. Cuối cùng, Ba rời vị trí hiệu trưởng và trở thành Chủ nhiệm Bộ môn Tâm lý – Giáo dục học của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, phải rời phố Thợ Nhuộm, trở lại căn phòng tập thể từng được trường cấp cho trước kia để sống gần các lớp học, và Mợ cũng đi theo để săn sóc.

XÓM TRẠI CAM ĐƯỜNG

Hè năm 1957 Ba Mợ gửi tôi về quê nội sống chung với mấy người con của chú Ba Nghiêm, liệt sĩ mới hy sinh khi đi dân công vào cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Cô Ba cũng đã mất, con gái cả là chị Miễn, lúc ấy còn rất trẻ, nhưng đã biết bảo ban các em chia nhau đảm nhiệm mọi công việc nhà nông thực thụ, từ gieo lúa, cấy, gặt, đến chăn nuôi lợn gà, thả cá, trồng rau, trồng màu. Hai người em trai lớn Xuân Dương, Xuân Xưởng đã bắt đầu học trung cấp kỹ thuật, hai em gái nhỏ Thục, Trần còn đang đi học phổ thông.
Hoá ra quê nội khá gần, chỉ như đi vào trường Sư phạm Hà Nội thôi, nhưng vì hồi ấy không có đường về thẳng nên thấy xa. Tôi theo Mợ ngồi xích lô đi hết ngõ chợ Khâm Thiên tới con đê Đại La thì xuống bộ. Mợ dắt tôi đi tiếp từ đầu đến cuối làng Trung Tự theo con đường gạch dài chạy dích dắc giữa những ao vườn. Sau đó lại phải bước nhanh qua một cánh đồng rộng có mấy gò đất đầy mồ mả, đi giữa buổi sáng rực rỡ và nắm chặt tay Mợ mà tôi vẫn sờ sợ. Nhưng xóm Trại kia rồi, lối vào ở ngay bên một dòng sông nhỏ xinh đẹp. Con đường gạch be bé cuối cùng dẫn đến một chiếc cổng xây nho nhỏ nằm lọt giữa hai bụi tre. Mợ bảo đó là nhà mình, đường xóm kết thúc ở đây, trước khi đổ ra cánh đồng nhìn về phía làng Phương Liệt xa xa.
Bước qua chiếc cổng đã bị tháo mất cánh, tôi nhìn thấy một khu vườn bỏ hoang và đầu hồi của những bức tường bị mất mái, cửa sổ trống toang hoác. Đi hết cái ngõ hình thước thợ, Mợ dắt tôi vào một sân gạch rộng. Rồi bước lên một bậc tam cấp khá cao bị bóc hết gạch men, Mợ giải thích đây là di tích của “ngôi nhà trên” gồm 3 gian 2 chái. Phía đối diện bên kia sân có bức tường hoa lượn cong 3 vòng và vươn ra ôm lấy hai bể nước hai bên, dọc theo hai cột vuông có đắp nổi đôi câu đối chữ Nôm của chính Ông nội tôi, cụ cử Nguyễn Hữu Cầu (“Thích nước”: ý nói “ái quốc”).:Automatic word wrap

“Yêu hoa phải mượn tường che gióAutomatic word wrap

Thích nước nên xây bể cạnh nhà.”
Ông Bà nội tôi đã mất khi quân Pháp quay lại xâm lược, bàn thờ ở quê chưa lập được do nhà vườn bị cướp phá gần hết trong những năm kháng chiến. Sau Cải cách ruộng đất, gia đình tôi còn có hơn 9 sào vườn, kể cả hai ao nhỏ, ngoài đồng cũng được giữ lại mấy mảnh ruộng để cày cấy. Tôi nhớ những số liệu này được viết trên tờ giấy chứng nhận sở hữu đất đai đứng tên Ba và có chữ ký của bác sỹ thị trưởng Trần Duy Hưng, một trong những người quen cũ của Ba.
Bên phải cái sân rộng là nền căn nhà nhỏ bị đập nát hoàn toàn, song đối xứng ở bên trái sân vẫn đứng nguyên vẹn một căn nhà gạch 2 gian lợp ngói, có máng cau để hứng nước mưa đổ vào bể. Chị em cô Miễn đang sống trong căn nhà dưới này. Phía đông là một sân đất nối với gian bếp lợp mái rạ, vách trát bùn, lưng quay ra một cây khế to mọc bên bờ ao. Liền bếp là chuồng bò, chuồng lợn rồi cuối cùng có một nhà xí gạch nằm cạnh bụi tre rậm rạp.
Mọi người giết gà nấu cơm ăn vui vẻ, dù mâm bát rất tuềnh toàng. Mợ gửi gắm tôi cho cô Miễn, dặn dò xong thì ra đi. Lần đầu tiên phải xa Ba Mợ lâu đến thế, mỗi khi nhớ đến Ba Mợ tôi lại buồn khổ khóc thầm. Mà không hiểu sao hồi ấy Ba Mợ đều bận quá, mỗi tháng chỉ về thăm tôi khoảng một lần.
Sau đó những người khác lục tục kéo đến xem mặt, rồi tôi cũng nhanh chóng làm quen và dần dần phân biệt được mọi già trẻ gái trai trong xóm, ra đường chào hỏi rất đúng vai vế. Chỉ buồn cười vì có những đứa trẻ bé tý mà tôi phải gọi là anh, ngược lại có người lớn lại xưng cháu với tôi. Mấy bà bác họ và các chị tỏ ra quý mến tôi ngay. Tại xóm Trại lúc ấy còn có một số ít bộ đội về đóng trong nhà dân. Các anh thường dạy cho bọn nhỏ chúng tôi những bài hát mới và nhân thể cũng làm quen những thôn nữ trẻ. Sau này có vài đôi đã nên vợ nên chồng.

NHỮNG BÀI HỌC NÔNG THÔN

Tôi tiếp tục đi học lớp hai, nhưng lúc này đã chuyển về trường phổ thông cấp 1 Trung Phụng trong một ngách sâu nằm ở phía tây ngõ chợ Khâm Thiên. Ngôi trường này nhỏ bé, cách nhà không xa lắm, nếu trời đẹp đi bộ chỉ mất hơn nửa giờ, nhưng nếu mưa thì cắp guốc bấm ngón chân lội qua đồng là một cực hình. Con đường đồng quê tôi toàn đất sét, rút chân ra khỏi bùn nâu đỏ rất khó, lại còn vương vãi phân trâu bò. May trong xóm Trại còn có hai bạn cùng đi học, cho nên tôi đỡ thấy vất vả phần nào.
Các trải nghiệm của tôi ở ngay sát nội thành Hà Nội thật sự thú vị và bổ ích, giúp tôi hiểu thêm được những nét căn bản của nông dân và văn hoá nông thôn Bắc Bộ. Đó cũng là nơi tôi sống gần hết cuộc đời của mình và chứng kiến mọi sự thay đổi không quay ngược được, mà cũng chỉ có thể kể lại một phần những gì đã biến mất khỏi mảnh đất quê hương.
Lúc đầu sống ở quê nhà tôi sợ đủ mọi thứ lạ lẫm và bị chê cười là “cậu ấm”. Ao sông đều đầy đỉa đói, nước nói chung rất bẩn, điện không có, đèn dầu cũng chỉ dám thắp khi thật cần. Chiều đến muỗi ùa ra như vỡ tổ. Mưa xuống thì ngập, phải vác cuốc khơi nhanh cho lá tre khỏi làm tắc cống. Sau cơn mưa, đường đồng trở nên lầy lội kinh khủng, trâu bò phá hỏng cả, đi không khéo là ngã oạch. Nhiều người dân bị rỗ mặt do một trận dịch đậu mùa khủng khiếp thời Pháp thuộc để lại, v.v..
Làm sao tôi quen nhanh được sự lạc hậu và nghèo khổ của nông thôn Việt Nam sau khi hoà bình lập lại chưa lâu. Từng sống ở Tâm Hư, Nam Ninh rồi nội thành Hà Nội, tôi nhận ra ngay sự khác biệt lớn lao giữa làng quê và đô thị. Tuy nhiên, nếu so sánh với làng Tâm Hư thì xóm Trại đã có một vài điểm tiến bộ hơn, chỉ còn thua về chỗ không có sân bóng. Nếu so với thành phố thì dân xóm rõ ràng được hoàn toàn hít thở không khí trong lành tuyệt vời nhờ sống giữa những khu ao vườn và cánh đồng xanh vời vợi.
Và Ba Mợ tính đến cả việc giáo dục thực tiễn cho tôi. Mấy em họ tôi đều trải qua bàn tay dạy dỗ cẩn thận của ông Thiều Chửu trong kháng chiến, nay đang đi học tiếp trong nội thành Hà Nội nên hiểu biết khá nhiều về vệ sinh và khoa học thường thức. Suốt gần một năm tôi chỉ có hai lần ốm nặng vì thuỷ đậu và “giời leo”, nhưng nhờ kiêng khem đúng nên cũng nhanh khỏi. Lần đầu tiên tôi được biết thế nào là xông nước lá thơm giải độc, đắp táo xanh trộn muối để chữa nhọt hoặc bôi nghệ lên sẹo non cho mau liền da, v.v..
Không những đã dần dà học thêm các kiến thức mới lạ mà tôi còn tự quên đi nhiều thói quen riêng. Dĩ nhiên chẳng ai nấu vừa miệng tôi bằng Mợ rồi, nhưng từ khi ăn cơm chiêm mùa quanh quẩn chỉ có tương cà, rau má, rau muống, rau dền, rau đay, mồng tơi và cua cá… tôi thấy cũng ngon. Những thứ này hồi ấy kiếm được trong vườn và ngoài đồng rất dễ. Bây giờ phải đi xa lắm mới gặp một nơi có thực phẩm tươi sạch như thế.
Vui nhất là khi mùa gặt tới. Lúa được gánh ùn ùn từ ngoài cánh đồng về xếp đầy trên sân và ngõ gạch. Thanh niên kê nghiêng những chiếc cối đá thủng lật úp và thay nhau đập lúa thâu đêm dưới ánh trăng. Rơm và rạ được chất thành những đống riêng, dùng để bện chổi, lợp mái tranh, cho bò ăn, lót chuồng gà, chuồng lợn và làm nhiên liệu nấu bếp.
Thóc phơi khô rồi quây thật kín trong mấy lớp cót buộc chặt chống chuột, lấy ra cối xay dần dần, trấu dành để ủ lửa bếp, còn gạo lức khi nào xay đầy hai thúng mới gánh đi chợ Mơ thuê xát trắng, sàng lấy cám trộn bèo nuôi lợn. Cơm gạo mới ăn thật dẻo thơm, ngon miệng.
Ngoài hai vụ lúa còn có các vụ màu. Thu hoạch xong, ngô, khoai, sắn được bóc vỏ, phơi khô cất kỹ, chủ yếu dùng để nuôi ngan, vịt, gà, lợn, phần nào ngon mới độn vào cơm. Dưới ao có thả cá mè, cá chép, hàng năm vào cuối đông lại tát cạn, bắt cá đem bán lấy tiền mua các thứ khác, còn bùn ao thì dùng thuổng xắn lên, đem đắp vào những gốc cây ăn quả.
Tôi bắt đầu thích sau mấy tháng sống ở quê bên luỹ tre xanh với hàng rào mây đầy gai. Chính ở nơi đây tôi đã được chăn bò và xem bê con ra đời như thế nào. Trong vườn nhà có nhiều cây, tôi đã biết trèo cau lấy quả và bắt cồ cộ. Tôi cũng đã biết cách phân biệt các loại cá rô, săn sắt, bông bống, trê, chuối, diếc, thiểu, mại, mè, vền, chắm, chép… nào rắn nước, hổ mang, cạp nong, rắn dáo, rồi chim cắt, quạ khoang, diều hâu, chào mào, vàng anh, chèo bẻo và cóc, nhái, ễnh ương, châu chấu, cào cào…
Mỗi khi có dịp ra đồng, tôi còn được cưỡi trâu, đánh khăng, đánh đáo, khát lại chạy về uống nước vối nấu sẵn trong bếp. Mãi sau tôi mới dám thử tu nước mưa, ngọt thật. Lâu lâu lũ thanh thiếu niên trong xóm lại rủ nhau leo qua cầu khỉ sang bãi làng bên Khương Thượng để xem chiếu phim… Tôi chỉ còn sợ đám chó dữ, những con đỉa đói và nhất là một trận bão lớn hồi đó suýt nữa làm tốc hết mái rạ và xô nghiêng ngôi bếp vách đất liền với chuồng bò.
https://cespsite.wordpress.com/2017/06/14/viet-bac-quang-tay-ha-noi-5/?fb_action_ids=10207788650309056&fb_action_types=news.publishes


6.

16.6.2017

VIỆT BẮC – QUẢNG TÂY – HÀ NỘI (6)

NGÔI NHÀ MỚI

Nhân dịp nghỉ hè năm 1957 Ba Mợ đã cho sửa ngôi nhà cũ ở quê hương. Làng Trung Tự hầu như chỉ có đại gia đình nhà tôi tham gia kháng chiến suốt cả 9 năm. Trong số trai làng ở lại có khá đông bị bắt làm lính cho vua Bảo Đại, nhiều thân nhân họ đã dỡ nhà của ông tôi và lấy đồ đạc đi. Từ ngày trở về làng Ba Mợ đánh tiếng xin chuộc và đa số họ đã tự mang trả lại.
Do không đủ tiền nên ngôi nhà không có gác chống nóng và mái ngói như xưa. Những viên gạch vỡ cũng phải tận dụng. Ba Mợ đã cho chặt sẵn những cây tre già, ngâm xuống ao và đào hố tôi vôi từ trước; nay mua thêm cát, lá gồi và gạch gốm lát nền… Các tốp thợ đều có sẵn trong làng nên chỉ mấy tháng là việc hoàn thành.
Ba Mợ dành gian rộng nhất để đặt bàn thờ Ông Bà nội và một bộ bàn ghế tiếp khách ở gần nơi cửa ra vào, hai đôi câu đối được treo vào bốn góc của gian giữa này. Mỗi bên gian phụ kê một bộ ván giường tại ngay góc dưới cửa sổ lớn và cửa sổ đầu hồi. Sách vở được xếp trên những chiếc giá xích-đông treo tường, phía dưới đặt chiếc trường kỷ để Ba ngồi làm việc. Quần áo treo trong chiếc tủ to duy nhất kê ở gian bên kia và mọi đồ đạc khác thì để trong hai chái nhỏ phía sau các gian phụ.
Đêm đầu tiên được ngủ trên bộ ván dày mát rượi trong ngôi nhà mới rộng rãi và thật sự là của gia đình mình, tôi cảm thấy sung sướng lắm. Sung sướng hơn nữa Ba Mợ đã trở về sống cùng tôi và chỉ không đầy một năm nữa thôi các anh tôi cũng sẽ về đây đoàn tụ.
Mợ trồng một giàn trầu không dưới bức tường hoa. Bên bể nước là hai khóm hoa nhài thơm ngát, Mợ dạy tôi cách hái và ướp trà cho Ba uống. Ba trồng xen hoa mười giờ giữa những bụi tóc tiên xanh mướt, hoa đỏ phớt tím, sau lại trồng thêm một giàn thiên lý hoa vàng nhạt, ong bướm bay đến dập dìu rất vui. Tôi thường trèo lên bức tường hoa để hái thiên lý xuống nấu canh hoặc xào cho Ba ăn.
Mợ mua một cái chạn gỗ bịt lưới mắt muỗi và đặt 4 chân chạn trên 4 cái bát nước, bảo tôi thỉnh thoảng rót thêm nước để chống kiến. Mợ còn dạy tôi cách mặc cả mua thực phẩm và nấu các món ăn đơn giản. Ngày chủ nhật tôi thường theo Mợ đi chợ Mơ, chợ Khâm Thiên, chợ Ngã Tư Sở.
Ngay từ mùa hè ấy, Ba đã bắt đầu dạy tôi làm vườn. Thoạt tiên Ba sắm đủ các dụng cụ rồi cuốc đất, đào bới cho tôi nhặt hết gạch vụn, mảnh sành, vỏ trai. Sau đó Ba đập đất gieo vài luống rau và chuẩn bị các hố trồng cây trên nền nhà cũ, dọc các lối đi và bờ ao. Ba sắp xếp khoảng cách giữa các cây ăn quả hợp lý, có những cây phải chặt bỏ, nếu nhỏ thì bứng đi chỗ khác. Ba mua thêm vài cây na và vải thiều về trồng, những cây cau cũ cũng được vun xới, làm cỏ và đắp bùn. Phía sau bức tường hoa Ba ươm hẳn một vườn mía, cạnh ngõ thì trồng cam giấy. Xong xuôi, hàng ngày tôi chẳng phải làm gì nặng nhọc hơn ngoài tưới cây, bắt sâu và nhổ cỏ.
Niên học 1957-1958 khai giảng, một mình Ba trở về khu tập thể trường ĐH Sư phạm Hà Nội vì lần này Mợ phải ở lại để cai quản ngôi nhà mới. Tôi đã lên lớp và được học với một thày giáo chủ nhiệm rất già, trông như một ông đồ: đầu đội khăn xếp, mình mặc áo the đen, tay xách ô đen, chân đi giày đen. Thày vô cùng nghiêm khắc, chỉ có hai hình thức kỷ luật cho trò phạm lỗi: nhẹ phạt quỳ, nặng thì bắt dẫn lớp trưởng về nhà thông báo cho phụ huynh. Chữ thày nắn nót, khi giảng văn thày thích nói tới những điển tích xưa.
Mỗi tối thứ bảy hoặc sáng chủ nhật, Ba thường có mặt ở xóm Trại và giải thích các câu hỏi của tôi. Trong số sách Ba đưa cho đọc thì Kim Vân Kiều truyện, Chinh phụ ngâm khúc là khó nhất nhưng cuối cùng tôi đã thuộc lòng đến cả phần chú thích. Tôi còn mê những cuốn khác như Dế Mèn phiêu lưu ký, Việt Nam phong tục, hoặc sách dịch như Một nghìn một đêm lẻ, Tam quốc chí, Chú người gỗ, v.v.. Hễ Mợ cho tiền quà thì tôi cố tiết kiệm, dành dụm để thuê đọc truyện tranh và kiếm hiệp.

ĐẠI GIA ĐÌNH

Sau khi chị Chi sinh được hai cháu ngoại đầu tiên cho Ba Mợ, đến lượt chị Ân rồi anh cả tôi kết hôn nhưng cả ba người đều rất ít dịp được ở cùng chồng hoặc vợ mình. Nhớ lại những đám cưới đơn giản được tổ chức hồi ấy và sau này, tôi càng thấy Ba và Mợ không hề cổ hủ, ngược lại còn tạo mọi điều kiện cho các anh chị tôi được tự do yêu đương và lựa chọn bạn đời.
Đầu mùa hè năm 1958, ba người anh sinh kề tôi giã biệt Khu Học xá Nam Ninh vừa giải tán và trở về Hà Nội. Rồi anh Hoành trên nữa cũng từ Thượng Hải về nghỉ phép thăm nhà. Lâu lắm mới gặp lại các anh và được nhận quà, tôi vui lắm. Không khí ở quê bỗng dưng thay đổi hẳn, trước hết chiếc sân trở thành nơi chơi bóng và cái ao trở thành bể bơi. Các anh còn tổ chức đi thăm các thắng cảnh, tôi nhờ đó thỉnh thoảng được bám theo.
Một số sáng kiến được các anh nghĩ ra và thực hiện hăng hái như đóng chuồng nuôi gà, nuôi thỏ, hoặc lai ghép mấy thứ cây ăn quả. Thậm chí còn đào giếng để lấy nước tưới và giặt, riêng nước ăn thì thường xuyên phải sang tận Nhà máy cơ khí Nông Lâm ở Cống Vọng gánh về dùng. Ba dẫn dắt tất cả anh em tôi vào tham gia phong trào bình dân học vụ. Tối tối mọi người lại thay phiên nhau xách đèn dầu đi giúp xoá nạn mù chữ cho nông dân. Làng trên xóm dưới càng kính trọng gia đình ông giáo.
Các anh nhanh chóng kết bạn trong thành phố, cùng nhau chơi thể thao và tham gia nhiều việc công ích. Ngày ấy học sinh trung học trông rất đứng đắn, ăn mặc tề chỉnh, nói năng lễ phép, Mợ không phải lo lắng gì hết. Thấy các anh lớn đã trưởng thành có thể đảm đương các việc chính ở Xóm Trại và tôi thì đã biết làm những công việc nội trợ đơn giản, Mợ gửi tôi một mình vào trường Sư phạm Hà Nội phục vụ Ba, để Mợ rảnh tay lo cho các cháu nhỏ. Mùa thu năm 1959 đời tôi như vậy lại có bước ngoặt mới rất đáng kể, chính xác là được ở một “xóm trí thức” khi tôi đã lớn khôn hơn.
(Xem tiếp)
Nguyễn Chí Công, SP66
Trở về MỤC LỤC
https://cespsite.wordpress.com/2017/06/16/viet-bac-quang-tay-ha-noi-6/



7.


VIỆT BẮC – QUẢNG TÂY – HÀ NỘI (7)


TRỞ LẠI ĐH SƯ PHẠM HÀ NỘI

Trường ĐH Sư phạm Hà Nội năm 1959 trông vẫn gần như hồi 1955, hầu hết là nhà một tầng mái lá, kể cả hội trường lớn. Khu tập thể xây tách ra về phía tây-bắc chùa Thánh Chúa, cách quốc lộ vài trăm bước. Ngoài một dãy nhà to cao đứng riêng và chia thành các phòng tập thể thao khá rộng rãi, Khu tập thể lúc đó bao gồm khoảng hai chục dãy nhà, chia thành các căn hộ nhỏ chỉ gồm một hoặc hai gian ngăn bằng vách vôi rơm hoặc cót liếp. Để chống bão, cứ cách mấy gian lại có một sợi dây thép khá to kéo từ mái xuống cây cọc cắm sâu dưới đất, làm cho người lạ đi qua nếu vô ý là bị vấp chân.
Buồng của Ba có nền gạch rộng chừng 16m2 nằm ở đầu phía tây dãy nhà C3. Láng giềng gồm gia đình các ông Hoàng Ngọc Cang, Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Khả Kế, Hồ Điềm, Nguyễn Cửu Cúc, Đỗ Bỉnh Trị, v.v.. Tại đó tôi vui mừng gặp lại Hoàng Đình Cường, bạn cũ từ Tâm Hư và Nam Ninh. Suốt 5 năm liền (1959-1964) chúng tôi cùng học một lớp: lớp 4 học trong đình làng Dịch Vọng Hậu, cấp 2 học thôn Tiền gần chùa Hà, lớp 8 học trường Yên Hoà tại làng Cót ven sông Tô Lịch.
Khách đến, Ba pha trà tiếp chuyện ở chiếc bàn viết duy nhất cạnh cửa ra vào, tôi thường ngồi ghế con làm bài tập bên cái giường cá nhân kê dưới cửa sổ đầu hồi, chiếc tủ đứng và xe đạp để ở cuối phòng. Trước hiên nhà là một bể nước công cộng với các ô vuông có vòi nước để giặt, rửa, bên cạnh là chiếc cống lộ thiên đầy bùn đen với đám thuỷ tức và đàn cá nhỏ lượn lờ. Dãy nhà vệ sinh công cộng thì nằm xa xa ven phía hàng rào, lấp ló sau hàng chuối tiêu.
Tại hội trường lớn có chú Phan Nhân phụ trách dàn nhạc và hợp xướng. Các vở chèo và kịch nói cũng hay diễn ở đây. Diễn viên và nhạc công không thiếu vì Khu văn công Mai Dịch ở ngay bên cạnh. Hồi đó bố chị Trà Giang rất mê bóng đá nên thường dẫn cô con gái đẹp đến sân vận động ở ngay trước cổng Khu tập thể. Tại đây đã một lần tôi bị các anh sinh viên vô ý xô ngã vào gạch, chảy mất bao nhiêu máu. Bên cạnh có một khu vườn rộng với rất nhiều loài cây, nơi các nhà sinh vật học trẻ như Phan Nguyên Hồng, Phan Cự Nhân và Lê Quang Long v.v. thường đến làm việc.
Ban đầu, Ba và tôi ăn cơm tháng tại một quán cơm tư nhân gần đấy, có bạn Trinh thừa một ngón trên mỗi bàn tay và mặt loang lổ do bạch tạng. Từ những năm 1960, Ba đau dạ dày nặng hơn nên tôi phải nấu cơm nếp cho Ba ăn riêng. Ba hướng dẫn tôi trồng được một vườn rau khá rộng, mỗi khi thu hoạch dư ra lại mang bán cho nhà bếp tập thể lấy tiền mua sách. Cái bếp này là nơi tôi thường mang phích đến lấy nước sôi và ăn cơm với các chú giảng viên sống độc thân, nghe được khối chuyện họ bàn tán.
Tôi đã thấy Ba giúp đỡ tận tình các sinh viên, giảng viên trẻ và họ yêu mến Ba như thế nào. Ba thường xuyên thức khuya chấm bài và soạn giáo án. Buổi sáng Ba dậy rất sớm, cứ ngồi toạ hoa sen đọc sách trong màn. Ban ngày, Ba lên lớp giảng bài và thảo luận, họp hành. Buổi tối tiếp khách. Thói quen tập thể dục và lau mình bằng nước nóng, Ba vẫn giữ nguyên như hồi ở Nam Ninh. Nhưng lúc này tóc Ba đã bạc nhiều, lưng hơi còng và sức lực cũng giảm đi. Bây giờ Ba chỉ làm Tổ trưởng bộ môn Tâm lý – Giáo dục học. Cán bộ khá đông, trong đó tôi nhớ nhất cô Đặng Xuân Hoài và một số chú như Hoàng Hữu Xứng, Lê Khánh Bằng, Phạm Minh Hạc, Vũ Văn Thái, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Đức Minh, Hà Thế Ngữ, Phạm Tất Dong, v.v.. Lần lượt nhiều cán bộ trẻ của bộ môn đã được cử đi Liên Xô để làm nghiên cứu sinh và phần lớn sau này họ nắm giữ các trọng trách khoa học và quản lý của ngành giáo dục.

DỊCH VỌNG HẬU

Ngày ấy Dịch Vọng Hậu là một thôn nhỏ với những con đường gạch trồng cây sòi, mùa thu lá sòi đỏ rực. Đặc sản có món cốm Vòng mới giã, được các gánh hàng rong rao bán trên hè phố nội thành. Bây giờ quay lại thăm làng Hậu tôi thấy đại lộ Trần Thái Tông và khu phố mới xây nuốt gần hết mọi dấu vết xưa. Những cột to bằng gỗ vàng tâm khá mềm khắc đầy tên chúng tôi đã vĩnh viễn không còn trong ngôi đình từng có lớp 4C.
Lớp 4C gồm 48 đứa, chủ yếu từ các làng Dịch Vọng, Mai Dịch, Phú Diễn, Mỹ Đình, Mễ Trì đến đây học hàng ngày. Một số trong đó rất lớn so với tôi, thậm chí đã lấy vợ, thế mà chúng tôi vẫn nghịch những con sâu sòi to tướng, đùa nhau và làm đổ biết bao mực tím trên những bộ bàn ghế gỗ lim dài nặng chịch. Nhờ có thày Vị, thày Hồi và thày Phạm Gia Thoan chủ nhiệm lớp phát hiện năng khiếu và bồi dưỡng mà tôi trở thành một học sinh giỏi toàn diện.
Gần đường đi vào Khu tập thể có một ngôi chùa toàn ni cô, tên là chùa Thánh Chúa. Tương truyền mẹ con vua Lê Thánh Tông thời hàn vi đã từng giả trang lẩn tránh và trú ngụ ở nơi đây. Tôi thường câu cá ao chùa, trèo lên gác chuông của cổng tam quan để hóng gió, hoặc ngồi trong chiếc sân rộng rãi học bài, nơi đây yên tĩnh lại mát mẻ vì có hai cây muỗm rất to. Bạn Tuý từng sống trong rừng núi Nghệ An, phát hiện ra ở bờ rào nhà chùa có một cây gỗ sưa và đã trót chặt về đẽo làm hàng chục con quay to cho cả bọn trẻ chơi. Đó chính là nơi lần đầu tiên tôi trở thành kẻ tiêu thụ hàng ăn trộm, đã bị Ba quở trách và phạt nặng, nhớ đến suốt đời.

DỊCH VỌNG TIỀN

Trong những năm tiếp theo, tôi may mắn có được sự quan tâm của một loạt giáo viên giỏi như thày Dũng, thày Tiến, thày Ngọc, thày Phiếm, cô Phượng v.v. đã tình cờ hội tụ về trường cấp 2 Dịch Vọng và táo bạo áp dụng những phương pháp khuyến khích sự tự tin của học trò. Đám con em từ các trường ĐHSP Hà Nội, trường Tuyên giáo và trường Nguyễn Ái Quốc TW đã được đào tạo trở thành những học sinh hạt nhân đưa ngôi trường ngoại thành từ vô danh trở thành một điển hình tiên tiến về giáo dục của thủ đô. Trường toạ lạc tại thôn Tiền, đường đi học cũng quanh co với hàng sòi duyên dáng. Chúng tôi đã chung tay xây dựng một vườn sinh vật xinh đẹp. Tan học về bọn con trai thường rẽ vào vườn chơi hoặc vùng vẫy bơi trong cái hồ ngoài cánh đồng phía trước chùa Hà, ngày ấy vắng ngắt và nằm ở rìa làng v.v.. Những kỷ niệm quý báu như thế vẫn thường được nhóm đồng môn Dịch Vọng hào hứng ôn lại mỗi khi có dịp gặp nhau.
Ba hay hỏi chuyện học hành của tôi hơn, đôi khi rảnh rỗi còn giảng giải cho về văn học cổ điển Đông, Tây. Tôi để ý Ba thường đọc các tác phẩm thơ và tiểu thuyết bằng Pháp văn và Trung văn. Trong những bộ sách đó có một số minh hoạ rất ấn tượng. Ba đặt mua dài hạn nhiều tạp chí, tôi nhớ một tạp chí Pháp văn hình như là Littérature Soviétique (Văn học Liên Xô) cũng minh hoạ phong phú..
Từ khi chuyển về môi trường thuận lợi nói trên, tôi luôn luôn ở trong nhóm những học sinh mang lại vinh dự cho nhà trường và phụ huynh. Ba đã cố gắng tìm những cuốn sách cho tôi tự học bên ngoài chương trình phổ thông. Ngoài việc học là chính, tôi giúp Ba giặt là quần áo, đánh giày và lau xe đạp. Ba vẫn cắt tóc ngắn và giữ lối ăn mặc đạo mạo. Vào khoảng năm 1961-1962, Ba mua một đôi giày Tiệp và may bộ complet len màu nâu sẫm, diện với cravatte lụa Pháp và mũ dạ xứ Basque trông rất sang trọng. Cứ chiều thứ bảy, Ba đạp xe về quê, chiều hôm sau lại quay vào trường. Tranh thủ những giờ đó, bạn bè tôi thường kéo đến căn phòng đầu nhà C3 và bày ra đủ thứ trò vui nhộn tuổi xanh.

TỪ BIỆT ĐH SƯ PHẠM HÀ NỘI

Lên cấp 3 tôi bắt đầu có những suy nghĩ “người lớn” và đã phản ứng trước những bất công trong trường, nhất là khi bị thầy hiệu trưởng trù úm. Mặc dù tiếp tục có thành tích học tập và được thày Mạnh, thày Hảo, cô Thanh và nhiều bạn ủng hộ ngầm, vụ lùm xùm này đã làm tôi chán ngán. Mùa hè năm 1964, cuối cùng Ba được nhận sổ hưu ở tuổi 65 và tôi theo Ba rời trường Đại học Sư phạm Hà Nội về hẳn xóm Trại.
Lúc này mâu thuẫn Trung-Xô càng ngày càng gắt gao và ảnh hưởng rất xấu đến Việt Nam. Xu hướng thân Trung Quốc có vẻ thắng thế, đài Bắc Kinh được tiếp âm tại Hà Nội và được nhiều cán bộ lắng nghe, tán đồng. Những cán bộ được đào tạo từ Liên Xô và các nước Đông Âu tuy hiếm hoi nhưng cũng không được quý trọng, thậm chí bị dò xét và nghi ngờ là lũ “xét lại”. Anh rể thứ hai của tôi từ học viện quân sự Voroshilov bị gọi về và ngay năm sau phải đi chiến trường Khu Năm gian khổ.
Tuy quen biết các lãnh đạo cao cấp nhưng Ba không bao giờ xin ai can thiệp cho con cái ở lại thủ đô, nhiều người vì thế đã coi Ba là một ông già gàn dở. Cho đến giữa những năm 1960, trừ tôi được du học và anh Hải Hoành được làm việc tại Hà Nội, hầu hết các anh chị khác của tôi đều phải đi bộ đội hoặc tới những nơi khó khăn, mãi đến thập niên 1990 mới dần dần được về quê.
Đức tính không nói về mình và không màng danh lợi của Ba làm cho nhiều người xung quanh khó hiểu. Tôi may mắn là người con duy nhất được sống hầu như liên tục và lâu dài tới 16 năm bên cạnh Ba mà cũng như thế, vừa do trẻ quá lại vừa do vô tâm theo lối sống của một thời đại không chú ý mấy đến thân phận cá nhân. Mãi 30 năm sau khi Ba mất, một cuộc hội thảo quốc gia với mấy chục tham luận đầy chi tiết chân thật và xúc động đã được lưu lại trong cuốn sách Nhớ về nhà giáo dục đáng kính Nguyễn Hữu Tảo (Nxb Giáo Dục, HN 1996), làm tôi có ý thức rõ hơn về tầm vóc và ảnh hưởng của Ba tới bao nhiêu thế hệ học trò.
Từ đó tôi bắt đầu tìm hiểu thêm tư liệu về Ba và càng thấy Ba quả là khiêm tốn. Ngay trong các bức ảnh chụp chung với lãnh đạo, nếu không bị mời ép thì Ba bao giờ cũng đứng ở góc khuất.
Khoảng giữa thập niên 1990 một số học trò cũ đã tìm hiểu, xác minh được phần nào hoạt động từ trước và sau 1945 của Ba để đăng trên trang web của TP Hải Phòng. Trên trang web của trường ĐHSP Hà Nội cũng có đăng một bài viết về Ba, trong đó tác giả Nguyễn Như An đã tóm tắt: …Giai đoạn sôi nổi nhất là giai đoạn Thầy tập trung nghiên cứu giảng dạy về khoa học giáo dục ở khu học xá Việt Nam đặt tại Nam Ninh ( Trung Quốc) từ năm 1951 đến năm 1954 và giảng dạy làm tổ trưởng tổ Tâm lý – Giáo dục học thuộc ĐHSP Hà Nội (1955 -1965). Giai đoạn này Thầy đã dịch cuốn “Giáo dục học” của Viện sĩ Cairốp (Liên Xô) dịch qua bản Trung văn, quyển “Nguyên lý đạo đức cộng sản chủ nghĩa” của Sitxkin (Liên Xô), quyển “Mẹ dạy con” dịch từ tập sách của một tập thể tác giả Liên Xô. Thầy chủ biên “Sơ thảo giáo dục học đại cương”, giáo trình đầu tiên ở Việt Nam dùng cho ĐHSP, và thầy soạn giáo trình “Giáo dục học”, bản thảo tặng khoa Tâm lý – Giáo dục học ĐHSP Hà Nội trước khi nghỉ hưu…
Ba ít khi ghi tên mình lên bìa các giáo trình và sách in do Ba soạn ra, dịch thuật hoặc hiệu đính, trừ trường hợp phải tuân theo quy định. Cả trong bản khai sinh của tôi, Ba chỉ ghi mình là “cán bộ phụ giảng”. Tự truyện và nhật ký viết trước khi mất của Ba cũng chỉ toàn những lời tự phê bình mỗi khi viết về bản thân v.v..
Xưa kia nhờ việc không đăng hình và ký tên thật trên các sách báo của Đông Kinh Nghĩa thục mà cụ cử Nguyễn Hữu Cầu đã thoát án tử hình của Pháp. Phải chăng Ba thừa kế đức tính khiêm tốn từ Ông nội tôi ? Tôi tự hào được Ba dạy dỗ từ nhỏ và khép lại hồi ức của mình ở đây với lời nguyện suốt đời học tập tác phong của Ba.
Hà Nội mùa hè 2013

Nguyễn Chí Công, SP66
https://cespsite.wordpress.com/2017/06/16/viet-bac-quang-tay-ha-noi-7/
.





















---

BỔ SUNG


2.

07/11/2015

TÂM HƯ, NAM NINH VÀ BA TÔI
Tưởng đã chọn được điểm khởi đầu các ghi chép hồi ức từ cuộc chuyển chỗ từ thành phố về quê, nhưng rồi một vài ý gợi mở đã làm lòng xốn xang, nên nhân lúc nhàn rỗi tôi quay lại xa hơn nữa, về tận cái thời “rời chiến khu sang TQ” mà chỉ có các bậc phụ huynh mới biết, và tôi nếm trải từ khi 3 tuổi ranh… Về già thì cái ký ức này bị ai đó vô tình khuấy động và nổi lên rõ mồn một.
Nhắc lại chuyện xưa, sau 3 năm làm hiệu trưởng trường trung học Huỳnh Thúc Kháng, cái nôi của giới trí thức tham gia cuộc Kháng chiến chống Pháp tại Khu Bốn cũ, năm 1951 ba tôi và một loạt thày giáo cả già lẫn trẻ của trường này và của một số tổ chức khác ở khắp nước được điều sang lập căn cứ mới tại TP Nam Ninh (TQ) để mở các trường Sư phạm – cội nguồn của cây gia phả ngành Giáo dục Việt Nam mà chi trưởng chính là ĐHSP Cầu Giấy của chúng mình về sau. Các thầy nhận trọng trách thì phải đi trước, bầu đoàn thê tử gồng gánh lần mò đi sau. Mẹ tôi tay xách nách mang, hết dắt lại bế tôi đi bộ mấy tháng ròng từ Nghệ An ra đến Việt Bắc tụ họp với gia đình các bác Nguyễn Xiển, Nguỵ Như Kon-Tum, Nguyễn Hữu Tảo, Nguyễn Lân, Võ Thuần Nho, Đinh Văn Hớn, Nguyễn Tấn Gy Trọng v.v. đang lũ lượt kéo đến.
Sau ít ngày nghỉ ngơi cho hồi sức, các bà mẹ tiếp tục dắt lũ trẻ con lít nhít đi bộ vượt biên giới Việt-Trung đến thị trấn Bằng Tường rồi được xe cam-nhông chở tới Nam Ninh, nơi 2 năm nữa sẽ mọc lên Khu học xá. Khi đó, đây còn là bãi tha ma và ruộng hoang … mênh mông với những xóm làng xơ xác, cực khổ vừa ra khỏi chiến tranh. Vì vậy trong thời gian đầu mọi người về ngụ cư làng Tâm Hư, các gia đình phân tán vào ở tạm tại các nhà dân và đình chùa. Riêng gia đình 3 ông Xiển, Kon-Tum và ba tôi là những trụ cột lúc đó được cho ở cùng nhau tại 1 ngôi nhà ngói lớn ba gian vốn của một địa chủ. Các ông bố đi dạy và nghiên cứu khoa học, đám trẻ lớn được gửi đến tập trung học ở trường thiếu sinh quân Quế Lâm cách đó khá xa. Tất cả tụi tôi chưa đến tuổi học đường thì đi nhà trẻ Tâm Hư mà bảo mẫu chính là các bà mẹ. Vì thế nhiều đứa chúng tôi làm bạn với nhau từ năm 1951 tới tận bây giờ.
Hai năm sau (1953) cơ ngơi nước bạn xây cho đã hình thành, các công trình cơ bản ban đầu toàn là nhà gạch mái ngói. Tôi còn nhớ rõ mấy dãy nhà tập thể dành cho gia đình các thày cô đều có bể nước và sân vườn ở phía trước, dãy nhà WC ở chếch một bên; rồi mấy nhà hai tầng gồm phòng làm việc, phòng thí nghiệm, lớp học, thư viện… một trường học cấp 1 với sân chơi rộng, một hội trường to còn gọi là Đại lễ đường, một bể bơi…. Tất cả nằm rải rác khá thưa thớt trên một khu đất rộng như khu SP Cầu Giấy hồi những năm 1960-61, về sau dần dần được lấp đầy như ĐHSP thời hòa bình. Lúc mới xây xong khu này được gọi là Khu học xá mới, sau bỏ chữ mới đi. Lũ trẻ con chúng tôi không thể nhớ các cô chú cỡ chú Lê Quang Long vì ít tiếp xúc, nhưng bố mẹ các bạn bè thì như phụ huynh mình vì là láng giềng của nhau, y chang ở KTTSP vậy. Do vậy chúng tôi biết bác Võ Thuần Nho là Giám đốc KHX, khi bác Nho đi công tác vắng thì bác Xiển điều hành, thứ đến là bác Kon-Tum và sau nữa là ông Cang nằm trong Ban giám đốc.
Ba tôi là người hiền hậu, nhẫn nhịn, cực kỳ cẩn thận và nổi tiếng có nguyên tắc trong công việc lẫn sinh hoạt, tới mức trở thành giai thoại. Vì sống nguyên tắc nên ông rất trực tính, mà trực tính và nguyên tắc thì dẫu có nhẫn cũng không thể không bộc lộ thẳng. Đã vậy ông lại cương quyết không vào Đảng dù người ta mấy lần vận động để lấy ông “làm tấm gương” lôi kéo người khác. Ông mang đặc chất dân xứ Quảng, cần kiệm nhưng cương cường, không ngại và không ít lần đối đầu với sự áp đặt. Nên dẫu có là hiệu trưởng đầu tiên suốt 3 năm liền của trường Huỳnh Thúc Kháng cũng như đã nhiều năm dạy Quốc học Huế trước đó, đố bạn tìm thấy tên ba tôi trong đống kỷ yếu công khai về hai trường này, cũng như trong giai đoạn tham gia lãnh đạo KHX Nam Ninh. Vì ông là người sỹ phu đất Quảng cương cường.
Hoàng Đình Cường

SP66
https://cespsite.wordpress.com/2015/11/07/tam-hu-nam-ninh-va-ba-toi/





1.



16:45 20/01/2010



“Quảng Tây Nam Ninh Dục tài học hiệu” là tên gọi Khu học xá Trung ương của Việt Nam đóng trên đất Quảng Tây từ năm 1951 đến 1958, với ý nghĩa là trường giáo dục, đào tạo nhân tài. Sáu mươi năm về trước, trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp còn đang diễn ra ác liệt, Bác hồ và Trung ương Đảng đã xác định phải khẩn trương đào tạo cán bộ cho sự nghiệp xây dựng đất nước sau này.

http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Nho-ve-Quang-Tay-Nam-Ninh-Duc-tai-hoc-hieu-296617/










.

1 nhận xét:

  1. Xưa kia nhờ việc không đăng hình và ký tên thật trên các sách báo của Đông Kinh Nghĩa thục mà cụ cử Nguyễn Hữu Cầu đã thoát án tử hình của Pháp. Phải chăng Ba thừa kế đức tính khiêm tốn từ Ông nội tôi ? Tôi tự hào được Ba dạy dỗ từ nhỏ và khép lại hồi ức của mình ở đây với lời nguyện suốt đời học tập tác phong của Ba.
    Hà Nội mùa hè 2013
    Nguyễn Chí Công, SP66

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.