Có một hội thảo như vậy đã diễn ra.
"Rất ít người biết rằng Bình Ðịnh đã có những đóng góp trong việc phôi thai chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ XVII; truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Ðược sự phối hợp tham gia của một số cơ quan và nhà nghiên cứu, Sở VH-TT&DL đang trình UBND tỉnh, xin tổ chức Hội thảo “Bình Ðịnh với chữ Quốc ngữ” trong năm 2015."
Dưới là tin các nơi.
---
1.
Viết bởi admin | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thứ năm, 19 Tháng 11 2015 09:28 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
BÀI THAM LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC "BÌNH ĐỊNH VỚI CHỮ QUỐC NGỮ"
(Cập nhật ngày 12/01/2016)
DANH SÁCH CÁC TÁC GIẢ ĐĂNG KÝ VIẾT THAM LUẬN
HỘI THẢO KHOA HỌC “BÌNH ĐỊNH VỚI CHỮ QUỐC NGỮ"
(Cập nhật ngày 28/12/2015)
http://svhttdl.binhdinh.gov.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=2182&Itemid=27
|
2.
Chủ Nhật, 08/02/2015, 09:27 (GMT+7)
Rất ít người biết rằng Bình Ðịnh đã có những đóng góp trong việc phôi thai chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ XVII; truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Ðược sự phối hợp tham gia của một số cơ quan và nhà nghiên cứu, Sở VH-TT&DL đang trình UBND tỉnh, xin tổ chức Hội thảo “Bình Ðịnh với chữ Quốc ngữ” trong năm 2015.
Bia di tích nhà thờ Nước Mặn. |
Chữ Quốc ngữ ra đời đến nay khoảng 400 năm, thế nhưng việc xác định thời gian và địa điểm sáng chế chữ Quốc ngữ vẫn còn những ý kiến khác nhau: có ý kiến cho rằng chữ Quốc ngữ ra đời vào cuối thế kỷ XVI, ý kiến khác cho rằng vào đầu thế kỷ XVII; một số tác giả cho rằng Hội An/Thanh Chiêm (Quảng Nam) là nơi phát tích, cái nôi của chữ Quốc ngữ, và những năm gần đây một số tác giả lại đề xuất quan điểm Nước Mặn (Bình Định) là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ!
1.
Lịch sử chữ Quốc ngữ ngay từ đầu đã gắn bó chặt chẽ với lịch sử truyền đạo Thiên chúa giáo ở Việt Nam. Sử sách Công giáo tại Việt Nam thường coi năm 1553 là mốc khởi đầu cho việc mở đạo, khi giáo sĩ I-nê-Xu đến truyền đạo tại vùng Bùi Chu, tỉnh Nam Định ngày nay.
Những năm cuối thế kỷ XVI, nhiều đoàn truyền giáo của các dòng: Đa Minh, Phan-xi-cô đến Việt Nam truyền giáo. Do vậy, có nhà nghiên cứu cho rằng: Trong thế kỷ XVI phiên âm tiếng Việt rất có thể đã có sự khởi đầu qua các giáo đoàn ở từng thời kỳ trong các khu vực khác nhau của nhà Mạc, vua Lê chúa Trịnh và nhà Nguyễn.
Trong thế kỷ XVI, việc truyền giáo ở Việt Nam chỉ mới manh nha, chưa có hệ thống tổ chức chặt chẽ, chưa có kế hoạch liên tục nên kết quả thu hoạch không được nhiều. Đến thời kỳ sau, khi xuất hiện các thừa sai Dòng Tên phụ trách, vấn đề này có nhiều chuyển biến.
Các thừa sai Dòng Tên ở Macao (Trung tâm của Dòng Tên), phụ trách vùng truyền giáo Đông Á, chính thức thành lập ở Đàng Trong vào năm 1615 và ở Đàng Ngoài 1627. Năm 1615, hai linh mục Dòng Tên Buzumi và Carvalho đến cửa Hàn (Đà Nẵng). Qua năm sau, linh mục Carvalho trở về Nhật Bản. Sau đó, cộng tác với Buzomi còn có các giáo sĩ khác: Fernandez (đến 1616), Barrete và Pina (đến 1617). Đây là cơ sở để phát sinh lập luận: các giáo sĩ đến Hội An/Thanh Chiêm trước Nước Mặn, và để truyền giáo phải phiên âm chữ Quốc ngữ, một số nhà nghiên cứu cho rằng: Hội An/Thanh Chiêm là nơi tiên khởi chữ Quốc ngữ và Hội An/Thanh Chiêm là cái nôi của chữ Quốc ngữ.
Cả hai ý kiến nêu trên chỉ là suy luận và còn thiếu dẫn chứng khoa học. Vì lẽ, các vị thừa sai Dòng Tên đến ở và truyền giáo ở Đàng Trong từ năm 1615 chủ yếu tại ba địa phương gồm: Cửa Hàn (Đà Nẵng), Hội An - Thanh Chiêm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Bình Định). Nhưng Nước Mặn chính là nơi đóng bản doanh của giáo đoàn các tu sĩ Dòng Tên và Cha bề trên Buzomi chọn nơi này để ở. Cha Pina đến Hội An năm 1617 gặp lúc người ta săn đuổi các thừa sai, ông được các giáo dân Nhật ở Hội An đưa về nuôi giấu. Cha Borri vừa đến Hội An đầu năm 1618 được quan trấn phủ Quy Nhơn - Trần Đức Hòa đón về Nước Mặn cùng với Buzomi, Pina và hai thầy Diaz, Augustino. Như vậy có thể thấy, Nước Mặn là địa phương có vị trí nhỉnh hơn nhiều so với Cửa Hàn, Hội An - Thanh Chiêm.
Sắc của vua Lê phong ông Trần Đức Hòa tước Cống Quận Công năm Quang Hưng thứ 8 (1584). |
Những năm gần đây, luận điểm cho rằng Nước Mặn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ được bổ sung thêm nhiều chứng cứ khoa học về văn bản học, ngôn ngữ học. Đáng chú ý là những tài liệu thời khai sinh Giáo hội Công giáo Việt Nam lưu trữ trong thư viện Bảo tàng Dòng Tên ở Macao, ở Rôma do Roland Jacques (nhà ngôn ngữ học, thần học, sử học người Pháp) khám phá. Những tài liệu đó đã chứng minh:
- Ba nhà truyền giáo có công đầu tiên trong việc phiên âm sáng chế chữ Quốc ngữ là Cha bề trên Buzomi cùng hai cộng sự của ông là: Pina và Borri.
- Những bản dịch các bản văn Kitô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618, và phần thiết yếu do công của Francisco de Pina và chàng thanh niên Việt Nam cộng tác với ông ấy. Roland Jacques cũng xác nhận rằng: Ba tu sĩ Dòng Tên bấy giờ có mặt tại cơ sở truyền giáo Pulo Cambi (Quy Nhơn), lúc công trình này tiến hành là các linh mục Buzomi, Pina và Borri.
- Pina xác nhận: ngay từ năm 1622, ông đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống chuyển mẫu chữ la-tinh cho thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt Nam. Ông đã làm được một tuyển tập và bắt đầu viết một bản văn phạm. Kết quả đó, Pina đã đạt được một cách vất vả, với sự trợ giúp của một số ít học sinh Việt Nam quy tụ quanh ông.
- Những bản phúc trình về hoạt động truyền giáo xứ Đàng Trong bằng tiếng Bồ Đào Nha, tiếng La-tinh, tiếng Ý có phiên âm chữ Quốc ngữ đầu tiên hiện còn lưu trữ ở thư viện Bảo tàng Rôma được viết năm 1620…
Trong lúc chúa Nguyễn ban bố lệnh cấm đạo và trục xuất các nhà truyền giáo, quan trấn phủ Quy Nhơn - Trần Đức Hòa đã cưu mang đưa về dựng trú sở và nhà thờ tại Nước Mặn, trợ cấp tiền để sống, hoạt động truyền giáo và phiên âm sáng chế ra chữ Quốc ngữ. Như vậy, có thể nói, Trần Đức Hòa là người Việt Nam có công đầu tiên trong việc sáng chế chữ Quốc ngữ.
Bản điều trần 1 và 2 của Đặng Đức Tuấn . |
2.
Ba tác phẩm hoàn chỉnh viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên là: Từ điển Việt - Bồ - La, Văn phạm Việt ngữ và Phép giảng tám ngày (của giáo sĩ Alexandre de Rhodes) được in từ năm 1651 tại Roma (Italia). Nhưng phải đến nửa sau thế kỷ XIX, ở Việt Nam, nhà in chữ Quốc ngữ đầu tiên mới được thành lập. Kể từ đó, chữ Quốc ngữ bắt đầu truyền bá rộng rãi. Ba nhà in đầu tiên: nhà in Tân Định - Sài Gòn, nhà in Ninh Phú - Hà Nội và nhà in Làng Sông - Quy Nhơn. Đây là ba nơi truyền bá và phát triển chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Nhà in Làng Sông được hình thành trước năm 1872. Đến năm 1904, nhà in Làng Sông được nâng cấp, đổi mới hệ thống máy in khổ rộng hiện đại nhất lúc bấy giờ. Một số lượng lớn sách, báo được nhà in xuất bản. Theo thống kê trong Mémorial của Giáo hội, năm 1922, nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác; riêng báo Lời Thăm mỗi tháng hai số, mỗi số in 1.500 bản phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của nhà in Làng Sông trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3,407 triệu trang in.
Có lẽ, do được trang bị máy in hiện đại hơn, nên nhà in Làng Sông đã nhận in nhiều loại sách của các cây bút Quốc ngữ nổi tiếng ở Nam Bộ lúc bấy giờ như: Trương Vĩnh Ký, Pierre Lục, Lê Văn Đức… Năm 1910, nhà in Làng Sông in 25 đầu sách Quốc ngữ, sách học trường học xếp mục đầu tiên trong các loại sách và được tái bản nhiều lần nhất: Phép đánh vần tái bản 5 lần, Ấu học tái bản 3 lần, Con nít học nói tái bản 3 lần…Theo thống kê của Thư viện Quốc gia Hà Nội: Thư viện hiện còn lưu giữ 241 đầu sách chữ Quốc ngữ của nhà in Làng Sông (Quy Nhơn). Năm 1934, nhà in mới của giáo phận được xây dựng trong khuôn viên Chủng viện Quy Nhơn, hoạt động song song với nhà in Làng Sông. Ít lâu sau, nhà in Làng Sông sát nhập về nhà in Quy Nhơn và dừng hoạt động vào năm 1947.
Bìa cuốn: Tường trình về khu truyền giáo xứ Đàng Trong của Chriftoforo Borri, nguyên văn tiếng Ý, viết năm 1621, in năm 1631. |
Những cây bút mở đầu phát triển và truyền bá nền văn học Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX hầu hết ở Nam Bộ như: Trương Vĩnh Ký, Lê Văn Đức, Pierre Lục, ở miền Trung đáng kể có Đặng Đức Tuấn (Hoài Nhơn, Bình Định), Bùi Văn Lăng (An Nhơn, Bình Định)… Đặng Đức Tuấn giỏi cả chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latinh, Pháp văn. Năm 1862, Đặng Đức Tuấn được vua Tự Đức cử tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn ký Hòa ước Nhâm Tuất. Đặng Đức Tuấn nổi tiếng với các tác phẩm bàn về kế sách đánh giặc Pháp: Hoành mao hiến bình Tây sách, Sát tả bình Tây hịch, Minh đạo bình Tây sách… Đặng Đức Tuấn có nhiều đóng góp cho văn học nước nhà và để lại những tác phẩm giá trị bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ. Tại Hội thảo quốc tế lần thứ 2 về chữ Nôm (Huế -2006), tham luận bàn về Thuật tích việc nước Nam của Đặng Đức Tuấn, học giả Wynn Wilcox (Mỹ) gọi ông là: thi sĩ, nhà ngoại giao, văn sĩ, sử gia. Hiện nay, tại Huế có con đường mang tên ông - Đặng Đức Tuấn. Ông xứng đáng là tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam. Bùi Văn Lăng là người chuyển ngữ thơ tiếng Việt sang tiếng Pháp rất giỏi, được giới văn đàn nể trọng, sách đã in có: Địa dư nông học tỉnh Bình Định, Danh nhân Bình Định, Lịch sử Đào Duy Từ, Mostalgie par une nuit d’automne; chuyển ngữ: Tần cung oán, Chinh phụ ngâm, Truyện Trê Cóc.
Được sự phối hợp tham gia của các cơ quan: Viện Ngôn ngữ Việt Nam, Tạp chí Xưa & Nay, Tạp chí Văn Hiến, Trường ĐHKHXHNV TP. Hồ Chí Minh, Trường ĐH Quy Nhơn, Giáo phận Quy Nhơn, Báo Tuổi Trẻ và nhiều nhà nghiên cứu trong cả nước, Sở VH-TT&DL đang trình UBND tỉnh, xin tổ chức Hội thảo Bình Định với chữ Quốc ngữ vào năm 2015.
NGUYỄN THANH QUANG
http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=46&macmp=46&mabb=35962
3.
Thì ra là vậy, cảm ơn tác giả đã cho tôi một cái nhìn sâu sắc và thêm hiểu biết
Trả lờiXóabiet thu dep hien dai
giuong ngu gia re
nha xinh