Ghi chép linh tinh lúc rảnh việc cày ruộng và đọc sách

18/01/2015

Tết Nguyên Đán ở Thăng Long thời thế kỉ 17 (bài Đỗ Quang Chính)

Tết Nguyên Đán đến là các quan sẽ lũ lượt đi lễ đi tết vua, rồi chúa. Người ta phải xếp hàng đông nghịt trước cung vua hay phủ chúa. Chúa Trịnh về sau thì phớt lờ vua Lê, không đi tết vua vào ngày Mồng Một như các đời chúa đầu tiên.

Đại khái thế.

Bài lấy về từ trang Dòng Tên Việt Nam.

---
Ngày đăng: 10/06/2011 


Tác giả: Đỗ Quang Chính, sj

Tết Nguyên đán là những ngày vui vẻ nhất trong năm của người Việt Nam. Joseph Tissanier, người Pháp, sống ở Thăng Long từ 1658-1663 đã dự năm cái Tết ở đây, tả rõ rằng, vào dịp này người Việt sửa soạn mọi cái cho long trọng, từ nhà cửa đến đề ăn, áo mặc. Túng cực đến đâu cũng phải kiếm cho đủ tiền bạc tiêu dùng ba ngày Tết. Có những kẻ nghèo khổ, phải đi ăn cắp vặt hoặc dùng võ lực cướp của người khác, hầu được sống dung dung trong những ngày đầu Xuân [1]. Vì vậy trong những đêm gần Tết, nhiều nhà phải thức đêm canh trộm.
Cuối năm, các chợ Tết hết sức nhộn nhịp, vì mọi người giàu sang, nghèo hèn đều đi mua sắm. Quan cũng như dân đều lo may quần áo mới, dọn dẹp nhà cửa cho khang trang, sửa sang võng cáng, tàn lọng, đắp lại mồ mả, cột nhà tường vách treo đầy câu đối, tranh vẽ, vua chúa cũng cho quét dọn lăng tẩm…[2]
Theo Bento Thiện viết năm 1659: “đến gần ngài bết bua chúa ban lịch cho thiên hạ xem ngài” [3], trong đó những ngày nghỉ Tết được ấn định rõ ràng. Thường bắt đầu nghỉ từ ngày 25, 26 tháng chạp, và có thể kéo dài tới ngày 10 hay 15 tháng giêng. Những ngày đó, nếu có chiến tranh, cũng tạm ngưng để ăn Tết. Từ ngày 25 tháng chạp, ấn dấu của vua chúa, quan quyền đều được lau chùi sạch sẽ, cất vào hộp, không dùng tới; khí giới quân đội cũng lau lọt sáng nhoáng để một nơi.
Chúng ta thử coi, năm 1659 thầy giảng Bento Thiện đã viết về Tết Nguyên đán thế nào: “Thói nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy chúa, mới lạy ông bà ông vãi, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy vua chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì vua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ. Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kì. Vua chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bảy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ ăn mừơi ngày. Lại xem ngày nào tốt, mới mở ấy ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội đài, ngoại hiến, phủ huyện, quan đăng nha môn, mới có kiện cáo”. Chính Bento Thiện lại viết chữ quốc ngữ đoạn trên như sau: “Thóy nước Annam, đầu Năm mùỏ một tháng giang gọi là ngài tết. Thien hạ đi lại bua, đoạn lại chúa mớy lại oủ bà oủ bải cha mẹ củ kẻ cả bề tiên, quan quièn thì lại bua chúa, thứ dân thì lại bụt tlưác, ăn tết ba ngài mà một ngài tlưác mà xem ngài mùỏ hay mùỏ ba, ngài nào tốt, thì bua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ blờy hiẹu thien thưạng đế hoàng địa kì. Bua chúa thì lạy mà xin cho thien hạ được mùa củ dân an, đến mùỏ bải mùỏ tám mớy hết củ làm cỗ cho thien hạ ăn mươỳ ngài, lại xem ngài nào tốt, mơý mở ấn ra cho thien hạ đi chầu củ làm vịec quan, củ hỏi kịen mọy vịec, lại làm như tlưác mớy khai cuác, thien hạ bào chầu bua,từ ấy mớy có phien đi chầu, nộy đài ngoặy hién phủ huịen quan đảng (đăng?) nha môn, mớy có kịen cáo”[4]
Mấy ngày cuối năm, một số người già cả không dám ở nhà mình, nhưng phải đi trú trong đền chùa, được coi là chốn nương thân an toàn nhất. Vì họ tin rằng, dịp này có một thứ “quỷ” tên là Thưang (Thương) hay Voutuan (Vũ tuần) [5] chuyên đi bóp cổ sát hại những người già nua, nam cũng như nữ. Do đó nhiều người giả phải lẩn tránh trong đền, chùa cả ngày đêm không dám bước ra ngoài. Mãi đến lúc giao thừa họ mới dám về nhà, vì nghĩ “quỷ” ác ấy đã đi khỏi. Bởi đấy dân chúng gọi ba ngày cuối năm là ba ngày chết. Cuối năm nhiều người còn dùng vôi vẽ trước cổng ngõ, những hình vuông, tròn, hay tam giác, nhất là hình con mèo, trong số các hình, thì hình tam giác và con mèo làm cho ma quỷ sợ nhất. [6]
Tối ba mươi Tết mọi nhà đều dựng cây Nêu trước cửa. Đó là một “cột” thường làm bằng tre, cao hơn nóc nhà một chút (nên biết, ở thủ đô Thăng Long thế kỷ XVII, chỉ có nhà trệt, kể cả đền đài vua chúa). Gần ngọn cây Nêu người ta cột một cái giỏ hay chiếc hộp thông nhiều lỗ, bên trong đựng vàng mã. Vì theo Alexandre de Rhodes, dân chúng tin rằng, dẫu ông bà cha mẹ đã chết, nhưng các ngài cũng cần tiêu xài, và nhất là để trả những món nợ chưa xong khi còn sống. Theo phong tục Việt Nam thời đó, cứ cuối năm mãn chạp, liệu sao tính sổ sách cho xong: ai còn nợ, cố gắng trả cho sạch; nếu có tiền cho vay cũng phải đòi lại hết. Không ai muốn để giây dưa sang năm mới. Mọi thứ nợ cũ phải thanh toán hoàn toàn, trừ trường hợp bất khả kháng. Bởi lẽ, còn nợ sợ rằng, nếu đến ngày ba mươi Tết mà chưa trả, lỡ ra chính ngày mồng Một chủ nợ đến nhà đòi, thì thật là xui xeo suốt cả năm. [7]
Theo tài liệu viết tay bằng chữ Quốc ngữ của Thầy giảng Bentô Thiện năm 16559, mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên, thì dân chúng lại dựng cây Nêu vào sáng ngày mồng Một; điểm này có lẽ ông Thiện ghi không đúng. Còn về ý nghĩa cây Nêu, ông Thiện lại trình bày khác. Theo ông, thì tục truyền rằng Đức Phật và quỷ tranh giành đất nhau. Đức Phật nói cho quỷ hay, hễ ngài trải áo cà sa tới đâu thì đất đó thuộc về ngài, còn lại là phần quỷ. Vậy Đức Phật trải áo ngài ra khắp mặt đất, làm cho quỷ không có đất ở, đành phải xuống biển. Nhưng cứ hết năm cũ, ma quỷ lại tranh đất với Đức Phật. Bởi đấy, mọi người phải dựng cây Nêu từ sáng sớm ngày mồng Một, để quỷ biết rằng đó là đất của Đức Phật đã trải áo cà sa tới; còn ai không dựng cây Nêu là đất của quỷ. [8]
Đến nửa đêm giao thừa, trong vương phủ (phủ chúa Trịnh) ba súng đại bác nổ vang báo hiệu bước sang năm mới. Theo Marini, người Ý, sống ở Đàng Ngoài từ 1647-1658, thì chính lúc giao thừa mọi người đều hội họp trong nhà và bó buộc phải mở cửa hầu đón tiếp tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Giường chiếu cũng đã dọn sạch sẽ, để tổ tiên nghỉ ngơi sau nhiều ngày đàng mệt nhọc mới về tới nhà con cháu. Ngoài ra cũng đặt ngoài hiên nhà một chậu nước sạch, một đôi giép hay guốc, và có khi hai cây mía nữa. Làm thế để hồn tổ tiên trước khi vào nhà cũng rửa chân, đi guốc cho sạch, trước khi lên giường; còn hai cây mía được coi như hai chiếc gậy giúp tổ tiên chống bước vào nhà. Mọi người sau giờ giao thừa, đều tưởng tượng là tổ tiên đã vào nhà cách vô hình [9]. Lúc đó gia trưởng nói mấy lời chúc mừng tổ tiên. Trên bàn thờ tổ, khói hương nghi ngút. Gia trưởng cùng mọi người trong nhà làm lễ cùng vái, tạ ơn tổ tiên, mời tổ tiên cùng chung vui với họ, và xin phù hộ cho con cháu năm mới được bằng an, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Liền đó trong gia đình mừng tuổi nhau: con cái lạy cha mẹ, tôi tớ lạy chủ nhà, rồi cha mẹ ban quà mừng tuổi cho con cháu, tôi tớ.
Trong ba ngày tết, nhất là ngà mùng Một, người ta đi chúc tuổi nhau; vào nhà nào cũng được mời ăn, nếu từ chối là bất lịch sự. Ngày mồng Một Tết, khi vừa ra đường mà trước tiên lại gặp phải người đàn bà, thì họ liền về nhà, chờ hai, ba giờ sau mới dám ra đường; trái lại họ sẽ gặp xui. Nhưng nếu bước chân ra đường, trước tiên lại gặp được một người đàn ông, thì thật hên. [10]
Đi Tết ai, thường cũng tết thêm mấy bánh pháo to nhỏ tuỳ theo cấp bậc, địa vị; vừa xướng Tết xong, người ta liền đốt pháo cho ran nhà, cho tà ma bỏ chạy, để hạnh phúc tràn tới. Người dưới phải đem đồ, hoặc cho người đại diện đi tết người trên. Con cháu phải tết ông bà, cha mẹ, chú bác; trò phải tết thầy… Các quan cấp dưới cũng phải gửi đồ tết quan trên. Vì vậy nhà các đại quan tràn ngập đồ tết. Thường thường các vị đó lại đem tặng bạn bè, hoặc cho quân lính, kẻ hầu hạ, để mọi người được hưởng lộc. Tất cả các quan lại không buộc dâng đồ Tết vua chúa.
Đồ tết của người dưới đối với người trên hầu hết là thực phẩm: gạo, heo, gà, vịt, cau, đường, trái cây, bánh, mứt… Nếu là quân lính, sẽ họp nhau cùng tết viên quan chỉ huy trực tiếp. Họ mang đồ Tết đến nhà quan bằng một nghi thức trang trọng: đi đầu là cai đội (chỉ huy từ 2 đến 6 thuyền, mỗi thuyền từ 30 đến 60 lính) rồi đến lính bưng một quả (hộp) gạo), và khênh con heo mới giết đặt trên bàn, để trước mặt quan. Viên quan ngồi giữa nhà thật oai nghiêm. Quân lính lạy quan sát đất ba lần. Quan nhận đồ Tết, rồi bảo người hầu đem cất đi; sau đó ban quà mừng tuổi cho lính tương xứng với đồ Tết. Còn quà mừng tuổi của vua chúa cho các quan là một bộ phẩm phục, đặt trong quả (hộp) áo sơn son vẽ rồng, cùng một mẫu. Vua chúa sai người bưng quả áo đến nhà viên quan, đi theo có lính che lọng quà mừng tuổi. Việc che lọng trên không có ý tránh mưa nắng, nhưng chỉ là tỏ sự cung kính món quà vua chúa ban.
Ba ngày cuối năm, bốn mươi đại quan thuộc triều đình và vương phủ, đi nhận lời tuyên thệ trung tín của các quan văn võ, và có khi cả gia đình họ nữa. Đó là lời thề trung thành với vua chúa; nếu nhận thấy điều gì có thể nguy hại cho vua chúa hoặc cho quốc gia, họ phải đi tố cáo. Đấy là lễ tuyên thệ tại thủ đô Thăng Long. Còn tại các Xứ, thì quan Trấn thủ, Đốc trấn và Lưu thủ [11] đại diện cho vua chúa, nhận lời thề các quan trực thuộc. Trong dịp này bất kể ai tố cáo ra một cuộc mưu phản, thế nào cũng được thưởng. Phần thưởng không những tuỳ theo tính cách quan trọng vụ âm mưu, mà còn theo chức tước người tố cáo. Nếu kẻ tố cáo là một viên quan, thì họ chỉ được hưởng tuỳ theo ý muốn vua chúa, vì nhiệm vụ của họ là phải giữ trật tự an ninh quốc gia; nếu là người dân thì được thuởng cho một phẩm hàm hoặc được thăng quan chức; hơn nữa khi tố cáo được vụ phản loạn lớn, chúa Trịnh còn ban thêm cho họ tới 500 lượng vàng hoặc 5.000 lượng bạc. Tuy nhiên dân chúng không chuộc tiền thưởng bằng được thăng quan. [12]
Ngày ba mươi Tết, Tây định vương Trịnh Tạc cùng quan quân theo hầu, ra khỏi vương phủ để đi tắm ở sông hoặc tại một chiếc nhà gần đó, hầu thanh tẩy cuộc sống dĩ vãng, đón nhận đời sống mới trong năm tới. [13]
Sáng ngày mồng một Tết, cũng như ngày một và rằm mỗi tháng chúa Trịnh cùng các quan đến chầu vua Lê; dĩ nhiên ngày mồng Một Tết buổi chầu được tổ chức long trọng hơn cả [14]. Nhưng khi Trịnh Tạc thế vị cha lên cầm quyền (1657), ông lấn đoạt quyền hành vua Lê nhiều hơn, ông cũng không đi chầu vua vào các ngày mồng một và rằm mỗi tháng. Hơn nữa, dường như từ năm 1658 trở đi, Trịnh Tạc cũng không đích thân đi tết vua, mà chỉ đón vua đi tế Nam giao. Tuy nhiên, ông cử một quan đại diện đến tết vua và chầu vua mỗi tháng hai lần.
Sau khi tết vua, các quan trở lại tết chúa. Theo Tissanier và Tavernier thì khung cảnh tết chúa long trọng hơn tết vua nhiều. Khi các quan đi chầu hoặc tết vua chúa, phải mặc áo tím, đội mũ lục lăng và phải lạy sát đất 4 lần [15]. Riêng nữ giới chỉ buộc lạy một lần theo kiểu lạy của họ (ngồi mà lạy). Dịp này cũng như các dịp khác ai muốn dộng [16] xin ân huệ gì, thì đội của lễ lên đầu, hoặc bưng cao ngang trán, tiến gần tới chúa để nói. Nếu chúa nhận lời, ngài sẽ bảo người hầu cất của lễ đi; bằng không, thì chúa cũng không nhận của lễ.
Đúng mồng ba Tết chúa Trịnh mới tiếp người ngoại quốc đến dâng tuổi. Dịp tết Canh Tý, Vĩnh thọ năm thứ 3 (1660), phái đoàn Trung Hoa chúc tuổi chúa Trịnh Tạc trước hết theo nghi lễ Trung Hoa, rồi lại lạy chúa theo nghi lễ Việt Nam, phái đoàn Hòa Lan chỉ chào chúc chúa theo nghi thức Hòa Lan…. Còn hai linh mục dòng Tên Onuphre Borgès (Thuỵ Sĩ) và Joseph Tissanier (Pháp) lại lạy hoàn toàn theo kiểu Việt Nam. Tissanier thuật rằng, ngày đó trước vương phủ đông nghẹt người không dễ gì chen chân được. Cũng may hai ông vào được tới một sân lớn để lạy chúa. Các ông cũng mặc áo thụng tím, đội mũ lục lăng, lạy chúa Trịnh Tạc bốn lạy sát đất trước mặt 4.000 người. Khi Tây định vương Trịnh Tạc thấy hai linh mục, ông làm hiệu cho hai vị lạy vương thái hậu (mẹ chúa) đang ngồi cạnh ông. Tức thì Borgès và Tissanier cũng lạy vương thái hậu bốn lần. [17]
Chính ba ngày Tết, nhiều người đều kiêng giữ không quét nhà, có nơi kiêng cả nấu ăn [18]. Tết là dịp nghỉ ngơi, xem ca hát tuồng kịch, đánh bài bạc; cũng vì thế mà nhiều người sạt nghiệp vì Tết.
Nhìn lại một số khía cạnh lịch sử tết nguyên đán thế kỷ XVII, chúng ta thấy ngay được những gì đã biến mất, những gì còn lại ngày nay. Thật ra, tinh thần Tết nguyên đán xưa và nay cũng không khác nhau, nó là dịp long trọng nhất để cấp dưới tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với cấp trên: vua đại diện toàn dân “đi đền giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kỳ”, các quan lại tết vua chúa, con cháu tết cha mẹ ông bà, gia đình xum họp lúc giao thừa đón tổ tiên, trò tết thầy v.v… Mối liên hệ chiều ngang trong dịp này bị xẹp xuống, để làm nổi mối liên hệ chiều dọc trong xã hội gia đình, quốc gia, và cả cái “xã hội” nhân thần, hay nói rộng hơn là sự giao hòa giữa người với Trời Đất, tức tam tài Thiên Địa Nhân.
Về hình thức, Tết vẫn là những ngày lễ nghỉ lâu dài, long trọng và vui vẻ nhất trong năm; vì thời đó, ngoài dịp đầu Xuân, thường thường chỉ có lệ nghỉ ngày một và rằm mỗi tháng chứ không nghỉ ngày Chúa nhật như hiện nay. Chúng tôi xin tạm ngừng ở đây mà không muốn đi sâu vào vấn đề ý nghĩa các phong tục rườm rà Tết nguyên đán, hoặc những nguyên nhân xã hội đã thay đổi nhiều hình thức và cơ cấu Tết nguyên đán ngày nay so với giữa thế kỷ XVII.


Chú thích
[1] “Ceux qui ne trouvent dans leur maison, ni argent, ni habits, en vont chercher ailleurs par des larcins cachez, ou par la force de leurs armes” (J.Tissanier, Relation du voyage… depuis la France jusqu’au Royaume de Tunquin, Paris 1663, tr.265-266).
[2] J.P de Marini, Relation nouvelle et eurieuse des Royaumes de Tunquin et de Lao, Paris 1666, tr.245-246.
[3] Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257v
[4] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Sài gòn 1972, tr.119-120, 145 – Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257r
[5] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.108-109.
[6] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.94.
[7] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.109-110.
[8] Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146.
[9] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.251-252.
[10] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.95
[11] Cai trị Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, An Quảng do quan Trấn thủ; cai trị Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An do quan Đốc trấn; cai trị Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hưng Hóa do quan Lưu thủ.
[12] J.B.Tavernier, sđd, tr.65.
[13] “… đến ngài ba mươy thì đức chúa đi giội gọy là bỏ mọy sự cũ đi mà chịu mọy sự mớy” (coi Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146) – “Le dernier jour de l’an, le Roy (chúa Trịnh Tạc) sort de son Palais auecque son armée, pour s’aller lauer à la riuiere, ou dans quelque maison voisine” (J.Tissanier sđd, tr.266).
[14] A.F.Cardim, Relation… Paris, 1646 tr.59.
[15] J.Tissanier, sđd, tr.260 – J.B.Tavernier, sđd, tr.64.
[16] Dộng là tiếng để nói với chúa Trịnh; cũng như khi nói với vua thì dùng tiếng tâu (tâu vua, dộng chúa); nói với đại quan dùng tiếng bẩm; với quan nhỏ, tiếng trình; với vai trên, thưa. Như vậy trong thuật ngữ xưng hô đẳng cấp xã hội, tiếng dộng ở cấp thứ hai.
[17] J.Tissanier, sđd, tr.270-272.
[18] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.253




Tiểu sử cố linh mục Giuse Đỗ Quang Chính, S.J.



TIỂU SỬ
LINH MỤC GIUSE ĐỖ QUANG CHÍNH, S.J.
(25/11/1929 – 05/02/2012)
HINH CHA CHINH
Linh mục Giuse Đỗ Quang Chính (tên thường gọi trong gia đình là Uông)
sinh ngày 25/11/1929 (theo giấy tờ dân sự 25/11/1915)
tại Triệu Thông, xã Quần Phương Hạ, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định;
được rửa tội ngày 01/12/1929 tại giáo xứ Quần Phương, giáo phận Bùi Chu;
được thêm sức ngày 09/05/1933 tại giáo xứ Quần Phương, giáo phận Bùi Chu,  do Đức Giám Mục Pedro Muñagorri Y Obineta (Trung);
là con Cả trong gia đình có 8 anh chị em, gồm 3 em trai, 4 em gái;
học Triết tại Đại Chủng Viện Bùi Chu từ 1949 – 1951
học Thần tại Đại Chủng Viện Bùi Chu
(cơ sở tại Hà Nội 1951 – 1953;
cơ sở tại Sài Gòn 1954 – 1958)
chịu chức Phó Tế ngày 03/12/1957 tại nhà thờ Thị Nghè, Sài Gòn,
do Đức Giám Mục Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền;
chịu chức Linh Mục ngày 27/07/1958 tại nhà thờ Bùi Phát, Sài Gòn,
do Đức Giám Mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám Mục Tông Tòa Qui Nhơn;
dạy ở Tiểu Chủng viện Bùi Chu,
và sau đó làm giám học trường Nguyễn Bá Tòng từ 1958 – 1965;
vào Nhà Tập Dòng Tên ngày 02/09/1966 tại Pháp với cha giáo tập Michel Rondet;
khấn lần đầu ngày 21/09/1968 tại Pháp;
học chuyên môn về Sử từ 1967 – 1970 tại Sorbonne, Paris;
khấn cuối ngày 05/11/1977 tại Nhà Tập Dòng Tên, Thủ Đức.
đã đảm nhận các nhiệm vụ trong Dòng:
•    Bề Trên nhà Anrê Phú Yên và Socius Miền từ 1972 – 1981
•    Bề Trên Học viện Dòng Tên, Thủ Đức từ 1999 – 2001
•    Bề Trên Nhà Hiển Linh, Thủ Đức từ 1999 – 2004
•    Bề Trên cộng đoàn Giuse Pignatelli từ 2004 – 2006
•    Tư vấn Miền (lần 1) từ 1972 – 1981
•    Tư vấn Miền (lần 2) từ 1999 – 2006
Từ 1970 – 1975
•    dạy tại các Đại Chủng Viện: Huế, Vĩnh Long, Giáo Hoàng Học Viện;
•    và Đại học : Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Tây Ninh.
Từ 1975—1977: đảm nhận nhiệm vụ Cha Sở họ Nhà Thờ Dòng Tên, 105 Nguyễn Đình Chiểu, Sài Gòn.
Nghỉ hưu từ ngày 01/06/2006.
Từ trần lúc 15 giờ 30 phút ngày Chúa Nhật 05 tháng 02 năm 2012 (nhằm 14 tháng Giếng năm Nhâm Thìn).




Linh mục dòng Tên Giuse Đỗ Quang Chính, một cây đại thụ về lịch sử Giáo hội Việt Nam cũng như lịch sử Việt Nam, vừa tạ thế hôm, 5-2, tại Thủ Đức. Hưởng thọ 83 tuổi.

Trước khi vào dòng Tên năm 1966, Cha Chính là giáo sư môn sử địa tại trường Nguyễn Bá Tòng từ năm 1960 và là một nhà nghiên cứu lịch sử.

Hai tác phẩm Người Thời Đại và Chính Trị Nhật Bản 1854-1954 của ngài do Nhà xuất bản Sài Gòn ấn hành năm 1957. Sau đó ngài biên soạn các sách Sử Địa đệ nhất, Sử Địa đệ nhị và Việt Sử đệ nhị, đệ ngũ, đệ lục và đệ thất.

Trong các công trình về lịch sử Giáo hội Việt Nam của ngài, nổi bật nhất là Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt 1615-1773 được nhà xuất bản Antôn Đuốc Sáng xuất bản lần đầu năm 2005 tại Hoa Kỳ, và lưu chiếu tại Quốc hội Hoa Kỳ. Bộ sách gồm 6 cuốn này sau đó được xuất bản lần hai năm 2007 nhân dịp kỷ niệm 50 năm Dòng Tên Việt Nam cùng với các cuốn sách khác như: Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, Hai Giám Mục Đầu Tiên Tại Việt Nam, Dòng Mến Thánh Giá Những Năm Đầu, Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và Hòa Mình Vào Xã Hội Việt Nam.

Năm 2008, Nhà sách Hòa Bình chính thức xuất bản bộ Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt 1615-1773 tại Việt Nam với giấy phép của Nhà Xuất Bản Tôn Giáo.

Có thể nói sáu bộ sách trên là “sự nghiệp đời sử học của Ngài”, nên trước khi lâm bệnh Cha Chính đã đích thân đưa cho linh mục Vinhsơn Đinh Trung Nghĩa, S.J. để chính thức xin phép xuất bản.

Trong thời gian trước khi vào dòng Tên, Cha Chính đã đi chu du nghiên cứu sử học ở nhiều nước, và sau 1975 ngài có những buổi diễn thuyết tại Viện Sử học và được ngài ghi lại trong cuốn Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Theo tin chúng tôi biết, nhà sử học Trần Tuyết Nhung ở Toronto, Canada đã dựa vào các di cảo của ngài trong thời gian ngài lâm bệnh và dự định cuối năm 2012 này sẽ xuất bản các tài liệu nghiên cứu của ngài.

Cha Chính sưu tập nhiều bộ sách sử học quý đang được lưu giữ tại Thư viện Tỉnh dòng Tên Việt Nam do cha Nghĩa làm quản thủ. Cha Nghĩa cho biết ngài đã làm việc với bà Trần Tuyết Nhung để xúc tiến phần nghiên cứu còn lại của những tài liệu này.

Linh cữu cha Chính đang được quàn tại nhà chính Dòng Tên ở Thủ Đức và lễ an táng sẽ diễn ra ngày 8-2 do cha giám tỉnh Giuse Phạm Thanh Liêm chủ sự.

Tiểu sử Linh mục Giuse Đỗ Quang Chính:

Sinh ngày 25-11-1929 (theo giấy tờ dân sự 25-11-1915) tại Triệu Thông, xã Quần Phương Hạ, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Con cả trong gia đình có 8 anh chị em gồm 3 em trai, 4 em gái.
Rửa tội ngày 01-12-1929 tại giáo xứ Quần Phương, giáo phận Bùi Chu.
Thêm sức ngày 09-05-1933 tại giáo xứ Quần Phương.
Học triết học tại Đại Chủng viện Bùi Chu từ 1949 – 1951 và học thần học tại Đại Chủng viện Bùi Chu (cơ sở tại Hà Nội 1951 – 1953 và cơ sở tại Sài Gòn 1954 – 1958).
Phó tế ngày 03-12-1957 tại nhà thờ Thị Nghè, Sài Gòn.
Linh Mục ngày 27-07-1958 tại nhà thờ Bùi Phát, Sài Gòn.
Dạy ở Tiểu Chủng viện Bùi Chu và sau đó làm giám học trường Nguyễn Bá Tòng từ 1958 – 1965.
Vào nhà tập Dòng Tên ngày 02-09-1966 tại Pháp.
Khấn lần đầu ngày 21-09-1968 tại Pháp.
Học chuyên môn về lịch sử từ 1967-1970 tại Sorbonne, Pháp.
Khấn lần cuối ngày 05-11-1977 tại nhà tập Dòng Tên, Thủ Đức.
Đảm nhận các nhiệm vụ:
Bề Trên nhà Anrê Phú Yên và Socius Miền từ 1972 – 1981
Bề Trên Học viện Dòng Tên, Thủ Đức từ 1999 – 2001
Bề Trên Nhà Hiển Linh, Thủ Đức từ 1999 – 2004
Bề Trên cộng đoàn Giuse Pignatelli từ 2004 – 2006
Tư vấn Miền (lần 1) từ 1972 – 1981
Tư vấn Miền (lần 2) từ 1999 – 2006
Từ 1970 – 1975: dạy tại các đại chủng viện Huế, Vĩnh Long, Giáo hoàng học viện và các đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Tây Ninh.
Từ 1975-1977: Cha sở họ Nhà thờ Dòng Tên.
Nghỉ hưu từ 01-06-2006.
Nhớ về một tâm hồn trí tuệ: Linh mục Giuse Đỗ Quang Chính, S.J.
Khi Cha Giám tỉnh chính thức thông báo Cố Chính đã về với Chúa, bỗng nghe tiếng khẽ thốt ra từ phía bên trong: Một tâm hồn trí tuệ đã lìa bỏ chúng ta!

Người ta biết nhiều đến học giả gốc Nam Định ấy, Linh mục Giuse Đỗ Quang Chính, qua pho tác phẩm để đời về những nghiên cứu như: Tập Lịch sử nước Annam, Giáo hội Công giáo hòa nhập với văn hóa gia đình Việt Nam, Lòng thành của bổn đạo Việt Nam, Tình trạng dân số Đàng Ngoài thế kỷ 17, Linh mục Gaspar D’Amaral viết chữ Quốc ngữ mới, Tết Nguyên Đán tại Thủ đô Thăng Long giữa thế kỷ 17, v.v… Và còn rất nhiều tác phẩm nghiên cứu sâu rộng của Cha về hành trình lịch sử của Giáo hội giữa lòng xã hội Việt Nam. Có thể gọi pho tài liệu của Cha là bảo vật! Và nó cần được bảo tồn.



Cha Tổng Quyền Peter Hans-Kolvenbach thăm cố Chính

trong dịp thăm viếng Tỉnh Dòng Việt Nam 2007

Đã có người gọi ngài là nhà sử học, cũng có khi ngài được người ta gọi là nhà nghiên cứu. Tựu trung, với một núi sách ngài đã nghiên cứu, chuyển ngữ, giảng dạy, viết và xuất bản, ngài là một nhà trí thức.

Thế nhưng, thưa Cha, con muốn gọi Cha là một-tâm-hồn-trí-tuệ.

Tiếp xúc với Cha, người ta sẽ hiểu trí thức của ngài không phải chỉ là những ngồn ngộn kiến thức tích lũy bằng trí nhưng còn là sâu lắng cảm thức bằng tâm.

Nhớ những lần con gặp Cha đi bách bộ ở hành lang nhà hưu, rất thanh thản, rất tĩnh tại. Khi ấy anh Hà Ngân được giao phụ giúp Cha, và không ít lần con đã được nghe những điều cao đẹp mà người thân gần nhất kể về ngài. Khi các anh em trẻ gọi Cha là nhà trí thức bậc thầy của Tỉnh Dòng, Cha chỉ mỉm cười không đối đáp. Nét văn hóa của nhà trí thức thực thụ và trải nghiệm.

Có lần anh Ngân đưa con vào thăm, hôm ấy Cha mệt, mà vẫn thấy trong Cha một sự nhẹ nhàng bình thản. Khi con trêu hỏi rằng mai này Cha về với Chúa thì Cha di chúc sách cho con nhé; Cha lại mỉm cười nhưng bằng thái độ ứng trực của một tông đồ theo Chúa, Cha bảo: đã về với Chúa thì còn thiết sự gì nữa mà mang theo. Nhẹ nhàng thôi. Nhưng Cha đã chỉ cho con một nhân cách sống trí tuệ sâu lắng trong tâm hồn.

Tâm hồn trí tuệ ấy đã phong ba một cõi đời: Cha chào đời ở Hải Hậu, thuộc tỉnh Nam Định; tu học ở Bùi Chu, Hà Nội, Sài Gòn; 8 năm sau khi chịu chức linh mục, Cha vào Nhà tập Dòng Tên tại Pháp; rồi du học ở Sorbonne; trở về nước và giảng dạy ở các chủng viện và trường đại học.

Với bao thăng trầm và trải nghiệm cùng với Dòng và Giáo hội giữa dòng lịch sử của xã hội, nay Cha lặng lẽ khép lại một kiếp sống, để bước vào một lẽ sống thiên thu.

Đêm Cha lìa đời, bầu trời vằng vặc một ánh trăng. Ánh trăng tròn đầy đầu tiên của năm Nhâm Thìn. Đêm nay, ở mãi tận cố hương nơi Cha đã chào đời cũng là một đêm quan trọng mang tầm quốc gia: Lễ Khai Ấn Đền Trần để cầu vận quốc thái dân an, nhân sinh thái bình, mưu sinh thịnh đạt.

Và có lẽ đêm nay cũng là đêm hạnh phúc nhất của cuộc đời hơn 80 năm sống trọn vẹn trong ơn gọi làm người, làm con Chúa, và làm môn đệ trong sứ vụ linh mục Dòng Tên. Con tin chắc Cha đã mãn nguyện bắt đầu nghỉ yên trong Chúa sau một cuộc đời dài “đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Ti-mô-thê 4:7).

Con nhớ về Cha. Và ánh trăng soi như rọi sáng hơn một nhân cách sống, một mẫu tông đồ, một gương sứ vụ nơi một tâm hồn trí tuệ của linh mục Dòng Tên Giuse Đỗ Quang Chính.

Xin Cha chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con.


Vũ, SJ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.