Phải đi ngược chiều, mới thấy thú vị.
---
“Ma trận” tiêu chí làng văn hóa (04/11/2009) |
Từ nhiều năm nay, trên cả nước, cán bộ và nhân dân đã có nhiều kiến nghị xung quanh việc đề ra quá nhiều tiêu chí để các mô hình văn hóa đạt danh hiệu. Một số cán bộ làm công tác phong trào cũng không thể nhớ nổi những tiêu chí khi tiến hành đánh giá một làng văn hóa, gia đình văn hóa. Tại hội nghị tổng kết 20 năm phong trào xây dựng làng văn hóa thành phố Hà Nội, ban chỉ đạo còn phải viết vào báo cáo như sau: “Qua thời gian dài, các tiêu chí xây dựng làng văn hóa hiện nay phần nào chưa thích ứng với tiến trình đổi mới chung nên thời gian tới cần thu lại ngắn gọn cho dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện...”.
|
Làng văn hóa cần được xem xét, đánh giá trên cơ sở
những nét đẹp lớn có tác dụng giáo dục, hướng thiện
Ảnh: TL
Dù đã rút gọn đi nhiều nhưng tiêu chí để một làng đạt danh hiệu “làng văn hóa” trong năm 2010 được ban chỉ đạo thành phố Hà Nội đưa ra vẫn còn rườm rà, lủng củng và khó hiểu. Bảng chấm làng văn hóa ở khu vực đồng bằng có tới 100 điểm với 24 tiêu chí lớn, trong mỗi tiêu chí lớn lại có vài tiêu chí nhỏ nữa. Xin đơn cử: Tại điểm k thuộc phần 2 có ghi: “Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra ngộ độc thực phẩm đông người...”. Một ông trưởng thôn hỏi tôi: “Làng tôi vừa rồi có mấy chục người bị ngộ độc thực phẩm vì đi dự đám cưới, toàn bộ số thịt bị nhiễm bệnh đó họ mua ở chợ huyện thì liệu có được công nhận làng văn hóa không”? Đọc lại điều khoản này, tôi nhất quyết rằng, bất luận lý do gì mà để xảy ra ngộ độc thực phẩm đông người thì không được công nhận làng văn hóa. Ông trưởng thôn thở dài, thế thì oan cho bà con quá”.
Đặc biệt tiêu chí “có kiếu kiện tập thể vượt cấp kéo dài” thì lỗi không thuộc về bà con nhân dân, thậm chí không thuộc về chính quyền cấp thôn làng. Đã có không ít làng, người dân khiếu kiện xung quanh thu hồi đền bù đất mà cơ quan chức năng cố tình không giải quyết thì bà con buộc phải kiện vượt cấp lên trên. Mỗi khi chấm điểm làng văn hóa, ban chỉ đạo lại phải mở tiêu chí ra, ngồi xem xét mấy ngày mới chấm xong một làng, chẳng có thời gian đi kiểm tra giám sát. Chính vì thế mà ban chấm điểm phụ thuộc hoàn toàn vào báo cáo của cấp dưới. Trong lịch sử nước nhà, thời nhà Nguyễn, các vua chúa đã ban phong danh hiệu “Mỹ tục khả phong” cho nhiều làng văn hóa trong cả nước. Tiêu chí đối với làng được phong danh hiệu “phong tục đẹp” này là người dân ở đó có ý thức cộng đồng làng, có ý thức tự quản và tính đặc thù độc đáo riêng có tác dụng tích cực tới cộng đồng. Thậm chí trong làng đó có nghề truyền thống nổi tiếng làm rạng danh địa phương hoặc quốc gia, cũng có thể là làng đó đã sinh ra một người anh hùng dân tộc... Làng văn hóa là một khái niệm xã hội thì cần được xem xét đánh giá trên cơ sở những nét đẹp lớn có tác dụng giáo dục, hướng thiện, giữ gìn đạo đức lối sống có văn hóa là chính chứ không nên “chẻ sợi tóc ra làm tư” như bảng chấm với quá nhiều tiêu chí như vậy. Thực tế nhiều làng văn hóa được công nhận không chính xác. Hầu hết đại biểu dự hội nghị tổng kết 20 năm phong trào làng văn hóa Hà Nội đều cho rằng rất hiếm tìm được một làng không có người đẻ con thứ 3 trở lên, không có người cờ bạc, đề đóm, không có người nghiện hút, không có tội phạm, không có người trốn thuế... Lê Tự |
---
Xây dựng Gia đình văn hóa, Làng văn hóa là những phong trào cụ thể và nhiệm vụ chủ yếu của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được Trung ương phát động trên phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ khi phát động, đặc biệt từ sau Hội nghị rút kinh nghiệm năm 2002 đến nay, phong trào được phát triển sâu rộng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, thực sự trở thành một cuộc vận động văn hóa lớn và đạt được nhiều kết quả quan trọng, có tác động tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ năm 2001, thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” do Trung ương phát động, tỉnh Lào Cai đã thành lập Ban chỉ đạo phong trào trên cơ sở hợp nhất 2 Ban chỉ đạo của phong trào Xây dựng nếp sống văn hóa và Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Đồng thời ban hành kế hoạch chung thực hiện phong trào trong đó tập trung xây dựng Gia đình văn hóa, Làng bản văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm và giao cho ngành văn hóa trực tiếp chỉ đạo. Được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và sự phối hợp triển khai thực hiện của các cơ quan ban ngành trong tỉnh, sự hưởng ứng nhiệt tình của mọi tầng lớp nhân dân đã thúc đẩy phong trào phát triển thêm một bước. Số lượng gia đình, làng bản (tổ dân phố) văn hóa được tăng lên. Năm 2002, toàn tỉnh (tính cả Than Uyên) mới có 64.560 hộ gia đình văn hoá, thì đến hết năm 2006 toàn tỉnh đã có 78.177 hộ gia đình văn hoá, đạt 65,3%/ tổng số hộ gia đình toàn tỉnh. Việc bình xét gia đình văn hoá đã được chỉ đạo chặt chẽ hơn trước, bám sát tiêu chí, tránh công nhận tràn lan, thậm chí tỷ lệ hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa chỉ đạt 93-95% kế hoạch giao song các huyện vẫn quyết tâm thực hiện nhằm nâng cao giá trị danh hiệu Gia đình văn hoá, điển hình như huyện Bát Xát và thành phố Lào Cai.
Trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã xuất hiện nhiều mô hình tiêu biểu như: gia đình sản xuất kinh doanh giỏi (gia đình ông Trịnh Xuân Lâm tổ 35 phường Cốc Lếu - thành phố Lào Cai, ông Đào A Son, thôn Bản Dền - xã Bản Hồ - huyện Sa Pa…), gia đình hiếu học (ông Tráng A Vu, thôn Tả Van Chư - xã Tả Van Chư - huyện Bắc Hà…), gia đình ấm no - hoà thuận - tiến bộ (ông Đặng Văn Minh, thôn Ba Soi- xã Tân An-huyện Văn Bàn), gia đình thực hiện tốt nếp sống văn minh (ông Lò A Và thôn Séo Phìn Than, xã Cốc Mỳ, Bát Xát..
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa phát triển đã huy động sức người, sức của, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân các dân tộc Lào Cai trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội chung của tỉnh, nhất là công tác xoá đói giảm nghèo, xây dựng các thiết chế văn hóa, giữ vững ổn định trật tự xã hội và vận động nhân dân đóng góp xây dựng các quỹ xã hội. Từ năm 2000 - 2006, toàn tỉnh đã đóng góp 6,5 tỷ đồng xây dựng “Quỹ vì người nghèo”; 1,7 tỷ đồng xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”; 1,4 tỷ đồng cứu trợ đồng bào bị thiên tai; trong vòng 4 năm (2003-2006) đóng góp xây dựng Quỹ khuyến học bằng cả tiền mặt và hiện vật trị giá 26.653 triệu đồng.
Những kết quả đạt được cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phong trào xây dựng Gia đình văn hóa tỉnh Lào Cai đã làm chuyển biến về nhận thức, trở thành phong trào thi đua sôi nổi, đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội thiết thực. Bên cạnh đó việc các Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, ngành Y tế, Thể dục - Thể thao tích cực triển khai xây dựng gia đình văn hóa gắn với thực hiện các tiêu chí chuyên ngành đã góp phần làm phong phú thêm nội dung xây dựng Gia đình văn hóa.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã góp phần xây dựng và đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hóa trên địa bàn tỉnh phát triển. 5 năm qua số làng, bản, tổ dân phố văn hoá tăng đáng kể về số lượng và bước đầu đảm bảo về chất lượng. Năm 2002, toàn tỉnh có 375/2.223 làng bản, tổ dân phố văn hoá (đạt 16,8%) thì đến năm 2006 có 784/2.033, tăng 409 làng bản, tổ dân phố văn hoá (đạt 38,5%). Điển hình cho các phong trào này là thành phố Lào Cai, huyện Bảo Yên, huyện Bảo Thắng. Riêng huyện Bát Xát, năm 2001 trở về trước còn là “điểm trắng” về xây dựng làng văn hoá; từ năm 2002 đã xây dựng và phát triển phong trào, đến nay Bát Xát đã có 35% số thôn, tổ dân phố đạt danh hiệu Làng văn hóa. Tuy có chậm so với những địa phương khác nhưng bền vững, có chất lượng và hiệu quả.
Trong giai đoạn vừa qua phong trào đã khắc phục một bước tình trạng công nhận tràn lan chạy theo thành tích, đã xây dựng được nhiều mô hình Làng văn hóa tiêu biểu ở vùng du lịch, vùng đặc biệt khó khăn. Một số hạn chế trước đây như: tình trạng thả rông gia súc, vệ sinh môi trường, các hủ tục lạc hậu trong việc cưới xin, tang lễ... đã dần được khắc phục; điển hình như xã Sín Chéng (Si Ma Cai), xã Phú Nhuận (Bảo Thắng), xã Long Phúc (Bảo Yên)…Đặc biệt ở 11 xã có người Dao Đỏ của huyện Sa Pa và các xã Ngải Thầu, Ý Tý, Cốc Mỳ, Trịnh Tường huyện Bát Xát đã tổ chức các hội nghị cải tạo phong tục tập quán lạc hậu, ký cam kết xoá bỏ các hủ tục lạc hậu trên. Cụ thể năm 2006, huyện Bát Xát có 214 đám tang thì hầu hết đã thực hiện tốt quy định về nếp sống văn minh, văn hóa.
Ngoài việc duy trì hoạt động của các tổ chức, đoàn thể vận động nhân dân thực hiện quy ước nếp sống văn hóa, các huyện còn chỉ đạo tổ chức thành lập các nhóm tự quản (tổ liên gia) ở các khu dân cư; thành phố Lào Cai đã xây dựng 400 tổ liên gia tự quản (trong đó riêng phường Kim Tân đã có 216 tổ), hoạt động hiệu quả trong việc đôn đốc, nhắc nhở thực hiện tốt các nội dung tự quản ở khu dân cư, củng cố tinh thần đoàn kết của các thành viên trong thôn, tổ.
Đặc biệt, nhờ việc tăng cường cán bộ của các cơ quan, ban, ngành các cấp xuống tuyên truyền vận động, tâp huấn, tư vấn giúp đỡ, tỉnh Lào Cai đã xây dựng được nhiều mô hình làng văn hóa đặc thù. Tiêu biểu như mô hình Làng văn hóa du lịch ở các huyện Sa Pa, Bắc Hà, thành phố Lào Cai. Các làng bản đồng bào ở các tuyến du lịch đã thực hiện tốt các tiêu chí làng văn hóa, đồng thời khai thác phát huy nguồn lực văn hóa dân gian như: xây dựng đội văn nghệ, mở dịch vụ nhà nghỉ, văn hóa ẩm thực, tạo sản phẩm hàng hoá mỹ nghệ (chế tác đồ trang sức, thêu dệt áo váy thổ cẩm) không chỉ phục vụ thu hút khách du lịch, tăng thu nhập gia đình mà còn góp phần gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tiêu biểu như làng văn hóa Bản Dền, xã Bản Hồ đã xây dựng được 4 đội văn nghệ dân gian, mở các nhà nghỉ cộng đồng phục vụ du lịch, bình quân nỗi gia đình thu nhập từ 30 - 40 triệu đồng/năm. Làng văn hóa Sả Séng - xã Tả Phìn phát triển nghề thổ cẩm, dịch vụ tắm lá thuốc và văn nghệ phục vụ du lịch đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân.
Thực hiện chương tình phối hợp với Sở Y tế và Sở Văn hóa Thông tin về xây dựng Làng văn hóa sức khoẻ, các huyện Mường Khương, Si Ma Cai, Bắc Hà, Bảo Thắng và Thành phố Lào Cai đã xây dựng được 104 Làng văn hóa sức khoẻ trong năm 2006.
Nét nổi bật nhất là trong 5 năm qua, nhân dân các dân tộc ở các làng văn hóa đã thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá xây dựng thiết chế văn hóa, quyên góp được trên 3 tỷ đồng cùng với sự hỗ trợ của nhà nước xây dựng trên 277 nhà văn hóa cộng đồng. Nhà văn hoá đã được các cấo chính quyền địa phương khai thác và sử dụng có hiệu quả, ngoài việc họp thôn, tổ, phổ biến đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, mỗi năm tổ chức được từ 5 -7 buổi văn nghệ trong các dịp lễ tết, nhất là trong Ngày Hội đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11) hàng năm, trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa bản làng.
Có thể nói trong 5 năm 2002-2006, phong trào xây dựng gia đình, làng văn hóa tỉnh Lào Cai đã có nhiều bước phát triển đáng kể, tuy vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục, rút kinh nghiệm song đã được nâng cao về chất lượng, hiệu quả và độ bền vững của phong trào. Phong trào đã tạo sự chuyển biến nhận thức về vị trí vai trò của công tác xây dựng Gia đình văn hóa; Làng văn hóa trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Tạo ra bước chuyển biến mới trong đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc, tăng cường ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Góp phần thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và chủ trương xã hội hoá hoạt động văn hóa thông tin cơ sở. Đặc biệt, thông qua việc tổ chức Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc, giao lưu văn nghệ, thể thao đã củng cố và tăng cường tình đoàn kết keo sơn giữa các dân tộc, các vùng để tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh.
---
Tổng kết 5 năm (2001-2005) phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
Cập nhật lúc 22:56, Thứ Tư, 25/10/2006 (GMT+7)
* TX Cẩm Phả được nhận cờ của UBND tỉnhHôm qua, 25-10, tại TP Hạ Long, UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị tổng kết 5 năm (2001-2005) thực hiện phong trào ‘’Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa’’ và triển khai phong trào giai đoạn 2006-2010.
Đến dự hội nghị có các đồng chí: Nguyễn Văn Quynh, Uỷ viên TƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Đinh Quang Ngữ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin; Nguyễn Hồng Quân, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; lãnh đạo các ban, ngành; đại diện các làng, khu phố văn hóa tiểu biểu.
Đồng chí Nguyễn Hồng Quân, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tặng cờ và bằng khen của UBND tỉnh cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong 5 năm thực hiện phong trào.
|
5 năm qua, phong trào được đông đảo nhân dân hưởng ứng, phát huy được sức sáng tạo và nguồn lực to lớn; hạn chế những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, hình thành tiêu chí văn hóa mới, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Đến nay toàn tỉnh có 971 nhà văn hóa thôn, khu; 204.600 gia đình văn hóa. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm từ 10,22% năm 2000, xuống còn 3,7% năm 2005... Nhiều làng, khu phố văn hoá, khu dân cư tiên tiến thực sự là hình ảnh của nông thôn mới, của đô thị văn minh hiện đại như làng văn hoá Mễ Sơn (Đông Triều), Yên Hải (Yên Hưng), Hội Phố (Tiên Yên)... Phong trào đã khơi dậy và phát huy những giá trị văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và thực sự là một giải pháp hữu hiệu để đưa Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Nguyễn Hồng Quân, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo đã khẳng định kết quả to lớn của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, ghi nhận, biểu dương thành tích của các tập thể, cá nhân đạt được trong 5 năm qua. Tiếp tục triển khai phong trào trong giai đoạn 2006-2010, đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh yêu cầu phải chú trọng mục tiêu xây dựng gia đình văn hoá theo hướng đi vào chiều sâu, có chất lượng, tạo nên môi trường văn hoá lành mạnh từ mỗi gia đình; gắn kết phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội... 5 năm tới (2006-2010), Ban Chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đã đề ra các chỉ tiêu cụ thể sau: Đến năm 2010 có trên 95% số thôn, bản, làng, khu phố đạt chuẩn văn hoá, trên 90% số gia đình đạt chuẩn văn hoá, 100% số cán bộ văn hoá thông tin cấp xã, phường có trình độ trung cấp nghiệp vụ văn hoá, 50% số xã, phường có trung tâm văn hoá thể thao... Nhân dịp này, đồng chí Nguyễn Hồng Quân đã trao cờ của UBND tỉnh cho TX Cẩm Phả, bằng khen cho 40 tập thể và 13 cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” giai đoạn 2001-2005.
---
http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=21908
BỘ TÀI CHÍNH - UỶ BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Số: 02/2002/TTLT/BTC-MTTW
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 2002
| |||||||||||
THÔNGTƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫncông tác quản lý tài chính thực hiện "Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xâydựng đời sống văn hóa ở
Thi hành Chỉthị số 23/1998/CT-TTg ngày 20/5/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sựphối hợp với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổquốc Việt Nam đẩy mạnh cuộc vậnđộng "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở
I.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG
Thông tư nàyáp dụng đối với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóaở khu dân cư do Uỷ ban Mặt trận Tổquốc các cấp tổ chức thực hiện;"các chương trình dự án Quốc gia" và cuộc "vận động quyên gópđột xuất" ủng hộ đồng bào khắc phục hậu quả thiên tai, trợ giúp quốc tếtheo chỉ đạo của Đảng, Chính phủ do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
II.NGUYÊN TẮC CẤP KINH PHÍ
1. Kinh phíbảo đảm cho cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
2. Kinh phíđể vận động nhân dân thực hiện một số đề án trong các chương trình, dự án quốcgia được bảo đảm bằng nguồn kinh phí của chương trình, dự án quốc gia theo quyđịnh về sử dụng kinh phí đối với từng chương trình, dự án quốc gia.
3. Kinh phíbảo đảm cho cuộc vận động quyên góp đột xuất ủng hộ đồng bào khắc phục hậu quảthiên tai, trợ giúp quốc tế theo chỉ đạo của Đảng, Chính phủ do Đoàn Chủ tịchUỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
III.NỘI DUNG CHI VÀ MỨC CHI
1. Đốivới cuộc vận động: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khudân cư
1.1. Nộidung chi:
a) Các nộidung chi do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổquốc Việt Nam thực hiện Chi tổ chứccuộc vận động: Chi phí cho công tác thông tin tuyên truyền để phát động nhândân tham gia cuộc vận động;
Chi phục vụcông tác chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc;
Chi sơ kếthàng năm và tổng kết định kỳ 5 năm 1 lần;
Chi khen thưởngcho các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong các cuộc vận động; Chivăn phòng phẩm và chi khác phục vụ cuộc vận động (nếu có).
b) Các nộidung chi do Ủ
Chi tổ chứccho cuộc vận động Chi phí cho công tác thông tin tuyên truyền để phát động nhândân trong tỉnh, huyện hưởng ứng tham gia cuộc vận động do Uỷ ban Trung ương Mặttrận Tổ
Chi phục vụcông tác chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc;
Chi sơ kếthàng năm; tổng kết định kỳ 5 năm 1 lần đối với cấp tỉnh, 2 lần đối với cấphuyện;
Chi khen thưởngcho các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong các cuộc vận động;
Chi vănphòng phẩm, chi khác phục vụ cuộc vận động (nếu có).
c) Các nộidung chi do Uỷ ban Mặt trận Tổ
Chi tổ chứccuộc vận động: Chi làm khẩu hiệu, pano, áp phích tuyên truyền cho cuộc vậnđộng;
Chi họptriển khai thực hiện ở
Chi làm giấychứng nhận công nhận gia đình văn hóa, người tốt việc tốt;
Chi sơ kếthàng năm;
Chi cho côngtác khen thưởng hàng năm;
Chi vănphòng phẩm, chi khác (nếu có).
d) Đối vớikhu dân cư:
Chi tiềnchè, nước uống, dầu đèn, điện ánh sáng cho ban công tác Mặt trận ở
Chi tổ chứcngày Hội đoàn kết toàn dân hàng năm (18 - 11);
Chi thôngtin, tuyên truyền của Ban công tác Mặt trận tái cộng đồng dân cư;
Chi tiềnxăng, xe đi công tác vận động của Ban công tác Mặt trận ở
Chi vănphòng phẩm, chi khác (nếu có).
1.2. Mứcchi:
Mức chi tiềnăn, nghỉ cho đại biểu dự hội ngộ thực hiện theo quy định hiện hành về chế độcông tác phí, chế độ chi tiêu hội nghị.
Mức chi tiềnthưởng áp dụng theo mức chi quy định tại Thông tư số 25/2001/TT-BTC ngày16/4/2001 của Bộ
Đối với khudân cư: Để tạo điều kiện cho cuộc vận động ở khu dân cư đạt kếtquả, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí dự toán ngânsách đảm bảo thực hiện các nội dung chi cho cuộc vận động "Toàn dân đoànkết xây dựng đời sống văn hóa ở
2. Đốivới cuộc vận động nhân dân thực hiện một số đề án trong các chương trình, dự ánquốc gia:
Hàng năm,căn cứ vào nhiệm vụ của Uỷ ban Mặt trận Tổquốc các cấp trong việc thực hiệncác chương trình quốc gia như xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội,phòng chống AIDS, phòng chống ma túy, phòng chống tội phạm, bảo đảm an toàngiao thông; trên cơ sở đề nghị và dự toán của Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trậnTổ quốc, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp xem xét bố trí kinh phí cầnthiết theo quy định hiện hành để Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện đốivới từng chương trình quốc gia.
3. Đốivới cuộc vận động quyên góp đột xuất
3.1. Nộidung chi:
Chi tổ chứccuộc vận động: Chi phí cho công tác thông tin tuyên truyền để phát động nhândân tham gia cuộc vận động;
Chi cho côngtác kiểm tra, đôn đốc;
Chi sơ kết,tổng kết cuộc vận động;
Chi khen thưởngcho các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong các cuộc vận động;
Các khoảnchi khác phục vụ cuộc vận động: Chi vận chuyển hàng hóa, chi bồi dưỡng cho cánbộ trực tiếp thu gom tiền, hàng hóa do các tổ chức và cá nhân ủng hộ.
3.2. Mứcchi:
Mức chi tiềnăn, nghỉ cho đại biểu dự hội nghị quán triệt và phổ biến chủ trương, sơ kết,tổng kết cuộc vận động theo quy định hiện hành về chi hội nghị;
Mức chi tiềnthưởng áp dụng theo mức chi quy định tại Thông tư số 25/2001/TT-BTC ngày16/4/2001 của Bộ
Chi bồi dưỡngcho cán bộ công chức nhà nước trực tiếp thu gom tiền, hàng hóa ủng hộ, chi làmđêm, thêm giờ mức chi áp dụng theo quy định về chế độ làm thêm giờ theo quyđịnh tại Thông tư số 18/LĐTBXH-TT ngày 02/6/1993 của Bộ
Chi bồi dưỡnglao động thuê ngoài, mức tối đa không quá 20.000 đồng/ngày/người;
Chi vậnchuyển hàng hóa: Căn cứ theo hóa đơn, chứng từ thu tiền hợp lệ của các tổ chứckinh doanh dịch vụ vận chuyển hàng hóa.
IV.LẬP, CHẤP HÀNH, QUYẾT TOÁNKINH PHÍ
Việc lập dựtoán, chấp hành và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước được thực hiện theo hướngdẫn tại Thông tư số 103/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ
1. Đốivới cuộc vận động "Toàndân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
Hàng năm,cùng với việc Xây dựng dự toán kinh phí cho năm sau, Ban Thường trực Uỷ ban Mặttrận Tổ
Ban Thườngtrực Uỷ ban Mặt trận Tổ
Riêng kinhphí để thực hiện các nội dung công việc của cuộc vận động "Toàn dân đoànkết xây dựng cuộc sống mới ở
2
3. Đốivới các cuộc vận động quyên góp đột xuất:
Khi phátđộng cuộc vận động quyên góp đột xuất, căn cứ vào nội dung chi, mức chi quyđịnh tại điểm III
Căn cứ vàosố phân bổ kinh phí cho các địa phương của Ban Thường trực Đoàn Chủ tịch Uỷ banTrung ương Mặt trận Tổ
Trên cơ sởkhối lượng công việc cần thiết phải triển khai thực hiện và số kinh phí do BanThường trực Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
Kết thúccuộc vận động quyên góp Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ
V.TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Cơ quan tàichính các cấp định kỳ và đột xuất tiến hành kiểm tra việc cấp, quản lý, sử dụngkinh phí, nhằm đảm bảo việc sử dụng kinh phí cho các cuộc vận động đúng mụcđích, có hiệu quả thiết thực.
Uỷ ban Trungương Mặt trận Tổ
Thông tư nàycó hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày ký và thay thế Thông tư số71/1999/TTLT-BTC-MTTQTW ngày 11/6/1999 của liên tịch Bộ
| ||||||||||||
|
http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=27229
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.