Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

12/01/2016

Hối lộ chính trị ở Nhật Bản (Richard 1996, bản dịch Cu Nỡm 2016)

Nguyên tên cuốn sách bằng tiếng Anh đã in năm 1996 là Political Bribery in Japan

Bản dịch do Cu Nỡm thực hiện. 

Bên này sẽ bổ sung dần theo bản lên bên blog Cu Nỡm.

---

2.

21/1/2016



Các chương đã được dịch của cuốn sách:





4. Các Chính Sách Bài Trừ 

5. Thời Kỳ Bị Chiếm Đóng 

6. Nhật Bản “Mới” 



Các Chính Sách Bài Trừ

Sự suy thoái của chính quyền đảng phái sau năm 1932 mở đường cho sự trỗi dậy của “viên chức xét lại”. Những người xét lại bảo vệ cho sự thanh tẩy hệ tư tưởng, nhà nước kiểm soát kinh tế, hoặc sự gia tăng của quân sự quốc gia và sự lành mạnh tinh thần. Viên chức xét lại của Bộ Nội Vụ, muốn phá hủy liên minh giữa các thành viên Hạ Viện và các lãnh đạo địa phương, liền nhằm vào tham nhũng bầu cử, mà công chúng coi là phổ biến và chính khách không thể cưỡng lại. [1] Vào ngày 23/6/1934, Luật Cải Cách Bầu Cử Quốc Hội đã được ban hành, theo luật này các quận trưởng được kiểm soát quá trình bầu cử nhiều hơn. Hình phạt tối đa đối với việc mua phiếu bầu là bốn năm tù và phạt tiền lên đến 3.000 yen; những người môi giới bầu cử là đối tượng bị phạt tù lên đến 5 năm. [2] Luật này cũng cấm các chiến dịch tiền bầu cử, cung cấp cho chính quyền các tài liệu in ấn để tranh cử, mở rộng sự kiểm soát với việc diễn thuyết tại mít-tinh và một giới hạn nghiêm ngặt về chi phí tranh cử. [3] Một học giả viết, “Bằng cách tạo ra mức độ giới hạn cho sự đại diện tỷ lệ và tước bỏ lợi thế của của cải trong các cuộc bầu cử, luật bầu cử sửa đổi đã đảm bảo cho số lượng các thành viên vô sản và độc lập tăng lên trong Quốc Hội.” [4] 

Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Gotò Fumio (nội các Okada Keisuke, 7/1934–3/1936), một lãnh đạo của phái xét lại, đã tổ chức phong trào Thanh Tẩy Bầu Cử, được ban hành bằng một sắc lệnh hoàng gia vào tháng 5/1935. Trong tháng tiếp theo, các Ủy Ban Thanh Tẩy Bầu Cử do các quận trưởng đứng đầu và viên chức cảnh sát là thành viên đã được thiết lập ở tất cả các quận. Các ủy ban này có mục đích giáo dục cử tri về thực hành bầu cử đúng đắn. [5] Các trưởng cảnh sát quận trong hội nghị vào tháng 8 tại Tokyo đã nhận được lệnh của Gotò và bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara Naoshi về việc phải đảm bảo các cuộc bầu cử cấp quận được thực hiện đúng đắn và công bằng. Các cảnh sát trưởng cũng được chỉ thị bắt giữ tất cả những người mua phiếu bầu và môi giới bầu cử. [6] Có lẽ là cảnh sát đã thực hiện những mệnh lệnh này cùng với sự trả thù. Aikawa Katsuroku, viên chức của Cục Cảnh Sát, Bộ Nội Vụ, đảm nhiệm việc theo dõi bầu cử trong đầu thời kỳ phong trào thanh tẩy, đã khẳng định trong hồi ký rằng cảnh sát đã bắt giữ “không thương tiếc bất cứ ai vi phạm luật bầu cử vì bất kỳ lý do nào và không cần cân nhắc xem đảng nào sẽ trở thành đảng chiếm đa số.” [7]

Sự thi hành luật lệ nghiêm khắc đã giúp cho các cuộc bầu cử cấp quận tương đối trong sạch. [8] Tuy vậy, việc thanh tẩy bầu cử cũng có mặt trái. Vào ngày 16/12/1935, bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara chúc mừng các viên chức cảnh sát đã tập hợp ở Tokyo bởi vì có ít phàn nàn về việc vi phạm quyền cá nhân trong các cuộc bầu cử ở quận vừa qua. Bộ trưởng yêu cầu các lãnh đạo cảnh sát đặc biệt chú ý không bắt giữ người dân vì những vi phạm nhỏ nhặt. [9] Điều mà Ohara coi là “vi phạm nhỏ nhặt” được minh họa bằng một bài báo khác trên cùng trang của tờ báo tường thuật bài phát biểu của ông: “Theo Luật Bầu Cử mới, tất cả mọi người, trừ những người có tên được khai báo đầy đủ cho cảnh sát, đều bị cấm cung cấp tất cả các dịch vụ hỗ trợ bầu cử....Khi một xe máy đưa một ứng cử viên nào đó bị sa lầy, những người qua đường cố gắng giúp [nhưng]…cảnh sát can thiệp và ra lệnh cho họ giải tán, cho rằng đây là cung cấp dịch vụ hỗ trợ bầu cử.” Một ví dụ nực cười khác về sự thái quá của cảnh sát liên quan đến một ly nước đặt trên bàn diễn giả, được một khán giả lau sạch. “Điều này cũng bị cảnh sát có mặt coi là hành động bất hợp pháp, cung cấp dịch vụ hỗ trợ bầu cử.” [10]

Sassa Hiroo, một thành viên của Hiệp Hội Nghiên Cứu Showa, bình luận về cuộc bầu cử vào số tháng 10/1935 của tờ Kaizò: “Phong trào thanh tẩy đã tạo ra một tiền đề cho việc làm sạch chính giới và tái cấu trúc lại các đảng chính trị….Nhà nước sẽ là liên minh của người dân chống lại sự tham nhũng của các chính đảng.” [11] Ròyama Masamichi, nhân vật hàng đầu trong Hiệp Hội Nghiên Cứu Showa và là giám đốc đầu tiên của Phong Trào Thanh Tẩy Bầu Cử, là người ủng hộ mạnh mẽ phong trào thanh tẩy, coi nó là hy vọng duy nhất có thể bài trừ tận gốc tham nhũng chính trị trong các cuộc bầu cử. Ròyama hy vọng rằng khi phong trào thanh tẩy được phổ biến khắp quốc gia, ứng cử viên Quốc Hội có thể thoát khỏi nhu cầu cần sự ủng hộ của đảng phái và có thể chỉ dựa vào sự ủng hộ của các nhóm tạm thời. Mục tiêu của ông ta, cũng giống như Sassa, là bài trừ tham nhũng của nền chính trị đảng phái thường trực. [12]

Bài kiểm tra thực sự đầu tiên đối với phong trào thanh tẩy là tổng tuyển cử vào ngày 20/2/1936, các ủy ban thanh tẩy khuyến khích ý tưởng về bầu cử trong sạch bằng các bài giảng, pamphlet, phim và bài diễn thuyết trên sóng phát thanh. [13] Một học giả khẳng định rằng Bộ Nội Vụ coi cuộc bầu cử này là thắng lợi của phong trào thanh tẩy. Các viên chức đã ngạc nhiên bởi số lượng cử tri giảm đi 7,4% (76,7% tham gia bỏ phiếu) so với tổng tuyển cử năm 1932. [14] Bất chấp sự suy giảm này, khoảng 15.000 người đã bị bắt giữ vì vi phạm luật bầu cử (hối lộ và các vi phạm khác), cho thấy một sự bộc phát của các hoạt động bất hợp pháp (cũng có thể cho thấy sự thực thi pháp luật nghiêm chỉnh). [15] Với bất tỷ lệ nào, số lượng vi phạm là 10.401 vào năm 1928; 18.010 vào năm 1930; 9.869 vào năm 1932. [16] Con số ứng cử viên Hạ Viện bị bắt giữ (62) cũng cho thấy sự tăng vọt trong vi phạm (hay sự thực thi pháp luật nghiêm khắc hơn). Vào giữa tháng 5 của năm tiếp theo, 6 ứng cử viên đã bị kết án; các vụ án khác vẫn đang trong quá trình kháng án. [17] Số liệu của cuộc tổng tuyển cử ngày 20/4/1937 cho thấy phong trào thanh tẩy đã có ảnh hưởng tới hành vi của cử tri và chính khách. Khoảng ba tuần sau cuộc bầu cử, cảnh sát chỉ xử lý 1.950 nghi phạm vi phạm luật bầu cử, trong đó có 221 người liên quan đến việc hối lộ cử tri. Hai mươi ứng cử viên Hạ Viện cũng đang bị điều tra. [18] Viên chức Bộ Tư Pháp thông báo “104 người đã bị truy tố vì vi phạm luật bầu cử….Điều này cho thấy một sự giảm xuống rõ rệt so với cuộc tổng tuyển cử trước đó, 600 người đã bị truy tố trong cùng kỳ.” Mặc dù viên chức Bộ Tư Pháp kỳ vọng có nhiều bản án hơn, song họ cũng hy vọng rằng số lượng các vụ truy tố sẽ thấp hơn một nửa so với kỳ bầu cử trước. [19] 

Cũng cần phải ghi nhận rằng đằng sau bề ngoài của thanh tẩy bầu cử, “các thương nhân chính trị” vẫn tiếp tục chi tiền. Ví dụ, Sakomizu Hisatsune, từng là thư ký của thủ tướng Okada, đóng vai trò là người trung gian chuyển một triệu yên từ zaibatsu Sumitomo cho Minseitò để sử dụng trong tổng tuyển cử năm 1936. [20] Cải cách bầu cử vào đầu những năm 1930 không giải quyết được vấn đề cơ bản: tiền. Cựu bộ trưởng Bộ Nội Vụ Mizuno Rentarò, viết trên tờ nội san Shimin của bộ vào năm 1935, cho biết một ứng cử viên chi từ 20.000 đến 200.000 yen. Một tờ báo đưa tin là chi tiêu của một số chính khách trong tổng tuyển cử năm 1936 khoảng 150.000 yen mỗi người. Rất ít ứng cử viên có đủ tiền để tài trợ cho chiến dịch tranh cử. [21] Tướng Ugaki Kazushige viết trong nhật ký của ông vào tháng 1/1935 rằng chủ tịch của một đảng lớn cần khoảng 100.000 – 150.000 yen mỗi năm; trong số đó 120.000 – 130.000 yen được chi cho đảng. Trong năm có tổng tuyển cử, cần phải có khoảng 2.500.000 yen, để hỗ trợ khoảng 400 ứng cử viên. Trong số đó, chủ tịch sẽ đóng góp 1.000.000 yen và các thành viên đóng góp 1.500.000 yen. [22] 

Vào giữa tháng 4/1935, bài báo cho biết ít nhất cũng có một số viên chức Bộ Nội Vụ lo sợ rằng cảnh sát sẽ thực hiện phong trào thanh tẩy một cách thái quá: “Viên chức Bộ Tư Pháp e ngại rằng khi cảnh sát bắt giữ tất cả những người vi phạm, với sự nhiệt tình của họ trong việc thanh tẩy bầu cử, các phàn nàn về xâm phạm quyền cá nhân sẽ sớm xuất hiện. Do vậy, họ sẽ đưa ra các hướng dẫn cho cảnh sát địa phương để kiềm chế những hành động có thể bị coi là xâm phạm quyền cá nhân.” [23] Một tháng trước tổng tuyển cử tháng 2/1936, bộ trưởng Bộ Tư Pháp Hayashi Raizaburò nói rằng “[v]i phạm bầu cử là đặc biệt có hại đối với việc duy trì sự thiêng liêng của pháp luật và do vậy phải bị trừng phạt nghiêm khắc.” [24] Do đó, cảnh sát và công tố viên nhận được một thông điệp kết hợp: không vi phạm quyền cá nhân và thực thi luật bầu cử nghiêm khắc. Dường như hầu hết cảnh sát và công tố viên đã thực hiện phần sau của thông điệp này. Một sự phản đối vụ đàn áp của chính quyền đến từ Makino Ryòzò (Seiyûkai) tại cuộc họp của ủy ban ngân sách vào ngày 27/2/1937. Makino lên án sự lạm dụng thẩm quyền của công tố viên và cảnh sát, kêu gọi chú ý tới việc có khoảng 400.000 – 500.000 người bị cảnh sát điều tra trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936 do có thư khiếu nại. Con gái và vợ của một số ứng cử viên thậm chí còn bị tra tấn, ông ta khẳng định. Ông ta khẳng định rằng nhà chức trách phải bỏ qua các thư nặc danh. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Shiono Suehiko bày tỏ sự ân hận của ông và nói rằng các viên chức có lỗi sẽ bị trừng phạt. Một tuần trước đó, Kokubo Ki’ichi (Thượng Viện) đã cáo buộc rằng trong các cuộc bầu cử cấp quận của năm 1935 và tổng tuyển cử năm 1936 có nhiều vụ cảnh sát tra tấn. Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Kawarada Kakichi trả lời rằng những vụ án đó đang được điều tra và một số viên chức vi phạm đang bị xét xử. [25] Vào năm 1937, sau khi kết thúc cuộc tổng tuyển cử, Seiyûkai thành lập một ủy ban để xem xét các vụ án về hành động thái quá của cảnh sát và công tố viên. Một người phát ngôn nói, “[T]hông tin mà trụ sở đảng nhận từ mọi vùng của đất nước cho thấy ở nhiều nơi các viên chức cấp thấp địa phương đã xâm phạm đến các quyền cá nhân. Hành động theo các thông tin sai lệch do những người có lợi ích cung cấp, họ đã bắt giữ các quản lý bầu cử và cử tri. Cũng có những vụ vi phạm nhỏ bị trừng phạt quá nghiêm khắc.” [26] Cũng có những bằng chứng chắc chắn cho cáo buộc về việc cảnh sát tra tấn để buộc những nghi phạm vi phạm Luật Bầu Cử phải thú tội, được chứng minh bằng báo cáo “bí mật” của thẩm phán Kawakami Kan vào tháng 2/1938. Một trường hợp được Kawakami trình bày có liên quan đến Kawaguchi Yoshihisa, một ứng cử viên Hạ Viện của Seiyûkai, trong cuộc tổng tuyển cử vào ngày 20/2/1936, đã bị bắt cùng với những người ủng hộ vì tình nghi hối lộ. Việc thẩm vấn trong vụ án này được cảnh sát quận Kanagawa thực hiện. Người ủng hộ đầu tiên bị tra tấn là Hishinuma Shunkichi, bị cáo buộc đưa tiền cho cử tri. Hishinuma và các nghi phạm khác thường bị tra tấn bằng một hay nhiều kiểu như sau: bị đánh bằng kiếm tre, bị đá vào đầu và thân thể, bị xông khói, bắt quỳ trên đống que gỗ, bị bắt uống nước, bị ném xuống sàn nhà cứng. [27] Thượng nghị sĩ Kokubo Ki’ichi coi những vi phạm của cảnh sát ở Kanagawa là cực kỳ tồi tệ: “Những vụ án này xảy ra ở các quận Kaganawa, Kagoshima, Yamaguchi, Iwate, Okayama và các dạng tra tấn mà cảnh sát Kanagawa đã sử dụng thật kinh hoàng.” [28] Phong trào Thanh Tẩy Bầu Cử dường như đã làm giảm số lượng việc mua phiếu bầu và các vị phạm Luật Bầu Cử khác, nhưng cái giá phải trả quá cao. Cảnh sát, có lịch sử lâu dài về hành động bất hợp pháp và vào những năm 1930 hành động theo các quy tắc riêng của họ, đã trở nên tàn nhẫn hơn trong việc hành hạ các nghi phạm. [29]

Viên chức mới không phải là những người duy nhất mong muốn thanh tẩy chính trị. Vào cuối tháng 9/1930, một nhóm hai tá viên chức quân sự ở Tokyo đã thành lập một hiệp hội mà sau này được gọi là Hiệp Hội Anh Đào. Nhóm này có mục đích tái tổ chức quốc gia, trong đó có việc xóa bỏ các đảng chính trị. [30] Một phần trong tuyên bố mục tiêu của nhóm cải cách chính trị này nêu rõ, “[Chính khách]…thiếu sự can đảm để thực hiện các chính sách nhà nước….[H]ọ hoàn toàn bị ngự trị bởi sự theo đuổi ích kỷ quyền lực chính trị và của cải vật chất….Giờ đây, mũi kiếm tẩm độc của các chính khách đảng phái suy đồi đã chĩa vào quân đội….[C]húng ta, trụ cột của quân đội, phải…tự thức tỉnh và xóa bỏ hoàn toàn các chính khách suy đồi.” [31] Các hoạt động của viên chức quân sự cực đoan dẫn đến âm mưu đảo chính ở Tokyo vào ngày 26/2/1936. Khoảng 400 lính do những sĩ quan cấp thấp lãnh đạo đã giết và làm bị thương một số chính khách cấp cao, viên chức và sĩ quan quân đội. Sự may mắn đã giúp cho thủ tướng Okada thoát chết. Tuyên ngôn của các sĩ quan nổi loạn lên án cả các trùm tài chính, chính khách, viên chức, tất cả những người khiến quốc gia bị tàn phá. Không may cho những người nổi loạn, hoàng đế đã hành động cương quyết để dập tắt vụ nổi loạn. [32]

Công ty Mitsui, trong nhiều thế hệ đã uốn mình như cây tre theo các làn gió chính trị, đã bổ sung thêm vào danh sách hối lộ của họ các phần tử dân sự và quân sự cực đoan. Vào đầu mùa xuân năm 1931, Ariga Nagabumi, giám đốc điều hành của Mitsui, đã quyên góp 200.000 yen cho một đại diện của Hiệp Hội Anh Đào. Vào cuối năm đó, Ariga gặp Kita Ikki, một người cánh hữu nổi tiếng vì kế hoạch tái cấu trúc xã hội cực đoan. Khi yêu cầu của Kita bảo trợ cho Mitsui, Ariga đã hối lộ Kita khoảng 20.000 – 30.000 yen; Ikeda Seihin, sau khi nắm quyền ở Mitsui vào năm 1934, tiếp tục đóng góp cho Kita 10.000 yen vào mỗi tháng 6 và tháng 12 hàng năm. Một phần của khoản tiền đó đã được rót cho các sĩ quan quân đội cực đoan. Khoản tiền bảo trợ này đã đi đúng hướng: Kita loại tên của Ikeda ra khỏi danh sách ám sát do những người tham gia đảo chính, cuộc nổi loạn của quân đội, vào ngày 26/2/1936 lập ra. Sau này, khi tên của Ikeda xuất hiện trên một danh sách khác, ông ta cũng được cảnh báo trước. Bên cạnh việc hối lộ đám khủng bố cánh hữu, Mitsui, theo sự yêu cầu của Ikeda, cũng bắt đầu hối lộ công chúng, cố gắng thay đổi ấn tượng về một công ty tham lam lam, kiếm lợi bằng mọi giá, trong đầu óc của công chúng. Vào giữa năm 1933, công ty quyên góp 3 triệu yen cho trợ cấp thất nghiệp và vào tháng 10/1933, họ thành lập Hiệp Hội Đáp Lại Lòng Tốt Mitsui, một quỹ từ thiện có số vốn 3 triệu yen. Sau ngày 26/2/1936, quân đội nổi loạn, Mitsui thực hiện kế hoạch loại bỏ các lãnh đạo trên 50 tuổi do Ikeda đưa ra. Do vậy, nhóm quản lý già, mà công chúng có ấn tượng xấu, đã bị xóa bỏ. Đối với các đảng chính trị mà Mitsui đã trợ cấp trong nhiều thế hệ, Ikeda quyết định phải cắt bỏ mối quan hệ đó để cải thiện hình ảnh của Mitsui. Kể từ đó, công ty từ chối các yêu cầu tài trợ tranh cử của Minseitò, Seiyûkai và các đảng khác. [33] “Mặc dù ông ta [Ikeda] không hỗ trợ cho bất cứ đảng nào nhưng ông ta lại đưa tiền cho các cá nhân. “…Tôi đã giữ lại một số khoản tiền để hỗ trợ cho một số đảng viên ngay thẳng, bất kể họ thuộc đảng phái nào, có quan hệ đặc biệt với Mitsui….Tôi không thể đột ngột cắt bỏ chúng.”” [34]

Một thương nhân chính trị hàng đầu khác, Kuhara Fusanosuke, cũng hối lộ để được các sĩ quan quân đội cánh hữu chiếu cố. Vào cuối những năm 1920, Kuhara là nguồn tài trợ chính trị quan trọng của Tanaka Giichi. Công ty của Kuhara, Nippon Sangyò (Nissan), vào những năm 1930 đã phát triển thành một zaibatsu mới; nó là hãng lớn đầu tiên chuyển một phần lớn hoạt động sang Mãn Châu Lý. Cũng giống như Mitsui, Kuhara hối lộ cho Kita Ikki và các sĩ quan quân đội cánh hữu. Một lãnh đạo doanh nghiệp khác cũng cung cấp tài chính cho các sĩ quan quân đội cánh hữu là Ishihara Kòichirò, đứng đầu công ty Công Nghiệp và Vận Tải Biển Ishihara. Ishihara đã đưa 11.500 yen cho trung úy Kurihara Yasuhide, một trong những sĩ quan tham gia vụ nổi loạn của quân đội vào ngày 26/2. Trong thời kỳ từ tháng 10/1933 đến 10/1935, Ishihara đã đưa 260.000 yen cho nhiều tổ chức cánh hữu khác nhau. [35]

Viên chức mới và những người cánh hữu của quân đội cũng không phải là đối tượng duy nhất mong muốn thanh tẩy chính trị. Công tố viên tại Tòa Án Quận Tokyo cũng đang tuyên chiến với sự tham nhũng trong kinh doanh từ cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Dưới thời chưởng lý Shiono Suehiko (xem chương 3), viện công tố Tokyo đã hăng hái truy tố một số các vụ án hối lộ quan trọng bất kể là nghi phạm thuộc đảng phái nào.

Vào năm 1934, công tố viên Tokyo điều tra vụ hối lộ quan trọng nhất giữa hai cuộc chiến tranh, được gọi là vụ Teijin. Kuroda Etsurò, công tố viên chỉ đạo giai đoạn điều tra trong vụ án này, nói với một bị cáo vào ngày 2/5/1934 rằng xã hội, trong đó có Bộ Tài Chính, đã thối nát. Do đó, cần phải dựa vào công tố viên để tạo ra một xã hội lý tưởng. [36] Một học giả viết, “Mục tiêu chính của công tố viên có lẽ là khẳng định sự tham nhũng tuyệt đối của giới kinh doanh và các chính đảng. Theo nghĩa nào đó, việc xử lý các vụ án có lẽ được thiết kế để thể hiện vai trò tương tự trong việc trừng phạt giới kinh doanh, giống như vụ án của Minobe [Tatsukichi] đã bịt miệng giới học thuật.” [37]

Teijin là tên gọi tắt của Teikoku Jinzò Kenshi Kabushiki Kaisha (Công Ty Tơ Nhân Tạo Đế Quốc), một chi nhánh của công ty thương mại Suzuki Trading. Sau khi công ty thương mại bị phá sản vào năm 1927, ngân hàng Taiwan mua lại 225.000 cổ phiếu của Teijin. Hầu hết cổ phiếu được đem cầm cố ở ngân hàng Nhật Bản để đổi lấy một khoản vay nhà nước của ngân hàng Taiwan. Do chính quyền bảo lãnh khoản vay của ngân hàng Taiwan, số cổ phiếu đó chỉ được giao dịch với sự cho phép của Bộ Tài Chính. Theo thời gian thì giá trị của cổ phiếu tăng lên và các nhà đầu cơ cố gắng mua chúng. Vào tháng 6/1933, một nhóm tài chính mua 100.000 cổ phiếu. Mặc dù việc mua bán này có vẻ là giao dịch kinh doanh minh bạch song tin đồn về hối lộ và thao túng thị trường chứng khoán đã thu hút được sự chú ý của truyền thông, các địch thủ chính trị của nội các Saitò Makoto (5/1932–7/1934) và công tố viên. Vào mùa xuân năm 1934, các lãnh đạo doanh nghiệp nổi tiếng và các viên chức chính quyền quan trọng lần lượt bị cáo buộc lạm quyền và hối lộ. Vụ bắt giữ hai bộ trưởng trong nội các cùng với lời thú tội của thứ trưởng Bộ Tài Chính đã làm sụp đổ nội các Saitò vào ngày 3/7. Sau một cuộc điều tra kéo dài của công tố viên và phiên đánh giá sơ bộ, 16 doanh nhân, viên chức, chính khách và công chúng phải đối mặt với một phiên toà kịch tính với 265 phiên xét xử (22/6/1935 – 5/10/1937). Mặc dù tất cả các bị cáo đều được trắng án vào ngày 16/12, phiên toàn kéo dài đã làm gia tăng hình ảnh tiêu cực của chính khách và doanh nhân, có cùng một hang ổ tham nhũng. Dĩ nhiên, sự kinh khủng nhất là cáo buộc hối lộ của công tố viên đối với các viên chức cấp cao của Bộ Tài Chính. Phiên tòa đã có nhiều bất ngờ, mặc dù 12 bị cáo đã thừa nhận nhiều tội lỗi ở phiên đánh giá sơ bộ, song họ đã bác bỏ hoàn toàn tại phiên tòa chính thức. Trong quá trình phản cung này, công tố trở thành đối tượng chịu sự giận dữ của bị cáo và công chúng với các cáo buộc tra tấn, ép cung, vi phạm quyền cá nhân, tại tòa án, Hạ Viện và trên báo chí. Sự tấn công bất ngờ vào cơ quan tư pháp đã phá hủy sự hài lòng của công chúng và công tố bị gọi là “phát xít”. [38]

Vào đầu năm 1932, Fujita Ken’ichi, chủ tịch Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Tokyo và là thành viên của Thượng Viện, yêu cầu Mori Kaku, một chính khách có ảnh hưởng của Seiyûkai và thư ký trưởng của nội các Inukai, đóng vai trò trung gian trong việc mua cổ phiếu của Teijin. Mori lại giới thiệu ông ta với bá tước Itò Miyoji, một thành viên Hội Đồng Cơ Mật. Thông qua con đường này, Fujita tiếp cận bộ trưởng Bộ Tài Chính Takahashi Korekiyo. Sự tiếp cận này không thành công. Dĩ nhiên tiếng tăm xấu của Fujita đã khiến giao dịch này thất bại. Fujita đã bị xét xử tại Tòa Án Quận Tokyo về tội tham ô và lạm quyền trong vụ án Dệt Len Gòdò (ông ta bị kết án vào ngày 16/5/1933 và nhận án một năm rưỡi tù, nhưng được hoãn thi hành án ba năm). Fujita cũng bị phát hiện mua huy chương trong vụ bê bối Cục Nghi Lễ. Bên cạnh các lý do có thể khiến cho giao dịch thất bại đó, Itò Miyoji cũng bị ghét bởi vì thành tích tống tiền doanh nhân và viên chức chính quyền. Bằng mọi giá, Fujita đã cố gắng một lần nữa, hy vọng vào nam tước Gò Seinosuke, một thượng nghị sĩ và giám đốc của nhiều doanh nghiệp lớn. Sự tiếp cận này cũng thất bại, do Gò nói với Fujita rằng ông ta lấy ít nhất là một phần ba giá mua. [39]

Cố gắng tiếp cận cổ phiếu của Teijin tiếp theo do Nagano Mamoru, trợ lý của Fujita, thực hiện. Đầu tiên, ông ta tiếp cận Shòriki Matsutarò, chủ tịch của tờYomiuri Newspaper và là cựu viên chức cảnh sát của Bộ Nội Vụ. Shòriki lại tìm kiếm sự giúp đỡ từ bộ trưởng Bộ Giáo Dục Hatoyama Ichirò, yêu cầu ông này nói chuyện với người của Bộ Tài Chính và ngân hàng Nhật Bản về việc bán cổ phiếu. [40] Các nhà tài chính và doanh nhân khác tham gia vào vụ việc vào cuối năm 1932 hoặc đầu năm 1933 là: Kawai Yoshinari, Kobayashi Ataru, Okazaki Akira và Nagasaki Eizò. Vào tháng 2/1933, Kawai và Kobayashi thảo luận việc mua cổ phiếu của Teijin với Takagi Naomichi, giám đốc của ngân hàng Taiwan. Mặc dù chủ tịch ngân hàng Shimada Shigeru cũng được báo cáo, song Takagi là viên chức ngân hàng chủ chốt liên quan đến những thảo luận này. Vào ngày 6/5, nhóm của Kawai đề nghị giá 117 yen cho mỗi cổ phiếu cộng thêm tiền cổ tức cho 100.000 cổ phiếu đầu tiên và 122 yen cho mỗi cổ phiếu cộng thêm cổ tức nếu việc bán được thực hiện ngay lập tức. Về gói 100.000 cổ phiếu thứ hai, người mua được quyền đợi một tháng để đưa ra quyết định chung cuộc. Người mua, Kawai nói, là các công ty bảo hiểm và nhà buôn bông; mỗi nhóm sẽ mua một nửa số cổ phiếu. Phía công ty bảo hiểm sẵn sàng thanh toán ngay lập tức, còn phía nhà buôn bông sẽ thanh toán trước 30% tiền mặt và phần còn lại được thanh toán trong vòng ba tháng. Kawai cho biết bộ trưởng Bộ Thương Mại và Công Nghiệp Nakajima Kumakichi sẽ quyết định cách phân chia cổ phiếu giữa các công ty bảo hiểm. Giám đốc Takagi trả lời rằng giá quá thấp: công ty Teijin có lợi nhuận tốt và cổ phiếu sẽ có lợi tức cao. Cuối cùng, vào ngày 25/5, thỏa thuận được chốt là người mua sẽ nhận được 100.000 cổ phiếu với giá 125 yen mỗi cổ phiếu. Hợp đồng được ký kết vào ngày 30/5. Các công ty bảo hiểm nhân thọ Tokyo nhận được 60% số cổ phiếu và các nhà buôn bông Osaka nhận được 40%. Tháng sau, ngân hàng Taiwan sử dụng tiền thu được từ giao dịch để thanh toán cho ngân hàng Nhật Bản. Việc mua bán cổ phiếu ít được bình luận vào lúc đó. [41]

Sau giao dịch, nhiều khoản hoa hồng quà tặng đã được trao đổi. Kawai, đóng vai trò chủ chốt, nhận được hoa hồng 1 yen cho mỗi cổ phiếu từ cả người bán và người mua (có nghĩa là ông ta nhận được 200.000 yen). Ngân hàng Taiwan đưa cho Nagano 60.000 yen và Murachi Kyûjirò, một người môi giới chứng khoán ở Osaka, nhận được 40,000 yen cho dịch vụ đã cung cấp. Kawai đã chi tiêu toàn bộ khoản hoa hồng của ông ta: đưa 170.000 yen cho Shòriki (105.000 yen được chuyển cho Fujita và Hatoyama); 15.000 yen cho Nagano; 15.000 cho Murachi. Nagano và bốn người khác cũng “quyên góp chính trị” cho Nakajima tổng cộng 10.000 yen. Bên cạnh những phần thưởng đó, tại đại hội cổ đông của công ty Teijin vào ngày 26/6/1933, Kawai được bầu làm kiểm soát viên và Nagano trở thành giám đốc. Họ có thể sử dụng những vị trí bên trong để kiếm lợi từ viêc bán cổ phiếu của Teijin. Giám đốc ngân hàng Takagi cũng được thưởng xứng đáng: ông ta trở thành chủ tịch của Teijin. [42]

Một năm trước khi bán cổ phiếu của Teijin, Bộ Tài Chính và các công tố Tokyo đã có xung đột về một vụ trốn thuế. Công tố viên không quên sự mất mặt của họ trong vụ xung đột này. Công ty bị tình nghi trốn thuế là Meiji Seitò Datsuzei, chuyên nhập khẩu và tinh chế đường. Cảnh sát đã bắt giam và thẩm vấn lãnh đạo của Meitò, Sòma Hanji, nhưng sau khi Nakajima Teppei, lãnh đạo của Cục Thuế Vụ, ra quyết định là công ty không trốn thuế, Sòma đã được thả vào ngày 11/5/1932. Đây là một kết cục tốt cho chủ tịch công ty nhưng lại khiến cho Nakajima có những giờ phút khó khăn tại Hạ Viện, các nghị sĩ đã tra hỏi ông ta về vụ án. Vụ việc đã nhanh chóng bị lãng quên do vụ sát hại Inukai vào ngày 15/5, sự sụp đổ của nội các Seiyûkai vài ngày sau và sự thành lập nội các thống nhất quốc gia dưới quyền đô đốc Saitò. Không may cho các viên chức Bộ Tài Chính, một luật sư của Meitò đến văn phòng của Nakajima và đề nghị đóng các khoản thuế quá hạn chưa được báo cáo. Tòa Án Quận Tokyo đã phản ứng vào ngày 22/6 bằng cách thảo cử công tố viên Kuroda Etsurò tới thảo luận vụ án với Nakajima. Kudora cho rằng Meitò có thể đang cố gắng thủ tiêu bằng chứng; Nakajima nên đưa các công tố viên vào vụ án bằng cách gửi khiếu nại cho họ. Nakajima, cho rằng việc điều tra thêm là không có cơ sở, đã bỏ qua lời khuyên của Kuroda. Vào ngày 24/6, Kuroda gửi tới Cục Thuế Vụ một đề xuất bằng văn bản. Các số báo buổi tối đều đăng tải câu chuyện quan trọng về việc Bộ Tài Chính cho phép Meitò trốn thuế và sự thông đồng giữa viên chức chính quyền và giới tài chính. Sau đó, công tố viên yêu cầu một khoản phạt nặng lên đến 34.430.000 yen cộng thêm 7.420.000 yen thuế quá hạn. Tuy vậy, Cục Thuế Vụ quyết định áp dụng khoản phạt 600.000 yen và thuế quá hạn là 120.000 yen. Mặc dù, quyết định đó khiến Kuroda và các công tố viên khác không hài lòng song lại được nội các Saitò chấp nhận, họ thông báo thuế và tiền phạt đã được nộp và vụ án được khép lại. [43]

Vào cuối năm 1933, nội các Saitò bị các chính khách của Seiyûkai và Minseitò chỉ trích, họ giận dữ về việc một nội các không đảng phái đang nắm quyền. Báo chí tham gia bằng vào vụ ồn ào, đã khiến cho bộ trưởng Bộ Thương Mại và Công Nghiệp Nakajima Kumakichi mất chức vào tháng 2/1934. Tất cả những ồn ào trên đường phố và trong Quốc Hội đều xoay quanh một bài báo đăng lại về Ashikaga Takauji do Nakajima viết vào năm 1924. [44] Nhà xuất bản báo chí A. Morgan Young đã viết, “Sự ồng ào hiện nay về nam tước Nakashima….Nhiều năm trước khi ông ta viết một luận văn để ca ngợi Ashikaga Takauji, một người vĩ đại vào thời của ông vài thế kỷ trước đây, nhưng cũng là người chọn sai cửa khi có cuộc đua giành ngai vàng. Sự trung thành cấp thiết trở thành vĩ đại nhưng giờ lại là không trung thành để tán tụng những phẩm chất tốt đẹp của nhà độc tài thế kỷ 14 này.” [45] Không may cho nội các Saitò, vài ngày trước khi Nakajima từ chức, bộ trưởng Bộ Giáo Dục Hatoyama Ichirò bị Okamoto Kazumi (Seiyûkai) cáo buộc hối lộ tại Hạ Viện. Mặc dù một ủy ban điều tra đã tuyên bố Hatoyama vô tội song bộ trưởng này cũng đã từ chức. [46] Bình luận về kỳ họp Quốc Hội, tờ Asahi Newspaper viết, “[k]hi kỳ họp đã đi được nửa đường, cuộc thi ném bùn theo thông lệ lại bắt đầu, lên đến cực điểm trong sự từ chức của ngài Hatoyama….Tiếng nói tranh luận đã nhỏ đi so với các kỳ họp trước, uy tín của các chính đảng trong dân chúng đã thấp đi….Họ đã cầu xin cho hiện tại cũng như họ đã làm trước kia.” [47] Cùng với sự tấn công vào Nakajima và Hatoyama là các câu hỏi được đặt ra tại cả hai viện của Quốc Hội về vụ mua bán cổ phiếu của Teijin. [48] 

Sự quan tâm được khôi phục về việc giao dịch cổ phiếu đã diễn ra từ tám tháng trước dẫn đến một loạt các bài báo trên tờ Jiji shinpò về giao dịch tài chính và thao túng chứng khoán bất hợp pháp của Banchò Kai, trong đó có việc mua bán cổ phiếu của Teijin. Sự mổ xẻ kéo dài hai tháng, bắt đầu vào tháng 1/1934, là kế hoạch của Mutò Sanji, chủ tịch tờ báo. Mutò, có danh tiếng kinh doanh trong sạch, hướng tới mục đích thanh tẩy hệ thống tư bản chủ nghĩa bằng các phơi bày những phần thối nát của giới kinh doanh. Một tuyên bố bằng văn bản của Mutò cho biết ông ta sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về các bài báo đã khiến chúng có thêm độ tin cậy. Công chúng, vốn chán ghét vì một hàng dài bất tận các vụ bê bối hối lộ, đã nhanh chóng chấp nhận sự trung thực của các bài báo này. Mutò, cựu chủ tịch của công ty se sợi Kanegafuchi, đã thành lập một đảng chính trị cải cách nhỏ vào năm 1923 và vào 1924 trúng cử Hạ Viện, tại đó ông ta đã mạnh mẽ lên án sự cấu kết của doanh nhân và chính khách. Ông ta rời khỏi chính trị vào năm 1932 để nắm quyền ở tờ Jiji shinpò. [49] Banchò Kai là một nhóm chọn lọc các doanh nhân và chính khách nhưng phi chính thức, họ đã thành lập một câu lạc bộ vào năm 1923, tập trung quanh nam tước Gò Seinosuke, một thành viên Thượng Viện và giám đốc của một số doanh nghiệp lớn. Nhóm này ủng hộ Hatoyama Ichirò và Nakajima Kumakichi với các khoản quyên góp chính trị. [50]

Cùng lúc đó, các công tố viên nhận được đơn tố cáo ở Osaka (một) và ở Tokyo (hai) về việc nhiều người phạm tội liên quan đến việc mua bán cổ phiếu Teijin. Đơn khiếu nại ở Osaka, do một trong những người ủng hộ của Mutò viết, cáo buộc rằng Takagi Naomichi (chủ tịch của Teijin), Nagano, Kawai và những người khác phạm tội lạm dụng quyền hành, tham ô và vi phạm luật kinh doanh. Một trong những đơn khiếu nại ở Tokyo, do Katò Noboru viết, cáo buộc chủ tịch Shimada Shigeru của ngân hàng Taiwan nhận hối lộ, lạm dụng quyền hành và làm giả giấy tờ. Đơn khiếu nại thứ ba, do Hasui Keitarò, một thành viên ban điều hành của Dai Nippon Kikusui Minshû Tò (một nhóm cánh hữu), viết đã nêu tên Shimada, Kawai, Nagano và Shòriki. Chưởng lý Tòa Án Quận Tokyo Miyagi Chògorò nhận được các đơn khiếu nại này vào tháng hai. Công tố viên Kuroda, đã điều tra vụ trốn thuế của Meitò, đương nhiên được chọn làm trưởng nhóm điều tra; thực ra ông ta là sự lựa chọn duy nhất, do những công tố viên khác biết rất ít về thị trường chứng khoán. Công tố viên Biwada Gensuke cũng được bổ nhiệm làm đồng trưởng nhóm. Khi họ xác định rằng hành vi lạm dụng quyền hành đã được thực hiện, ba công tố viên khác đã tham gia. Vào đầu tháng 4, nhóm này đã sẵn sàng cho giai đoạn khám xét và thu giữ trong cuộc điều tra. [51] 

Sự tấn công dữ dội vào Banchò Kai của tờ Jiji shinpò đã tạo ra sự đồng cảm của công chúng và dấy lên cuộc thảo luận ở Quốc Hội; nó cũng báo động các công tố viên ở Tòa Án Quận Tokyo. Giận dữ vì những tấn công đó, một số thành viên của nhóm đã yêu cầu kiện tội phỉ báng nhưng Kawai cho rằng một sự đáp trả bằng báo chí sẽ hiệu quả hơn. Tuyên bố của Kawai, được Gotò Kunihiko (người quản lý câu lạc bộ) ký tên, đã được đăng trên số tháng 3 của tờ Keizai òrai (phát hành trong tháng 2). Kawai giải thích rằng Banchò Kai là một tổ chức xã hội xoay quanh nam tước Gò; họ gặp mặt mỗi tháng một lần để thảo luận về các chủ đề hiện tại; các thỏa thuận kiếm tiền không phải là chủ đề thảo luận. Hơn nữa, việc báo chí đưa tin nam tước Nakajima có mối quan hệ sâu sắc với nhóm là sai hoàn toàn. Tuy vậy, do hai vị nam tước là bạn bè nên họ có gặp nhau tại những sự kiện như tiệc Năm Mới của Banchò Kai. Kawai kết luận, việc báo chí khẳng định rằng ba thành viên của nhóm có liên quan đến vụ Teijin và Kobe Seikòjo (đây là công ty thép) là sai. Vào ngày 9/3, Mutò Sanji bị bắn chết. Tờ Jiji shinpò phản ứng bằng cách đưa ra câu hỏi về việc Banchò Kai, đặc biệt là Kawai Yoshinari, đứng đằng sau vụ sát hại. Trong tình hình xã hội rối loạn vào năm 1935, nhiều người sẽ cũng có liên tưởng sai lầm này. Trên thực tế, vụ sát hại Mutò không có liên quan gì đến Banchò Kai. Người thanh niên mắc bệnh lao giết Mutò chỉ cố cướp tiền. [52] 

Khi các công tố viên mở rộng điều tra vụ giao dịch cổ phiếu Teijin, họ ban hành lệnh cấm báo chí đăng tin về chủ đề vào ngày 25/3/1934. [53] Vài ngày sau, chưởng lý Miyagi được lệnh nhận vị trí mới tại Tòa Phúc Thẩm Nagasaki; vị trí của ông ta được giao cho Iwamura Michiyo, vốn từng làm việc ở Tòa Án Quận Nagoya. Trước khi Miyagi rời đi, ông ta đã chỉ thị cho các công tố viên giới hạn điều tra vụ Teijin, không chạm đến các nhân viên ngân hàng Nhật Bản. Vào ngày 3/4, các công tố viên Biwada và Nagao Takeo, đang trên đường tới Osaka để bắt đầu giai đoạn khám xét, thu giữ và thẩm vấn, tạm dừng ở Nagoya để gặp Iwamura. Sau khi nghe báo cáo về vụ việc, Iwamura nói rằng họ sẽ không kết án thành công nếu lạm dụng quyền hạn là tội duy nhất; họ phải thêm tội hối lộ vào cáo trạng. Hai công tố viên ghi nhớ đề xuất này. [54] 

Vào ngày 5/4, các cuộc điều tra đồng loạt bắt đầu ở Osaka và Tokyo: các viên chức lục soát văn phòng ngân hàng Taiwan, công ty Teijin và nhà ở tư nhân. Tài liệu bị thu giữ tại trụ sở của Teijin ở Osaka nhiều đến mức cần đến một xe tải để chở. Takagi, chủ tịch của Teijin, bị bắt giữ ở Tokyo và đưa về Osaka. Trong những ngày tiếp theo, những người khác cũng bị bắt giữ: Okazaki Akira, một giám đốc của Teijin (11/4); Kawai, Nagano và Nagasaki Eizò (18/4); vân vân. Vào giữa tháng 5, việc bắt giữ đã lan sang cả Bộ Tài Chính: thứ trưởng Kuroda Hideo (May 19); Òno Ryûta, trưởng Ban Ngân Hàng Đặc Biệt; Aida Iwao, thanh tra ngân hàng; Shidomoto Jirò, trợ lý thanh tra ngân hàng (20/5); Òkubo Teiji, lãnh đạo Cục Ngân Hàng (21/5). Ít nhất hai tờ báo lớn, Asahi và Nichinichi, đã vi phạm lệnh cấm báo chí bằng cách phát hành ấn bản đặc biệt về câu chuyện quan trọng này. [55]

Sự kiện chủ chốt trong giai đoạn đầu của vụ án hình sự là lời thú tội của chủ tịch Takagi, đã có ảnh hưởng tới những người khác. Takagi đã thú nhận rằng Nagasaki đưa 1.300 cổ phiếu của Teijin cho các giám đốc của ngân hàng Taiwan và các giám đốc đưa lại cổ phiếu cho thứ trưởng Kuroda, giám đốc Cục Ngân Hàng Òkubo, bộ trưởng Bộ Đường Sắt Mitsuchi Chûzò và bộ trưởng Bộ Thương Mại và Công Nghiệp Nakajima Kumakichi. Một số cổ phiếu đã được chuyển thành tiền mặt và đưa cho nhân viên Bộ Tài Chính là Òno, Aida và Shidomoto. Các giám đốc của ngân hàng Taiwan là Yanagida Naokichi, Koshifuji Tsunekichi, Okazaki, và Takagi bỏ túi phần còn lại. Sự kiện chủ chốt thứ hai trong cuộc điều tra là một đơn kiến nghị của thứ trưởng Kuroda gửi chưởng lý Iwamura giải thích về khoản tiền mà ông ta đã nhận được từ Nagasaki: 10.000 yen cho một bạn chính trị ở Quốc Hội (Òyama Hisamaro), 10.000 yen cho Mitsuchi và 10.000 hay 20.000 yen được quyên góp cho Seiyûkai; phần còn lại được đưa cho Òta Osamu, một nhà tài chính tại Yamaichi Shòken, để đầu tư. Kurroda cũng khai là được nghe một người bạn nói rằng con trai của bộ trưởng Bộ Tài Chính Takahashi cần tiền, ông ta đã cho người này vay 30.000 yen. [56]

Tại một cuộc họp của nội các Saitò vào ngày 29/6, bộ trưởng Bộ Tư Pháp Koyama Matsukichi nói rằng đã đủ bằng chứng để truy tố các nhân viên bộ Tài Chính vì hối lộ. Ông ta nói thêm, không nhắc đến tên, rằng cựu bộ trưởng và đương kim bộ trưởng cũng có liên quan. Báo chí đăng tin tức nhạy cảm này vào ngày 30/6; nội các từ chức vào ngày 3/7/1934. Hôm sau, cựu bộ trưởng Nakajima bị bắt giữ (Shòriki cũng bị bắt giữ). Theo quan điểm của công tố viên, cuộc điều tra đã diễn ra thuận lợi. Bởi vì họ tin rằng cổ phiếu của Teijin đã được bán thấp hơn giá thị trường, người bán có thể bị kết tội lạm dụng quyền hành. Nakajima và các nhân viên Bộ Tài Chính có thể bị kết tội hối lộ liên quan đến giao dịch cổ phiếu. Cuối cùng, họ cho rằng bộ trưởng Mitsuchi, được gọi làm nhân chứng, đã nói dối, thến nên ông ta cũng có thể bị truy tố vì tội khai man. Những quyết định đó được đưa ra từ ngày 28/4 đến 13/9/1934. Trong số 17 nghi phạm thì 12 người đã thú nhận nhiều tội khác nhau trong cuộc điều tra của công tố viên. Việc công tố viên Kuroda bất ngờ chết ở tuổi 43 vào ngày 23/7 đã gây ra cho các công tố viên một sự căng thẳng lớn trong cuộc điều tra. Bước tiếp theo trong việc truy tố là trình bày các bằng chứng tại phiên tòa đánh giá sơ bộ. Không có gì bất ngờ, phiên tòa đánh giá sơ bộ đã chấp nhận quan điểm của công tố về vụ án. Ngoại lệ duy nhất là bác bỏ truy tố nghi phạm Takanashi Hiroji, một thanh tra của ngân hàng Kawasaki Daihyaku. [57]

Công chúng, tuy đã chai sạn trước các tin tức về sự vi phạm pháp luật của chính khách và doanh nhân, song cũng bị sốc nặng nề khi biết 5 viên chức Bộ Tài Chính bị cáo buốc nhận hối lộ. Aoki Kazuo, trưởng Ban Ngoại Tệ của Bộ Tài Chính, cho biết rằng chưa bao giờ có một vụ án hối lộ ở bộ - kể từ đó, sự mất niềm tin của nhân viên bộ và cú sốc của công chúng. [58]

Khai mạc Nghị Viện Đế Quốc vào ngày 31/11/1934, Iwata Chûzò, Thượng Viện, chất vấn chính phủ về việc xử lý các nghi phạm trong vụ Teijin. Ông ta hỏi tại sao các nghi phạm bị giam giữ khi không có nguy cơ bỏ trốn. Có phải việc giam giữ kéo dài được sử dụng để ép cung? Tạo sao một số nghi phạm bị còng tay nhiều ngày mỗi lẫn và do vậy không thể tự đuổi muỗi? Tại sao một số nghi phạm bị giam trong những căn phòng cực nhỏ (tức là chờ thẩm vấn) trong suốt nhiều ngày trước khi được thẩm vấn? Có phải đó là chiến thuật bẻ gãy sự kháng cự của nghi phạm? Hôm sau, bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara Naoshi phủ nhận cáo buộc cho rằng các công tố viên đã hành hạ các bị cáo. Lý do của việc sử dụng còng tay, Ohara nói, là lo ngại rằng nghi phạm bị giam sẽ tự tử; sự đối xử với các nghi phạm không nhằm mục đích ép cung. [59] Báo chí ở Osaka và Tokyo đăng những bài báo khó chịu đã phá hoại sự tin tưởng của công chúng đối với việc xử lý vụ án của Bộ Tư Pháp. Ví dụ, một tờ báo ở Osaka cho rằng các thẩm phán đánh giá sơ bộ đã cho rằng bằng chứng của công tố viên rất yếu. Tổng chưởng lý Hayashi Raisaburò cho rằng cần phải bác bỏ cáo buộc này. Một tờ báo ở Tokyo cho biết có tin đồn trên báo chí là các bị cáo đã bị ép nhận những tội không có cơ sở. [60] Vào ngày 23/1, Minobe Tatsukichi (Thượng Viện), giáo sư danh dự của Đại Học Đế Quốc Tokyo, đã hỏi bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara về việc vi phạm các quyền cá nhân của nghi phạm. Điều 194 của Luật Hình Sự, Minobe chỉ ra, quy định rằng việc viên chức chính quyền ép cung và các cách hành hạ nghi phạm khác đều là tội hình sự. Cho đến nay, Minobe nói, tin đồn về việc vi phạm quyền cá nhân của nghi phạm là đúng. Ví dụ, việc Okazaki “tự nguyện” có mặt ở Sở Cảnh Sát thành phố Osaka, tại đó ông ta bị giữ trong một phòng giam nhỏ cùng với bảy người khác ngay cả khi bị bệnh. Một tuần sau, ông ta được đưa đến Tokyo, một lần nữa dưới dạng “tự nguyện”. do không có lệnh chính thức nào, Minobe coi đây là sự giam giữ bất hợp pháp. Ai sẽ “tình nguyện” ở một nơi bẩn thỉu như vậy? ông ta hỏi. Minobe cũng yêu cầu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara giải thích về việc sử dụng còng tay. Có phải việc đó được thực hiện để khiến nghi phạm đau đớn về thể xác? Còn phòng giam đầy những rận của Nagano thì sao? Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara trả lời rằng các công tố viên đã hành động đúng đắn, nhưng ông sẽ điều tra về trường hợp Okazaki. Mọi cáo buộc về việc “tra tấn” các nghi phạm, bộ trưởng tin rằng, đều là sai lầm. Trả lời cáo buộc của Minobe về việc tài liệu của công ty Teijin đã bị thu giữ bất hợp pháp, Ohara khẳng định rằng các công tố viên chỉ mượn tài liệu của công ty (tức là “thu giữ tạm thời”) và Okazaki đã “tự nguyện” đi cùng các công tố viên. [61] 

Vào ngày 6/2, Iwata (Thượng Viện) lại một lần nữa đưa ra câu hỏi về sự vi phạm quyền cá nhân của nghi phạm. Theo lời khai của các nghi phạm, ông ta nói, công tố viên điều tra họ đã cáo buộc rằng doanh nhân phải chịu trách nhiệm về các chính khách tham nhũng và các hành động của Bộ Tài Chính trong vụ trốn thuế của Meitò là sai. [62] Công tố viên nói như sau: “Chúng tôi giữ anh, bị cáo, chẳng vì lý do gì hết. Có những người cấp cao hơn vẫn còn đang dấu mình, chúng tôi muốn đưa họ ra trước công lý. Mục tiêu của chúng tôi là thực hiện một cuộc đảo chính không đổ máu để thanh tẩy xã hội.” [63] Trong thời gian này, tờ Kobe Newspaper đã đăng một trích đoạn trong lời khai của Nagano. Công tố viên 
không bao giờ cho phép ông ta nói bất cứ điều gì ngoại trừ những từ thừa nhận cáo buộc ông ta đã đưa hối lộ 1.300 cổ phiếu. Ngay khi ông ta cố gắng phủ nhận cáo buộc, họ liền nạt nộ, “Đừng nói chuyện ngớ ngẩn!” Họ xô đẩy ông ta, ra lệnh cho ông ta phải đứng thẳng và…đấm vào mặt ông ta. Ông ta bị đẩy vào tường phía sau, trán và hàm của ông ta bị đẩy khiến cho phía sau gáy bị đập vào tường….[Một công tố viên sau đó nói,] “Một kẻ thấp kém như như mày nên chết đi thì hơn. Nhưng dĩ nhiên là mày không đủ can đảm để tự tử. Nếu mày không biết cách tự tử thì tao sẽ nói cho mày biết. Đập đầu vào tường đi, đó là cách tự tử đấy. Nào làm đi!” [64]
Tờ báo tiếp tục đưa tin, “Sau đó, ông ta bị còng tay (còng tay bằng da). Khi ông ta không cử động tay được….ông ta không thể đuổi muỗi và bọ chét. Ông ta hiếm khi ngủ được ban đêm….Một bạn tù nói với ông ta rằng họ trừng phạt ông ta bằng cách còng tay….Đôi lúc sau đó, một công tố viên, trong khi thẩm tra ông ta, đe dọa rằng nếu ông ta còn ngoan cố thì sẽ tiếp tục bị còng tay.” Do Nagano không nhận tội, ông ta đã được sang một phòng giam khác vào ngày 10/7. Phòng giam này “thực sự là một ổ rận. Khi ông ta ở bên trong, một đám bọ tấn công ông ta…và ông ta phải thức suốt đêm để chống lại chúng. Tình trạng này kéo dài khoảng một tháng.” [65] Tờ Japan Weekly Chronicle đưa tin rằng mặc dù một số cáo buộc về việc hành hạ nghi phạm có thể bị thổi phồng song cáo buộc của các luật sư bào chữa, một số người có ghế ở Quốc Hội, là sự thật: một số nghi phạm đã được xếp loại 3. “Các cáo buộc là khá rõ ràng và theo một mức độ tôn trọng nhất định thì không thể phản đối. Các bị cáo đã bị còng tay liên tục 48 giờ mỗi lần; những người khác đã bị nhốt trong các phòng giam đầy côn trùng và tất cả - cùng một thời gian hoặc khác – đều là đối tượng của các mánh khóe hành hạ tinh vi – chủ ý hay không – được tính toán để bẻ gãy sự kháng cự của họ và tạo ra các thú tội cần thiết, vốn là đặc trưng của thủ tục tố tụng hình sự Nhật Bản.” [66]

Phiên tòa công khai bắt đầu vào ngày 22/6/1935; Fujii Goichirò, từng đảm nhiệm việc xét xử nhóm Hiệp Ước Máu, là chánh tòa trong phiên tòa có ba thẩm phán. Các công tố viên Biwada, Hirata Susumu và một số đồng nghiệp khác đã đối mặt với một trung đội luật sư bào chữa do Imamura Rikisaburò, một luật sự xuất sắc có hơn 25 kinh nghiệm, dẫn đầu. Bốn trong số 16 bị cáo không ký biên bản nhận tội: cựu bộ trưởng Mitsuchi Òno, Aida và Shidomoto (nhân viên Bộ Tài Chính); họ kiên định phủ nhận việc đưa hoặc nhận hối lộ. Shimada, cựu chủ tịch của ngân hàng Taiwan, phản cung với lý do bị cưỡng bức và nói không biết gì về 1.300 cổ phiếu được đưa cho nhiều người. Một bị cáo khác cũng phản cung. Nam tước Nakashima thừa nhận đã nhận 10.000 yen nhưng khẳng định rằng đó là tiền quyên góp chính trị và không liên quan đến Teijin. [67]

Phiên tòa công khai trải qua 265 phiên xét xử ngoại trừ ngày 16/12/1937, ngày tuyên án. [68] Một nhiệm vụ chính của thẩm phán Fuji là xác định xem cổ phiếu của Teijin có được bán đúng giá không. Takagi cho rằng chúng đúng giá và không thể dự báo giá trị tương lai của cổ phiếu. Ông ta nói, cũng là hợp lý khi bán hàng trăm ngàn cổ phiếu cho nhóm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ-bông bởi vì khó có ai khác có thể gom được một số tiền lớn như vậy (12.500.000 yen). Hơn nữa, ngân hàng Nhật Bản đã thúc ép ngân hàng Taiwan phải trả nợ. Bởi vì chứng minh sự lạm dụng quyền hành ở phía người bán phụ thuộc vào việc Takagi và các nhân viên ngân hàng khác có thể dự báo được sự tăng vọt của giá cổ phiếu Teijin sau khi bán hay không, thẩm phán Fuji đã tra hỏi Takagi trong một phiên xét hỏi sau những người khác. Khi Fuji chỉ ra rằng Takagi đã thú nhận, Takagi trả lời rằng công tố viên Kuroda đã khủng bố ông ta. Kuroda, bị cáo nói, đã có định kiến là giới tài phiệt cấu kết với chính khách và ngay cả Bộ Tài Chính cũng tham nhũng. Ông ta nói, Kuroda trích dẫn ví dụ về vụ trốn thuế của Meitò. Bên cạnh sự hăm dọa liên tục, Takagi khẳng định rằng ông ta bị còng tay trong ba ngày đêm. Cuối cùng, để thoát khỏi những đau đớn thể xác và tinh thần, ông ta đã đồng ý với bất cứ điều gì Kuroda nói. Con số 1.300 cổ phiếu, ông ta cho biết, là do một công tố viên đưa ra. Fuji hỏi tại sao Takagi không phản cung ở phiên đánh giá sơ bộ. Takagi trả lời rằng thẩm phán đã không nghe. [69]

Suzuki Yoshio, luật sư trưởng của Takagi, nói với tòa án rằng thân chủ của ông đã bị hành hạ tại nhà tù thành phố Osaka. Ví dụ vào sáng ngày 7/4, một lính gác quật ngã ông ta xuống mặt sàn cứng và đá ông ta, công tố viên gọi ông ta là tham nhũng. Cảng sát đối xử với ông ta giống như những kẻ móc túi hay trộm cắp thông thường, giam ông ta trong một phòng giam nhỏ với hơn mười kẻ lang thang đầy chấy rận. Takagi, luật sư nói, không đủ tinh thần để chịu đựng sự đối xử kiểu này. Do các hành hạ tinh thần và thể chất đó, Takagi đã thú nhận bất cứ điều gì mà công tố viên nói. Sự dại dột của Takagi, Suzuki nói, là nghĩ rằng sự hợp tác sẽ giúp ông ta được về nhà. Trái lại, ông ta bị chuyển tới nhà tù ở Tokyo. Suzuki cho biết rằng nững người khác cũng nhận tội, nhưng chỉ ra rằng tất cả đều đã phải ngồi tù từ 100 đến 200 ngày. Khi họ không trả lời đúng, họ bị trừng phạt bằng cách còng tay. [70]

Ngay giai đoạn đầu của phiên tòa, các bị cáo đã lật ngược thế cờ và đẩy công tố viên lên vành móng ngựa. Ví dụ, trong một buổi thẩm vấn, “Takagi đã quay sang công tố viên Biwada và hét lên rằng ông ta sẽ không bao giờ quên sự hành hạ đối với đôi tay của mình ở Osaka. Khi ông ta tiếp tục la hét, tòa án đã cảnh cáo bị cáo….Ngài Takagi nói với tòa rằng trong đời mình ông chưa từng trải qua bất thứ gì giống như sự hành hạ của công tố viên.” Takagi khẳng định rằng họ buộc ông phải nói “những điều ông biết là sai”. Trong một phiên xét xử khác, Shimada đã lên án các công tố viên đầy khinh miệt. Khi được hỏi tại sao ông lại dùng những từ ngữ lỗ mãng như vậy, Shimada trả lời rằng các công tố viên đã nhục mạ ông ta trong khi thẩm vấn bằng cách la hét, đập bàn, dậm chân xuống sàn và gọi ông ta là quân phản bội. [71]

Suốt phiên tòa, Shimada đã ủng hộ sự đấu tranh của Takagi rằng giá cổ phiếu là phù hợp và không thể dự báo về sự biến động tương lai của giá cổ phiếu. Hơn nữa, ông ta chỉ ra rằng ngay vào năm 1931 chính phủ đã thúc ép ngân hàng Taiwan bán cổ phiếu. [72]

Phiên tòa đầy bê bối đã trôi đi như vậy, lần lượt từng bị cáo phản cung và tố cáo sự hành hạ của các công tố viên. Các sự lên án đầy khinh miệt đối với công tố cũng đến từ Quốc Hội. Ví dụ, Makino Ryòzò (Seiyûkai) đã cáo buộc công tố viên nói chung “lạm dụng quyền lực công…Thời gian giam giữ quá dài….Hiện nay, hầu hết các trường hợp là 100 đến 200 ngày. Khi mà các nghi phạm là nhân vật của công chúng thì thời gian giam giữ có khuynh hướng kéo dài.” [73] Makino tiếp tục chỉ ra rằng các nghi phạm bị giam giữ lâu sẽ trả lời theo yêu cầu của công tố viên. Ông chỉ ra các báo cáo về viên chức cấp cao của Bộ Đường Sắt, bị bắt giữ năm trước, vẫn tiếp tục bị thẩm vấn vì không chịu nhận tội. [74] Tờ Japan Weekly Chronicle, được khuyến khích bởi chất vấn của Makino, đã đưa tin như sau: “Ở đây, ngài Makino đã nhắc đến sự lạm dụng phổ biến nhất…. Khi bị bắt giữ, một nghi phạm không có cơ hội được tự do cho đến khi cả cảnh sát và công tố viên hài lòng với việc điều tra, lấy được từ anh ta mọi thứ anh ta biết về tội lỗi….Vụ bê bối Teijin…cho thấy một ví dụ nổi bật.” Nghi phạm trong vụ án này, tờ báo viết, “bị giam giữ ở nhà giam của cảnh sát, không được phép gặp luật sư, trong thời gian dài…Cuối cùng họ được tại ngoại sau khi đã ký các bản cung khai.” Tại tòa, các bị cáo giải thích rằng “chỉ có ký đơn nhận tội thì họ mới được nghỉ ngơi trong cuộc điều tra sẽ hủy hoại sức khỏe của họ.” [75] 

Điều kỳ lạ nhất trong phiên tòa này là sự xuất hiện của thẩm phán phiên đánh giá sơ bộ Morozumi Seiei với tư cách nhân chứng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sự Nhật Bản một thẩm phán đánh giá sơ bộ phải tuyên thệ làm nhân chứng. Chánh tòa Fuji gọi Morozumi ra tòa để giải đáp câu hỏi về một văn bản được trao đổi giữa Nakajima và Nagano. Đây là một yếu tố pháp lý quan trọng, do sự trao đổi thông tin giữa hai nghi phạm trong phiên đánh giá sơ bộ là bất hợp pháp. Thẩm phán Fuji hỏi, “Vào ngày 22/7/1934, khi ông phụ trách vụ án này, ông có nhận được yêu cầu của công tố viên cho về việc cho phép trao đổi văn bản giữa hai bị cáo, có nghĩa là trao một lá thư do nam tước Nakashima viết cho Nagano, thúc giục Nagano xác nhận với công tố viên rằng ông ta nhận 200 cổ phiếu của Teijin (như là quà tặng của ngân hàng) từ Nagano?” [76] Morozumi trả lời tốt hơn cả là ông ta sẽ nộp câu trả lời bằng văn bản. Những câu hỏi được thẩm phán Fuji lặp lại đều không nhận được câu trả lời của Morozumi. Kịch bản này được lặp lại ở phiên xét sử thứ hai, Morozumi khẳng định rằng ông ta không được phép đưa ra các bằng chứng. Để giải quyết vấn đề này, thẩm phán Fuji yêu cầu và nhận được từ Tòa án Hình Sự Tokyo hồ sơ đánh giá sơ bộ của Morozumi. Fuji đọc báo cáo này để lưu vào hồ sơ phiên tòa. Theo bản báo cáo, Morozumi khẳng định rằng ông ta đã bác bỏ yêu cầu của công tố viên Kuroda về việc đưa một văn bản do một bị cáo viết cho một bị cáo khác. Kuroda không thể bị thẩm vấn do ông ta đã chết, nhưng các công tố viên Biwada và Hirata khẳng định rằng Morozumi đã cho phép, nói thêm rằng dĩ nhiên ông ta đã quên. Cuối cùng, Morozumi xuất hiện tại tòa án lần thứ ba; một lần nữa ông ta phủ nhận việc đã cho phép trao đổi văn bản. Cuộc nội chiến giữa các viên chức tư pháp đã khiến Bộ Tư Pháp bối rối và là một thuận lợi rõ ràng cho nhóm bào chữa. [77] Một tờ báo đưa tin, “Xung đột hiện nay là một trong những câu hỏi pháp lý nghiêm trọng nhất trong lịch sử Tòa Án của đất nước này. Cho rằng nhân chứng có thái độ chống lại các điều khoản của Luật Tố Tụng Hình Sự, các luật sự biện hộ cho bị cáo đã yêu cầu Tòa Án có các hành động quyết liệt đối với ông ta.” [78] Hiệp Hội Luật Sư Đế Quốc cũng ủng hộ nhóm biện hộ, đã gửi một nghị quyết lên án cho bộ trưởng Bộ Tư Pháp Shiono. [79]

Vào giai đoạn sau của phiên tòa, công tố viên Hirata tuyên bố rằng cáo buộc về tra tấn “hoàn toàn không có cơ sở. Việc các bị cáo phủ nhận sự truy tố không phải là bất thường…nhưng việc tất cả các bị cáo đều chỉ trích và lăng nhục các công tố viên trong suốt các phiên thẩm vấn là chưa từng được thấy. Song tất cả các cáo buộc này đều không có cơ sở và các công tố viên không hề bức cung.” [80]

Trong phiên thẩm vấn cuối cùng, công tố viên yêu cầu những bản án như sau: Mitsuchi, khai man, 6 tháng tù; Nakajima, nhận hối lộ, 1 năm tù; Kuroda, nhận hối lộ, 2 năm tù; Òkubo, nhận hối lộ, 10 tháng tù; Òno, nhận hối lộ, 8 tháng tù; Aida, nhận hối lộ, 8 tháng tù; Shidomodo, nhận hối lộ, 6 tháng tù; Shimada, lạm quyền và hối lộ, 2 năm; Takagi, lạm quyền và hối lộ, 2 năm tù; Nagano, lạm quyền và hối lộ, 2 năm tù; Yanagida, lạm quyền và hối lộ, 1 năm tù; Nagasaki, lạm quyền và hối lộ, 10 tháng tù; Koshifuji, lạm quyền và hối lộ, 6 tháng tù; Ozaki, lạm quyền và hối lộ, 6 tháng tù; Kobayashi, lạm quyền và hối lộ, 6 tháng tù; Kawai, lạm quyền, 14 tháng tù. [81]


Phiên tòa Teijin trải qua 265 phiên xét xử (công thêm phiên cuối cùng để tuyên án) đã trở thành kỷ lục của tòa án. [82] Thẩm phán Fuji đọc lời tuyên án, giống như một cú tát mạnh vào mặt các công tố viên, vào ngày 16/12/1937. Fuji chỉ trích các bằng chứng của họ giống như “một nỗ lực vớt trăng dưới đáy nước.” [83] Hầu hết những người có mặt tại phòng xử án đều hiểu rằng thẩm phán muốn nhắc tới bức tranh vẽ cảnh một con khỉ bám trên một cành cây đang cố múc lấy hình ảnh mặt trăng phản chiếu trên mặt nước. [84] Tại một cuộc họp báo, thẩm phán Fuji tuyên bố rằng phán quyết là trắng án, bởi vì “không có hành vi phạm tội nào tồn tại” (hanzai no jijitsu ga sonzai shinai). Ông ta nói, “Đặc biệt, tôi hy vọng rằng các vị sẽ không nhầm lẫn về điều này.” [85]

Theo hồi ký của Matsuzaka Hiromasa (trưởng Cục Tội Phạm), bản án của tòa là một đòn nặng đối với công tố và các công tố viên muốn kháng án. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Shiono Suehiko (2/1937 – 8/1939) ra lệnh cho Matsuzaka nghiên cứu kỹ lưỡng về vụ án và đưa ra khuyến nghị vào ngày 23/12, ngày cuối cùng trong thời hạn kháng án. Vào ngày 22/12, Shiono nói với Matsuzaka rằng ông ta sẽ không kháng án bởi vì ông ta cảm thấy rằng không thể thắng vụ án này. Công việc tiếp theo của Matsuzaka là trấn an các công tố viên của Tòa Án Quận Tokyo. Ngày hôm sau, Shiono họp với Tokunaga Eikichi (chưởng lý của Tòa Án Quận Tokyo), tổng chưởng lý Motoji Shinkuma và một số người khác cũng có mặt. Một viên chức nói rằng tất cả các công tố viên đều cho rằng các bị cáo có tội và cần phải kháng án. Tokunaga, rất tức giận vì bản án (dĩ nhiên ông ta cho rằng các công tố viên bị so sánh với khỉ!), đã yêu cầu kháng án. Motoji cho rằng bỏ đi những yếu điểm của cáo trạng và củng cố các điểm khác sẽ giúp kháng án thành công. Không ai trong phòng họp có thể chắc chắn về thắng lợi. Shiono quyết định không kháng án. [86]

Cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara (trong nội các của Okada Keisuke, 7/1934 – 3/1936) viết trong hồi ký là vụ án Teijin đã cho thấy xung đột giữa các viên chức tư pháp. Một mặt, ông ta thừa nhận rằng các công tố viên có nhiều sai lầm trong điều tra; mặt khác, ông ta lại cho rằng tòa án đã phán quyết sai. Không may là tòa án chịu ảnh hưởng quá nhiều từ lời khai của bị cáo và tin tức báo chí. Ohara viết, vụ án nên được kháng án. [87] Thêm vào đó, Ohara viết, “Khi nghĩ lại về hành động của ngài Mitsuchi, tôi ngạc nhiên là không có cách nào xử lý vấn đề tốt hơn.” [88] Trên thực tế, Ohara ở vị thế có thể làm điều gì đó về vấn đề Mitsuchi. Trước khi mở phiên tòa, thủ tướng Okada đã cố gắng giải quyết vấn đề về Mitsuchi bằng cách hỏi Ohara xem có thể làm gì với cáo trạng của Mitsuchi. Ohara hiểu rằng thủ tướng đã suy nghĩ từ lâu về việc hủy bỏ cáo trạng (cách đã được dùng để giảm nhẹ sự hạ nhục đối với bộ trưởng Bộ Nội Vụ Òura Kanetake vào năm 1915), nhưng Ohara không có khả năng hủy bỏ việc truy tố cũng như không muốn làm việc đó. [89] Dĩ nhiên Ohara không có bụng dạ nào để chống lại các công tố viên hung hãn và những người ủng hộ họ ở các vị trí cao trong Bộ Tư Pháp. 

Biên tập viên hồi ký của Ohara (có lẽ là Kaji Kòichi, một nhà báo đảm nhiệm việc đưa tin về vụ Teijin) viết rằng các công tố viên vào lúc đó ít hiểu biết về cổ phiếu và trái phiếu và do vậy họ đã mắc sai lầm. Tuy vậy, bằng chứng cho thấy tiền được trao đổi liên quan đến vụ Teijin cũng có đủ. Ông ta chỉ ra rằng, Nakajima đã nhận tội trước khi bị bắt giữ. Điều đó thật khó tin, Kaji viết, một doanh nhân và chính khách lọc lõi như Nakajima sẽ không nhận tội trừ khi cáo buộc có bằng chứng thực sự. Hơn nữa, công tố viên phải tập trung vào cáo buộc lạm quyền thay vì cáo buộc tham nhũng. Kaji kết luận rằng hành động của cả công tố viên cũng như các bị cáo đều làm vấy bẩn sự thật. [90] 

Hồi ký của bộ trưởng Bộ Tư Pháp Shiono về vụ án Teijin bắt đầu bằng bình luận là mặc dù ông ta hoàn toàn đứng ngoài cuộc, song bốn ngày xem lại tài liệu của vụ án đã cho ông ta thấy rằng việc bắt giữ và cáo trạng đối với các bị cáo là chính xác. Tuy vậy, “giác quan thứ sáu” của Shiono mách bảo với ông ta rằng cáo cáo buộc có một nửa là sự thật và một nửa là tưởng tượng. Khi quyết định không kháng án, Shiono đã cân nhắc đến cuộc chiến tranh với Trung Quốc (từ tháng 7/1937) và thiệt hại đối với uy tín của công tố viên. Do vậy, ông ta cho rằng tốt nhất đối với Bộ Tư Pháp và quốc gia là bỏ qua vụ việc phức tạp này. Vào ngàu 23/12, Shiono thông báo vụ án Teijin đã kết thúc. [91] 

Trong một bài phỏng vấn thời hậu chiến, thẩm phán Fuji được hỏi về những sai lầm của viên chức tư pháp. Ông ta trả lời rằng các công tố viên đã không chuẩn bị chu đáo và thiếu sự thống nhất trong mục tiêu. Các thẩm phán đánh giá sơ bộ cũng vậy, đã gia tăng thêm sự hỗn loạn bằng những sai lầm. Trong một số trường hợp, bằng chứng về việc các nghi phạm gặp nhau là không chính xác. Trên hết, Fuji cho rằng rất nhiều vấn đề phát sinh từ sự điều tra không hợp lý. Hơn nữa, rõ ràng là công tố viên không hiểu vấn đề chủ chốt của phiên tòa: việc bán cổ phiếu. Hai quan tòa đồng sự, Fuji cho biết, hoàn toàn đồng ý rằng bằng chứng không ủng hộ cho công tố viên. Do vậy, việc tuyên trắng án là dễ hiểu. Khi được hỏi về tuyên bố nổi tiếng về con khỉ và mặt trăng, Fuji nói rằng điều đó được thẩm phán Ishida Kazuto viết. Do ba quan tòa chia nhau viết bản án nên tuyên bố ấy có tạo ra một chút ngạc nhiên, nhưng các quan tòa quyết định không xóa bỏ nó, mặc dù họ biết rằng các công tố viên sẽ cảm thấy bị xúc phạm. [92] 

Chánh tòa đánh giá sơ bộ Morozumi, được phỏng vấn sau chiến tranh, đã lặp lại lời khai trước tòa: Ông ta không được phép trả lời câu hỏi của thẩm phán Fuji. Do vậy, Fuji nên đọc báo cáo. Khi được hỏi về yêu cầu của công tố viên Kuroda về việc cho phép trao đổi văn bản giữa hai bị cáo, Morozumi trả lời rằng ông ta không đồng ý. Ông ta kết luận rằng mình đã hành động đúng. [93]

Imamura Rikisaburò, luật sư cao cấp của phiên tòa, đã chỉ ra trong một văn bản có tại trụ sở của Minseitò vào năm 1937 rằng công tố viên ngày càng thống trị các vụ án chính trị và chèn ép quan tòa. Khuynh hướng này bắt đầu từ vụ High Treason (1910 – 1911) và được thể hiện đầy đủ trong vụ Teijin. Imamura đặc biệt chú ý tới công tố viên của Tòa Án Quận Tokyo, nói rằng từ khoảng năm 1929, họ đã có ý định phá hủy nội các bằng quyền lực công tố. Vụ án Teijin là kết quả của chiến dịch. Ông ta cho rằn vấn đề này có thể giải quyết được bằng cách khôi phục quyền lực của thẩm phán và thúc giục các thẩm phán, công tố viên và cảnh sát không chỉ chú ý tới luật pháp mà còn phải chú ý tới trách nhiệm về đạo đức. [94] Trong cuốn Thảo Luận về Vụ Án Teijin (Teijin jiken benron), được Imamura xuất bản tư nhân vào tháng 12/1937, ông ta tiếp tục lên án công tố viên Tokyo. Ngoài việc đề cập tới lá thư mà Wakatsuki gửi cho Kusumi yêu cầu quyên góp, do ai đó tiết lộ ra ngoài, ông ta cũng cáo buộc rằng trong vụ án của Kobashi các công tố viên đã ép bị cáo Kusumi thay đổi ngày tháng trong lời khai để lôi kéo Kobashi vào. Hơn nữa, ông ta nhắc lại việc các bị cáo trong vụ Teijin nghe thấy công tố viên nói rằng doanh nhân và chính khách đều tham nhũng và nhiệm vụ của các công tố viên không thể bị mua chuộc là xóa sổ những kẻ tham nhũng khỏi xã hội. [95]

Bị cáo Kawai Yoshinari viết trong hồi ký của ông ta là công tố viên đã ép cung Takagi và Kuroda. Takagi ký vào bản cung khai để thoát khỏi điều kiện giam giữ tồi tệ và các cuộc thẩm vấn bất tận. Tất cả những gì ông ta nghĩ tới là được trở về nhà. Phải nằm viện vì những vết lở loét là dấu hiệu cho thấy sự căng thẳng của Takagi. Cũng như đối với Kuroda, Kawai cho rằng một người nghiện rượu nặng như thứ trưởng, một tháng không được uống rượu cùng với điều kiện giam giữ tồi tệ và các cuộc thẩm vấn đã buộc ông ta phải nhận tội bừa. [96]

Nhà báo Nonaka Moritaka, theo sát toàn bộ phiên tòa, lên án các công tố viên về việc tạo ra một vụ án chính trị nghiêm trọng gây xáo trộn xã hội. Ông ta viết, chính quyền nên điều tra vụ án này đề cho công chúng biết ai phải chịu trách nhiệm. [97]

Tờ Japan Weekly Chronicle bình luận, “Sự quan trọng thật sự của phiên tòa đối với chúng ta không phải là một nhóm luật sư bào chữa xuất sắc…có mặt tại tòa…mà là việc tòa án tin vào lời khai trực tiếp của các bị cáo, trái ngược với các bản cung khai đã được ký tên….Tòa án không tin vào các bằng chứng của việc đánh giá sơ bộ…cuối cùng đã cho thấy một điều rất đặc biệt.” Tờ báo tiếp tục, “Có một số ví dụ cho thấy Tòa Án Quận đã lưỡng lự khi chấp nhận các quan điểm của công tố, nhưng không bao giờ quả quyết và công khai như trong vụ án Teijin. Sự phản đối cho rằng các cáo buộc sai được đưa ra do một số viên chức nhất định không chịu nghe lời khai khác và bởi vì các bị cáo bị hành hạ trong tù…đã được điều tra….” Tuy vậy, tờ báo viết, thẩm phán Fuji không nhắc hay ám chỉ tới các cáo buộc bị hành hạ trong tù của các bị cáo.” [98] Trái lại, Fuji tập trung vào sự thiếu bằng chứng đối với tội lạm quyền và hối lộ.” 

Sự kết thúc của phiên tòa không chấm dứt sự chỉ trích đối với Bộ Tư Pháp. Các chính khách ở cả hai đảng lớn đều lên án công tố viên vi phạm quyền cá nhân của bị cáo trong vụ Teijin cũng như các vụ án khác. Chính phủ cần phải làm gì để thay đổi tình trạng này? Ai phải chịu trách nhiệm về những sai lầm trong vụ Teijin? Họ cũng hỏi tại sao chưởng lý Iwamura lại được thăng cấp làm thứ trưởng thay vì bị buộc phải từ chức. [99] Tại cuộc họp của ủy ban ngân sách của Quốc Hội vào ngày 2/2/1938, Shiono đã bị lên án vì phát biểu sau phiên tòa (trong một cuộc họp báo chi) rằng ông ta hy vọng rằng các bị cáo đã học được một bài học và sẽ cư xử tốt hơn trong tương lai. [100] Shiono trả lời rằng ông ta “luôn luôn cho rằng bản án được tuyên…là đúng đắn. Vào lúc đó, các công tố viên liên quan sốt sắng muốn kháng án, nhưng ông ta đã khiến họ đổi ý. Bộ trưởng tuyên bố rằng ông ta tin tưởng sự thật đã được thể hiện trong bản án. Ông ta phủ nhận khi một bản tin báo chí chưa được tìm thấy mô tả ông ta thể hiện sự bất bình với bản án.” [101] Mặc dù tuyên bố này đã làm hạ nhiệt của Bộ Tư Pháp song nó chỉ là một nửa sự thật. Như hồi ký của Shiono đã cho thấy, ông ta không chấp nhận tất cả “sự thật” trong bản án của Fuji; Shiono cho rằng một số bị cáo có tội. Vào ngày 1/3/1938, Seiyûkai và Minseitò đưa ra một kiến nghị chung yêu cầu chính phủ cải cách hệ thống truy tố hình sự. Trong cuộc tranh luận về kiến nghị, được áp dụng với đa số lớn, nó đã chỉ ra rằng không có viên chức tư pháp nào phải chịu trách nhiệm về vụ án Teijin và từ chức. [102] Yêu cầu cải cách tư pháp đã thúc đẩy Bộ Tư Pháp và một số hiệp hội luật sư thành lập các ủy ban điều tra, nhưng sự mở rộng của chiến tranh với Trung Quốc đã thu hút sự chú ý sang hướng khác và không có sự thay đổi nào trong hệ thống tư pháp. [103]

Khó có thể đánh giá được mức độ tổn hại của vụ Teijin đối với các bị cáo và viên chức tư pháp, song rõ ràng là một số người có tình hình tốt hơn những người khác. Nam tước Nakajima và cựu thứ trưởng Kuroda được bổ nhiệm làm thượng nghị sĩ. Mặc dù Nakajima tránh chính trị và tài chính sau khi va chạm với pháp luật song ông ta cũng trở thành chủ tịch của Hiệp Hội Thương Mại Quốc Tế Nhật Bản. Vào ngày 29/1/1938, Mitsuchi được nhận huân chương Mặt Trời Mọc hạng nhất. Huân chương cao quý này được trao vào ngày 29/4/1935, nhưng bị thu lại cho đến khi vụ án kết thúc. Mitsuchi là bộ trưởng không bộ trong nội các đầu tiên của Konoe Funimaro (6/1937 – 1/1939) và vào năm 1940 ông ta tham gia Hội Đồng Cơ Mật. Sau chiến tranh, ông ta giữ hai chức bộ trưởng dưới thời nội các Shidehara Kijûrò (10/1945 – 5/1946). Cựu viên chức công ty Teijin Kawai Yoshinari và Nagano Mamoru cũng giữ chức trong nội các thời hậu chiến. Trong thời hậu chiến, Kobayashi trở thành chủ tịch đầu tiên của ngân hàng Phát Triển Nhật Bản và là một nhân vật quyền lực trong giới thống trị cả chính quyền lẫn kinh doanh. Nagano trở thành một người môi giới nổi tiếng của thế giới chính trị ngầm. Shòriki giữ chức bộ trưởng trong nội các đầu tiên của Kishi Nobusuke (2/1957 – 6/1958). Tình hình của các viên chức cấp thấp trong Bộ Tài Chính không tốt. Ví dụ, Òno và Aida được tái bổ nhiệm, Aida là thanh tra ngân hàng và Òno là đặc phái viên tài chính về Trung Quốc. Vị trí đặc phái viên đã bị bỏ trống nhiều năm, có lẽ Òno bị thuyên chuyển sang một công việc không có tương lai. Về phía viên chức Bộ Tư Pháp, cựu bộ trưởng Ohara được bổ nhiệm vào Thượng Viện vào ngày 2/9/1936. Ohara không nhận được huân chương Mặt Trời Mọc hạng nhất, cho đến gần ba mươi năm sau khi nghỉ hưu; dĩ nhiên vinh dự này bị trì hoãn do vụ truy tố Teijin. Ông ta làm bộ trưởng trong một thời gian ngắn vào năm 1954 (nội các thứ năm của Yoshida Shigeru). Sự nghiệp của cựu chưởng lý Iwamura Michiyo không bị ảnh hưởng: ông ta trở thành bộ trưởng Bộ Tư Pháp của nội các Tòjò Hideki (10/1941 – 7/1944). Trong thời gian đó, ông ta nhận được huân chương Bảo Vật Thiêng Liêng hạng nhất. Sau khi ông ta chết vào năm 1965, huân chương Mặt Trời Mọc được trao cho gia đình. Tình hình của cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp thì cũng không tốt, chỉ nhận được huân chương Bảo Vật Thiêng Liêng hạng hai, vào tháng 3/1937. [104] 

Hơn một năm sau khi bản án của vụ Teijin được đưa ra, độc giả báo chí được biết đến một vụ án hối lộ chính trị quan trọng khác, vụ này liên quan đến cựu bộ trưởng Đường Sắt Uchida Nobuya. Uchida, được bầu vào Hạ Viện trong mọi cuộc bầu cử kể từ năm 1924, là một doanh nhân nổi tiếng. Chính trị là sự nghiệp thứ hai; sau khi ông ta trở nên giàu có trong công nghiệp đóng tàu, Hara Kei đã kết nạp ông ta vào Seiyûkai sau thế chiến thứ I. [105] Uchida giữ chức bộ trưởng trong nội các Okada, đã có nhiều nỗ lực lớn để thanh tẩy bầu cử và làm trong sạch chính trị nói chung. 

Từ lâu trước khi Uchida trở thành bộ trưởng, “hội ý tham nhũng” (dangò oshoku) đã tồn tại trong các công ty xây dựng nộp hồ sơ đấu thầu các dự án của Bộ Đường Sắt. Nực cười là nỗ lực bài trừ tham nhũng ở bộ lại dẫn đến cáo trạng hối lộ của ông ta. Ngay sau khi nhậm chức, ông ta đã thanh lọc các nhân viên bị nghi là tham gia vào hoạt động tham nhũng và cố gắng mở cửa quy trình đấu thầu cho nhiều doanh nghiệp hơn. Trong số những người bị thiệt hại do cải cách này có Maeda Eijirò, người đứng đầu Dobokugyò, một hiệp hội của các nhà thầu được cấp phép. Khi bị cắt đứt khỏi nguồn thông tin ở Cục Xây Dựng của bộ, Maeda tìm kiếm sự hợp tác của Uchida. [106] 

Đảm nhận công việc lấy cảm tình của Uchida là Tobishima Bunkichi, chủ tịch của tập đoàn Tobishima và là cựu thượng nghị sĩ. Tobishima là một trong số các doanh nhân tìm kiếm cảm tình của Uchida ngay sau khi quyết định bổ nhiệm Uchida được công bố. Trong các cuộc viếng thăm của Tobishima tại nhà riêng của Uchida, các cuộc thảo luận đều là về các chủ đề chung; không có gì về đấu thầu xây dựng hay hợp đồng. Sau khi Tobishima biết rằng Uchida có kế hoạch thành lập một chính đảng mới, ông ta gom 50.000 yen từ Maeda và những người khác với kế hoạch quyên góp chính trị cho Uchida thông qua Nanba Kiyohito, một hạ nghị sĩ và là cánh tay phải của Uchida. Bên cạnh khoản đóng góp này cho Uchida, các nhà thầu cũng đóng góp vài trăm ngàn yen cho các ứng cử viên bầu cử cấp quận và tổng tuyển cử. [107] 

Các công tố viên cáo buộc rằng Tobishima đưa tiền cho Nanba tại một quán trà ở Asakusa, yêu cầu Nanba thúc giục Uchida đáp ứng lợi ích của nhóm Maeda. Hơn nữa, công tố viên nói, sau khi Uchida nhận được tiền, các lệnh cấm đối với nhóm Maeda đã bị bãi bỏ. Điểm chủ chốt trong phiên tòa, bắt đầu vào ngày 5/4/1938 và kéo dài đến khi tuyên án vào ngày 25/7/1939, là Uchida có thực sự nhận được tiền không. Ba thẩm phán được chọn tin vào lời khai của Nanba, ông ta đã đưa tiền cho Uchida. Do đó, cựu bộ trưởng bị tuyên án 8 tháng tù và bị phạt 50.000 yen. Nanba nhận án bốn tháng tù. Cả hai người đều được hoãn thi hành án một năm. Uchida, quyết liệt phản đối cáo trạng suốt phiên đánh giá sơ bộ và phiên tòa công khai, đã kháng án. [108] 

Các thẩm phán tòa phúc thẩm đã bác bỏ bản án sơ thẩm. Trong bản án được tuyên vào ngày 26/10/1940, họ viết rằng bị cáo có sự nghiệp chính trị lâu dài và chưa bao giờ liên quan đến tham nhũng và ông ta cũng được coi là một viên chức không thể bị mua chuộc khi thực hiện các quy định của chính quyền. Hơn nữa, khi giao dịch với các doanh nhân, ông ta không thảo luận về công việc của bộ; gia đình ông ta được lệnh không nhận quà tặng. Tòa án kết luận rằng việc cựu bộ trưởng nhận hối lộ là không thể tin được. [109] 

Uchida trình bày quan điểm về những sự kiện đó trong một cuốn sách thời hậu chiến. Tobishima đưa tiền và Uchida khẳng định rằng ông ta không nhận. Sau đó Tobishima bàn bạc với Nanba, người này nhận tiền. Một phần của khoản tiền đó được đưa cho các viên chức quận và một phần được sử dụng để thanh toán cho các hóa đơn của Nanba ở nhiều khách sạn của Akasaka. Trong cuộc điều tra của cảnh sát, viên chức khẳng định rằng Nanba phải chuyển khoản tiền đó, cho biết rằng nếu ông ta không chuyển tiền thì sẽ bị buộc tội lừa đảo. Viên chức cảnh sát nhấn mạnh là tội lừa đảo phải nhận hình phạt nặng hơn tội trợ giúp hối lộ. Dưới sức ép đó, Nanba đã thay đổi lời khai. Như Uchida viết trong cuốn sách này, một vụ án hối lộ thời hậu chiến là trung tâm sự chú ý của báo chí. Công tố viên Baba Yoshitsugu, thảo luận vụ án với các nhà báo, đã so sánh vụ án với một vụ hối lộ chính trị thời tiền chiến. Trong vụ án kia tiền không được chuyển, nhưng trong vụ án này thì tiền đã được chuyển. Uchida cũng nhắc đến Baba, trưởng nhóm công tố. [110] Bình luận của công tố viên trong một bản tóm tắt đã giải thích lý do các quan tòa phúc thẩm bác bỏ bản án sơ thẩm: công tố viên không chứng minh được Uchida đã nhận tiền.

Nỗ lực thanh tẩy các chiến dịch bầu cử của chính phủ, bắt đầu dưới thời nội các Saitò và Okada, đã không được kiểm tra trong 5 năm tại cấp bầu cử quốc gia sau năm 1937. Sau đó, vào năm 1942, cuộc bầu cử Hạ Viện duy nhất trong thời chiến được tổ chức. Nhân viên chính phủ tuyên truyền về một cuộc bầu cử trong sạch và đặc biệt nỗ lực bài trừ các vi phạm bầu cử. [111] Đây là một cuộc bầu cử kỳ lạ, các ứng cử viên tranh cử mà không có liên kết đảng phái; đó là chính trị không có đảng phái! Dưới sức ép thời chiến và lời kêu gọi đoàn kết quốc gia, tất cả các đảng phái đã bị giải tán vào giữa năm 1940. Vào ngày 12/10/1940, Hiệp Hội Hỗ Trợ Cai Trị Đế Quốc (IRAA) được chính phủ thành lập thay cho các tổ chức chính trị cũ. Bố già của siêu tổ chức có nhiệm vụ hoàn thiện thống nhất quốc gia này là Konoe Fumimaro. Mặc dù hầu hết các lãnh đạo đảng phái cũ đều tham gia IRAA song Hạ Viện vẫn tiếp tục hoạt động. Cuối cùng IRAA đã không trở thành một tổ chức chính trị quần chúng; các đảng chính trị bị xóa bỏ vẫn cho thấy sức sống đáng kể và các kịch bản chính trị cũ vẫn diễn ra. [112] Các lãnh đạo ở Hạ Viện vẫn giữ đặc quyền “đóng vai trò là phương tiện riêng để đại diện chính trị cho dân chúng. Với vai trò người môi giới chính của Hạ Viện trong cuộc tranh luận với chính phủ về lập pháp và đề xuất ngân sách, họ vẫn tiếp tục sử dụng thành công các đòn bẩy chính trị để giành được những nhượng bộ của nội các.” [113] Sự ít thay đổi trong bản chất của chính trị cũng được thể hiện vào ngày 30/4/1942, bầu cử Hạ Viện, được gọi là bầu cử Tòjò. 

Tòjò cùng với các sĩ quan quân đội khác hy vọng sẽ chôn vùi các chính khách dòng cũ trong cuộc bầu cử năm 1942. Cử tri được yêu cầu chỉ ủng hộ các ứng cử viên nhận được sự đề cử của chính phủ. Mặc dù số lượng các khuôn mặt mới trúng cử cao hơn các cuộc bầu cử trước song chỉ có một chính khách lớn mất ghế. Do vậy, ngay giữa những cấp bách của thời chiến, nỗ lực bẻ gẫy sự liên hệ giữa chính khách với sự ủng hộ địa phương của họ cũng như quét sạch sự thống trị chính trị cũ đã thất bại. [114] Có vẻ như việc mua phiếu bầu và các dạng tham nhũng khác đã giảm, nhưng theo khía cạnh nào đó thì cuộc bầu cử này là điển hình. Ví dụ, chính phủ sử dụng cảnh sát đề gây sức ép với cử tri (sức ép của cảnh sát là không đồng nhất do phụ thuộc vào thái độ của các viên chức quận); tiền phi pháp cũng có vai trò (một quỹ bí mật của quân đội lên đến 10 triệu yen được sử dụng để trợ cấp cho các ứng cử viên được chính phủ đề cử); và sự ủng hộ vững chắc của jiban luôn luôn tác động đến bầu cử. [115]

Kết quả của phong trào chống tham nhũng của những năm 1930 là gì? Hối lộ chính trị giảm đi hay tăng lên? Các kịch bản chính trị cũ có bị phá vỡ bởi thời kỳ xáo trộn của những năm 1930 và những năm chiến tranh sau năm 1937? Do các nhà khoa học xã hội hiện đại dựa nhiều vào những con số được trích dẫn nên việc xử lý chủ đề hối lộ chính trị theo định lượng sẽ là một sự hấp dẫn lớn. Các học giả sử dụng thông tin về số lượng nghi phạm bị bắt giữ và bị truy tố để có thể tạo thành chỉ số tham nhũng. Cách tiếp cận này có nhiều hạn chế. Ví dụ, số nghi phạm hối lộ bị bắt giữ hàng năm phụ thuộc mức độ theo đuổi các vụ án hối lộ của cảnh sát. Điều tương tự áp dụng cho công tố viên và tỷ lệ truy tố. Nhật Bản vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 vướng vào cuộc chiến chính trị chống lại những người cộng sản trong nước. Cảnh sát và công tố viên, với số lượng hạn chế trước cuộc chiến chống cộng sản, chịu sức ép cao độ khi đàn áp các đảng bất hợp pháp. Cảm giác chung cho thấy rằng các viên chức hành pháp lo ngại về “Hiểm Họa Đỏ” hơn các vụ án hối lộ chính trị. Dĩ nhiên đó là sự thật, Cảnh Sát Đặc Nhiệm (đơn vị tinh nhuệ được thành lập để xử lý tội phạm hệ tư tưởng) không xử lý các vụ án hối lộ, nhưng trong chiến dịch chống cộng sản thì tất cả các đơn vị cảnh sát, kể cả Cảnh Sát Đặc Nhiệm, chủ yếu xử lý các vụ vi phạm bầu cử, đều được tung ra để hỗ trợ đơn vị tinh nhuệ. Vì những lý do đó, chắc chắn là số lượng các vụ án hối lộ chính trị đã bị báo cáo thấp. Với sự bảo lưu ý kiến đó, các chỉ số dưới đây được trình bày. Con số cho thấy số lượng viên chức công bị bắt giữ vì hối lộ theo Luật Hình Sự (bị bắt giữ theo Luật Bầu Cử bị loại trừ), [116] trong đó có các viên chức dân sự ở mọi cấp chính quyền.

1933
1.664
1940
2.128
1934
3.885
1941
2.722
1935
3.089
1942
3.299
1936
4.471
1943
6.166
1937
2.469
1944
3.272
1938
2.365
1945
2.343
1939
1774




Quan trọng hơn thống kê hàng năm về số lượng viên chức chính quyền bị bắt giữ về hối lộ là sự thừa nhận rằng theo khía cạnh nào đó thì thời kỳ 1933 – 1945 có sự liên tục với những năm trước đó. Số vụ hối lộ bầu cử trong các cuộc bầu cử giảm xuống trong những năm này dường như là chính xác. Tuy vậy, các chính khách kiểu cũ đã thoát khỏi thời kỳ đầy căng thẳng và những thương nhân chính trị ủng hộ họ từ lâu thậm chí còn phát triển. Trên thực tế, chính khách và zaibatsu đã sống lâu hơn viên chức mới, những người cải cách quân sự cực đoan và những người cố gắng bài trừ tham nhũng chính trị khỏi xã hội. Các phong tục kinh doanh và chính trị cũ còn được sắp đặt để đạt được một thắng lợi ngoạn mục trước tầng lớp công tố thượng lưu trong vụ án Teijin. Cũng cần phải lưu ý rằng công ty Mitsui từ năm 1941 đã tiếp tục sử dụng “bộ phận nghiên cứu” cho “các vận động chính trị - với các bộ trưởng nội các, viên chức quân đội và hải quân, viên chức, nghị sĩ Quốc Hội.” Không có số liệu nào cho thấy hối lộ được đưa bởi vì không có hồ sơ nào được lưu giữ. [117] 

Vào những năm 1930, vụ Teijin và phiên tòa xét xử cựu bộ trưởng Uchida đã rọi sáng mặt tối của chính trị đảng phái: nỗ lực bất tận tìm kiếm tiền. Mặc dù không phải là lý do chính khiến đảng phái suy sụp song những vụ án tham nhũng này cũng đóng góp vào việc đó do sự thật mà các phiên tòa đã cho thấy là dường như các chính khách ích kỷ rất ít quan tâm tới lợi ích quốc gia. Hơn nữa, vụ Teijin cho công chúng thấy một bức tranh xấu xí về mối quan hệ giữa chính khách, doanh nhân và viên chức. Ở một phạm vi hẹp hơn, phiên tòa của Uchida cho thấy cùng một sự tồi tệ về đạo đức. Nhiều độc giả báo chí, như họ đã nói về những phiên tòa này, đã cho rằng các lực lượng chống lại chính trị đảng phái sẽ tạo ra các lãnh đạo quốc gia siêu việt.

Chú thích:


1. Robert M. Spaulding, Jr., “The Bureaucracy as a Political Force, 1920–1945,” 61–63; Berger, Parties Out of Power, 72.
2. Hirata, Senkyo hanzai no kenkyû, 23–24.
3. Hayashida, “Election Law,” 7, 39; Gerald L. Curtis, Election Campaigning Japanese Style, 213–214; Charles B. Fahs, Government in Japan: Recent Trends in Its Scope and Operation, 74.
4. Ibid.
5. Susan B. Weiner, “Bureaucracy and Politics in the 1930s: The Career of Gotò Fumio,” 135–137.
6. Japan Weekly Chronicle, August 22, 1935, 243; Obinata Sumio, Tennòsei keisatsu to minshû, 231.
7. Quoted in Weiner, “Bureaucracy and Politics,” 138.
8. Ibid., 146–147.
9. Japan Weekly Chronicle, December 26, 1935, 806.
10. Ibid.
11. Quoted in Fletcher, Search for a New Order, 99.
12. Ibid., 80, 98.
13. Berger, Parties Out of Power, 73.
14. Weiner, “Bureaucracy and Politics,” 148.
15. Japan Weekly Chronicle, May 14, 1936, 600.
16. Hirata, Senkyo hanzai no kenkyû, 79, 492, 682.
17. Japan Weekly Chronicle, May 13, 1937, 583.
172 Notes to Pages 66–73
18. Ibid.
19. Ibid.
20. Berger, Parties Out of Power, 74.
21. R. L. Sims, “National Elections and Electioneering in Akita Ken, 1930–1942,” 99, 104, 274 n. 30.
22. Itò Takashi, Showa shi o saguru, 1:148.
23. Japan Weekly Chronicle, August 15, 1935, 211.
24. Ibid., March 26, 1936, 382.
25. Ibid., February 25, 1937, 237; Kazaba Gunzò, head of the Police Bureau, was grilled in the lower house about torture and other violations of human rights during and after the 1936 general election. Obinata, Tennòsei keisatsu, 232.
26. Japan Weekly Chronicle, May 13, 1937, 583.
27. Kawakami Kan, Iwayuru jinken jûrin mondai ni tsuite, 71–82.
28. Japan Weekly Chronicle, February 25, 1937, 237.
29. Mitchell, Janus-Faced Justice, 136.
30. Richard Storry, The Double Patriots: A Study of Japanese Nationalism, 54.
31. Quoted in Hane, Modern Japan, 248.
32. Storry, Double Patriots, 185–188; Ben-Ami Shillony, Revolt in Japan: The Young Officers and the February 26, 1936, Incident, 172–173; Stephen S. Large, Emperor Hirohito and Showa Japan: A Political Biography, 68–70.
33. Shillony, Revolt, 83–85; Tiedemann, “Business and Politics,” 291–292, 296 n. 44, 300 n. 54.
34. Quoted in Tiedemann, “Business and Politics,” 296 n. 44.
35. Hastings, “Party Government,” 59, 79 n. 59; Shillony, Revolt, 89–92.
36. Òshima Tarò, “Teijin jiken: Shòkanshû o mamotta ishoku no hanketsu,” 60.
37. Tiedemann, “Business and Politics,” 295; for information about the attack on Minobe, see Frank O. Miller, Minobe Tatsukichi: Interpreter of Constitutionalism in Japan, 196–253.
38. For details about the intimate relationship between the Bank of Taiwan and the Suzuki Trading Company, see Morikawa, Zaibatsu, 175–177; for information on the financial panic of 1927, the failure of the Bank of Taiwan, the collapse of the Wakatsuki cabinet, and relief measures by the Diet to resuscitate the Bank of Taiwan, see Chò Yukio, “Exposing the Incompetence of the Bourgeoisie: The Financial Panic of 1927,” 497–499.
39. Japan Weekly Chronicle, August 12, 1937, 231; Shiono, Shiono Suehiko kaikoroku, 259; Òshima, “Teijin jiken,” 310, 316; Akita, “The Other Ito,” 352– 353.
40. Japan Weekly Chronicle, January 3, 1935, 14.
41. Òshima, “Teijin jiken,” 55–56.
42. Ibid., 56–57; Japan Weekly Chronicle, January 3, 1935, 15; December 23, 1937, 835; Showa Òkurashò gaishi kankòkai, Showa Òkurashò gaishi, 571 (cited hereafter as SOG).
43. SOG, 482, 486–488, 492; Kyoto daigaku, Nihon kindai shi jiten, 592. As Notes to Pages 73–82 173 late as February 1933, a lower house representative was interpellating Justice Minister Koyama Matsukichi on the Meitò tax settlement. Japan Weekly Chronicle, February 9, 1933, 188.
44. SOG, 498–499.
45. A. Morgan Young, Imperial Japan, 1926–1938, 187.
46. SOG, 517.
47. Japan Weekly Chronicle, April 15, 1934, 445.
48. SOG, 517.
49. Òshima, “Teijin jiken,” 57–59; Kawai Yoshinari, Teijin jiken Sanjûnenme no shògen, 21–22; Vandenbrink, “State and Industrial Society,” 147; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 2:1025.
50. Chitoshi Yanaga, Big Business in Japanese Politics, 57; Japan Weekly Chronicle, August 19, 1937, 270; Takenobu Y., ed., The Japan Year Book, 1928, appendix A, 17.
51. SOG, 523–524.
52. Ibid., 519, 521–522; Òshima, “Teijin jiken,” 58, Kawai, 51; Òuchi Tsutomu, Nihon no rekishi 24, 374.
53. Japan Weekly Chronicle, January 3, 1935, 15; Òshima, “Teijin jiken,” 59.
54. SOG, 525.
55. Ibid., 573; Òshima, “Teijin jiken,” 59; Japan Weekly Chronicle, January 3, 1935, 15.
56. SOG, 526, 594–595.
57. Ibid., 535, 537; Òshima, “Teijin jiken,” 60.
58. Ibid., SOG, 531, 535, 537.
59. Japan Weekly Chronicle, December 6, 1934, 771; January 31, 1935, 125.
60. Ibid., January 10, 1935, 31.
61. Ibid., 126; Iwamura Michiyo den kankòkai, Iwamura Michiyo den, 88.
62. Japan Weekly Chronicle, February 7, 1935, 161.
63. Quoted in ibid.
64. Quoted in ibid., January 31, 1935, 134.
65. Ibid.
66. Ibid., 118.
67. SOG, 536–537, 563, 565, 567, 573, 575; Òshima, “Teijin jiken,” 67; Suzuki Yoshio denki kankòkai, Suzuki Yoshio, 101–102; Japan Weekly Chronicle, January 17, 1935, 76; June 27, 1935, 837.
68. Òshima, “Teijin jiken,” 52; SOG, 621.
69. Japan Weekly Chronicle, July 11, 1935, 48; August 15, 1935, 213.
70 Suzuki Yoshio, 406–407, 410, 412.
71. Japan Weekly Chronicle, August 15, 1935, 213; September 5, 1935, 310.
72. Ibid., September 12, 1935, 342; September 19, 1935, 374.
73. Quoted in ibid., February 25, 1937, 237.
74. Ibid.
75. Ibid., March 4, 1937, 251.
76. Ibid., May 27, 1937, 656.
77. Ibid., June 17, 1937, 750–751. 174 Notes to Pages 82–90
78. Ibid., 750.
79. Ibid.
80. Ibid., August 12, 1937, 231.
81. Ibid., August 19, 1937, 270.
82. Ibid., April 22, 1937, 494.
83. Quoted in SOG, 622.
84. Ibid.
85. Quoted in ibid., 621.
86. Matsuzaka, Matsuzaka Hiromasa den, 156–158.
87. Ohara, Ohara Naoshi kaikoroku, 256.
88. Quoted in ibid., 250.
89. SOG, 582.
90. Ohara, Ohara Naoshi kaikoroku, 257.
91. Shiono, Shiono Suehiko kaikoroku, 278–280.
92. Nomura, Hòsò fûunroku, 2:71.
93. Ibid., 291–293.
94. Morishita Sumio, “Imamura Rikisaburò,” 135.
95. Imamura Rikisaburò, Teijin jiken benron, 9–10, 117–129, 132–133.
96. Kawai, Teijin jiken, 184, 186, 285.
97. Nonaka Moritaka, Teijin o sabaku, 11–12.
98. Japan Weekly Chronicle, December 23, 1937, 818.
99. Ibid., December 30, 1937, 873; February 3, 1938, 133.
100. Ibid., February 10, 1938, 170.
101. Ibid., February 3, 1938, 142.
102. Ibid., February 24, 1938, 238.
103. Ibid., January 19, 1939, 76.
104. Sanseidò, Konsaisu jinmei jiten, 801, 1073; Japan Weekly Chronicle, December 30, 1937, 873; Ohara, Ohara Naoshi kaikoroku, 474, 491; SOG, 584; Hunter, Modern Japanese History, 288, 299, 304; Iwamura, Iwamura Michiyo
den, 563–569; Shiono, Shiono Suehiko kaikoroku, 902; Yanaga, Big Business, 56, 60, 93.
105. Ramsdell, The Japanese Diet, 47.
106. Murobushi Tetsurò, Jitsuroku Nihon oshoku shi, 244; Japan Weekly Chronicle, November 12, 1936, 637; March 2, 1939, 256.
107. Ibid.
108. Murobushi, Jitsuroku Nihon, 245; Japan Weekly Chronicle, August 3, 1939, 144.
109. Murobushi, Jitsuroku Nihon, 246–247.
110. Uchida Nobuya, Fûsetsu gojûnen, 235–236, 239, 246.
111. Edward J. Drea, “The Japanese General Election of 1942: A Study of Political Institutions in Wartime,” 252–253.
112. Scalapino, Democracy, 388–389; Harold S. Quigley and John E. Turner, The New Japan: Government and Politics, 70–72; Hunter, 67.
113. Berger, Parties out of Power, 347.
114. Ibid., 348–349. Notes to Pages 90–99 175
115. Drea, “General Election of 1942,” 231, 238, 280, 282, 288, 296–298, 302–303, 305; Sims, “National Elections,” 106; Ben–Ami Shillony, Politics and Culture in Wartime Japan, 23–25.
116. Japan, Prime Minister’s Office, Statistics Bureau, ed., Japan Statistical Yearbook, 1950, 470.
117. Hadley, Antitrust, 42.
http://cunom.blogspot.com/2016/01/hoi-lo-chinh-tri-o-nhat-ban-cac-chinh.html



1. Dẫn nhập và kết luận

"
Monday, January 11, 2016

Những vụ hối lộ và tham nhũng lớn nhỏ thường xuyên xảy ra trong chính giới Nhật Bản. Nhà báo William Chapman, vào năm 1991, đã cho rằng "chính trị Nhật Bản là tham nhũng nhất thế giới". Trước đó vào năm 1968, Murobushi Tetsurò, một nhà xã hội học về tội phạm đã cho rằng "tham nhũng là vốn có trong cấu trúc kinh tế và chính trị của quốc gia, được coi là đặc trưng của người Nhật”. Mặc dù vậy cũng có những người khác cho rằng Nhật Bản ít có tham nhũng. Cuốn sách "Political Bribery in Japan" của giáo sư lịch sử hiện đại Nhật Bản Richard H. Mitchell do nhà xuất bản University of Hawai‘i Press phát hành năm 1996 đã nỗ lực phân tích về hối lộ chính trị ở Nhật Bản theo góc độ lịch sử xuyên suốt thời kỳ phong kiến đến tiền và hậu chiến tranh Thế Giới thứ II. Tác giả cho rằng có hai yếu tố đã tạo ra sự phổ biến của hối lộ chính trị, đó là lương quan chức thấp và phong tục tặng quà. 

Giới thiệu về tác giả:

Richard H. Mitchell, nhận bằng tiến sĩ của trường đại học Wisconsin-Madison vào năm 1963, là giáo sư về lịch sử Nhật Bản hiện đại tại trường đại học Missouri-St. Louis. Ông là tác giả các cuốn sách The Korean Minority in Japan (1967), Thought Control in Prewar Japan (1976), Censorship in Imperial Japan (1983), and Janus-Faced Justice: Political Criminals in Imperial Japan (1992).

Các chương đã được dịch của cuốn sách:

0. Dẫn Nhập


1. Những Di Sản

2. Nhà Nước Mới 

3. Kỷ Nguyên Của Chính Quyền Đảng Phái 

4. Các Chính Sách Bài Trừ 

5. Thời Kỳ Bị Chiếm Đóng 

6. Nhật Bản “Mới” 



Dẫn Nhập 

Hối lộ chính trị, đã có từ thời cổ xưa tới nay, là một phần tất yếu của quá trình chính trị ở mọi nhà nước. Bất chấp việc hối lộ là một hiện tượng phổ biến, phát triển ở mọi loại môi trường chính trị, những người quan sát thời hậu chiến dường như đã cho rằng hối lộ chính trị tập trung ở thế giới đang phát triển; Các bản tin cấp tập về tham nhũng ở các nước Châu Âu đã khiến họ ngạc nhiên. Một cuộc điều tra về tham nhũng đang được tiếng hành ở Italy đã dẫn đến việc bắt giữ nhiều chính khách và doanh nhân vì tội hối lộ chính trị và các hành vi phi pháp khác. [1] Pháp cũng đang trải qua một làn sóng các vụ bê bối tham nhũng. [2] Một quan tòa Pháp bình luận, “Mức độ tham nhũng nói chung là thấp hơn Italy và chúng ta không có Mafia cắm rễ ở đây….Nhưng diễn biến là tương tự, tất cả các doanh nghiệp lớn và các đảng chính trị đều can dự và mọi người đều cho rằng tham nhũng là bình thường.” [3] Ở Tây Ban Nha, các cáo buộc về tham nhũng tài chính đã khiến người ta kêu gọi một cuộc điều tra toàn diện. [4]

Nếu hối lộ chính trị xuất hiện ở mọi nơi thì tại sao phải ngại ngần nghiên cứu về vai trò của hiện tượng này trong nhà nước Nhật Bản hiện đại? Thứ nhất, do Nhật Bản là một nền kinh tế lớn trên thế giới nên chính trị đối nội và hoạt động kinh doanh cũng có ảnh hưởng tới tất cả các quốc gia trao đổi buôn bán với Nhật Bản. Thứ hai, một nghiên cứu cần làm rõ những đặc trưng và không đặc trưng trong trường hợp của Nhật Bản. Thứ ba, không có cuốn sách tiếng Anh nào trình bày một cái nhìn tổng thể về hối lộ chính trị ở Nhật Bản từ thời cổ xưa tới hiện tại.

Không may là các ấn phẩm về chủ đề này hầu như chỉ giới hạn sự nghiên cứu trong thời hậu chiến; các tác giả dường như không sẵn sàng vượt qua mốc phân chia lớn năm 1945. Ví dụ, lần xuất bản năm 1993 của từ điển bách khoa Nhật Bản có một đoạn dài về “tham nhũng chính trị”, nhưng chỉ nhắc tới các vụ bê bối thời hậu chiến. Do đó, cần phải nhanh chóng tìm hiểu các cuộc khủng hoảng chính trị hiện tại theo một quan điểm lịch sử về hối lộ chính trị, vốn là một thực tiễn “truyền thống” chịu sự tấn công của các nhà cải cách chính trị. Không may là các thông tin sai lệch về các vụ hối lộ chính trị thời tiền 1945 lại rất phổ biến. Nhà ngoại giao và giáo sư đại học Harvard, Edwin O. Reischauer đã viết, “Nhưng Nhật Bản đã rất nghiêm khắc đối với dạng tham nhũng bị cáo buộc trong vụ Lockheed. Tham nhũng thường xuyên là vấn đề chính trị ở Nhật Bản nhưng đó là bởi vì tiêu chuẩn của họ rất cao. Vụ bê bối lớn gần đây nhất liên quan đến tham nhũng là vị Siemens năm 1914….Khi mà hối lộ không phải là một phần của hệ thống, như ở Nhật Bản, thật khó có thể tha thứ cho những điều vớ vẩn mà những người liên quan đến vụ Lockheed đã tạo ra.” [6] Dĩ nhiên cũng có những hối lộ chính trị lớn sau năm 1914, trong đó có vụ bê bối Teijin (dẫn đến sự sụp đổ của nội các của Saitò Makoto vào tháng 7 năm 1934) và vụ bê bối công ty Điện Lực Showa (khiến cho nội các của Ashida Hitoshi sụp đổ vào tháng 10 năm 1948). Hơn nữa, nhiều học giả coi hối lộ là “một phần của hệ thống.” Cựu trưởng khoa nghiên cứu pháp lý Đông Á của đại học Harvard, Jerome A. Cohen đã viết về vụ bê bối Lockhead, “Trước hết, nhiều nhà quan sát kiên định về tình hình Nhật Bản đã chờ đợi sự lặp lại của các kịch bản trước đó – trong đó có vụ bê bối hối lộ Hải Quân nổi tiếng [vụ Siemens vào năm 1914] liên quan đến các công ty chế tạo vũ khí của Anh và Đức ngay trước chiến tranh thế giới thứ nhất – trong đó những người nắm quyền tránh mổ xẻ một cách nghiêm túc [in nghiêng thêm vào].” [7] Trên thực tế, vụ bê bối hối lộ hải quân nhạy cảm không khiến cho những người nắm quyền lực “mổ xẻ một cách nghiêm túc.” Thứ nhất, nó đã làm suy yếu trầm trọng nội các của đô đốc Yanamoto Gonnohyòe và khiến nội các này sụp đổ vào tháng 3 năm 1914. Thứ hai, nó trở thành một vết nhơ vĩnh viễn đối với hải quân hoàng gia. Thủ tướng Yanamoto và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân Saitò Makoto đã phải nghỉ hưu non; phó đô đốc Matsumoto Kazu, người được đồn đoán là bộ trưởng kế nhiệm của Bộ Hải Quân, đã bị tuyên án ba năm tù; chuẩn đô đốc Fujii Mitsugorò bị tuyên án bốn năm tù; đại úy Sawasaki Hirotake chịu án một năm tù. Thông tin sai lệch về hối lộ chính trị thời hậu chiến là rất phổ biến. Ví dụ, trong cáo phó của cựu thủ tướng Tanaka Kakuei, tờ New York Times đã viết, “Ông là thủ tướng đầu tiên chỉ tồn tại trong hai năm, từ năm 1972 đến 1974, khi đó ông bị buộc phải từ chức vì cáo buộc ông đã sử dụng quyền lực để làm giàu cho bản thân. Hai năm sau, ông trở thành chính trị gia duy nhất bị kết án vì những tội lỗi trong khi đương chức.” [8] Bất ngờ hơn là bình luận của hai nhà khoa học chính trị nổi tiếng được viết vào năm 1984: “Sự cố Lockheed là sự cố đầu tiên mà một nhà chính trị từng là cựu thủ tướng bị truy tố và xét xử.” [9] Cựu thủ tướng Ashida Hitoshi, có nội các bị sụp đổ do vụ bê bối công ty Điện Lực Showa, đã từ chức vào ngày 15 tháng 10 năm 1948 và bị truy tố vào ngày 16 tháng 12 vì tội nhận hối lộ và trốn thuế.

Các tác giả nghiên cứu chuyên sâu về hối lộ chính trị ở Nhật Bản cũng không hiếm. Trong một cuốn sách được xuất bản năm 1991, một nhà báo đã viết, “Dĩ nhiên những bê bối này là đặc trưng của mọi chính quyền mà chính khách có đặc quyền miễn trừ. Nhưng nếu đo lường hối lộ bằng mức độ thường xuyên của các vụ bê bối, sự can dự của những chính khách hàng đầu và khoản tiền được trao đổi thì có lẽ chính trị Nhật Bản tham nhũng nhất thế giới.” [10] Ba năm trước đó, Reischauer đã viết, “Tham nhũng chính trị ít phổ biến ở Nhật Bản hơn ở bất cứ quốc gia nào khác và có vẻ như là ít hơn chính quyền địa phương ở Hoa Kỳ….Các vụ án tham nhũng lớn giống như hai vụ án liên quan đến Tanaka [Kakuei] là hiếm hoi….Sự bài trừ tham nhũng và các lạm dụng chính trị là đặc trưng thường trực của chính trị thời hậu chiến.” [11] Viết về sự tài trợ phi pháp cho các hoạt động chính trị thời hậu chiến vào năm 1975, Gerald L. Curtis đã khẳng định rằng Nhật Bản “về mặt truyền thống là tương đối ít tham nhũng.” [12] Viết trong cùng năm, John W. Dower đã ghi nhận, “Giới hành chính Tokugawa là những kẻ tham nhũng và tham lam nhất từng được biết đến.” [13] Sau lời khuyên thông thái của John T. Noonan, Jr. trong cuốn sách bất hủ Hối Lộ, tác giả này phản đối hầu hết các tham vọng định lượng của các nhà báo, nhà du hành và một số học giả. Như Noonan đã chỉ ra, định lượng “không bao giờ được triển khai một cách có hệ thống.” Không có các tập hợp số liệu sẵn có nào để người ta có thể kết luận rằng Đế Quốc Roma tham nhũng hơn hay ít tham nhũng hơn Đế Quốc Anh hoặc Hoa Kỳ, ví dụ như vậy. Tôi tin rằng, khi thiếu dữ liệu đó thì việc tạo ra một ảo tưởng nhất định bằng cách sử dụng các khái niệm so sánh là sai.” [14] Noonan cũng lưu ý về sự phức tạp trong việc tập hợp các chỉ số của tham nhũng: nhiều hành vi hối lộ nằm trong bí mật; cáo buộc về chính trị có thể mang động cơ chính trị; luật chống hối lộ không tương ứng với việc thi hành pháp luật; và những yếu tố khác. [15] 

Một phân tích thấu đáo về hối lộ chính trị ở Nhật Bản cũng đòi hỏi phải so sánh với kinh nghiệm của các quốc gia khác. Sự so sánh này rất khó khăn do điều kiện của môi trường chính trị và xã hội khác nhau nhưng cũng cần phải được thực hiện để làm rõ đặc trưng và phi đặc trưng trong kinh nghiệm của Nhật Bản. Trung Quốc, Hàn Quốc, Anh và Hoa Kỳ được lựa chọn cho góc độ liên văn hóa này.

Hối lộ chính trị là một khái niệm nan giải, nhưng “[c]ốt lõi của khái niệm về hối lộ là sự đút lót phi pháp tác động tới việc thực thi một chức năng công cộng vốn đòi hỏi phải thực hiện miễn phí.” [16] Hối lộ được coi là một khái niệm pháp lý, với luật lệ như các công tố viên và thẩm phán diễn giải, quy định rằng điều gì tạo thành một hành động tội phạm. Do đó, nhiều trường hợp hối lộ chính trị được phân tích là sản phẩm của tiêu chuẩn thực thi luật pháp đương thời. Trong đại đa số trường hợp, cuốn sách này loại trừ các vụ hối lộ địa phương và cấp quận, tập trung vào những vụ án liên quan đến chính khách của chính quyền trung ương và doanh nhân hợp tác với họ.

Trước đây vài thập kỷ, các học giả viết về hối lộ chính trị thường lên án hệ thống đạo đức và chính trị đã để cho hối lộ nở rộ. Vào thời hậu chiến thì một cách tiếp cận khác đã được thử nghiệm, hoàn toàn tách khỏi việc chỉ lên án tham nhũng chính trị. Trường phái “xét lại” này tìm cách khám phá những khía cạnh tích cực của tham nhũng trong sự phát triển kinh tế và chính trị. [17] Tuy vậy, dường như họ đã thoái trào, khi mà ngày càng có nhiều thêm các nhà kinh tế học và những người khác coi tham nhũng chính trị là vật cản trở chính đối với sự phát triển. [18] Tôi cũng không theo cách tiếp cận này.

Sau một khảo sát ngắn về hối lộ chính trị ở Nhật Bản phong kiến, tôi kết luận rằng bất chấp sự kiềm chế của đạo đức, luật chống hối lộ và các hình phạt liên quan nghiêm khắc, hối lộ có vẻ đã trở nên phổ biến. Lương viên chức thấp và truyền thống về tặng quà đã gây ra tình trạng đó. Nhà nước mới Minh Trị (1868-1912) đã coi hối lộ chính trị là phi pháp, mặc dù vậy kịch bản cũ về hối lộ vẫn tiếp diễn. Vào năm 1890, Nhật Bản đã bắt đầu thử nghiệm chính quyền lập hiến; nghị viện đầu tiên được nhóm họp trong cùng năm. Mặc dù nhiều học giả ủng hộ quan điểm rằng sự hòa hợp là biểu tượng của hệ thống nghị viện Minh Trị, tôi cũng vậy, nhưng rõ ràng là hối lộ chính trị đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình chính trị; hối lộ có thể coi như một loại dầu nhớt giúp cho cỗ máy chính trị chạy trơn tru. Các tin đồn về doanh nhân hợp tác với chính khách xuất hiện trên báo chí năm này qua năm khác nhưng lần đầu tiên công chúng được biết rõ về một giao dịch hối lộ vào năm 1907-1908 là khi viên chức Bộ Tư Pháp bất ngờ tiến hành một cuộc điều tra và phiên tòa xét xử các doanh nhân và chính khách liên quan đến vụ bê bối Công Ty Tinh Chế Đường Đại Nhật Bản. Nhân vật trung tâm trong vụ điều tra này là Hiranuma Kiichirò, cục trưởng Cục Tội Phạm của Bộ Tư Pháp. Vụ án này đã khiến Hiranuma và phe công tố do ông lãnh đạo trở thành lực lượng chính trị quan trọng, sức mạnh của họ đã tăng lên trong những năm tiếp theo.

Cuốn sách này cũng nghiên cứu luật bầu cử và việc mua phiếu bầu, từ cuộc bầu cử đầu tiên vào tháng 7 năm 1890 cho tới hiện tại. Mặc dù có các quy định chặt chẽ nhưng các chính khách và cử tri đã tham gia vào việc hối lộ phổ biến ngay từ chiến dịch tranh cử đầu tiên. Trong những thập kỷ tiếp theo, tiền lệ chính khách dùng tiền và quà tặng để mua chuộc cử tri đã trở thành đặc trưng trong đời sống chính trị. Khi phổ thông đầu phiếu được mở rộng, cũng như khi tranh cử trở nên đắt đỏ hơn, một tầng lớp môi giới bầu cử đã hình thành để bán các khối cử tri cho người trả giá cao nhất. Các chính khách thành công buộc phải bôi trơn tầng lớp thượng lưu địa phương trước mỗi kỳ bầu cử và khai thác chính sách chi tiêu phóng khoáng trong nhiệm kỳ. Do vậy, chính trị tiền bạc, một chủ đề thường xuyên được người Nhật thảo luận trong những năm gần đây, cũng đã bị chống lại trong giai đoạn đầu của thế kỷ này. Quan chức chính quyền trung ương đã phản ứng với tham nhũng bầu cử bằng cách ban hành các luật bầu cử chặt chẽ hơn và tiến hành các chiến dịch bài trừ nhằm mục tiêu giảm các trường hợp hối lộ bị phát hiện, các chính khách kiểu cũ đã sống sót sau nhiều cải cách, tham nhũng bầu cử vẫn tiếp tục là vấn đề trong thời hậu chiến. 

Vào năm 1914 và 1915, hai vụ án hối lộ chính trị nghiêm trọng đã tràn ngập mặt báo. Vụ bê bối thứ nhất liên quan đến hai quan chức hải quân, họ bị buộc tội nhận hối lộ; vụ thứ hai liên quan đến một chính khách quan trọng, ông này đưa hối lộ để thông qua một đạo luật của chính phủ và gian lận bầu cử. Vụ bê bối tham nhũng liên quan đến quan chức hải quân đã góp phần làm sụp đổ nội các Yamamoto Gonnohyòe; vụ thứ hai dẫn đến sự thỏa thuận giữa phe công tố của Hiranuma và nội các Òkuma Shigenobu, theo đó Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ (Òura Kanetake) bị buộc phải từ chức và rút lui khỏi chính trường. Những vụ án quan trọng này đã khiến cho Bộ Tư Pháp, nhất là phe công tố của Hiranuma, trở nên có ảnh hưởng chính trị.

Khi những người cha lập quốc già và chết đi, các lãnh đạo đảng phái thay thế họ làm thủ tướng. Tuy vậy, sự chuyển giao vai trò lãnh đạo này không cho thấy sự suy giảm trong hối lộ chính trị. Trên thực tế, vào thời các chính khách say sưa dèm pha lẫn nhau, các chính khách đối lập tìm cách hạ uy tín của thành viên nội các và các nghị sĩ ủng hộ nội các bằng cách cáo buộc họ tham nhũng chính trị. Trong hàng sa số các chính khách và doanh nhân vướng vào các vụ bê bối tham nhũng tồi tệ có Ogawa Heikichi, cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp và chính khách của Seiyûkai. Phiên tòa xét xử Ogawa thu hút được sự chú ý của công chúng từ tháng 11 năm 1930 cho đến khi chống án tại Tòa Án Tối Cao; ông ta bị kết án tù vào năm 1936, quan chức cấp bộ trưởng đầu tiên bị kết án tù. Hàng loạt các bê bối tham nhũng của thời kỳ chính quyền đảng phái đã làm giảm sự hấp dẫn của chính quyền đảng phái; những người như Hiranuma Kiichirò, chống lại chính phủ đảng phái, đã vui mừng với viễn cảnh tan rã của đảng phái cùng với sự lệch lạc hệ tư tưởng (tức là trở nên mềm yếu về chủ nghĩa cộng sản). Các học giả viết về Nhật Bản đã sử dụng khái niệm “tham nhũng cấu trúc”, có nghĩa là tính chất cấu trúc của tham nhũng ăn sâu trong hệ thống chính trị tới mức trở thành sự sống còn, các chính khách buộc phải trao đổi lợi ích với doanh nhân để đổi lấy tiền bạc nhằm chi cho các thành viên trong phe cánh và sử dụng cho bầu cử. Hơn nữa, do tham nhũng cấu trúc ăn sâu vào hệ thống chính trị nên các chương trình cải cách đều sẽ thất bại, trừ khi toàn bộ hệ thống bị phá hủy. Một số học giả lập luận rằng sự hình thành “tam giác sắt” từ chính khách, viên chức hành chính và doanh nhân, là nguồn gốc sinh ra tham nhũng cấu trúc, được tạo nên vào thời hậu chiến; những người khác lại coi tham nhũng cấu trúc có nguồn gốc từ thời Chiến Tranh Thái Bình Dương. Một sự xem xét cẩn trọng thời kỳ tiền chiến lại cho thấy những điều khác. Ví dụ, sự cố Teijin của những năm 1930 đã minh họa cho hệ thống hoạt động bên trong của tham nhũng cấu trúc. Sự cố bế tắc này, là phiên tòa dài nhất và là vụ án hối lộ nhạy cảm nhất thời kỳ tiền 1945, đã không chỉ làm sụp đổ nội các Saitò Makoto mà còn dẫn đến việc xét xử 6 bị cáo: các thành viên nội các, viên chức Bộ Tài Chính và doanh nhân. Cũng giống như sự cố Siemens, vụ án này đã in một dấu ấn khó quên trong tâm trí công chúng. Ví dụ, khi bình luận về các vụ hối lộ chính trị cuối những năm 1980, nhà phê bình chính trị Yayama Tarò đã bắt đầu bài báo với “Bài học về vụ án Teijin”. [19] Đây là lý do khác để xem xét kỹ lưỡng vụ án Teijin. Itò Takashi, được nhiều học giả cho là người có uy tín nổi bật về thời kỳ này, đã coi vụ án Teijin là một sự kiện rất khó xử. Như ông đã viết, “[S]ự thật về nó vẫn chưa được làm rõ.” [20] Cuốn sách này hy vọng sẽ góp phần làm rõ vụ xét xử quan trọng đó. 

Hối lộ chính trị tiếp tục nở rộ dưới thời Quân Đồng Minh Chiếm Đóng. Trong số các vụ tham nhũng của thời kỳ này thì vụ quan trọng nhất là vụ bê bối của công ty Điện Lực Showa, đã khiến cho nội các Ashida

Hitoshi sụp đổ. Một sự nghiên cứu về phiên tòa xét xử những người bị truy tố trong sự kiện này sẽ minh họa việc công tố viên phải đối mặt với trận chiến khó khăn để quy án thành công. Họ không chỉ phải chứng minh rằng quan chức nhận tiền và có vị thế đáp ứng lợi ích của người đưa hối lộ, mà còn phải thuyết phục được ba quan tòa rằng quan chức biết tiền đó là hối lộ. Các bị cáo, không mấy khi đứng về phía công tố, thường xuyên khẳng định đó là khoản tiền vay, hoặc quyên góp chính trị, hay quà tặng.

Nhật Bản giành lại chủ quyền vào tháng 4 năm 1952. Sự kiện đầu tiên trong hàng sa số các bê bối tham nhũng thu hút được sự chú ý công chúng diễn ra hai năm sau đó. Trong vụ bê bối Shipbuilding, 34 doanh nhân và chính khách cùng với 17 viên chức hành chính của Bộ Vận Tải đã bị truy tố vì hối lộ. Mặc dù vụ án này không phải là lý do chính khiến nội các thứ năm của Yoshida Shigeru sụp đổ vào năm 1954, nhưng nó cũng góp phần vào sự sụp đổ đó. Sự hợp nhất của các lực lượng chính trị bảo thủ vào tháng 11 năm 1955 đánh dấu sự khởi đầu của gần 4 thập kỷ Đảng Dân Chủ Tự Do thống trị chính trường. Mặc dù thời kỳ thường xuyên có bê bối tham nhũng này đã làm lay chuyển chính giới nhưng công chúng, vốn hài lòng vời sự thành công của kinh tế quốc gia, đã ủng hộ lực lượng chính trị bảo thủ. Đôi khi, một chính khách có tinh thần cải cách cũng nỗ lực cải cách hệ thống chính trị nhưng chỉ có tác động nhỏ đến nền chính trị tiền bạc. Tuy vậy, trong những năm gần đây, vụ bê bối nhạy cảm Recruit tiếp đó là vụ bê bối công ty Express Sagawa Tokyo đã khiến có thêm nhiều nhà chính trị tiến đến ý tưởng thực hiện các cải cách chính trị. Hiện tại, sự tranh cãi của các đảng viên Dân Chủ Tự Do về các cải cách chính trị được đề xuất đã gây ra sự chia rẽ sâu sắc trong nội bộ đảng, khiến cho bảy thủ tướng bị thay thế trong bảy năm. Nội các cuối cùng là liên minh cầm quyền với sự đứng đầu của Murayama Tomiichi, lãnh đạo của đảng Dân Chủ Xã Hội.

Trong vài năm qua, người ta nói nhiều hơn về cải cách chính trị. Đối với nhiều người, cải cách chính trị có nghĩa là kiểm soát chặt chẽ hơn các quỹ chính trị và một sự thay đổi trong hệ thống bầu cử của các quận huyện. Tuy vậy, đó chỉ là những thay đổi bên ngoài: sự cải cách thật sự đòi hỏi tái tổ chức các đảng chính trị và thái độ mới của công dân. Một cải cách hồi xuân nền chính trị dân chủ đòi hỏi tam giác sắt kết nối giữa chính khách, viên chức hành chính và doanh nhân, được hình thành để thu được các lợi ích tương hỗ dựa trên gánh nặng chi phí của người đóng thuế, phải bị phá vỡ.

Từ “hối lộ” trong tiếng Nhật là “wairo.” Trong Luật Hình Sự (Điều 197), “nhận hối lộ” là “wairo o shûju shi.” Các học giả và những người khác khi mô tả “nhận hối lộ” thường dùng từ “shûwai,” có nghĩa tương đương. Do vậy, “shûwaizai” được chuyển ngữ thành “tội nhận hối lộ”. Luật Hình Sự (Điều 198) sử dụng từ “wairo o kyòyo shi” để mô tả hành động đưa hối lộ. Người dân khi viết về tội này cũng dùng từ “zòwai” đồng nghĩa với từ “wairo o kyòyo shi”. Do vậy, “zòwaizai” được chuyển ngữ thành “tội đưa hối lộ”. Phần quy định về hối lộ trong Luật Hình Sự bao gồm các điều 197 và 198, có tiêu đề là “Các Tội Tham Nhũng Thuộc Chính Quyền” (“Tokushoku no tsumi”). Bên cạnh nghĩa “tham nhũng”, “tokushoku” còn có nghĩa là là “hối lộ” và “đút lót”. Đáng chú ý là âm “toku,” khi được sử dụng như là động từ “kega(su),” có nghĩa là “làm vấy bẩn, làm ô nhiễm, hay làm ô nhục”. Ngôn ngữ thông tục có nhiều từ về hối lộ - ví dụ như “sode no shita.” Từ “sode” có nghĩa là “tay áo” hay “ống tay áo”, (tức là giấu vào tay áo kimono). “Nigiraseru” có nghĩa là “giúi tiền vào tay ai đó”, “bôi trơn lòng bàn tay ai đó”, hay “hối lộ”.

Chú thích

1. New York Times, March 29, 1994, A4.
2. Ibid., May 17, 1995, A3.
3. Quoted in ibid.
4. Ibid., April 18, 1994, A3.
5. Kòdansha, Japan: An Illustrated Encyclopedia, 1:1211.
6. Edwin O. Reischauer, “The Lessons of the Lockheed Scandal,” 20–21.
7. Jerome A. Cohen, “Japan’s Watergate: Made in U.S.A.,” 107.
8. New York Times, December 17, 1993, A17.
9. Bradley M. Richardson and Scott C. Flanagan, Politics in Japan, 190.
10. William Chapman, Inventing Japan: The Making of a Postwar Civilization, 155.
11. Edwin O. Reischauer, The Japanese Today: Change and Continuity, 283, 285.
12. Gerald L. Curtis, “Big Business and Political Influence,” 51.
13. John W. Dower, Origins of the Modern Japanese State: Selected Writings of E. H. Norman, 365.
14. John T. Noonan, Jr., Bribes: The Intellectual History of a Moral Idea, xii. 15. Ibid., xiii–xiv.
16. Ibid., xi.
17. Gabriel Ben-Dor, “Corruption, Institutionalization, and Political Development: The Revisionist Theses Revisited,” 63–64.
18. Michael Elliot, “Corruption,” 40.
19. Yayama Tarò, “The Recruit Scandal: Learning from the Causes of Corruption,” 93.
20. Itò Takashi, Showa shi o saguru, 1:143.



"

Thursday, January 7, 2016

Chương cuối của cuốn sách là phần đáng chú ý khi so sánh Nhật Bản với các nước khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Anh và Mỹ. Mitchell đã chỉ ra rằng hối lộ và tham nhũng chính trị đều rất phổ biến ở các nước này giống như Nhật Bản, hầu hết các chính quyền đều dung túng cho nạn hối lộ chính trị, cho dù họ có banh hành các luật lệ nghiêm khắc để trừng phạt hối lộ chính trị. Sự suy giảm của hối lộ chính trị là do những thay đổi trong môi trường chính trị hơn là sự nghiêm khắc của luật pháp và tất nhiên sau đó nó lại luôn tái hiện dưới hình thức khác.


Các chương đã được dịch của cuốn sách:


1. Những Di Sản

2. Nhà Nước Mới 

3. Kỷ Nguyên Của Chính Quyền Đảng Phái 

4. Các Chính Sách Bài Trừ 

5. Thời Kỳ Bị Chiếm Đóng 

6. Nhật Bản “Mới” 

7. Chương 7 Kết Luận


Hối lộ chính trị ở Nhật Bản - Chương 7: Kết luận

Từ cổ xưa, nhà nước Nhật Bản đã ban hành các luật về hối lộ chính trị. Ví dụ như điều 5 của Hiến Chương 17 điều (604) đã yêu cầu quan lại phân xử các vụ kiện không thiên vị và không được nhận hối lộ. Vào năm 645, luật chống hối lộ của chính quyền trung ương đã quy định sẽ trừng phạt những người không tuân thủ. Nôi dung của luật về hối lộ chính trị kế thừa nhiều tài liệu pháp lý của Trung Quốc, trong đó có hình luật của nhà Đường, quy định các hình phạt chi tiết đối với người đưa và người nhận hối lộ. Các điều khoản của hình luật nhằm ngăn chặn hối lộ và trừng phạt những người vi phạm đã được các triều đại kế tiếp duy trì; ví dụ triều đình shogun Ashikaga đã nghiêm khắc bãi chức của những quan lại nhận hối lộ nhỏ và các hình phạt thì nằm trong phạm vi từ lưu đày đến tử hình. Chính quyền Minh Trị cũng tuân theo truyền thống này, sau khi dựa trên luật chống hối lộ của Trung Quốc, đã chuyển sang luật hình sự theo kiểu phương Tây, có phần quy định cụ thể về sự tham nhũng của quan chức. Theo luật hình năm 1908, mọi viên chức chính quyền bị buộc tội nhận hối lộ liên quan tới một trách nhiệm nhà nước có thể bị bỏ tù đến 3 năm (Điều 197); mọi cá nhân bị buộc tội hối lộ một viên chức có thể bị bỏ tù đến 3 năm (Điều 198).

Đạo đức chống hối lộ nằm ngoài các ràng buộc của pháp luật cũng tồn tại. Những người theo Nho giáo của Tokugawa coi hối lộ chính trị là một hành vi vô đạo đức. Sự kế tục của đạo đức chống hối lộ trong thời đại của nhà nước hiện đại có thể được minh họa bằng Hiranuma Kiichirò, ông dành cả cuộc đời để bảo vệ cấu trúc luật pháp Minh Trị và khuyến khích đạo đức truyền thống (tức là đạo đức nho giáo). Khi nhắc đến vụ bê bối của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Òura Kanetake, người đã bị ông cách chức vào năm 1915, Hiranuma đã cho rằng Òura không chỉ vi phạm pháp luật mà “đạo đức chính trị của ông ta cũng rất tồi tệ”. [1] Hòa trộn với đạo đức chống hối lộ của Nho giáo là sự thù ghét tham nhũng của Thiên chúa giáo. Đạo đức Thiên chúa giáo được thể hiện ở Shimada Saburò, một chính khách và nhà báo, ngay trong nhiệm kỳ đầu tiên ở hạ viện vào năm 1890, đã thẳng thắn lên án hối lộ chính trị. Chính là Shimada nhà cải cách Thiên chúa giáo đã gọi Hoshi Tòru vào năm 1900 là căn bệnh ung thư cần phải được cắt bỏ khỏi cơ thể chính trị. [2] Từ giữa thời kỳ Minh Trị và cho tới thời Taiso, các chính khách và doanh nhân đều cảm nhận được sự gay gắt của Shimada đối với tham nhũng chính trị. Một người khác cũng thúc đẩy đạo đức chống hối lộ là doanh nhân và chính khách Thiên chúa giáo Mutò Sanji. Những thỏa thuận bí mật phi đạo đức giữa doanh nhân và chính khách đã thúc đẩy Mutò sử dụng Jiji shinpò để thanh tẩy thế giới chính trị và kinh doanh. Nỗ lực của ông đã dẫn đến sự kiện Teijin vào giữa những năm 1930.

Những tư tưởng, luật lệ và đạo đức chống hối lộ đã được kết hợp trong Huấn Lệnh của Hoàng Gia về Giáo Dục ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1890. Một đoạn thường được trích dẫn trong văn kiện ngắn này có nội dung như sau: “trong trường hợp khẩn cấp, hãy hi sinh cho nhà nước; như vậy sẽ bảo vệ và duy trì sự thịnh vượng của Vương Triều trường tồn cùng với trời và đất.” Tuy vậy, đối với mục tiêu nghiên cứu của chúng ta thì đoạn trước đó quan trọng hơn nhiều: “luôn luôn tôn trọng Hiến Pháp và tuân thủ pháp luật[in nghiêng thêm vào].” [3] Do vậy, nền tảng cho đạo đức của nhà nước hiện đại và được nhiều thế hệ sinh viên ghi nhớ đã được tạo ra trong văn kiện này, việc tuân thủ pháp luật không được sao lãng. Huấn Lệnh đã được hoàng đế ban hành như là thông điệp cá nhân cho người dân (không giống các huấn lệnh khác, nó không được các bộ trưởng đồng ký tên). Do vậy, từ năm 1890 trở về sau, các quan chức liên quan đến hối lộ chính trị không chỉ vi phạm pháp luật, đạo đức mà còn xúc phạm cả hoàng đế.

Theo quan điểm quyền lực của giới đầu sỏ chính trị hanbatsu, những người đã thống trị nhà nước ban đầu, thực thi việc chống hối lộ không phải là chức năng hàng đầu cho tới cuối thời Minh Trị. Tuy vậy, một ngoại lệ đối với luật lệ chung đã khiến cho những người nắm quyền lực chính trị đứng trên pháp luật: Luật Bầu Cử được thực hiện. Rõ ràng là giới đầu sỏ chính trị, vốn rất ngờ vực những đảng chính trị mới xuất hiện, đã vui mừng khi thấy các đối thủ chính trị bị trừng phạt pháp lý và xấu hổ trước công chúng.

Vụ hối lộ nhạy cảm liên quan đến sách giáo khoa quốc gia nổ ra vào cuối năm 1902 đã khiến Yamagata Arimoto bị sốc, ông là người bảo vệ hàng đầu cho sự siêu việt của hành chính hoàng gia; không chỉ có các quan chức hành chính cấp huyện bị mà cả các huyện trưởng do Bộ Nội Vụ bổ nhiệm cũng bị buộc tội. Tuy vậy, đáng tiếc là các con cá lớn đã luôn lọt lưới pháp luật theo một cách được lặp lại nhiều lần trong những thập kỷ tiếp theo. Bộ trưởng tư pháp Kiyoura Keigo, một đồng minh thân cận của Yamagata, đã tạo ra tiền lệ bằng cách can thiệp vào việc truy tố huyện trưởng Abe Hiroshi. Các bộ trưởng tư pháp sau này trong các chính phủ của Hara Kei và Yoshida Shigeru đều hành xử theo tiền lệ đó.

Các công tố viên, như Hiranuma Kiichirò, trở nên nghiêm khắc hơn vào cuối thời kỳ Minh Trị. Vụ bê bối của công ty Tinh Chế Đường Đại Nhật Bản đã cho thấy quyền lực của công tố viên được mở rộng. Tuy vậy, trong vụ án này, ngay cả Hiranuma, người trong sạch về đạo đức và duy nhất được chỉ định chịu trách nhiệm chính thức, cũng đã giới hạn phạm vi điều tra sau khi thủ tướng Katsura Tarò đe dọa can thiệp. Việc truy tố đã dẫn đến cáo buộc không lường trước đối với nhiều doanh nhân và chính khách. Hành động này tạo ra một tiền lệ cho những năm tiếp đó, công tố viên thể hiện sự hăng hái và kiên trì trong việc theo đuổi một số vụ án tham nhũng chính trị có liên quan đến những người có địa vị cao. Một tiền lệ khác cũng được vụ án này tạo ra là việc đình chỉ án tù. Trong những thập kỷ tiếp theo, đa số những người bị kết án hối lộ chính trị theo điều 197 và 198 của luật hình sự đều không bị bỏ tù. Sự nghiêm khắc trong việc truy tố được đánh đổi bằng sự khoan dung kỳ lạ trong kết án. Sự tiếp diễn của tiền lệ kết án này được thể hiện trong một văn kiện được Bộ Tư Pháp công bố năm 1980: “89,9% những người bị kết tội hối lộ [theo luật hình sự] vào năm 1978 đều được đình chỉ thi hành án, một tỷ lệ rất cao đặc trưng cho loại hình tội phạm này.” [4]

Ý kiến của công chúng về những người vi phạm điều khoản chống hối lộ của Luật Hình Sự và Luật Bầu Cử thường khó có thể xác định. Các nhà phê phán xã hội, học giả, nhà báo cũng như những thành viên khác của tầng lớp công chúng thượng lưu đôi khi phê bình gay gắt những người đưa và những người nhận hối lộ, nhưng trong nhóm này thì thái độ đối với người vi phạm cũng mập mờ. Ví dụ, Yoshino Sakuzò, người chống tham nhũng chính trị kiên cường, cũng hiểu rằng các chính khách của Quốc Hội đang xung đột với giới đầu sỏ cổ hủ. “Yoshino lên án chính sách mua chuộc địa phương của Hara, việc đánh đổi những vị trí quyền lực mà ông ta sử dụng để lôi kéo sự ủng hộ địa phương cho đảng. Mặc dù vậy ông cũng ghi nhận rằng Hara vượt trội hơn tất cả các chính sách khác của đảng trong việc điều khiển các cấu trúc luật pháp đặc biệt chặt chẽ và uốn nắn chúng cho phù hợp với sự phát triển của đảng. Như Yoshino đã nói, “Hara vượt qua các rào cản một cách tinh tế.”” [5] Đối với công chúng nói chung, kể từ lần bầu cử quốc gia đầu tiên cho tới lúc Tanaka Kakuei bị buộc tội hối lộ, cử tri đã khoan dung. Họ vui mừng chấp nhận sự hào phóng của chính khách, ngay cả những người bị buộc tội hối lộ và được tái cử. Dường như, hầu hết cử tri đều chấp nhận việc mua phiếu bầu cũng như các hoạt động bất hợp pháp khác, như là một phần của quá trình chính trị thông thường. Một người quan sát đời sống chính trị ở buraku (xóm) vào những năm 1940 đã viết, “Sau khi sống ởburaku một thời gian, tôi nhận thấy suy nghĩ và cảm xúc về tội phạm của nó khác với nhà nước….[N]ếu như sự vi phạm luật pháp quốc gia không gây ra bất cứ tổn hại nào cho buraku thì buraku cũng ít quan tâm tới nó. Ví dụ như buôn lậu, cờ bạc, săn bắn trái phép, mua chuộc trong quá trình bầu cử đều là những hành động phi pháp, nhưng buraku không làm gì để ngăn chặn chúng…và buraku cũng sẽ không hợp tác với cảnh sát để ngăn chặn chúng.” Người viết tiếp thục ghi nhận rằng những người bị cảnh sát bắt giữ vì những tội đó là khi họ trở về nhà, “vẫn được tôn trọng như trước đó. Xã hội của buraku chỉ đơn giản không coi những hành vi đó là tội ác.” [6] Cử tri, nhất là ở khu vực nông thôn, coi sự truy tố và kết án về tội hối lộ là không quan trọng; họ quan tâm chủ yếu tới những gì mà một chính khách cụ thể làm để giúp đỡ họ. Quan điểm này ít thay đổi sau nhiều thập kỷ. Những bình luận sau đây được xuất bản năm 1969: “Làng xóm tạo ra nhu cầu lớn. Người già muốn mua các thiết bị cứu hỏa. Trường học muốn mua đàn piano hoặc organ…Những phong bì dầy được chờ đợi ở mỗi kỳ lễ lạt, đám cưới hay đám ma. Những chủ cửa hiệu mong đợi vòng hoa khi anh ta mở hiệu mới. Ai đó phải trả tiền cho những chuyến dã ngoại của hướng đạo sinh. Khi các bà trong làng định đi tắm suối nước nóng, ai đó phải thuê xe bus. Tất cả những khoản này cũng như các khoản chi khác của nghị sĩ đều được kỳ vọng sẽ hào phóng.” [7] Bình luận về những nhu cầu vô hạn của cử tri, một chính khách nghỉ hưu sau 50 năm trong chính trường đã nói, “Họ buộc các chính khách phải chi tiêu cho họ. Ví dụ như khi có bất cứ điều gì xảy ra vào khi nào đó, họ ngay lập tức yêu cầu gửi một vòng hoa…Khi họ từ tỉnh đến Tokyo, họ yêu cầu phần ăn trưa…Hơn nữa, họ hành động như thể những yêu cầu đó là quyền tự nhiên. Họ đã dắt mũi các chính khách.” [8] Trong thời kỳ hậu chiến, nhiều nghị sĩ đã củng cố các jiban truyền thống với kòenkai. Những tổ chức này tiêu tốn rất nhiều tiền. [9] Một nguồn năm 1984 đã cho biết rằng “số tiền hay quà tặng cho bất kỳ một cử tri nào cũng thường là rất nhỏ, nhưng tổng quỹ dùng để tài trợ cho những hoạt động này là rất lớn….Ngay cả trong những năm không có bầu cử…từ ngày này qua ngày khác khoản chi tiêu để duy trì số cử tri ủng hộ của một chính khách là khổng lồ.” [10] Tóm lại, chừng nào mà quà tặng cá nhân còn được tiếp tục và các dự án ngân sách của chính quyền vẫn tiếp tục hỗ trợ các cộng đồng lớn thì cử tri sẵn sàng bỏ qua những tội lỗi như hối lộ. Sự sẵn sàng đó được thể hiện trong nhiều ví dụ về các chính khách đã bị truy tố hay buộc tội hối lộ mà vẫn tiếp tục sự nghiệp chính trị. Mặc dù trật tự chính trị dường như đã thay đổi vào những năm 1990, hình ảnh của các khu vực bầu cử, kể từ chính quyền đảng phái đầu tiên cho đến gần đây, là một nhóm “khá thờ ơ, hài lòng một cách căn bản, thiên về vật chất một cách đáng chú ý”. [11]

Công chúng ít dung thứ cho sự tham nhũng của giới hành chính, nhất là là những viên chức dân sự cao cấp trong chính quyền trung ương, hơn là các chính khách. Kỳ vọng cao về năng lực hành chính được dựa trên vị thế trước năm 1945 của giới thượng lưu khi cận thần của hoàng đế và tầng lớp thượng lưu thời hậu chiến được tạo ra một cách có chủ ý từ việc thi đỗ những kỳ thi cạnh tranh cam go. [12] Như đã viết trong sách này, cáo buộc hối lộ đối với cá nhân Bộ trưởng Bộ tài chính trong vụ bê bối Teijin đã dẫn đến một sự khấy động công chúng lớn. Công chúng tiếp tục mong đợi đạo đức chống hối lộ mạnh mẽ của các viên chức dân sự cao cấp được thể hiện bằng sự kiện là thủ lãnh của một phe phái và một lãnh đạo của phe phái dưới quyền ông ta bị bắt giữ vì cáo buộc nhận hối lộ của một công ty vào tháng 3 năm 1986, câu chuyện đã trở thành chủ đề chính trên trang nhất của tờ Asashi Newspaper. [13] “Tờ báo đưa tin rằng đây là lần đầu tiên sau mười hai năm một quan chức hàng đầu của một bộ hay cơ quan chủ chốt…đã bị bắt giữ vì cáo buộc tham nhũng. Đáng chú ý là người phát ngôn hàng đầu của chính phủ đã nhanh chóng xin lỗi công khai.” [14] Nếu đánh giá trên phương diện các vụ án về hối lộ bị khám phá của các viên chức dân sự cao cấp thì giới hành chính thời hậu chiến tương đối ít tham nhũng. [15] Trong thời kỳ hậu chiến, không có trường hợp hối lộ nào được biết đến. Để phát hiện ra tham nhũng của quan tòa và giới hành chính tư pháp, một nhà nghiên cứ phải quay trở lại những năm đầu của thời kỳ Minh Trị, thời kỳ trước khi các cấu trúc cải cách pháp lý diễn ra. Trong nhiều năm gần đây, khi không có truyền thống xét xử độc lập, giới đầu sỏ hanbatsu mới nổi đã trơ tráo giành lấy những gì họ muốn và thường xuyên hành xử như thể họ đứng trên pháp luật. [16] Đối với viên chức ở cấp huyện và thành phố, hối lộ chính trị đã hưng thịnh như thời tiền chiến. Một tác giả viết, “đối với chính quyền địa phương, hối lộ là chuyện thường xuyên trong các thỏa thuận để đảm bảo vị trí như người phát ngôn của huyện hay hội đồng xã hoặc giành được các hợp đồng về công việc công cộng….Trong số 196 vụ tham nhũng có liên quan đến chính quyền bị phát hiện vào năm 1980, 85% liên quan đến các dự án xây dựng.” [17] Một báo cáo năm 1980 của Bộ Tư Pháp cho thấy quan chức chính quyền địa phương thường xuyên có liên quan đến tham nhũng, nhất là các dự án xây dựng và cơ sở hạ tầng. Hơn nữa, khuynh hướng này được thể hiện trong báo cáo này là có nhiều thị trưởng và huyện trưởng bị truy tố vì hối lộ hơn. Theo một bản tin trên tạp chí tháng 2 năm 1992, ít nhất có 36 huyện trưởng, thị trưởng và công ty xây dựng đang bị điều tra về gian lận đấu thầu và hối lộ. Các công tố viên trong những vụ án này tuyên bố rằng họ sẽ không ngần ngại quét sạch hệ thống thỏa thuận bí mật bất hợp pháp giữa các doanh nhân, chính khách và viên chức hành chính. [19] Công tố viên hàng đầu trong chiến dịch này, Yoshinaga Yûsuke, tuyên bố rằng vai trò của công tố là “dọn sạch những rác rưởi.” [20] Trước đó, Yoshinaga cũng đóng vai trò quan trọng trong việc truy tố Tanaka Kakuei và điều tra vụ bê bối Recruit. 

Khoan dung nhất đối với tham nhũng chính trị là các chính khách và các đồng minh hành chính của họ. Dưới thời Minh Trị, sự coi thường luật lệ của nhà nước có lẽ là do đẳng cấp samurai cũ của nhiều quan chức (họ cảm thấy mình đứng trên pháp luật). Những nhân vật có đẳng cấp cao bị bắt trong các vụ bê bối hối lộ chính trị vào năm 1914 và 1915 rất ngạc nhiên khi bị kết án. Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Òura bị kết án hối lộ đã nói rằng đó là một phần của quá trình chính trị thông thường. Yamagata Aritomo đồng ý: Òura đã hành động vì lợi ích quốc gia và không làm gì sai. Các đồng nghiệp trong chính phủ đều ngạc nhiên về việc Hiranuma và Suzuki muốn áp dụng sự trừng phạt; họ không thấy có gì sai trong những hành động của Òura: hệ thống chính trị đã hoạt động theo cách đó nhiều thập kỷ. [21] Mặc dù các chính khách của đảng trong những năm sau này đã hiểu rõ hơn về luật pháp và các quy tắc đạo đức, nhưng điều đó không ngăn chặn được hành vi tiếp nhận các quỹ bất hợp pháp và đưa hối lộ. Một lý do khiến các hành động phi pháp vẫn được tiếp tục là đa số nghị sĩ của hạ viện thực sự cần tiền: cử tri đi thăm quan Tokyo cần được chăm sóc, các bữa ăn và tiệc tùng phải được tổ chức ở khu vực bầu cử, quà tặng phải được đưa đúng lúc. Nhất là vào kỳ bầu cử, quà tặng rất tốn kém. [22] Những khoản chi tiêu lớn này được đáp ứng bằng nguồn quyên góp chính trị, tiền từ các điều phối viên chính trị và bằng hoa hồng. Viết về tình hình này vào giữa những năm 1970, Iga và Auerbach khẳng định, “Khi một nghị sĩ kiếm được hợp đồng thầu của chính phủ hoặc công việc từ một công ty lớn cho cử tri, người hưởng lợi được kỳ vọng là sẽ chi lại ít nhất 10% tổng số giá trị hợp đồng, đôi khi là 20%.” [23] Khẳng định này cũng có thể được áp dụng cho giữa những năm 1920. Như đã viết ở những chương trước, một chính khách, một viên chức hành chính hay doanh nhân có thể đôi khi cũng bị truy tố hối lộ; hay thậm chí là bị kết án; nhưng đa số không bị bỏ tù và không phải chịu những hậu quả chính trị nghiêm trọng. Dĩ nhiên, cũng có một ngoại lệ là Ogawa Heikichi vào thời kỳ trước năm 1945. Ogawa đã không may mắn khi bị phát hiện vào đúng lúc mà các công tố viên ở Tokyo rất nghiêm khắc. Tiền lệ thời hậu chiến với Tanaka Kakuei, cựu thủ tướng đầu tiên bị buộc tội nhận hối lộ, là tương tự. Vấn đề pháp lý của Tanaka xuất phát từ hai yếu tố: sự bóp nặn kinh tế một cách không biết xấu hổ cho các quỹ chính trị và sức ép truy tố do sự tiết lộ về việc hối lộ của Nhật Bản ở Hoa Kỳ. Mặc dù vậy trong những vụ án này thì hình phạt cũng rất nhẹ: Ogawa đã tái cử trong khi xét xử và được thủ tướng Konoe ân xá sau khi ra tù; Tanaka đã chết trước khi Tòa Án Tối Cao công bố bản án chung cuộc, không chỉ được tái cử mà còn gia tăng sức mạnh chính trị của bản thân.

Trong số các viên chức hành chính quốc gia, các công tố viên là những người ít khoan dung nhất với hối lộ chính trị. Các thỏa thuận giữa những người đưa và nhận hối lộ, bản chất của chúng là rất bí mật, không được người khác biết đến trừ khi có ai đó tiết lộ chúng. Như đã viết trong những chương trước, các đối thủ chính trị, nhà báo và những người khác đôi khi khám phá ra những bí mật này và phát hiện ra những hành vi phi pháp. Tuy vậy, các công tố viên có quyền truy tố hoặc không truy tố các vụ án hối lộ. Thực tiễn này tạo cho họ quyền lực chính trị mà họ đã thể hiện từ đầu thế kỷ 20. Tuy vậy sẽ là không chính xác khi coi tất cả các vụ án đã được đề cập trong cuốn sách này là có động cơ chính trị. Như một cựu công tố viên đã nói, “Công chúng rất quan ngại về tham nhũng của các đảng chính trị từ giữa thời Taisho. Việc các công tố viên có khuynh hướng đấu tranh với những sự lạm dụng này là bình thường theo quan điểm duy trì công lý xã hội, điều này trở thành một trong những mục đích của công tố.” [24] Tuy vậy, sự kiềm chế trong nội bộ của Bộ Tư Pháp và sức ép từ thế giới chính trị bên ngoài đôi khi cũng giới hạn tự do hành động của công tố viên. Không may mắn cho cơ quan công tố, vết nhơ hằn sâu do phiên tòa xét xử Teijin vẫn còn đó. Phiên tòa kéo dài và bi kịch, sau khi tất cả những bị cáo tội hối lộ đã được tha bổng, vẫn in dấu trong hồi ức của công chúng như là một ví dụ về việc công tố vi phạm quyền tố tụng của nghi phạm và được trích dẫn như là ví dụ về “chủ nghĩa phát xít của công tố”. Ví dụ, nhà phê bình chính trị Yayama Tarò đã mở đầu bài báo về vụ bê bối Recruit với “Bài học về vụ bê bối Teijin”. Ông viết, “Vụ bê bối Teijin được coi là”, 
một ví dụ hoàn hảo về chủ nghĩa phát xít của công tố, một vụ án được cánh hữu và những nhà cải cách hành chính không hài lòng với chính trị đảng phái dựng lên….Tôi không cho rằng vụ bê bối Recruit là do cơ quan công tố dựng lên nhưng tôi cho rằng tôi có thể thấy nhiều điểm trong cách xử lý vụ việc của họ tương đồng với vụ Teijin….Trong vụ Teijin, cơ quan công tố đã tiết lộ từng chút một thông tin về cái được gọi là “thú tội” cho đến khi họ khiến công chúng có thái độ thù địch đối với giới chính trị, tài chính và hành chính. Nhiều thứ mà cơ quan công tố đang làm hiện nay gợi nhớ đến hành động đó. [25] 
Các nghi phạm trong những vụ án hối lộ gần đây đã không ngần ngại lợi dụng hình ảnh của vụ Teijin, công tố viên đã vi phạm nhân quyền bằng cách cưỡng bức nhận tội. Ví dụ, hầu hết những người bị truy tố trong vị Lockheed, đều nhận tội với công tố viên và sau đó phản cung tại tòa án. Cáo buộc về chủ nghĩa phát xít của công tố cũng xuất hiện trong vụ bê bối của công ty Tokyo Sagawa Expess. [26]

Trong những năm gần đây, khái niệm phổ biến được dùng để giải thích nhiều vụ tham nhũng trong chính quyền là “tham nhũng mang tính cấu trúc” (kòzò oshoku). Khái niệm này có nghĩa “tham nhũng là vốn có trong cấu trúc kinh tế và chính trị của quốc gia, được coi là đặc trưng của người Nhật”. [27] Murobushi Tetsurò, một nhà xã hội học về tội phạm đã tạo ra khái niệm “tham nhũng cấu trúc” vào năm 1968, áp dụng khái niệm này cho những vụ án tham nhũng do vụ án điển hình là có sự tham gia của các nhân vật chính quyền cấp cao và giới tài chính. [28] Những nhà phê bình chính trị khác cũng đi theo sự dẫn dắt của Murobushi nhưng cho rằng tham nhũng cấu trúc bắt nguồn từ những điều kiện kinh tế và chính trị đặc biệt thời chiến tranh và thời kỳ hậu chiến. Ví dụ, một tác giả viết, 
Những năm ngay sau chiến tranh rất hỗn loạn và sự thiếu thốn những thứ cần thiết hàng ngày cũng như nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp cùng với quyền lực nhà nước bị suy yếu đã không chỉ phá vỡ các giới hạn của luật pháp mà còn phá vỡ cả các nghĩa vụ đạo đức. Trong thời chiến, ngành công nghiệp đạn dược đã hối lộ các viên chức quân sự quyền lực để tiếp tục phát đạt trong khi đó các doanh nhân thời chiến không ngại ngần gia tăng cơ hội của họ bằng cách hối lộ các quan chức Nhật Bản….Viên chức dân sự dễ bị ảnh hưởng bởi sự cám dỗ đó do lạm phát đẩy giá cả lên cao trong khi lương không tăng lên kịp để bù đắp sự tổn thất của sức mua. [29]
Hai câu hỏi cần được đặt ra: nếu như tham nhũng cấu trúc là đặc trưng của Nhật Bản và chỉ là hiện tượng thời chiến tranh và hậu chiến? Thứ nhất, hiện tượng “tham nhũng cấu trúc” là tương đồng với tham nhũng chính trị trên khắp thế giới ở nhiều cấp độ khác nhau của các nước phát triển. [30] Một nhà báo Nhật Bản, “bình luận về nhận thức gia tăng của công chúng về sự phổ biến này sau khi Tanaka [Kakuei] bị bắt giữ, đã ghi nhận rằng “ngay cả những nhóm kinh doanh và chính trị cực kỳ tham nhũng, vốn từ lâu được coi là đặc trưng của Nhật Bản, cũng sự tương đồng sâu sắc với các hiện tượng tương tự trên trường quốc tế.”” [31] Thứ hai, độc giả chỉ cần nhớ tới việc vụ án Teijin có liên quan tới hai quan chức chính phủ, một thứ trưởng Bộ Tài Chính, các nhà tài chính quan trọng trong câu lạc bộ Baron Gò và các nhân vật kinh doanh khác. Do vậy, thực tiễn tham nhũng, cũng giống như hối lộ chính trị, nằm sâu trong cấu trúc chính trị của nhà nước hiện đại. Việc sử dụng hối lộ chính trị phổ biến trong thời kỳ trước năm 1945 là hệ quả của cấu trúc thể chế do các kiến trúc sư chính quyền mới tạo ra vào năm 1890. Itò Hirobumi và các trợ tá của ông muốn tạo ra cơ quan hành pháp mạnh (tức là chính phủ), nhưng Hiến Pháp Minh Trị đã tạo ra điều ngược lại: một kiểu chính quyền hỗn hợp mà “hành pháp có thể được thực hiện và vô hiệu hóa do tất cả các thể chế đều có quyền phủ quyết chính sách của nó.” [32] Trong giai đoạn đầu của thời kỳ nghị viện, sự suy yếu và không ổn định của chính phủ đã được chống đỡ bằng uy tín và sức mạnh của Itò, Yamagata Aritomo và những chính khách già khác, những người đã kiểm soát chính phủ và thống trị chính quyền. Tuy vậy, khi những trung tâm quyền lực khác nổi lên và sự kiểm soát chính quyền của những chính khách già được nới lỏng, xung đột chính trị và sự tắc nghẽn gia tăng. Các mánh khóe để giải quyết xung đột và phá vỡ những tắc nghẽn giữa chính phủ và hạ viện có cả hối lộ và những người dàn xếp siêu đẳng như Hara Kei. Trong thời kỳ được gọi là kỷ nguyên của chính quyền đảng phái (1918-1932), chính phủ, cũng như trước đó, bị buộc phải nhượng bộ với nhiều phần khác trong cấu trúc thể chế hoặc có nguy cơ tắc nghẽn, có thể khiến cho chính phủ sụp đổ. [33] “Vào những năm 1930, lãnh đạo của các thể chế chính quyền Nhật Bản đã thừa nhận rằng “đường lối thông thường của chính phủ lập hiến” khiến nó không thể làm gì hơn là giành lấy chủ quyền trong việc thi hành các chức năng mà họ coi là của riêng mình. Cũng không thể làm gì hơn là giành lấy sự kiểm soát toàn bộ chính phủ. Do đã có kinh nghiệm về việc chung sống với hiến pháp hỗn hợp, họ bảo vệ chức năng và ghế của họ trong chính phủ một cách sốt sắng.” Do vậy, chính phủ thống nhất quốc gia của những năm 1930 “đã không chỉ đơn thuần là kết quả của những lực lượng hợp hiến đã hoạt động từ năm 1890. Chỉ có chính phủ đại diện cho từng thể chế có quyền phủ quyết mới có thể hy vọng duy trì được biện pháp mà họ ủng hộ và chính quyền liên hiệp trở thành cách thức hợp lý để làm cho chính phủ lập hiến “hỗn hợp” hoạt động.” Hơn nữa, bất chấp quan điểm được chấp nhận là quân đội kiểm soát chính quyền, trên thực tế tình hình vào những năm 1930 vẫn tương tự như vậy. “Cả quân đội cũng như Quốc Hội đều dung thứ cho thủ tướng, người đại diện cho những người khác và chỉ có chính quyền “thành công” vào những năm 1930 là được những người trung lập hơn trong Hải Quân, khối Sự Nghiệp, Thượng Viện và Hội Đồng Cơ Mật lãnh đạo…Quyền lực để lập một chính phủ do đó nằm ngoài sự kiểm soát của bất cứ thể chế nào, mặc dù quyền lực phá vỡ chính phủ lại không bị phân chia, do ảnh hưởng chủ yếu từ hai thể chế thường xuyên cũng đủ để phá vỡ một chính phủ.” [34]

Một hệ quả của hệ thống nghị viện đã trình bày ở phía trên là tham nhũng chính trị: “dòng tiền từ thể chế này tới thể chế khác hoặc từ ứng cử viên tới cử tri. Trong sự thiếu vắng các phần thưởng hợp pháp cho sự hài hóa giữa hành pháp và lập pháp, dòng tiền từ người này sang người khác trở thành một dues ex machina để giải quyết những tắc nghẽn.” [35]

Sau chiến tranh, những nhà cải cách Hoa Kỳ, đã nhận thấy sai lầm nghiêm trọng của hệ thống Minh Trị, cố gắng tập trung hóa quyền lực của thủ tướng và tạo ra cho công chúng khả năng lớn nhất về tiếng nói chính trị. Những năm đầu tiên dưới thời hiến pháp mới đã cho thấy sự pha loãng đáng kể của chính trị đảng phái, nhưng một lần nữa “hệ thống 1955” đã bị chặn lại, một đảng đơn nhất thống trị chính trị trong gần bốn thập kỷ. Với bản chất của hiến pháp và sự thống trị của đảng Dân Chủ Tự Do, thủ tướng và đảng của ông ta sẽ thống trị nhà nước. Trên thực tế, như Ozawa Ichirò đã chỉ ra, thủ tướng sử dụng ít quyền lực. Theo một số góc độ của quan hệ quyền lực thời hậu chiến, cấu trúc thể chế rất tương đồng với nhà nước thời trước năm 1945. Một người quan sát dài hạn Nhật Bản đã mô tả nó theo cách này: “Chắc chắn là có đẳng cấp hay một tổ hợp của các đẳng cấp chồng lấn. Những nó không có đỉnh; nó là một kim tự tháp cụt ngọn. Không có thể chế tối cao với quyền hạn tối cao về chính sách.” [36] Ông nói tiếp, “Giới hành chính gắn kết với kinh tế….Chính khách và hầu hết mọi người khác tránh đường họ. Các nghị sĩ…tham gia chủ yếu vào các công việc để được tái cử….Các nhà công nghiệp tiếp tục mở rộng thị phần quốc tế của họ….Họ nhận được sự ủng hộ của những người cùng địa vị; và họ trả tiền cho các chính khách. Không ai là chủ nhưng tất cả mọi người, theo một cách khác hay người khác, có sức mạnh đối với một số người khác, giúp họ đảm bảo công việc trôi chảy”. [37] Hối lộ chính trị trở thành phổ biến trong cấu trúc thể chế mà quyền lực bị khuếch tán, cũng giống như vào thời kỳ tiền 1945.

Do các quy định văn hóa tạo ra hành vi chính trị, sự phản ánh về “tham nhũng cấu trúc” không làm tắc nghẽn các hoạt động xã hội truyền thống. Hai điều đáng chú ý là: quan hệ lãnh đạo-thuộc cấp hay người bảo trợ-người được bảo trợ và phong tục tặng quà thâm căn cố đế.

Quan hệ lãnh đạo-thuộc cấp, tạo ra các phe phái, đã ăn sâu vào hầu hết các tổ chức xã hội của Nhật Bản. Mặc phe phái chính trị đương đại không chỉ đơn giản là bản sao của các tổ chức người bảo trợ-người được bảo trợ truyền thống nhưng chúng tương tự và sự tồn tại của chúng dựa trên nhu cầu của các chính khách về việc duy trì quan hệ cá nhân gần gũi. Bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu tâm lý của các chính khách, thành viên của phe phái cũng tạo ra các lợi ích vật chất. Ví dụ, thủ lãnh của phe phái hành động như là nhà tài trợ và ủng hộ tài chính cho một thành viên để phục vụ cho bầu cử và thường cung cấp các trợ cấp thường xuyên để bổ sung cho lương nghị sĩ. Thành viên của một phe phái được duy trì thông qua sự trao đổi lợi ích và quà tặng. [38] Chủ nghĩa phe phái có nghĩa là 
trung thành với cá nhân cao hơn trung thành với thể chế….Nói tóm lại, phe phái lãnh đạo-thuộc cấp đã biến chính trị quốc gia thành một cuộc chơi quyền lực cá nhân riêng giữa những nhân vật thượng lưu, tiếp đó hạn chế sự tham gia của công chúng vào chính trị….[Hơn nữa,] [t]ác động tàn phá lớn nhất của các quy định cá nhân chủ nghĩa…được thấy trong sự kết hợp của chúng với thực tiễn đáng lo ngại về tham nhũng chính trị. Các quy tắc văn hóa về trao đổi qua lại, trao đổi lợi ích, tặng quà dường như hợp lý hóa tác động của mua chuộc và hối lộ trong tư duy của nhiều người Nhật. Mặc dù truyền thông thường xuyên tích cực chỉ trích nhiều vụ bê bối tham nhũng, các quan chức nói chung không bị mất uy tín trước công chúng vì những hành động phi pháp trong nhiệm kỳ của họ. [39]
Tặng quà trong giới thượng lưu chính trị có nguồn gốc văn hóa sâu xa. Như đã được trình bày trong chương 1, quà tặng trong những dịp nhất định đã được hình thành vào cuối thời Tokugawa và ranh giới giữa xã giao và hối lộ là rất mong manh. Tặng quà từ lâu cũng đã phổ biến trong thường dân. Một sinh viên hiện đại viết về việc tặng quà lẫn nhau,
Một trang đầy quảng cáo về quà tặng giữa năm… do các cửa hàng lớn bán, hàng dãy các hàng quà tặng ở mọi thành phố nghỉ dưỡng, ô cửa trưng bày các quà tăng được đóng gói ở cửa hàng tại các nhà ga đường sắt, có hàng sa số các chỉ số cho thấy mức độ mà người Nhật tặng quà cho nhau….Tặng quà là một thể chế nhỏ…cùng với các quy tắc phức tạp xác định ai phải tặng quà cho ai, vào dịp nào và quà tặng phải được đưa ra sao….Nghĩa vụ đạo đức phải tặng, nhận và tặng lại quà tặng mà Marcel Maus đã nghiên cứu trong luận văn nổi tiếng của ông về quà tặng. [40] 
Phong tục tặng quà trong xã hội nói chung có ảnh hưởng đến chính khách suốt thời hiện đại; bởi vì tặng quà đóng vai trò như chất keo kết dính xã hội, các chính khách cũng được yêu cầu trao đổi quà tặng. Phong tục tặng quà có nghĩa là một nghị sĩ hạ viện điển hình vào năm 1976 phải tặng 93 món quà trong một tháng. Đó là quà tặng cho các nhóm để ăn uống; quyên góp cho các tổ chức chính thống, vòng hoa cho đám cưới, đám tang và các dịp khác; quà tặng bằng tiền cho các dịp lễ lạt hoặc thể hiện sự thân thiện với một gia đình; và nhiều khoản khác. Bên cạnh những quà tặng này, chính khách đó còn phải tặng quà cho cấp trên ít nhất là hai lần mỗi năm và đặc biệt là vào năm bầu cử, tặng quà cho các ông trùm ở địa phương. [41] Mặc dù cử tri và ứng cử viên ở mọi nơi có quan hệ dựa trên nguyên tắc có qua có lại, nhu cầu của “cử tri Nhật Bản” hướng tới các quan hệ cá nhân và/hoặc lợi ích tức thời hơn là cử tri Hoa Kỳ””. [42] Do vậy, các chính khách thành công ở Nhật Bản đều phải tìm cách, cả hợp pháp cũng như bất hợp pháp, tạo ra đủ thu nhập để đáp ứng các khoản chi tiêu đó. Một trong những phương pháp thông dụng để gây quỹ, đã được mô tả chi tiết trong cuốn sách này, là bán sự tiếp cận dựa trên các liên hệ cá nhân cho những người muốn có thứ gì đó từ chính quyền. Những giao dịch này, nếu bị phát hiện và truy tố, đều bị coi là hối lộ, nhưng các chính khách thích gọi chúng là “hoa hồng” hay phí “giới thiệu”.

Như đã được mô tả trong những chương trước, phong tục tặng quà truyền thống cũng ảnh hưởng tới các công tố viên và thẩm phán trong các vụ án hối lộ chính trị. Ví dụ, Ikeda Hayato đã thoát khỏi truy tố bởi vì công tố viên chấp nhận rằng tiền là quà tặng đưa trước chuyến đi tới Hoa Kỳ (vụ bê bối đóng tàu). Công tố viên đồng ý với Òno Banboku là tiền mà ông ta nhận được chỉ là quà tặng thân hữu (vụ bê bối công ty điện Showa). Những ví dụ này cho thấy sự phức tạp mà các công tố viên và thẩm phán phải đối mặt khi phân tách giữa các hành động hợp pháp và phi pháp của quan chức chính quyền. Hami Befu, thực hiện những nghiên cứu thực địa về tặng quà từ cuối những năm 1960, đã viết, 
Trên thực tế, khi tôi càng hiểu nhiều về hối lộ thì tôi càng ít phân biệt được nó với quà tặng nhân dịp lễ và hàng ngày….Thật thú vị khi nghe tranh tụng ở tòa án trong các vụ án hối lộ, công tố viên hỏi chi tiết về cách thức đưa hối lộ. Mỗi chi tiết nhỏ như sử dụng tiền có nếp nhăn, không có phong bì đựng tiền, vân vân, đều là bằng chứng bổ sung cho khẳng định của công tố viên rằng tiền được dùng để hối lộ. Mặc dù quy định rằng việc quan chức tiếp nhận bất cứ quà tặng nào cho việc thực hiện [sic] nghĩa vụ công đều là nhận hối lộ, nhưng trên thực tế tòa án sẽ không coi “quà tặng” theo phong tục là tạo thành tội nhận hối lộ. Tòa án hiểu rằng sự diễn giải chặt chẽ của pháp luật là khó sử dụng và không thể vận dụng được bởi vì nó mâu thuẫn với các quy tắc văn hóa về quà tặng….
[Cốt yếu trong việc phân biệt giữa quà tặng và hối lộ, Befu viết,] là quan hệ quá khứ giữa người đưa và người nhận. Nếu họ có quan hệ bạn bè lâu dài hoặc hợp tác với nhau và có quan hệ tặng quà qua lại, quà tặng trong vụ án hối lộ cũng không khác biệt nhiều với quà tặng thông thường trong quá khứ mà họ đã tặng cho nhau, công tố viên sẽ khó có thể thuyết phục được thẩm phán rằng quà tặng đó là hối lộ. [43]
Tất nhiên, phân biệt giữa hối lộ và quà tặng luôn luôn khó khăn (hãy nhớ đến tỷ lệ kết án thấp trong các vụ án chủ chốt đã được trình bày trong cuốn sách này), nhưng quy tắc ngón tay cái mà công tố viên sử dụng để phát hiện một vụ án hối lộ tiềm tàng là “vượt mức thông thường” như Befu đã trích dẫn. Justine Williams, một quan chức SCAP giám sát điều tra vụ công ty điện Showa, đã hỏi một số người Nhật có hiểu biết về số tiền mà công ty đã phân phát. Họ trả lời rằng công ty đã trả một số tiền lớn cho những lợi ích mà nó nhận được. “Như mọi người Nhật đều biết rõ, nghĩa vụ phải tương xứng về mặt số học với lợi ích được tăng thêm. Nhưng Showa Denko đã thanh toán cho lợi ích hàng ngày bằng khoản hoa hồng bí mật. Tiền thưởng thêm vượt quá phần lợi ích được tạo ra. Do thiếu sự tinh tế nên người của Showa Denko đã ít quan tâm tới việc thực hiện các nghĩa vụ hơn là trả tiền hối lộ cho các khoản tín dụng nhận được.” [44] 

Một phân tích thấu đáo về hối lộ chính trị ở Nhật Bản đòi hỏi phải so sánh với kinh nghiệm quốc tế. Sự so sánh này là khó khăn khi mà áp lực xã hội và chính trị là rất khác nhau, nhưng cũng cần phải được thực hiện để làm rõ những đặc trưng và không đặc trưng trong kinh nghiệm của Nhật Bản. Nhật Bản và Trung Quốc là sự lựa chọn tốt để bắt đầu.

Mặc dù thời gian ra đời của quy định chống hối lộ chính trị sớm nhất của Trung Quốc là không rõ nhưng hình luật đã sớm được sử dụng vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên và vào thời nhà Tần (221-206) các quan lại được lệnh không nhận hối lộ. [45] Nhà Đường (618-907) đã tạo ra Luật Hình hoàn chỉnh thời Đường: Từ điều 135 đến 139 quy định rõ hình phạt đối với những người đưa hối lộ và các quan lại nhận hối lộ. Hình phạt tùy thuộc vào vị thế của cá nhân, giá trị của khoản hối lộ và mức độ phá hoại luật lệ của quan lại. [46] 

Hiếm có sách nào về Trung Hoa phong kiến mà không đề cập tới tham nhũng trong chính quyền. Nhà Trung Quốc học kiệt xuất Etienne Balazs đã gọi hối lộ là một trong những “bệnh tật bẩm sinh của giới quan lại”. [47] Theo Balazs, nguồn gốc của vấn đề không khó để thấy: quan lại dành nhiều năm để chuẩn bị cho các kỳ thi và để được bổ nhiệm làm quan thì họ phải có người bảo trợ cũng như gánh chịu nợ nần. Mức độ tham lam phụ thuộc vào gánh nặng nợ nần, số lượng họ hàng thân thích và tính tạm thời của chức vụ. [48] Vào thời cải cách, các nhà cải cách tìm cách giải quyết vấn đề này bằng cách thúc giục tăng lương cho quan lại. Họ cũng xác định nguồn chủ chốt của tham nhũng: tùy phái, thư lại, viên chức trong mỗi bộ phận của chính quyền. [49] Tham nhũng gia tăng dưới thời nhà Minh (1368-1643) do sự mất giá của tiền giấy; lạm phát đã làm giảm sức mua của quan lại địa phương, những người này không có cách nào để tồn tại trừ khi bóp nặn người dân nhiều hơn. [50] Tình cảnh của nhà Thanh (1644-1911) cũng không khá hơn và dĩ nhiên là tệ hơn vào thế kỷ 19. Một quan tri huyện chính trực (cấp quan thấp nhất mà chính quyền trung ương bổ nhiệm) đã nói rằng tham nhũng là kết quản của sự hỗ trợ tài chính không phù hợp: 
Với sự gia tăng của chi phí sinh hoạt và sự quan trọng gia tăng của các hoạt động thư lại đáng tin cậy, chỉ lương của các thư ký riêng cũng đã ngốn hết toàn bộ phụ cấp của quan tri huyện….[Hơn nữa], quan lại cũng phải chăm sóc cha mẹ, vợ và con cái, tiền lương của những người hầu riêng, chi phí đi lại cho việc công, chăm sóc thượng cấp, quà tặng cho bạn bè và quan lại cấp dưới, tiền phí cho quan lại cấp trên để chứng thực các hồ sơ của huyện và xử lý các văn kiện cũng như đăng ký. Tất cả những khoản chi phí này bằng nhiều lần khoản phụ cấp….[Hơn nữa], các quan lại địa phương tiếp tục phải đóng góp nhiều khoản theo phong tục cho quan lại cấp trên.
…[Do vậy,] nếu có cơ hội thì họ sẽ lấy từ người dân. Nếu bị thúc ép thì họ sẽ ăn trộm ngân khố, việc này có rủi ro lớn trong khi lấy từ người dân lại dễ dàng và có sự hấp dẫn khó cưỡng. [51]
Một học giả hiện đại, viết về thời kỳ tương tự, đã khẳng định, “Thực tiễn trả lương không phù hợp cho quan lại chính quyền và cho phép họ tự lo liệu cho bản thân dường như đã buộc họ phải hối lộ và tham nhũng.” [52]

Giống như các triều đại trước đó, nhà Thanh cũng quy định chi tiết các hình phạt cho việc đưa và nhận hối lộ trong luật hình sự. Các quy tắc kỷ luật của quan lại cũng có các hình phạt về việc sử dụng chức vụ để mưu lợi cá nhân. Trong số những vi phạm được liệt kê có việc đưa hối lộ hay quà tặng cho quan lại khác. [53] Tuy vậy, tặng quà cho thượng cấp là thói quen thâm căn cố đế mà chính quyền chẳng thể nào ngăn chặn được. Do đó, vào giữa thời Thanh các quy tắc đã được giảm nhẹ để cho phép việc tặng quà vô tư giữa các quan lại là bạn bè hoặc họ hàng thân thích, hay những người là đồng hương. Việc sử dụng quà tặng để mưu lợi cá nhân vẫn là bất hợp pháp. [54]

Sự sụp đổ của triều đại phong kiến cuối cùng đi kèm với một thời kỳ hỗn loạn khủng khiếp và tham nhũng chính trị tràn lan. [55] Một sức hút lớn của Đảng Cộng Sản Trung Quốc là họ tấn công vào tham nhũng chính trị. “Thành tích đáng kinh ngạc của những người Cộng Sản là khả năng thổi bùng lên trong lòng các thành viên đảng, những người trên hết là người Trung Quốc, sự căm ghét và đấu tranh dữ dội với hệ thống cũ….Đảng Cộng Sản đã săn đuổi tham nhũng; họ trừng phạt nghiêm khắc các đảng viên nếu những người đó bị phát hiện tham nhũng; họ gia tăng sức ép chống tham nhũng ở mọi cấp chính quyền – đôi khi bổ sung cáo buộc tham nhũng cho tất cả những người mà họ bãi chức với các lý do khác.” [56] Tuy vậy, sau nhiều thập kỷ, cơn sốt chống tham nhũng quyết liệt của cách mạng Mao Trạch Đông đã giảm nhiệt.

Một học giả Hoa Kỳ đã sống nhiều năm ở Trung Quốc vào cuối những năm 1980 đã viết rằng câu chuyện về tham nhũng chính trị của lãnh đạo cấp cao được lặp đi lặp lại và dân thường cũng như trí thức đều tin vào chúng. Những người già Trung Quốc nhớ lại những năm 1940 cho rằng tình hình còn tồi tệ hơn thời kỳ kết thúc của Quốc Dân Đảng. [57] Vào tháng giêng năm 1989, một học giả cao cấp của Trung Quốc nói với người Mỹ, “Tôi cho rằng họ [lãnh đạo cấp cao] muốn điều tốt nhất cho Trung Quốc, cũng giống như tôi. Nhưng nhiều thuộc cấp của họ là đám vô lại và toàn hệ thống đã thối rữa từ trong lõi. Nó không thể cải cách được nữa.” [58] Một học giả cấp cao khác nói, “Ở Trung Quốc, chính trị là gốc rễ của mọi vấn đề, trong đó có tham nhũng. Mọi lãnh đạo đều lừa bịp để củng cố vị thế của bản thân. Hãy nhìn cách họ bôi nhọ phe cánh khác trên báo chí Hong Kong.” [59] Sau khi nghe chuyện này và những bình luận tương tự của những người khác, người Mỹ viết, “Nhận thức phổ biết cho rằng lãnh đạo cấp cao là tham nhũng dường như không chỉ khiến nó tự nhiên mà hầu như còn biện minh cho sự tham nhũng của các cấp thấp hơn.” [60] Một báo cáo do Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Trung Quốc phát hành năm 1993 đã xác nhận những mô tả nêu trên. Theo bản báo cáo, tỷ lệ đảng viên Đảng Cộng Sản liên quan đến các vụ án hối lộ và tham ô đã tăng lên hàng năm. [61] Vào tháng 8 năm 1993, Đảng Cộng Sản Trung Quốc, coi tham nhũng là sự đe dọa đối với sự kiểm soát của đảng, đã tiến hành chiến dịch chống tham nhũng lớn nhất kể từ năm 1949. [62] Hai năm sau chiến dịch được mở rộng, phát hiện các vụ tham nhũng cấp cao của các quan chức đảng. [63] 

Kết luận khi so sánh giữa Trung Quốc và Nhật Bản là gì? Thứ nhất, trong các xã hội phong kiến thì mặc dù hối lộ là bất hợp pháp nhưng nó vẫn phổ biến. Thứ hai, phong tục cũ về tặng quà có thể gây khó khăn cho nhà cầm quyền khi phân biệt giữ quà tặng hợp pháp và hối lộ bất hợp pháp. Thứ ba, chính quyền phong kiến đôi khi trừng phạt nghiêm khắc các quan lại vi phạm với hình phạt lưu đày hoặc xử tử. [64] Sau khi chế độ phong kiến sụp đổ ở Trung Quốc, hối lộ và các dạng tham nhũng chính trị khác vẫn là thông lệ xã hội cho đến khi người cộng sản giành được chính quyền. Nhật Bản trong những năm tương tự đã trả qua nhiều vụ hối lộ nhạy cảm, nhưng Trung Quốc vẫn bị coi là môi trường chính trị tham nhũng hơn. Cái chết của Mao và việc mở cửa kinh tế Trung Quốc đã hồi sinh sự đồi bại phong kiến: tham nhũng chính trị. Ở Nhật Bản, bất chấp nhiều dạng chính quyền khác nhau, các vụ bê bối tham nhũng lớn vẫn nối tiếp nhau diễn ra. 

Như đã chỉ ra ở đầu chương này là phong tục tặng quà có mối liên hệ gần gũi với hối lộ chính trị, cũng như nhà cầm quyền Nhật Bản khó có thể xác định ranh giới giữa việc tặng quà và hối lộ. Tình hình ở Trung Quốc cũng tương tự. Một đặc trưng quan trọng của hành vi xã hội Trung Quốc là sự căng thẳng về mối quan hệ cá nhân thân cận. “Các quy định xã hội và đạo đức…được tạo ra để duy trì và thực thi các giá trị định hướng theo sự trung thành của Nho giáo như hiếu thảo với cha mẹ, thân thiện, khoan dung, khiêm tốn và trung thành. Do vậy, sự trung thành đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ thường ngày giữa các cá nhân…Kết quả là sự trao đổi thường xuyên quà tặng và lợi ích [sic] được coi không chỉ là ước muốn mà còn là cần thiết, bởi vì đó là cách thức rõ ràng để thể hiện và đồng thời thực thi khuynh hướng trung thành.” [65] Ngay cả khi phong tục tặng quà ăn sâu vào cả hai xã hội có tác động đến quá trình chính trị thì cũng cần phải chú ý một điều. Quy tắc văn hóa về sự khiêm tốn ở Nhật Bản không nhất thiết bắt nguồn từ Nho giáo: Nhật Bản chịu ảnh hưởng của đạo Phật và Thần Đạo cũng có ảnh hưởng. John Hall đã viết, “Bất chấp thắng lợi của tân Nho giáo trong lĩnh vực tư tưởng xã hội và chính trị, các thiết chế Phật giáo vẫn duy trì được ảnh hưởng tôn giáo và một số sự ủng hộ kinh tế của nó.” Thần Đạo đóng vai trò “như là một cỗ xe thể chế để chuyển tải hồi ức sâu thẳm về quê hương cũng như các quan hệ xã hội và chính trị phong kiến.” [66] Hơn nữa, Hall viết, “Điều ấn tượng nhất về thể chế chính trị nền tảng của chế độ Tokugawa là họ ít hay hoàn toàn không thuộc về mô hình Trung Quốc. Nguồn gốc của tổ chức chính trị Tokugawa thể hiện rõ ràng trong hoạt động của triều đình phong kiến độc lập, thứ trở thành các thiết chế daimyo vào thời Tokugawa.” [67]

Kịch bản hối lộ chính trị ở Triều Tiên phong kiến phản ánh những gì diễn ra ở Trung Quốc. Chính quyền nhà Yi (1392-1910) đã sao chép mô hình cai trị của Trung Quốc; đó là quy định pháp luật được sao chép từ nhà Minh. Cũng như ở Trung Quốc, các địa phương nằm dưới sự cai quản của quan huyện do chính quyền trung ương bổ nhiệm, họ được luân chuyển thường xuyên. Để cai quản hiệu quả thì quan huyện bị buộc phải lệ thuộc vào các viên chức và thư lại thường trực ở địa phương. Tuy vậy, những thư lại này không được nhận lương định kỳ; do vậy họ buộc phải sống dựa vào hối lộ, tống tiền và các khoản phí. Thực tế họ là một phần của hệ thống tham nhũng được thể chế hóa của quốc gia. [68] Quan tri huyện Triều Tiên cũng giống như ở Trung Quốc, cũng thấy rằng ngân quỹ của chính quyền trung ương là không đủ. Họ phải bù đắp chi tiêu khi tại nhiệm, kiếm tiền để mua chức tước tốt hơn và tiết kiệm tiền để nghỉ hưu. [69] Tham nhũng chính trị tràn lan, ít nhất là vào những thời kỳ nhất định, tới mức mà nhiều truyện dân gian và văn chương truyền miệng có nội dung chính là về quan huyện tham nhũng và các thư lại tham lam. [70] 

Chúng ta có thể thấy rằng vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, từ năm 1910 đến 1945, hai thực tế tham nhũng chính trị đã hòa trộn làm một. Dù theo cách nào thì sau năm 1945 sự phát triển kinh tế-chính trị của Triều Tiên cũng theo kịch bản tương tự như Nhật Bản hiện đại. Sau khi thoát khỏi thời thuộc địa, doanh nhân Hàn Quốc nổi lên, họ đã học được nhiều từ các thương nhân chính trị Nhật Bản thời Minh Trị về cách hợp tác với giới chính trị. Rhee Syngman, tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc, đã xây dựng một cỗ máy chính trị hùng mạnh bằng cách cho phép các lãnh đạo doanh nghiệp nhận tài trợ và tín dụng ngân hàng nước ngoài để đổi lấy các khoản đóng góp và lại quả chính trị. Việc lật đổ Rhee và thay thế bằng chính quyền quân sự đã dẫn đến một chiến dịch chống tham nhũng.

Mặc dù vậy, các tướng quân đã nhanh chóng chuyển sang con đường khác, cố gắng thỏa hiệp với các doanh nhân: tất cả đều được dung thứ nếu như họ mở công ty mới và chính quyền có cổ phần. [71] Được thừa hưởng di sản của thời Nhật Bản chiếm đóng cũng như thành công kinh tế của Nhật Bản nên không có gì ngạc nhiên khi mà nước láng giềng ở phía đông cũng lựa chọn cùng mô hình kinh tế. Trong những năm vừa qua, các bê bối tham nhũng đã xuất hiện thường xuyên. Ví dụ, có một biên niên sử báo chí về những câu chuyện sau vào tháng 6 năm 1993. Cáo buộc hối lộ được đưa ra đối với Park Tae-joon, cựu quan chức cấp cao của công ty sắt thép Pohang. Kim Chong-in, cựu cố vấn kinh tế của cựu tổng thống Roh Taewo và là thành viên của đảng cầm quyền Dân Chủ Tự Do, bị bắt vì hối lộ. Các công tố viên dự định thẩm vấn cựu bộ trưởng bộ quốc phòng Le Joong-koo và những người khác về hối lộ liên quan đến việc mua vũ khí. Cuối cùng, Ủy Ban Kiểm Toán và Thanh Tra đang điều tra General Dynamics về các khoản thanh toán bất hợp pháp liên quan đến việc mua các chiến đấu cơ phản lực. [72] Để đối đầu với những bê bối này, Kim Young-san, tổng thống dân cử đầu tiên trong vòng 30 năm vào năm 1993, đã tiến hành một chương trình cải cách để bài trừ tham nhũng chính trị. Trong số các cải cách có việc yêu cầu công bố tài sản của các quan chức và sử dụng tên thật trong các giao dịch tài chính. [73] Như vậy, tham nhũng chính trị ở Hàn Quốc, ít nhất là về mặt hình thức, có vẻ cũng tương tự như tham nhũng ở Nhật Bản.

Một sự so sánh đáng giá khác là với nước Anh, nơi có luật của chính quyền trung ương đầu tiên về tham nhũng trong hoạt động bầu cử được ban hành vào năm 1696. Các nghị sĩ Quốc Hội sẽ bị bãi chức nếu họ hoặc các cá nhân làm việc cho họ đưa hoặc hứa hẹn đưa tiền hay bất kỳ phần thưởng nào khác cho cử tri. Luật Hối Lộ năm 1792 nhằm ngăn chặn tham nhũng trong cử tri. Dường như những luật này đều bị phớt lờ. [74] Sau cuộc bầu cử năm 1734, một người quan sát viết, “Bất chấp một số luật được ban hành trong năm 1729 để ngăn chặn hối lộ và tham nhũng trong bầu cử, mặc dù trước đây tiền được đưa công khai hơn nhưng bây giờ thì tiền được đưa nhiều hơn.” [75] Bởi vì luật pháp bị phớt lờ với sự miễn tố của các cử tri và ứng cử viên, “một chính khách của thể kỷ 18 tin rằng không có cách nào chấm dứt điều đó [tham nhũng bầu cử] và than phiền với ngài William Yonge, “Điều xấu xa mà tôi e ngại có lẽ là không thể tránh được.”” [76]

Vào thế kỷ 18, ghế trong Quốc Hội rất đắt đỏ. Một số nghị sĩ giàu có đã tự trang trải cho chiến dịch tranh cử của bản thân; một số khác tiếp nhận sự hỗ trợ của chính phủ và hiểu rằng họ sẽ ủng hộ các đạo luật của chính phủ. Các khoản chi cho bạn hữu của chính phủ được lấy ra từ quỹ bí mật của hoàng đế. Các đảng chính trị cũng thiết lập quỹ bầu cử tập trung; các ứng cử viên cũng có thể gây quỹ bằng các khoản quyên góp do những người ủng hộ vận động. Bất chấp những nguồn quỹ đa dạng, sự gia tăng của chi phí bầu cử đôi khi khiến người ta khó kiếm được ứng cử viên. Sự gia tăng nhanh chóng của chi phí bầu cử bắt nguồn từ 
sự dễ mua chuộc của cử tri và sự sẵn sàng lợi dụng điều đó của ứng cử viên. Sự nhục nhã mà các chính khách đổ xuống đầu các cử tri Anh quốc nằm dưới dạng chi phí hối lộ và chiêu đãi họ là rất quen thuộc….Tuy vậy chúng ta không nên vội vã đưa ra nhận định về…cử tri của thời kỳ tiền cải cách….Trong suốt bốn thế kỷ, một số lượng giới hạn cử tri, một phần nhất định của những người tạo thành thành phần nghèo khổ hơn của dân chúng, đã quen với việc bóc lột của cải bất cứ khi nào có cơ hội, là cơ sở cho phép tầng lớp cao hơn có nhiều tiền bạc và đất đai hơn thống trị nước Anh. [77] 
Mặc dù tham nhũng bầu cử vào thế kỷ 17 cũng bị báo chí tấn công nhưng nó được đa số trong xã hội chấp nhận và thậm chí còn được khuyến khích. Nhiều cử tri tiếp tục coi bầu cử là cơ hội để kiếm tiền và nhận quà tặng. Ở một số khu vực, cử tri không cần biết nền tảng của đảng chính trị mà chỉ bỏ phiếu cho đảng nào trả nhiều tiền nhất. Dường như các cử tri tham nhũng không thấy có gì sai về mặt đạo đức trong việc đưa và nhận hối lộ. Đối với ứng cử viên, tình trạng dễ dãi đối với việc lạm dụng bầu cử của thế kỷ đã sản sinh ra các nghị sĩ không mấy quan tâm đến việc hối lộ để được vào Hạ Viện. [78] Tờ Westminister Review (1862) đã tóm tắt tình hình: “Sự thật đau đớn là một người giàu, được cho là đã hối lộ, hoặc thực sự bị kết án hối lộ, hầu như chẳng khi nào bị đa số trong Hạ Viện coi thường.” [79] 

Tuy vậy, nhận thức về việc tham nhũng bầu cử trắng trợn không chỉ là phi pháp mà còn là phi đạo đức đã tăng lên vào trong thế kỷ 19. Tư tưởng này được thể hiện trong các đạo luật năm 1854 và 1868, định nghĩa một cách cẩn trọng các tội về bầu cử như hối lộ. Theo đạo luật 1868, bất cứ ai được coi là có tội hối lộ đều bị cấm giữ các chức vụ công trong bảy năm. [80]

Luật Cải Cách năm 1867 đã tăng hơn gấp đôi số cử tri. Mặc dù vẫn chưa phải là phổ thông đầu phiếu cho toàn bộ nam giới nhưng nó đã trao quyền bỏ phiếu cho các nam giới chủ hộ gia đình, các hộ gia đình trả tiền thuê nhà và những người thuê lại nhà. Điều kiện là chứng nhận cư trú trong một năm. Việc bổ sung thêm 1 triệu cử tri thuộc giai cấp công nhân khiến những người bảo thủ vốn lo ngại về hối lộ và các dạng tham nhũng bầu cử khác thêm phần lo lắng. Một sự phản ứng là Luật Bỏ Phiếu năm 1872, áp dụng bỏ phiếu kín; người ta hy vọng rằng hệ thống mới sẽ làm giảm sự hăm dọa và tham nhũng hay làm giảm chi phí bầu cử, thứ đang tiếp tục gia tăng nhanh chóng. [81]

Một báo cáo của ủy ban hoàng gia điều tra về thực tế tham nhũng trong cuộc bầu cử năm 1880 đã dẫn đến việc thông qua Luật Về Tham Nhũng và Các Hành Vi Bất Hợp Pháp năm 1883. Luật này kết hợp những phần được chọn lựa của các luật trước đó có liên quan đến chủ đề này. Hối lộ và các hành vi bất hợp pháp khác có thể bị trừng phạt bằng nhiều án phạt và các giới hạn được đặt ra cho chi phí bầu cử. Các ứng cử viên không chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ mà còn phải chịu trách nhiệm về hành vi của các nhân viên của họ. [82] Khoảng 10 năm sau khi luật cải cách này được thông qua, một người quan sát viết rằng, hối lộ và các hành vi bất hợp pháp khác ở hầu hết các khu vực đã biến mất mà ở các khu vực khác đã giảm đi nhiều. Một nguồn khác viết rằng trong một cuộc điều tra vào cuối thế kỷ không có tham nhũng bầu cử lớn nào được phát hiện. [83] Mặc dù luật 1883 đã cải thiện phương pháp phát hiện hối lộ và nhanh chóng trừng phạt những người vi phạm nhưng cũng có lý do khác khiến loại tội phạm này giảm đi: “[K]hông có luật lệ hiệu quả nào mà không tạo ra một cuộc cách mạng trong quan điểm của công chúng – được cho là chịu ảnh hưởng và được khuyến khích bởi cải cách lập pháp – vốn đã biến vai trò của họ trong chính quyền quốc gia từ tương đối thụ động sang chủ động. Trong sự chuyển biến tinh thần này…một sức mạnh lớn lao đã chấm dứt tham nhũng bầu cử và chi phí khổng lồ mà nó gây ra.” [84]

Theo kinh nghiệm của nước Anh với tham nhũng bầu cử, quan điểm của ứng cử viên và cử tri Nhật Bản dường như cũng tuân theo một kịch bản phát triển tương tự. Việc cử tri kỳ vọng và đòi hỏi hối lộ và ứng cử viên vui mừng đáp ứng là đáng chú ý trong những thập kỷ đầu sau cuộc bầu cử đầu tiên năm 1890. Hơn nữa, sau nhiều thập kỷ mà nhà nước Nhật Bản ban hành các quy định chống hối lộ và thực hiện các chiến dịch bầu cử trong sạch, sau ví dụ của Anh (luật bầu cử đầu tiên được ban hành vào năm 1883 của Anh đã gợi cảm hứng cho họ). Tuy vậy, ở Anh vụ tham nhũng bầu cử quy mô lớn cuối cùng nổ ra vào năm 1906 tại khu vực có truyền thống về tham nhũng, tại đó 500 cử tri đã nhận các khoản hối lộ nhỏ. [85] Do vậy, chỉ hơn hai mươi năm sau khi thông qua luật 1883, tham nhũng bầu cử đã không còn quan trọng. Nhưng đó không phải là điều diễn ra ở Nhật Bản. Một số người cho rằng số lượng lớn các vi phạm trong nhiều thập kỷ đã phản ánh sự quá nghiêm khắc của luật pháp hoặc sự mẫn cán thái quá của nhà cầm quyền. Một số khác trả lời rằng sự tiếp diễn kéo dài của hành vi tham nhũng cho thấy xã hội này khoan dung với tham nhũng bầu cử hơn ở các xã hội khác. 

Hoa Kỳ là ví dụ cuối cùng để so sánh. Hối lộ và lừa đảo là hai tội được nhắc tên trong Hiến Pháp Hoa Kỳ. Điều 2, khoản 4 nêu rõ, “Tổng thống, phó tổng thống và tất cả các viên chức dân sự của Hoa Kỳ sẽ bị bãi chức nếu bị buộc tội hoặc bị kết án lừa đảo, hối lộ hoặc các tội hình nghiêm trọng và tội nhẹ khác.” [86] Tuy vậy, điều này không bao hàm các nghị sĩ Quốc Hội và không chủ định áp dụng cho các thẩm phán. Một học giả viết rằng rào cản đối với hối lộ chính trị là rất mỏng manh. “Sự lưỡng phân được chấp nhận. Quận trưởng có thể bị bãi chức vì hối lộ nghị sĩ Quốc Hội hoặc bất cứ ai. Nghị sĩ Quốc Hội không phải là đối tượng của trừng phạt nếu như họ nhận hối lộ.” [87] Vào năm 1789, luật liên bang chống hối lộ đầu tiên được thông qua để trừng phạt các nhân viên hải quan và những người khác liên quan đến việc làm sai lệch hồ sơ; hình phạt là phạt tiền. Năm tiếp theo có một luật khác quy định về tội hối lộ thẩm phán liên bang và thẩm phán nhận hối lộ: hình phạt là miễn chức vụ liên bang. Cuối cùng, vào tháng hai năm 1853 một luật hình sự được bạn hành để trừng phạt việc hối lộ nghị sĩ Quốc Hội. Phạm vi của luật này được mở rộng vào năm 1862; hình phạt là phạt tiền và hai năm tù. Cả luật 1853 và 1862 đều đủ rộng để bao quát mọi dạng hối lộ nghị sĩ Quốc Hội. 

Sự sẵn sàng của Quốc Hội trong việc thực thi luật chống hối lộ mới đã sớm được kiểm nghiệm. Một tạp chí đưa tin vào mùa thu 1872 cáo buộc một nghị sĩ hàng đầu nhận hối lộ, dưới dạng cổ phiếu, đổi lấy lời hứa sẽ không điều tra Crédit Mobilier, một doanh nghiệp được tạo ra để xây dựng mạng Đường Sắt Thái Bình Dương Thống Nhất. Mục tiêu của doanh nghiệp này, theo như tạp chí đưa tin, là chuyển lợi nhuận từ các hợp đồng xây dựng vào túi của những nhà tài trợ cho đường sắt. Nghị sĩ Oakes Ames, người đóng vai trò chủ chốt trong việc dùng cổ phiếu để mua sự ủng hộ của các đồng sự nhằm bảo vệ Crédit Mobilier, là người duy nhất bị khiển trách. [89]

Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tham nhũng chính trị tràn lan ở tất cả các cấp của chính quyền; hiện tượng này gắn liền với sự phát triển của các đảng phái chính trị, vốn cần tiền để mở rộng. “Các khoản lại quả lớn của nhà thầu cho các công trình công cộng và các khoản chi để tránh bị hạn chế tăng trưởng cũng như các cơ quan quản lý…ngày càng trở thành những nguồn quan trọng của quỹ. Vào cuối thế kỷ, khoản đóng góp của các doanh nghiệp lớn đã trở thành nguồn tiền chủ chốt của cho bầu cử bang và quốc gia.” [90] 

Mặc dù Lincoln Steffens và những người chống tham nhũng khác đã hướng sự chú ý của công chúng vào tham nhũng chính trị tại tất cả các cấp chính quyền và mặc dù một số người đưa và nhận tham nhũng tại địa phương và bang bị kết án, song chính quyền liên bang không mấy quan tâm đến vấn đề tham nhũng chính trị. Ngay cả trong vụ án mà một số thẩm phán bị Hạ Viện cáo buộc và Thượng Viện kết án thì sau đó họ cũng không bị truy tố hình sự. [91] Vào năm 1929, tiền lệ về việc không truy tố hình sự đối với các viên chức cấp cao bị phá vỡ, ít nhất là tạm thời, bằng vụ truy tố cựu bộ trưởng bộ nội vụ Albert B. Fall. Hành động tội phạm của Fall liên quan đến việc bán dầu dự trữ của hải quân cho một công ty dầu thuộc sở hữu của Edward L. Doheny và Harry F. Sinclair. Điều tra của Thượng Viện kết luận rằng Doheny đã cho Fall vay 100.000 dollar và Sinclair đã đưa cho ông ta 85.000 dollar tiền mặt, 223.000 dollar trái phiếu, một đàn gia súc. Mặc dù Doheny và Sinclair được trắng án về tội định quịt nợ chính quyền, Fall vẫn bị kết án nhận hối lộ; ông ta bị tuyên án hai năm tù và phải nộp phạt 100.000 dollar. Đơn chống án của ông ta bị bác bỏ và ông ta đi tù vào tháng 7 năm 1931. Trong vụ bê bối này, được gọi là Teapot Dome, lần đầu tiên một thành viên nội các phải vào tù. [92] Việc Fall bất ngờ bị kết án là kết quả của nhiều yếu tố: sự khinh suất khi phô bày sự giàu có mới của ông ta; nói dối ủy ban Thượng Viện; sự dễ tổn thương về chính trị; một phiên tòa và sự chống án khi thị trường chứng khoán sụp đổ; và Đại Suy Thoái. [93] 

Thẩm phán liên bang đầu tiên bị truy tố vì hối lộ là Martin T. Manton, người đảm nhiệm phân xử tại tòa phúc thẩm liên bang ở thành phố New York. Từ năm 1932 đến 1938, Manton đã nhận hàng trăm ngàn dollar từ các nguyên đơn. Sau khi bị kết án hai năm tù, Manton đi tù vào tháng 3 năm 1940. [94]

Các vụ truy tố Fall và Manton là những ngoại lệ hơn là thông lệ. Mặc dù các chính khách và thẩm phán đôi khi từ chức khi đối mặt với cáo buộc hối lộ, họ không phải đối mặt với án tù. “Sự thực thi của nhà nước về luật hình sự đối với hối lộ,” một học giả viết, “không nhất thiết phải khác với các hoạt động liên bang khác.” [95] Mặc dù không có nghị sĩ nào bị truy tố vì hối lộ trước thế kỷ 20 nhưng 10 người đã truy tố vào năm 1970. Bản án trong các vụ án này không nặng nề: hình phạt chủ yếu là sự lãng quên về chính trị. Mặc dù công tố viên liên bang trở nên tích cực hơn trong việc truy tố các nghị sĩ Quốc Hội sau năm 1970, các bản án thường nhẹ nhàng. Vào năm 1978, chính quyền liên bang tiến hành chiến dịch Abscam. Trong vụ “gài bẫy” này, khoản hối lộ trị giá 100.000 dollar được hai người Arab giàu có giả tưởng chi cho các nghị sĩ Quốc Hội để hướng dẫn họ lách qua các cạm bẫy khi đầu tư ở Hoa Kỳ. Sau khi bị ghi hình lại bằng máy quay phim bí mật, tất cả những người bị gài bẫy đều bị truy tố vì hành vi phạm tội, sáu người trong số họ phạm tội nhận hối lộ. Michael Myers, người từ chối từ chức, trở thành hạ nghị sĩ đầu tiên bị bãi chức vì nhận hối lộ. Thượng nghị sĩ Harrison A. Williams, Jr, cũng bị mắc bẫy, đã từ chức ở Thượng Viện. [96]

Các nỗ lực xóa bỏ tham nhũng trong hoạt động bầu cử liên bang dẫn đến Luật Tillman vào năm 1907: doanh nghiệp bị cấm cung cấp tiền cho ứng cử viên chức vụ liên bang. Vào năm 1910, Quốc Hội thông qua Luật Hành Vi Tham Nhũng Liên Bang, yêu cầu báo cáo về quyên góp trong bầu cử quốc gia. Sau nhiều năm, các luật khác được bổ sung để lấp những lỗ hổng trong những luật ban đầu. Tuy vậy, doanh nghiệp vẫn tìm ra nhiều cách để lách luật và điểm chính yếu là việc thi hành những luật lệ này thường không nghiêm và hình phạt thường nhẹ. Vào năm 1946, Luật Điều Chỉnh Vận Động Chính Sách được thông qua. Doanh nghiệp cũng khai thác nhiều lỗ hổng trong luật này. Các luật kiểm soát vi phạm bầu cử thường bị lách trên quy mô lớn và luật chống vận động chính sách bất hợp pháp hầu như bị phớt lờ cho đến khi vụ Watergate vỡ lở vào năm 1972. Do các công tố viên chuyên trách của vụ việc này có thẩm quyền điều tra tài chính của chiến dịch tranh cử, sự chú ý được tập trung vào việc thực thi Luật Tillman. Kết thúc cuộc điều tra này, nhiều doanh nghiệp chủ chốt đã thú nhận quyên góp bất hợp pháp. Như một phần của thỏa thuận với chính quyền, công ty Dầu Vùng Vịnh đã đồng ý cho điều tra khoản quyên góp chính trị của họ. Ủy ban đảm nhiệm việc này đã cung cấp một mô tả chi tiết về các khoản chi chính trị trong đó có các khoản hối lộ quốc tế. Quốc Hội đã phản ứng vào năm 1977 bằng cách thông qua Luật Hành Vi Tham Nhũng Quốc Tế, quy định về việc gây ảnh hưởng tới các luật lệ chính thức bằng cách đưa quà tặng, đề nghị, hoặc trả tiền cho các quan chức nước ngoài hoặc bất cứ cá nhân trung gian nào. [97]

Suốt lịch sử Hoa Kỳ, khuynh hướng đạo đức về hối lộ chịu ảnh hưởng của những răn dạy Thiên Chúa giáo. “Sự noi gương Chúa nằm ở việc ngăn chặn hối lộ….Chúa của Israel phán quyết một cách không thiên vị. Quà tặng của con người không thể che mắt Chúa hay ràng buộc phán quyết của Ngài….Bám vào cơ sở kinh thánh của văn hóa phương Tây là mô hình Người cai trị-Quan tòa, mọi nỗ lực hối lộ đều không thể lay chuyển Ngài. Chúng ta cũng giống như Ngài…Quà tặng hào phóng và hối lộ hèn hạ được phân định vĩnh viễn bằng các ví dụ và hướng dẫn tôn giáo.” [98] Tác động của tư tưởng chống hối lộ đối với Những Cha Lập Quốc được thể hiện trong việc đưa “sự hối lộ” vào các văn kiện pháp luật nền tảng của Hoa Kỳ. Hối lộ đã được hình sự hóa trong luật liên bang trong những năm tiếp theo. Bất chấp sự thực thi chểnh mảng những luật này cho đến thế kỷ 20, đạo đức chống hối lộ vẫn mạnh mẽ trong công chúng. Bình luận về các nỗ lực bài trừ hối lộ ở Quốc Hội vào những năm 1970 trong vụ Abscam, một học giả đã viết, “Điều đó có thể không xảy ra trừ khi ở một xã hội thấm nhuần đạo đức chống hối lộ. Không có nỗ lực chống hối lộ tương ứng nào từng được thực hiện ở bất cứ quốc gia nào để chống lại những kẻ nhận hối lộ trong giới lập pháp.” [99]

Một sự so sánh về hối lộ chính trị ở Hoa Kỳ và Nhật Bản dẫn đến những kết luận sau. Lịch sử về hối lộ chính trị ở Hoa Kỳ cũng cổ xưa như nước Cộng Hòa, các ví dụ về tham nhũng chính trị ở cả cấp quốc gia và địa phương đều giống với những ví dụ ở Nhật Bản. Tuy vậy, điểm khác biệt đáng chú ý là: suốt lịch sử Hoa Kỳ, ngay cả khi luật chống hối lộ bị lơi lỏng, tư tưởng cho rằng hối lộ là sai trái về đạo đức vẫn tồn tại phổ biến và sâu sắc. Đạo đức chống hối lộ mạnh mẽ đã tạo ra một dạng trừng phạt thay cho sự trừng phạt của pháp luật: sự mất mặt trước công chúng của những người đưa hay nhận hối lộ. Trong trường hợp Nhật Bản thì ngược lại, bối cảnh văn hóa đã khiến cho hối lộ chính trị dẫn đến một kết quả khác: một chính khách bị phát hiện nhận hối lộ có thể cảm thấy xấu hổ nhưng không cảm thấy có lỗi về mặt đạo đức. Hơn nữa, sự nghiệp chính trị vẫn phát triển bất chấp sự truy tố vì hối lộ. Cả hai quốc gia đều có các luật hình sự và các quy định về bầu cử đầy đủ, trong đó các điều khoản chống hối lộ cũng được thiết lập cẩn trọng. Việc thực thi cũng theo một kịch bản tương tự, nhiều hoạt động truy tố hơn trong một số thời kỳ so với những thời kỳ khác; chính trị tác động tới quá trình ở cả hai quốc gia. Tuy vậy, việc truy tố ở Nhật Bản khó khăn hơn nhiều, bởi vì ở Hoa Kỳ một khoản chi cho quan chức được coi là hối lộ; công tố viên không cần chứng minh rằng người đưa hối lộ nhận được lợi ích từ quan chức nhận hối lộ. Đó không phải là trường hợp của Nhật Bản, tại đó công tố viên phải chứng minh rằng quan chức nhận hối lộ thỏa mãn lợi ích của người đưa hối lộ và hiểu rằng tiền đó có nghĩa là hối lộ. Ở cả Nhật Bản và Hoa Kỳ, ít nhất là cho đến thời kỳ hậu chiến, địa vị của các cá nhân nhận hối lộ càng cao thì họ càng ít bị truy tố. Ngoại lệ là bộ trưởng Ogawa và bộ trưởng Fall, những người bị truy tố trong cùng một năm (1929) và cùng lĩnh án tù ngắn. Không giống như Hoa Kỳ, đã bỏ tù quan tòa Manton vào năm 1940, Nhật Bản không ghi nhận trường hợp nào về thẩm phán cấp trung ương nhận hối lộ. Tuy vậy, sự khác biệt rất rõ ràng giữa hai quốc gia: hàng loạt các bê bối hối lộ thời hậu chiến ở Nhật Bản, liên quan đến hàng trăm chính khách, viên chức và doanh nhân. Cốt lõi của nững vụ bê bối này là nhu cầu gia tăng của các chính khách về số tiền lớn cho chiến dịch tranh cử và duy trì phe cánh chính trị. Quan điểm khác nhau của người Nhật về nguyên nhân tạo thành tham nhũng chính trị cũng là tâm điểm trong mọi vụ bê bối.

Sự đồng thuận rằng hệ thống chính trị Nhật Bản cần cải cách cũng là phổ biến. Hầu hết các nhà cải cách đồng ý rằng một số thứ cần phải được thực hiện để kiềm chế “chính trị tiền bạc” (tức là sự phụ thuộc tài trợ của các doanh nghiệp lớn), để giải thoát các đảng khỏi chủ nghĩa bè phái quá mức và giúp cho công chúng hội nhập hơn vào quá trình chính trị. Trong ba lĩnh vực mà các nhà cải cách hướng tới, khó thay đổi nhất là chủ nghĩa bè phái bởi vì bè phái đòi hỏi một khoản tiền lớn, mối liên hệ giữa doanh nghiệp lớn và các phe cánh sẽ rất khó để chia cắt. Một người có quyền lực trong phe phái (habatsu) đã viết, 
Nếu như văn hóa Nhật Bản chú trọng vào các mối quan hệ cá nhân hơn các quan hệ được thể chế hóa, quyền lực mà người khác phải tuân phục và sự trung thành sẽ gắn với một cá nhân hơn là tổ chức. Quyền lực của đảng cũng được thể chế hóa nhưng không phải là không chịu ảnh hưởng của cá nhân. Mặt khác, quyền lực của “oyabun” dựa trên các quan hệ “giri-ninjò” truyền thống. Do vậy, dễ hiểu là những người Nhật bảo thủ, vốn tuân thủ các giá trị truyền thống và tìm kiếm một số dạng quyền lực nhóm để tuân thủ, sẽ phục tùng “habatsu” hay cụ thể là ông trùm của “habatsu”, hơn là đảng. [100]
Các nhà cải cách đứng sau chương trình của thủ tướng Miki (tháng giêng năm 1977) đã lập luận rằng các phe cánh sẽ suy giảm nếu như đảng cho phép các đảng viên quần chúng được bầu chủ tịch đảng. Mặc dù, đảng viên quần chúng đã hình thành, các phe cánh vẫn tiếp tục đóng vai trò truyền thống bởi vì các đảng viên thống nhất với nghị sĩ địa phương của họ chứ không phải là đảng và ông ta lại thống nhất với thủ lãnh phe cánh của mình (xem chương 6). Bản chất của chính trị và xã hội Nhật Bản là một phần nhưng sẽ là sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp quyền lực của phe cánh. Tuy vậy, một số nhà khoa học xã hội theo đuổi quan điểm rằng việc “hiện đại hóa” sẽ xóa bỏ phe cánh khỏi chính trường. Những người khác, với hiểu biết sâu sắc về Nhật Bản, cho rằng phe cánh, vốn phục vụ cho các mục tiêu thực dụng, sẽ thích nghi với kế hoạch của các nhà cải cách và tiếp tục tồn tại. [101] Tất cả đều đưa chúng ta quay trở lại câu hỏi cốt lõi về tiền bạc, thứ mà các phe cánh đều phải có. Các lãnh đạo phe phái sẽ cố gắng duy trì sự liên hệ truyền thống với nguồn tiền từ các doanh nghiệp lớn. Một học giả, viết về cải cách bầu cử vào tháng giêng năm 1994, đã kết luận, “Mặc dù sự kết hợp của hai chính đảng lớn là có khả năng, nhưng nó cũng có khả năng tương đương với việc điều đó sẽ không diễn ra. Tương tự, những khẳng định về sự suy giảm của chính trị tiền bạc, chính trị phe phái và mạng lưới hỗ trợ cá nhân đều đáng hoài nghi.” [102] 

Gunnar Myrdal, trong một nghiên cứu cổ điển về phát triển kinh tế (hay thiếu triển kinh tế) ở Đông Á, đã viết về vấn đề tham nhũng. Ông đã chỉ ra rằng tham nhũng chính trị luôn nằm trong tâm trí của mọi người. Các hội đồng lập pháp và báo chí dành nhiều thời gian và công sức cho chủ đề này, các cuộc nói chuyện giữa bạn bè cũng thường xoay quanh chủ đề này. Đôi khi các ủy ban được thiết lập để nghiên cứu vấn đề và các đạo luật được thông qua để chấm dứt tham nhũng. Bất chấp những biện pháp đó và bất chấp sự quan ngại của công chúng về tham nhũng, hầu hết mọi người dường như đều tin rằng tham nhũng đang gia tăng, ông viết, nhất là các quan chức cấp cao. [103] “Các nỗ lực khoa trương để ngăn chặn tham nhũng và những quả quyết về việc tham nhũng đang bị xử lý thích đáng chỉ làm gia tăng sự hoài nghi, nhất là về mức độ đụng chạm đến “giới chóp bu”. [104] Myrdal mô tả điều mà ông thấy khi làm việc ở đây là “chuyện dân gian về tham nhũng”, tức là niềm tin của người dân về tham nhũng và cảm xúc đi kèm theo những niềm tin đó, khi được thể hiện trong các cuộc tranh luận công khai và các chuyện ngồi lê đôi mách.” [105] “Chuyện dân gian” này ảnh hưởng tới phương thức người dân sinh hoạt trong đời sống cá nhân và sắc thái của sự trung thành với xã hội. Do vậy, “chuyện dân gian về tham nhũng” trong một xã hội nhất định, ngay cả khi xã hội đó chỉ ít bị ảnh hưởng bởi virus hối lộ, có thể gây ra một cảm giác phổ biến về việc tham nhũng gia tăng và điều này có thể tạo ra tham nhũng cá nhân nhiều hơn. [106] Nếu như Myrdal đúng thì hết vụ bê bối này đến vụ bê bối khác trên khắp chính trường Nhật Bản cùng với hàng loạt các tuyên bố huyên náo về kế hoạch cải cách hệ thống chính trị cần phải lay chuyển niềm tin của người dân về sự thanh liêm của quan chức. 

Hối lộ chính trị sẽ tiếp tục nở rộ ở Nhật Bản bởi vì việc bầu cử các lãnh đạo chính trị mới và thực hiện luật cải cách bầu cử sẽ không thay đổi văn hóa chính trị cơ bản. Các cải cách tiếp theo chắc chắn sẽ tạo ra một vết rạn nứt trong thực tiễn phi pháp thâm căn cố đế, nhưng cải cách có hiệu lực phải hướng tới thay đổi các giá trị văn hóa. Do vậy, cải cách sẽ là quá trình lâu dài và đau đớn.

Chú thích:

1. Hiranuma, Hiranuma Kiichirò kaikoroku, 231.
2. Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 2:1368–1369; Yamamoto, Shinbunkisha no tanjò, 255.
3. Quoted in Tsunoda, Japanese Tradition, 2:140.
4. Japan, Ministry of Justice, Research and Training Institute, Summary of the White Paper on Crime 1980, 18. Judges are partial to suspended sentences in all criminal cases. See John O. Haley, Authority without Power: Law and the Japanese Paradox, 128–129.
5. Quoted in Najita, “Reflections on Idealism,” 56.
6. Quoted in Haley, Authority without Power, 172–173.
7. Nathaniel B. Thayer, How the Conservatives Rule Japan, 26–27.
8. Quoted in ibid., 27.
9. Kubota, “Genuine Reform?” 109–110.
10. Richardson and Flanagan, Politics in Japan, 186.
11. Gary D. Allinson, “Politics in Contemporary Japan: Pluralist Scholarship in the Conservative Era—A Review Article,” 331.
12. Chalmers Johnson, MITI and the Japanese Miracle: The Growth of Industrial Policy, 1925–1975, 39.
13. B. C. Koh, Japan’s Administrative Elite, 229.
14. Ibid.
15. Ibid., 227–229.
16. Calman, Japanese Imperialism, 252–275.
17. Herzog, Pseudo-Democracy, 154–155.
18. Japan, White Paper, 18.
19. New York Times, February 17, 1994, A8.
20. Quoted in ibid.
21. Tamiya, “Òura jiken,” 112.
22. Mamoru Iga and Morton Auerbach, “Political Corruption and Social Structure in Japan,” 558–560. Notes to Pages 138–146 181
23. Ibid., 560.
24. Quoted in Hattori Takaaki, “The Legal Profession in Japan: Its Historical Development and Present State,” 125 n. 50.
25. Yayama, “The Recruit Scandal,” 93, 95–96.
26. Herzog, Pseudo-Democracy, 164, 269.
27. Karl Dixon, “Japan’s Lockheed Scandal: ‘Structural Corruption,’ ”340.
28. Murobushi, Jitsuroku Nihon, 302, 309.
29. Herzog, Pseudo-Democracy, 152. The entry under “political corruption” in Kòdansha’s Illustrated Encyclopedia, 2:1211, focuses exclusively on postwar corruption.
30. Ben-Dor, “Corruption, Institutionalization, and Political Development,” 63–82; Arnold J. Heidenheimer, ed., Political Corruption: Readings in Comparative Analysis.
31. Quoted in Dixon, “Lockheed Scandal,” 359–360.
32. R. P. G. Steven, “Hybrid Constitutionalism in Prewar Japan,” 100.
33. Ibid., 114–115, 117, 119.
34. Ibid., 123–124.
35. Ibid., 132.
36. van Wolferen, Enigma, 5.
37. Ibid., 41.
38. Richardson and Flanagan, Politics in Japan, 100–105, 182.
39. Ibid., 182.
40. Harumi Befu, “Gift-Giving in a Modernizing Japan,” 445, 450; also see Takie S. Lebra, Japanese Patterns of Behavior, 96–101.
41. Iga and Auerbach, “Political Corruption,” 559–560.
42. Ibid., 563.
43. Harumi Befu, “From ‘Bribery in Japan: When Law Tangles with Culture,’ ” 87, 92.
44. Williams, Political Revolution, 252.
45. Mayfair Mei-hui Yang, Gifts, Favors, and Banquets: The Art of Social Relationships in China, 217; N.H.K., The First Emperor, December 1994. This TV program was about the discovery of more than nineteen hundred bamboo strips in the grave of a Ch’in dynasty official. On these strips are orders from both the emperor and local government heads. Thus, for the first time, there are details about the Ch’in legal code and orders to officials.
46. Wallace Johnson, trans., The T’ang Code, vol. 1: General Principles, 23, 27, 127, 133–135, 206, 238, 278.
47. Etienne Balazs, Chinese Civilization and Bureaucracy: Variations on a Theme, ed. Arthur F. Wright, 12.
48. Ibid., 10.
49. Ibid., 223, 282; James T. C. Liu, Reform in Sung China: Wang An-shih (1021–1086) and His New Policies, 60, 80–85.
50. John R. Watt, The District Magistrate in Late Imperial China, 129–131.
51. Ibid., 209.
52. Kung-ch’uan Hsiao, Rural China: Imperial Control in the Nineteenth Century, 257.
53.Watt, District Magistrate, 171; Thomas A. Metzger, The Internal Organization of Ch’ing Bureaucracy: Legal, Normative, and Communication Aspects, 323 n. 82; George T. Staunton, trans., Ta Tsing Leu Lee . . . Penal Code of China,
379–382, 384–385.
54. Metzger, Ch’ing Bureaucracy, 323 n. 82.
55. O. Edmund Clubb, Twentieth-Century China, 75–77, 274; Gunnar
Myrdal, Asian Drama: An Inquiry into the Poverty of Nations 2:938 n. 1.
56. Ibid.
57. Perry Link, Evening Chats in Beijing: Probing China’s Predicament, 53, 55.
58. Quoted in ibid., 58.
59. Quoted in ibid.
60. Ibid.
61. Lena H. Sun, “High Anxiety: China Is Stressed by the Challenge of
Change,” 17.
62. Lena H. Sun, “Seeds of Revolt Sprouting among China’s Peasants,” 18.
63. New York Times, March 29, 1995, Al; July 15, 1995, A6.
64. For China, see Ichisada Miyazaki, China’s Examination Hell: The Civil Service Examinations of Imperial China, 62–63, 120–121; Ping-ti Ho, The Ladder of Success in Imperial China: Aspects of Social Mobility, 1368–1911, 191–192;
Mary C. Wright, The Last Stand of Chinese Conservatisim: The T’ung-Chih Restoration, 1862–1874, 81, 89–90.
65. Rance P. L. Lee, “The Folklore of Corruption in Hong Kong,” 358.
66. John W. Hall, “The Confucian Teacher in Tokugawa Japan,” 287, 290.
67. Ibid., 292.
68. James B. Palais, Politics and Policy in Traditional Korea, 12–13; Bong-Duck Chun et al., Traditional Korean Legal Attitudes, 25.
69. Pyong-choon Hahm, The Korean Political Tradition and Law: Essays in Korean Law and Legal History, 66–67.
70. Laurel Kendall, “Death and Taxes: A Korean Approach to Hell,” 8.
71. Jung-en Woo, Race to the Swift: State and Finance in Korean Industrialization, 9, 81, 83–84.
72. Korea Focus on Current Topics 1:126–127, 129.
73. Ibid., 2:107.
74. William B. Gwyn, Democracy and the Cost of Politics in Britain, 12.
75. Quoted in ibid.
76. Quoted in ibid., 13.
77. Ibid., 19.
78. Ibid., 68–69, 72.
79. Quoted in ibid., 72.
80. Ibid., 85; R. K. Webb, Modern England: From the Eighteenth Century to the Present, 395.
81. Webb, Modern England, 326–327, 394–396.
82. Ibid. 396; Gwyn, Democracy, 89–91.
83. Gwyn, Democracy, 90.
84. Ibid., 92.
85. Ibid., 90 n. 1.
86. Edward S. Corwin, The Constitution and What It Means Today, 68. Notes to Pages 152–157 183
87. Noonan, Bribes, 433.
88. Ibid., 434, 451, 453–455.
89. John M. Blum et al., The National Experience: A History of the United States to 1877, pt. 1, 405.
90. Morton Keller, “Corruption in America: Continuity and Change,” 12.
91. John M. Blum et al., The National Experience: A History of the United States since 1865, pt. 2, 414; John A. Garraty, A Short History of the American Nation, 390; Noonan, Bribes, 526–534, 564.
92. Blum, National Experience, pt. 2, 627–628; Noonan, Bribes, 566.
93. Noonan, Bribes, 566–567.
94. Ibid., 568–569.
95. Ibid., 575.
96. Ibid., 601–619.
97. Ibid., 625–637, 677–678.
98. Ibid., 705.
99. Ibid., 604.
100. Kyoji Wakata, “Japanese Diet Members: Social Background, General Values, and Role Perception,” 210.
101. J. A. A. Stockwin, “Factionalism in Japanese Political Parties,” 165.
102. Raymond V. Christensen, “Electoral Reform in Japan: How It Was Enacted and Changes It May Bring,” 605.
103. Myrdal, Asian Drama, 2:940.
104. Ibid.
105. Ibid.
106. Ibid., 941.
2.

3.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.