Cây trà Hảo Liên (Hao Ling) có hoa rất đẹp - Ảnh từ bài của Trần Đại Sỹ |
Lời dẫn: Bài viết dưới đây, của Trần Đại Sỹ (Việt kiều tại Pháp), được lấy về từ trang cá nhân của bác. Trước hết là đọc, để biết lối tư duy của bác sĩ họ Trần đã. Chuyện còn dài lắm.
Bây giờ, ở ngoài đời thực, tựa như, cây trà Hảo Liên này đang có điều kiện đến với mảnh đất Tây Bắc (Việt Nam) như mong đợi của bác sĩ.
---
Phúc trình của Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ
về việc điều trị chứng mỡ cao trong máu
(Cholestérol, Triglycéride)
(Cholestérol, Triglycéride)
Institut Franco-Asiatique
French-Asiatic Institute
Frankoasiatisches Institut
Instituto Franco-Asiatico
French-Asiatic Institute
Frankoasiatisches Institut
Instituto Franco-Asiatico
5, place Félix Eboué 75012 Paris, France
Tél. 33 1 43 07 51 46 – Fax. 33 1 43 07 18 25
E-Mail1: Trandaisy@yahoo.fr
E-mail2: Ifa532@yahoo.fr
Tél. 33 1 43 07 51 46 – Fax. 33 1 43 07 18 25
E-Mail1: Trandaisy@yahoo.fr
E-mail2: Ifa532@yahoo.fr
Đôi lời giới thiệu
Viện Pháp-Á, trân trọng trình bầy với các vị bác-sĩ,
dược-sĩ, y-tá, nữ hộ-sinh, cùng dinh-dưỡng viên cũng như quý độc giả tài liệu
nghiên cứu về loại trà có khả năng trị tuyệt chứng mỡ cao trong máu
(cholestérol, triglycéride) bằng bốn ấn bản khá nhau: Việt, Anh, Pháp, Hoa.
Như quý vị biết, hơn đâu hết, tại châu Âu, Mỹ, Úc, chứng
hyperdyslipidémie (hypercholestérolémies, hypertriglycéridémies) là mối lo âu
lớn lao của chúng ta. Hai loại mỡ trong máu lên cao, dần dần đưa đến tình trạng
bệnh tim, tắc tĩnh động mạch, huyết áp cao, tiểu đường, béo. Đối với người Âu,
Mỹ, Úc gốc da trắng, khi hơi thấy hai loại mỡ này lên cao, lập tức tìm bác sĩ
điều trị. Họ theo dõi lời khuyên của thầy thuốc cực kỳ chu đáo. Vì vậy ít tai
nạn.
Một thiểu số dân chúng gốc da mầu, tuy sống trong những nước
mà nền y học cũng như bảo hiểm sức khoẻ cực kỳ chu đáo, nhưng lại coi thường
hai con ác quỷ Cholestérol, triglycéride. Bởi khi bị hai chứng trên, đa số
chẳng gây trở ngại gì hơn là mập ra. Bệnh nhân không biết mình đã bước một chân
vào quan tài, lại còn tự an ủi mát da, mát thịt rồi phát tướng, phát tài. Khi
lăn đùng ra, chở vào y viện, gần như trăm người, đến tám mươi người khiến y sĩ
bó tay.
Dù người da trắng, da mầu chăng nữa, khi y sĩ tìm ra hai
loại mỡ cao trong máu, đều khuyên nên uống một vài loại thuốc. Thông thường
phải uống cả đời. Loại thuốc này gây ra nhiều phản ứng khó chịu, khiến bệnh
nhân không muốn tiếp tục lâu dài. Nhất là bệnh nhân da mầu. Đa số bệnh nhân
muốn có loại trị liệu khác, như ăn, uống chẳng hạn. Vừa ngon, vừa khỏi bệnh.
Một dịp may, phái đoàn của viện Pháp-á và cơ sở nghiên cứu y
học ARMA, trong dịp sưu khảo nghiên cứu năm 1982 tại Cộng-hoà nhân dân Trung-quốc,
đã phát hiện ra loại cây Phản-phì xuất hiện vào thế kỷ thứ nhất sau tây lịch;
tưởng tuyệt giống đã lâu. Loại cây nấu lên uống vào có tác dụng làm mất mỡ trên
cơ thể. Phái đoàn lập tức hái mấy chục kilo đem về thử nghiệm. Sau khi thử
nghiệm thì thấy rằng đó là họ trà, mà trong dân gian không biện biệt được sự
khác biệt của nó với các loại trà thông thường. Uống loại trà này có thể thay
thế hết các thứ thuốc trị mỡ cao trong máu. Nếu dùng trong vòng bai đến năm
tháng, nó có khả năng trị tuyệt chứng hiểm nghèo này. Trà mang tên Hao-ling.
Hao là tên nữ bác sĩ Shu Vi Hao ở Vân-Nam. Liên (Ling) là tên nữ tài tử Chan
Ngu Ling ở Hương-cảng. Hai cô đã đóng góp rất nhiều công, hướng dẫn phái đoàn
trong việc đi tìm cây phản phì.
Hiện trên thị trường có rất nhiều loại trà. Gốc từ
Trung-quốc như Ô-long, Thiết quan âm, trà xanh, trà sen, trà hoa-lài. Gốc từ
Tích-lan như trà Ceylan. Gốc từ Việt-Nam như trà Phú-thọ, Blao v.v. Mỗi thứ trà
có một hương-vị khác nhau. Về phương diện tác dung y-học càng khác nhau hơn nữa.
Nguyên ủy của sự khác nhau là giống-trà, thủy-thổ nơi trồng, phương pháp trồng,
thời gian hái, và nhất là cách ướp trà. Hầu như khi người ta uống trà, thì chỉ
nghĩ đến hương vị mà thôi, ít người nghĩ đến tác dụng của trà cho sức khoẻ.
Loại trà Hao-ling có nguồn gốc rất cổ xưa, mọc hoang, nay
mới được thử nghiệm bằng phương pháp y-học Tây-phương, rồi đem trồng để dùng
trong khoa trị bệnh.
Xin độc giả đừng lầm Hao-ling với những loại trà khác, vì
Hao-ling là sản phẩm dược-khoa, được bầy bán tại các dược phòng (pharmacie),
dược thảo (herboriste), và cửa hàng dinh dưỡng (diététique). Còn các loại trà
khác là thứ trà tiêu khiển bán tại các cửa hàng thực phẩm. Hai loại trà này
cùng sản xuất từ Vân-Nam, nhưng tác dụng không giống nhau.
Từ trước đến giờ khi nói đến uống trà, các nhà y học thường
lo lắng vì tác hại của chất Théine làm nguy thận. Điều đó rất đúng. Nhưng
Hao-ling với kỹ thuật khoa học, với khả năng canh nông, chúng tôi đã hạ chất
Théine của Hao-ling còn từ 0,05-0,5%. Sau đây là một vài con số :
Trà O-long xanh, Trung-quốc
Trà O-long đen, Trung-quốc Trà xanh Phúc-kiến, Trung-quốc Trà tươi Việt-Nam Trà Phú-thọ Việt-Nam Trà Blao Việt-Nam Hao-ling |
12,5%
07,4% 12,0% 14,2% 12,3% 11,5% 0,5% |
Trà Hao-ling được công ty Pagode đem bán trên thị trường.
Công ty FIMEX là đại lý độc quyền trên lãnh thổ C.E.E (Thị trường chung châu
Âu).
Sau đây chúng tôi lược qua về công cuộc nghiên cứu Hao-Ling.
Tài liệu nghiên cứu chính thức viết bằng Pháp-văn, Anh-văn, Hoa-văn. Vì người
điều khiển và có công đầu trong việc nghiên nghiên cứu, là Giáo-sư Trần Đại-Sỹ,
giám đốc Trung-quốc sự vụ tại viện Pháp-Á . Ông vốn gốc là người Việt, đầy
tự hào về tộc Việt, nên chúng tôi cho ấn hành bản Việt-ngữ để làm vui lòng ông.
Chúng tôi đã tước bỏ phần nghiên cứu quá chuyên môn, cũng
như danh từ y khoa, để độc giả có kiến thức bậc trung cũng hiểu được, và có thể
tự trị loại bệnh đáng sợ này.
Chúng tôi trân trọng ghi ơn các vị sau đây đã giúp đỡ chúng
tôi bằng nhiều phương tiện khác nhau, để công cuộc nghiên cứu được thành công
mỹ mãn:
- Đại học y khoa
Côn-minh, Vân-Nam,
Cộng-hòa nhân dân Trung-quốc.
- Trung-y học viện
Vân-Nam, Cộng-hoà nhân dân Trung-quốc.
- Các bác sĩ,
xích-cước y sinh (Y sĩ chân đất) Vân-Nam,
Cộng-hòa nhân dân Trung-quốc.
- Đại học y khoa Henri
Mondor, Créteil. Pháp.
- Bác-sĩ giám đốc cơ quan nghiên cứu y học Á-châu hoàng gia Tây-ban-nha.
- Ông giám đốc công ty
FIMEX, Pháp.
- Các bác sĩ, dược sĩ thuộc cơ sở nghiên cứu ARMA.
Paris ngày 5 tháng 4 năm 1993
Viện-trưởng viện Pháp-á.
Giáo-sư Inge Pape Vareille.
Phụ trách dịch sang Việt-ngữ,
Bác-sĩ Trần-thị Phương-Châu (Gynécology)
Độc giả muốn tìm mua sản phẩm này xin vào www.google tra tìm
từ Hao ling hoặc Thedelapagode.com. Chúng tôi là cơ sở nghiên cứu, không có bổn
phận trong việc quảng cáo cho công ty sản xuất .
Phúc trình kết quả
Về cuộc nghiên cứu sản phẩm dược Hao-ling
(Nguyên bản bằng tiếng Pháp, tác giả tự chuyển ngữ)
Thưa Ngài chủ tịch ủy ban Y-tế Thượng-viện.
Thưa ngài chủ tịch ủy ban Y-tế Hạ-viện.
Thưa Qúy vị .
Với tư cách là người tìm lại, gây lại được giống cây
Phản-phì, rồi nghiên cứu, chế thành dược phẩm trị chứng mỡ cao trong máu. Với
tư cách là người điều khiển cuộc đúc kết sau một thời gian dài xử dụng sản phẩm
Hao-ling trị chứng Cholestérol, triglycéride cao trong máu. Hôm nay tôi xin
phúc trình chi tiết kết quả lên Quý-vị.
Phần phúc trình của tôi chia ra làm hai:
- Phần thứ nhất báo cáo về việc
tìm ra sản phẩm
- Phần thứ nhì là kết quả cuộc
nghiên cứu trị bệnh
Tôi xin trình bày
phần thứ nhất:
ĐI TÌM LẠI MỘT LOẠI CÂY,
tuy vẫn tồn tại,
1. Nguồn gốc của sản phẩm
Sản phẩm gốc từ cây trà, thuộc họ Camélia Sinensis L. Nhưng
trà cũng như người. Con người chúng ta có người da trắng, người da vàng, người
da đen, người da đỏ. Mà người da trắng cũng có hằng trăm giòng giống khác
nhau... thì trà cũng có hằng may trăm bộ tộc. Ở đây tôi chỉ nói về cây trà có
tên là Phản-phì, mà lá khi ta uống vào có khả năng trị chứng mỡ cao trong máu.
Từ thế kỷ thứ nhất, khi tỉnh Vân-Nam còn là đất Tượng-quận
thuộc đế quốc Lĩnh-Nam, người ta đã huyền thoại nhiều về một loại cây hoang, mà
khi đem lá nấu lên uống, sẽ mất hết mỡ. Người ta đặt tên cây này là Phản phì.
Phản là chống lại. Phì là béo.
Bấy giờ đế quốc Lĩnh-Nam dưới quyền cai trị của một nữ
hoàng-đế tên Trưng-Trắc (39 sau Tây-lịch). Sau khi triều đại Lĩnh-Nam xụp đổ
(44 sau Tây-lịch), không thấy nói đến nữa.
Mấy thế kỷ sau, sắc dân Thái thuộc tộc Việt ở Vân-Nam nổi
lên chống lại người Trung-quốc, lập ra triều đại mới, xưng là nước Đại-lý, bấy
giờ cây Phản-phì được nhắc tới, trong bộ Đại-lý thông chí. Trong bộ sách
trên nói rằng:
« Quan Thái-sư Ngột Lương Hợp
Thai mang quân vượt núi đánh Giao-chỉ (tên cũ của Việt-Nam). Nhưng ngựa kéo xe
tải lương béo quá, vượt núi không được, phải thả vào thung lũng nghỉ ngơi. Ngựa
ăn loại cây Phản-phì, nên ít hai tháng sau, bụng hết mỡ, vượt đèo dễ dàng. Quan
Thái-sư ra lệnh cho dân chúng cung cấp lá cây Phản-phì cho những con ngựa béo
ăn vào, chúng trở thành khỏe mạnh ».
Nhưng sau trận đại chiến 1258, quân Mông-cổ bị quân Việt
đánh tan, từ đấy, không thấy ai nói đến loại cây Phản-phì nữa.
Vì những tam sao, thất bản, nên về sau người ta cho rằng
Phản-phì là một loại cây huyền thoại. Sự thực nó thuộc họ trà. Bởi tất cả các
trà ở Vân-nam đều có đôi chút khả năng tiêu hóa tốt, sau mỗi bữa ăn có nhiều
mỡ. Những trà này mang nhiều thứ tên khác nhau.
Vào năm 1981, trên tạp chí y học địa phương Vân-Nam, có đăng
một truyện ngắn mang tựa đề Ngạ phu, của nữ bác sĩ Shu Vi-Hao (Chu Vĩnh Hảo).
Nội dung kể truyện một anh chàng ăn không bao giờ biết no, hơi làm là mệt,
nhưng về phương diện tình dục, một ngày giao-hoan đến ba lần vẫn chưa đủ, đến
nỗi vợ chịu không nổi phải xin ly dị. Trong đó có đoạn nói:
« ... Lỡ có béo, chỉ cần gặm ít lá cây
Phản-phì là hết ngay ».
Đối với tiểu thuyết, không bao giờ ban điểm báo viện Pháp-á
chú ý. Nhưng đoản văn trên lại do một nữ bác sĩ viết ra. Vì vậy tôi trình lên
hội đồng viện Pháp-Á. Viện nhờ tôi liên lạc với đồng nghiệp Shu xem đây là sự
thực hay bịa đặt ? Thư đi, hơn nửa tháng sau thư trở về với hơn mười lá
cây này kèm theo. Tôi nhận ngay ra lá đó thuộc họ trà. Với mười lá cây, không
đủ để nghiên cứu, nhưng trong bản phân tích, cho thấy loại lá cây này có tính
chất khử cholestérol, triglycéride rất mạnh, chứ không có tác dụng chữa béo,
hay chống lại bệnh cuồng dâm.
Mùa hè năm 1982, một phái đoàn viện Pháp-á được gửi sang
Cộng-hoà nhân dân Trung-quốc nghiên cứu, gồm 7 người. Tất cả 7 chúng tôi
cùng hiện diện hôm nay. Tôi xin giới thiệu trước Quý-vị.
Trưởng đoàn,
tôi, Trần Đại-Sỹ, Bác-sĩ y khoa.
Thành viên:
Các Bác-sĩ y khoa:
Fernandes, Tarentino, Vareilla.
Các dược sĩ: Cordinante, Limager
Kỹ sư canh nông: Reynault.
Phái đoàn được tăng cường một nữ tài tử điện ảnh ở
Hương-cảng, vì trong thời thơ ấu cô từng dùng nhiều phản phì, nên nay dù ăn
uống bất cứ thức béo bổ gì, cũng không mập, rất tiếc hôm nay cô không có mặt
tại đây. Phái đoàn lặn lội trong các vùng Đông-xuyên, Côn-minh, Song-giang,
Khâu-bắc, Văn-sơn, Nguyên-dương. Kết quả tại những vùng trên đều tìm thấy các
loại trà sau đây.
2. Công cuộc tìm kiếm
– Phản phì là loại trà hoang, mọc ở cao độ từ 1500m trở lên,
– Lá nhỏ hơn trà thường khoảng 1/7 đến 1/3.
– Tất cả đều sống ở nơi bán quang (demi soleil).
– Chúng tôi chia Phản phì làm 5 loại.
Loại 1, không có độc chất,
Loại 2, có ít độc chất.
Loại 3, không có độc chất. Có 18 dạng khác nhau.
Loại 4, không có tác dụng khử mỡ.
Loại 5, lá quá nhỏ, không thể khai thác sản xuất.
Phái đoàn đã hái mỗi nơi, mỗi loại khoảng 5 kg lá tươi, chở
khẩn cấp về châu Âu phân tích, thử nghiệm. Kết quả cho thấy tính chất, cùng
thành phần hóa học không giống nhau. Mãnh lực khử cholestérol, triglycéride
cũng không đều nhau. Tôi quyết định chỉ thử nghiệm loại 3, vì loại 3 có dược
tính khử cholestérol cũng như triglycéride rất cao, dễ trồng, độc chất không
có, chất Théine rất thấp. Nhưng loại 3 lại có đến 10 dạng khác nhau. Tôi đặt
tên theo số thứ tự.
Khử cholestérol mạnh nhất,
là loại lá ở :
– Nguyên-dương
– Văn-sơn
– Khâu-bắc
– Song-giang,
– Côn-minh,
– Đông-xuyên
Khử triglycéride mạnh nhất
là loại lá ở:
– Đông-xuyên,
– Côn-minh,
– Song-giang,
– Khâu-bắc,
– Văn-sơn,
– Nguyên-dương,
Như vậy :
« Càng đi về phương Nam, thì độ khử
cholestérol càng mạnh ».
« Càng đi về phương Bắc thì độ khử
triglycéride càng mạnh».
« Càng đi về phương Nam thì chất Théine càng
mạnh ».
Nhưng phái đoàn phải ngừng lại ở biên gới Hoa-Việt, vì thời
điểm này chiến tranh Hoa-Việt đang tiếp diễn, hằng ngày hai bên vẫn giao chiến
bằng bộ binh và đại pháo. Dù tôi gốc là người Việt, lại rất thân với
Trung-quốc, nhưng vượt qua lằn đạn hai bên, đạn Việt không phân biệt được tôi
là người Việt hay Hoa. Đạn Hoa không nhận ra tôi là bạn. Đi qua hai lằn đạn dễ
tiêu dao miền Cực-lạc. Nên chúng tôi đành ngừng lại.
Sau đó cây :
Phản-phì loại 3 được đặt tên là Hao-Ling,
Để ghi kỷ niệm hai thiếu nữ Trung-quốc có công trong việc
tìm ra nó. Hảo là tên của Bác-sĩ Chu Vĩnh Hảo. Ling phát âm Quan-thoại là Liên,
tên của diễn viên điện ảnh Hương-cảng. Viện Pháp-á đã nghiên cứu rất kỹ thì
thấy rằng những cây có độ khử cholestérol, triglycéride càng cao thì chất
théine càng mạnh. Cuối cùng chúng tôi đã lấy giống (hạt và tiếp cành) đem về
trồng thử tại 8 địa điểm ở Âu-châu: Cùng độ cao, cùng demi-soleil, cùng độ ẩm
của đất, cùng độ ẩm của không khí. Các địa điểm ở Hòa-lan, Pháp, Ý, Bồ-đào-nha.
Nhưng kết quả thực thảm hại. Cây trà mọc cao, lá to, hoa đẹp, nhưng hàm lượng
Théine quá cao (18%), mà than ôi độ khử mỡ dường như không có, chỉ bằng 1/10
những loại ở Vân-Nam.
Chúng tôi phải thuê đất trồng tại Vân-Nam, rồi theo dõi, làm
các thí nghiệm:
– Biến chế cách trồng,
– Tìm phân bón đặc biệt,
– Nghiên cứu thời gian hái,
– Làm tăng độ khử mỡ,
– Hạ chất théine hạ thấp đến tối thiểu (0,05 đến 0,5%).
– Cây Hao-Ling bắt đầu được thuê đất trồng tại Vân-Nam.
Nhưng mãi tới năm 1986, sản phẩm này mới được đem xử dụng
như dược phẩm. Đã có nhiều công ty bắt chước trồng thử, nhưng không có một chút
kết quả nào cả. Những bí mật này là lẽ sống còn của chúng tôi. Chúng tôi không
thể phổ biến. Sau đây chúng tôi xin trích một đoạn trong tài liệu này (1985):
« ... Hao-Ling là một loại cây
thuộc họ trà, mọc hoang ở các sườn đồi núi vùng Vân-Nam, có thể trong vùng núi
Tây-Bắc Việt-Nam nữa. Căn cứ vào thành phần địa chất, khí hậu, càng đi về Nam,
cường độ chống cholestérol, và tryglycéride của Hảo-Ling càng mạnh. Nếu như mai
này hoàn cảnh có thể, đem giống này về trồng ở vùng núi non Tây Bắc-Việt, thì
kết quả còn tốt hơn. Cái khó khăn là chọn vùng đất, khí hậu, phân bón và nhất
là thời gian hái, cùng ướp. Hiện nay luật lệ Việt-Nam, cũng như tổ chức xã hội,
cùng an-ninh địa phương chưa cho phép công ty ngoại quốc đầu tư về canh nông.
Chúng ta hãy chờ...” *
Ghi
chú của viện Pháp-á :
Trong
tài liệu, Giáo-sư Trần có phát biểu: "Tôi vốn gốc là người Việt, vì vậy
một mai hoàn cảnh chính trị cho phép, tôi sẽ đem giống này về Việt-Nam trồng.
Tôi nghĩ sản phẩm do tôi tìm ra, tôi dùng nó như một món quà, một dược phẩm hữu
hiệu cho đồng bào của tôi. Biết đâu sản phẩm này không đem lại cho quê hương
tôi một chút lợi lộc sau 30 năm chiến tranh thảm khốc."
3. Nhận dạng 10 loại Hao-Ling
Hao-Ling tức loại thứ 3 đã trình bày ở trên. Nhưng loại 3 có
rất nhiều dạng khác nhau:
– Khi đi tìm, chúng tôi đã lựa 18 dạng Hao-Ling chứa hàm
lượng khử mỡ cao, chất Théine thấp.
– Nhưng chúng tôi chỉ trồng có 10 loại dễ nuôi dưỡng, thu
hoạch cao mà thôi.
– Trong khi trồng thử để nghiên cứu, chúng tôi đã theo dõi
hàng ngày, mỗi ngày 6 lần, mỗi lần cách nhau 3 giờ xem mỗi dạng cần những điều
kiện gì để khi thu hoạch có độ khử mỡ cao nhất, chất Théine thấp nhất.
– Những chữ viết tắt là:
HDA, viết tắt của chữ Humidité de l'air, nghĩa là độ ẩm
không khí khi hái.
HDT, viết tắt của chữ Humidité de la terre, độ ẩm đất khi
hái.
TSP, viết tắt chữ température sur place, nghĩa là nhiệt độ C
đo ngay trên lá cao nhất của cây trà.
DHL, viết tắt của chữ dosage d'Hao-Ling, nghĩa là phân lượng
trà khi hái ép lấy nước, nếu đem sử dụng có kết quả tương đương với:
·
Simvastaline (Zocor) 5mg
·
Atovastatine (Tahor) 10mg
·
Fénofibrate (Lipanthyl) 70mg.
Năm 1986 Hao-Ling được tung ra thị trường. Nhưng vì công ty
Pagode cũng như công ty đại lý toàn quyền FIMEX tại Pháp bán Hao-Ling như một
thứ trà thông thường, không có lời chỉ dẫn dầy đủ, nên khi người ta dùng, kết
quả không đạt.
Tháng 3 năm 1986, cơ sở nghiên cứu y học ARMA quyết định lập
một ủy ban nghiên cứu chi tiết về tác dụng thực tế, rồi ghi chú thành lời hướng
dẫn cho bệnh nhân. Thành phần ủy ban gồm:
Trưởng ban:
Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ (Paris, Pháp)
Cố-vấn :
Bác-sĩ Nguyễn Thanh-Tùng (Paris, Pháp)
Tổng thư ký:
Bác sĩ Nguyễn Hoài-Vân (Ille-et-Vilaire, Pháp)
Hội viên, các bác sĩ :
Jose Fernandes (Barcelona,
Tây-ba-nha),
Đỗ Huy-Đạt (Rennes, Pháp),
Maria Teresa Fernandes (Barcelone, Tây-ban-nha),
Lawton-Sauvage Christine (Poitiers, Pháp),
Vareilla Pascale (Paris, Pháp),
Trần Kinh-Luân (Paris, Pháp),
Lê-thị Mỹ-Lộc (Bruxelle, Bỉ),
Võ Hồ-Nhơn (Bruxelle, Bỉ),
Trần Hữu-Đức (Charleroi, Bỉ),
Tarentino Alberto (Roma, Ý),
Lê Tống Nicole (Seine Saint Denis, Pháp),
Toucet Abraham (MA, USA).
Dạng thứ nhất,
Mọc hoang tại sườn núi Văn-sơn, Điền-bắc
HDA = 25-85
HDT = 30-80
TSP = 23-35
DHL = 2-3g
Dạng thứ nhì,
Mọc hoang tại Chiêu-dương, Côn-minh,
HDA = 20-65
HDT = 20-95
TSP = 18-33
DHL = 2,5-3,3
Dạng thứ ba
Mọc hoang khắp Côn-minh, Điền-Bắc, Chiêu-dương, Văn-sơn
HDA = 15-90
HDT = 25-100
TSP = 18-36
DHL = 2,5-4,2
Dạng thứ tư
Mọc hoang tại Khâu-Bắc, Văn-sơn, Nguyên-dương
HAD = 20-85
HDT = 40-100
TSP = 18-34
DHL = 2,4-3,1
Dạng thứ năm,
Mọc hoang tại Đông-xuyên, Khâu-Bắc, Văn-sơn, Nguyen-dương
HDA = 30-90
HDT = 20-100
TSP = 19-36
DHL = 2,5-3,5
Dạng thứ sáu
Mọc hoang tại Đông-xuyên, Côn-minh, Song-giang, Khâu-Bắc
HDA = 20-95
HDT = 40-100
TSP = 20-36
DHL = 2,7-3,4
Dạng thứ bẩy
Mọc hoang tại Đông-xuyên, Côn-minh, Song-giang, Khâu-Bắc, Văn-sơn, Nguyên-dương,
HDA = 20-90
DDT = 20-100
TSP = 18-35
DHL = 2,5-4,1
Dạng thứ tám,
Mọc hoang tại Văn-sơn, Nguyên-dương
HDA = 43-100
HDT = 45-100
TSP = 20-35
DHL = 2,7-4,2
Dạng thứ chín,
Mọc hoang tại Đông-xuyên, Côn-minh, Song-giang, Khâu-Bắc,
Văn-sơn, Nguyên-dương,
HDA = 38-93
HDT = 40-100
TSP = 21-34
DHL = 2,4-4,8
Dạng thứ mười,
Mọc hoang khắp Song-giang, Khâu-Bắc, Văn-sơn, Nguyên-dương
HDA = 45-100
HDT = 50-100
TSP = 20-35
DHL= 2,8-4,1
Phần thứ nhì của cuộc phúc trình
NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
1.Tình trạng bệnh nhân
Tất cả bệnh nhân điều trị đều bị :
– Chứng huyết áp cao (HTA),
– Hoặc bệnh tim,
– Ở trong tình trạng lipide trong máu lên cao.
Chúng tôi điều trị trong chiều hướng phòng ngừa cùng trị tận
gốc. Những bệnh nhân uống trà đều có lượng cholestérol trong máu cao hơn 3.50
g/l, và triglycéride trên 1.50 g/l. Đó là con số căn bản để nhận bệnh nhân điều
trị. Sau đây là kết quả của 1000 trường hợp, trong số hơn 4000 ngàn, không chọn
lọc.
Cũng nên nhắc lại con số của người bình thường tại Âu-Mỹ như
sau :
Cholestérol >1,80 – < 2,40 g/l
Triglycéride >0,40 – < 1,50 g/l
1.1
Chúng tôi ghi nhận 965 trong số 1000 bệnh nhân cholestérol trên 3.50 g/l,
triglycéride trên 1.50 g/l.
1.2 Tuổi
tác trong khoảng 25 đến 95.
1.3 Về
nam, nữ. Có 530 nam, 470 nữ.
1.4 Bệnh
nhân được chia làm hai nhóm.
– Một nhóm được điều trị bằng trà Hao-ling.
– Một nhóm được trị bằng PCIB.
Cùng một lúc, chúng tôi quan sát sự thay đổi lượng
cholestérol trong máu.
1.5 Tại học viện Á-châu Tây-ban-nha
Dưới đây là bản ghi kết quả của học viện Á-châu tại
Hoàng-gia Tây-ban-nha :
– Với 55 bệnh nhân trị bằng Hao-ling, thì 28 bệnh nhân ở
trong tình trạng mà cholestétol cao, 51 bệnh nhân tình trạng triglycéride rất
cao.
– Cũng trong tình trạng cao tương tự, với 31 bệnh nhân điều
trị bằng PCIB, có 15 bệnh nhân bị cholestérol, 28 bị triglycéride cao.
Có những bệnh nhân chỉ bị một trong hai lượng mỡ cao. Để dễ
dàng thống kê, hai loại bệnh nhân trị bằng hai phương pháp riêng biệt.
1.51 Tình trạng huyết tương bệnh nhân
– Tất cả bệnh nhân đều ở trong tình trạng ẩm thực bình
thường.
– Máu được lấy vào buổi sáng, chưa ăn uống gì.
– Lượng cholestérol trong bình thí nghiệm được trợ giúp với acide sulfurique
acétique, anhydride-acétique để mầu xuất hiện tức thời.
– Lượng triglycéride được xác định bởi acétylacétone 2.4 pentanedione, mầu được
đo bởi ống nghiệm khắc độ.
– Lượng HDL-C được chuẩn định bằng phương pháp mới nhất.
– Cuối cùng dùng dung dịch phosphotungstate de sodium để chuẩn định HDL, với
chlorure de fer (III) cho mầu xuất hiện.
1.52 Phương pháp kiểm chứng
1.52a Nhóm Hao-ling.
– Cho uống ba liều Hao-ling mỗi ngày.
– Tổng cộng 7,5g.
– Cứ mỗi tháng là một bệnh trình.
– Có bốn bệnh nhân chỉ trị trong một bệnh trình.
– Còn 51 bệnh nhân trị trong hai bệnh trình.
– Rất ít bệnh nhân trị với liều Hao-ling thấp 3-4, 5 g mỗi ngày.
1.52b. Nhóm PCIB.
– Ba liều PCIB 0.5 g , ngày ba lần.
– Mỗi tháng là một bệnh trình.
– Chỉ có một bệnh nhân điều trị một bệnh trình.
– Còn tất cả đều trải qua hai bệnh trình.
– Cả hai nhóm đều được theo dõi.
– Cả hai nhóm đều được nuôi dưỡng như nhau.
– Trắc nghiệm máu đo sau mỗi bệnh trình.
1.53 Kết quả điều trị
1.53a Về cholestérol
Phân
lượng trong máu
|
Nhóm
Hao-Ling
|
Nhóm
PCIB
|
|
28
người
|
15
người
|
Trước
khi trị + S.D mg/dl
|
266.43
+/– 31.11
|
257.00
+/– 21.6
|
Sau
khi trị + S.D mg/dl
|
220.93
+/– 37.65
|
211.40
+/– 41.24
|
Phân
lượng giảm + S.D mg/dl
|
45.5
+/– 35.11
|
45.60
+/– 40.35
|
Bách
phân giảm (%)
|
17.08
|
17.74
|
Số
hữu hiệu (%)
|
92.86
|
100
|
Độ giảm
bệnh nhân (%)
|
64.29
|
66.67
|
Bệnh
nhân trở lại bình thường(%)
|
50
|
53.33
|
1.63b.Về triglycéride
Phân
lượng trong máu
|
Nhóm
Hao-ling
|
PCIB
|
|
15
người
|
51
người
|
Trước
khi trị + S.D mg/dl
|
290.06
+/– 163.87
|
304.57
+/– 107.30
|
Sau
khi trị + S.D mg/dl
|
225.53
+/– 154.68
|
175.64
+/– 87.98
|
Phân
lượng giảm S.D mg/dl
|
64.53
+/– 99.10
|
128.93
+ /-117.60
|
Bách
phân giảm (%)
|
22.25
|
42.33
|
Số
hữu hiệu (%)
|
86.27
|
89.29
|
Độ
giảm bệnh nhân (%)
|
64.71
|
75
|
Bệnh
nhân trở lại bình thường (%)
|
33.33
|
53.57
|
2. Phương pháp xử dụng
Chúng tôi không nghiên cứu thêm về phương diện:
– Tác dụng hoá học (Chimie)
– Tác dụng hoá-sinh (Biochimie)
Mà chỉ nghiên cứu thuần túy về:
– Phương thức xử dụng.
– Kết quả điều trị.
Bởi các thành viên nghiên cứu đều hoạt động tại phòng mạch
tư. Trực tiếp với đủ mọi thành phần bệnh nhân.
Trong 24 thành viên nghiên cứu:
– 3 vị chuyên về thẩm mỹ, trị mập.
– 6 vị chuyên về tim.
– 14 toàn khoa, châm cứu.
– 1 vị chuyên về thần kinh.
Sau đây là kết quả, của 1000 bệnh nhân, không chọn lọc.
2.1 Thành phần theo địa phương
– Ý 157 người tức 15,7 %
– Tây ban nha 143 người tức 14,3 %
– Pháp 400 tức 40%
– Bỉ 300 người tức 30%
2.2 Thành phần tuổi tác
– Nhỏ nhất 22 tuổi . Lớn nhất 95 tuổi
– Tuổi từ 22 tới 42 là 88 người chiếm 8,8%
– Tuổi từ 43 tới 52 là 160 người chiếm 16%
– Tuổi từ 53 tới 95 là 752 người chiếm 75,2%
2.3 Thành phần nam nữ
– Nam 530 tức 53%
– Nữ 470 tức 47%
2.4 Thành phần trọng lượng
– Dưới trọng lượng lý tưởng 70 người tức 7%
– Tương đương trọng lượng lý tưởng 350 ngươì tức 35%
– Vượt quá trọng lượng lý tưởng 580 người tức 58%.
2.5 Đối tượng điều trị
·
Choléstérol
> 3.50g/l (trung bình 1.5g/l-2.40g/l)
·
Triglycérides
> 1.50 g/l (trung bình 0,4g/l-1.50g/l)
2.6 Phân lượng Hao-ling
7,5 g hay 3 gói đến 5 gói hay 12,5 g mỗi ngày.
2.7 Thời gian điều trị
Từ 30 tới 60 ngày.
2.8. Phương pháp điều trị
2.81. Trong khi cho uống trà Hao-ling, các y sĩ khuyên bệnh
nhân bỏ hẳn tất cả những thuốc điều trị cholestérol và triglycéride. Đôi khi
dùng châm cứu phụ trợ.
2.82. Sau khi điều trị trong một tháng, thử máu để kiểm soát
lại.
2.83. Lúc thấy cholestérol dưới 2.40 g/l và triglycéride
dưới 1.20 g/l:
– Tiếp tục điều trị với lượng trà Hao-ling thấp 2 gói hay 5
g/ ngày trong 10 ngày.
– Rồi 1 gói hay 2,5 g/ ngày trong 10 ngày.
Cho ngừng uống 10 ngày, rồi thử máu lại.
3. Phương pháp xử dụng
3.1. Khuyết điểm lớn lao không phải tại bản chất trà, cũng
không phải của các cơ sở y học khác, mà tại bản hướng dẫn xử dụng của nhà nhập
cảng. Trong phần hướng dẫn, ghi rằng:
« Một gói trà, với 150 ml nước nóng trong tách hoặc
bình trà. Để tan trong 5-10 phút cho đến khi mầu trà sẫm. Có thể đậy nắp tách
lại. Để có thể giữ trà nóng, nên dùng một bình thủy.
– Bỏ 3-5 gói vào bình thủy.
– Đổ vào 0,8 đến một lít nước sôi, hãm trong 10 phút.
– Lắc bình nhẹ trước khi uống.
Dùng 3 đến 5 gói mỗi ngày. Những người chưa dùng trà bao
giờ, nên bắt đầu bằng 3 gói. Sau khi có kết quả rồi, tiếp tục với 2 đến 3 gói
mỗi ngày ».
Đã vậy, ngoài hộp còn in hình: Một tách nước, trong để gói
trà. Hình ảnh đó dễ làm cho bệnh nhân lầm lẫn.
Một vấn đề tai hại khác, khi bệnh nhân không đi khám bác sĩ,
hoặc tự mua Hao-ling về uống, chẳng thấy kết quả gì, do vậy thành kiến xấu về
Hao-ling lan rộng.
3.2. Ngay ngày đầu, đọc phần hướng dẫn trên, các bác sĩ tham
dự trong đoàn đi Vân-Nam (Trần Đại-Sỹ, Vareilla, Tarentino, Fernandes) đã thấy
ngay khuyết điểm lớn lao tai hại cho khả năng Hao-ling.
Bởi trong lần du lịch Vân-Nam trước, bác sĩ Vareilla dùng
nước sôi pha trà hoang, như pha các loại trà khác. Sau khi phái đoàn uống vào,
không thấy tác dụng gì khác nhau. Trong một lần vô tình Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ vào
bếp nấu trà, vì mải đàm thoại với ca sĩ Chan Yiu Ghi (Trần Diệu Nghi), quên tắt
lửa, để trà trong ấm sôi liên tiếp mười lăm phút. Sau đó phái đoàn uống vào,
thấy tỉnh táo khác thường. Bắt đầu từ đó, mỗi ngày, phái đoàn đều nấu, để
nước tiếp tục sôi trong 10-15 phút.
Trong khi điều trị 1000 bệnh nhân, dù y sĩ ghi rõ trong toa
« Đun sôi, để lửa tiếp tục trong 10-15 phút ». Nhưng một số bệnh nhân
chú ý đến lời chỉ dẫn trong hộp trà, nên thay vì nấu, đã nhúng gói trà trong ly
nước sôi, thành ra không kết quả. Sau thời gian điều trị, y sĩ thử máu, thấy
không kết quả, hỏi lại bệnh nhân, mới biết rõ khuyết điểm là... phương
pháp pha.
3.3. Cho đến nay, các chuyên gia nghiên cứu vẫn không tìm
thấy một phản ứng bất lợi nào làm hại cơ thể, trong khi dùng trà Hao-ling. Tuy
nhiên cần chú ý, về một vài điều sau:
Xin lưu ý quý vị đồng nghiệp
Cần theo dõi tình trạng créatinine. Những bệnh nhân có lượng
créatinine cao hơn 11 mg/l không nên dùng quá 4 gói một ngày trong thời gian
trên 60 ngày. Bởi trong số một nghìn bệnh nhân, sau ba tháng điều trị bởi lượng
4 gói một ngày (10g) thì lượng créatinine biến đổi như sau:
– 15 bệnh nhân créatinine dưới 10mg/l lên tới 12mg/l
– 30 bệnh nhân créatinine từ 11mg/l lên 17mg/l
– 15 bệnh nhân créatine từ 15mg/l lên 20mg/l
– Hao-ling rất kị rượu, kể cả bia. Trong một ngàn trường
trường hợp, có 95 bệnh nhân khi đang điều trị, lượng cholestérol, triglycéride
đã xuống dưới trung bình, chỉ uống có 1/4 litre rượu vang (dưới 12 độ), lập tức
cholestérol lên trên 2,40 g/l và triglycéride lên 2,7 g/l. Sau đó phí mất 5
ngày tiếp tục điều trị, cholestérol và triglycéride mới xuống tới mức cũ.
– Sau khi nấu Hao-ling, phải uống ngay. Nếu để quá 8 giờ, dù
để trong bình thủy nóng, khi uống vào dễ sinh sôi bụng, hoặc đôi khi tiêu chảy.
– Phải uống nóng. Uống lạnh không kết quả, hoặc bị sôi bụng,
tiêu chảy.
– Bắt buộc phải uống sau bữa ăn. Nếu uống khi trong bao tử
trống rỗng, sau đó 5-10 phút, sẽ có cảm giác: chân tay bị kiến bò, người mệt
mỏi, váng vất gần giống như bị kiến bò trong bắp thịt (spasmophilie), hay thiếu
đường (hypoglycémie) hay đói quá.
– Uống phân lượng quá cao, trong khi cholestérol,
triglycéride hơi cao, hay trung bình, sau nửa giờ cũng bị phản ứng như trên.
– Khi bị phản ứng như trên, đừng sợ hãi, chỉ việc ăn một
miếng bánh ngọt, một bát canh, hay tốt hơn hết ăn... bất cứ thức gì mình thèm,
lập tức phản ứng hết ngay.
3.4. Kết quả điều trị
Trong 1000 bệnh nhân.
Chúng tôi dùng con số bình thường của mỗi người cholestérol
dưới <2.4 g/l và triglycéride dưới <1,2 g/l.
3. 41. Trước khi điều trị
Tất cả bệnh nhân đều ở tình trạng :
– Lượng cholestérol trên 3.50 g/l.
– Lượng triglycéride trên 1.50 g/l
3.42 . Sau hai tháng điều trị
Về Cholestérol,
– 310 người cholestérol còn dưới 1.60 g/l tức 31%
– 380 người cholestérol còn dưới 2.00 g/l tức 38%
– 215 người cholestérol còn 2.40 g/l tức 21.5%
– 95 người cholestérol trên 2.40 g/l tức 9.5%
Kết qủa 905/1000 tức 90,5 %
Trung bình trong tổng số từ 4,2g/l còn 2,1g/l.
Về Triglycéride
– 240 người triglycéride còn dưới 1g/l tức 24%
– 420 người trilycéride còn dưới 1,2g/l tức 42 %
– 250 người triglycéride còn 1,2g/l tức 25%
– 90 người triglycéride trên 1,2g/l tức 9%
Kết quả 910/1000 tức 91%
Trung bình trong tổng số từ 2,8g/l còn 0,85g/l.
4. Những công dụng khác
Sau đây là kinh nghiệm của gần 300 bác sĩ thuộc hệ thống IFA
và ARMA, đã xử dụng trà Hao-ling cho khoảng trên năm ngàn bệnh nhân.
4.1. Chúng
tôi cho phân tích 1 gói Hao-Ling (2,50 g) thì thấy :
Thành phần hoá học như sau:
Calories
|
3.3
|
Total solide, gr
|
0.83
|
Protéines, gr
|
0.73
|
Graise-total, gr
|
0.007
|
Hydrates de carbone gr
|
0.007
|
Sodium, mg
|
0.3
|
Potassium, mg
|
410.00
|
Vitamine B1, mg
|
0.015
|
Vitamine B2, mg
|
NS.
|
Vitamine C, mg
|
NS.
|
Calcium, mg
|
1.14
|
Fer, mg
|
0.012
|
Caféine, mg
|
3.77
|
Tannin, mg
|
0.84
|
Như vậy lượng Caféin là
|
0,15%
|
4.2.
Dùng trà Hao-Ling trị cholestérol và triglycéride. Kết quả dễ dàng, hơn nữa
không gây phản ứng phụ. Kết quả gần như có tính chất lâu dài.
4.3.
Những người bị cholestérol, triglycéride cao, sau bữa ăn thường không dám dùng
café, nước trà, vì sợ mập, sợ đường (glycémie) lên cao. Có thể yên tâm dùng trà
Hao-Ling, vừa trị bệnh, vừa thay thế trà thường cũng như café.
4.4.
Một công dụng khác, chưa cơ sở nghiên cứu nào tìm thấy: dùng trà Hao-ling làm
trấn tĩnh tinh thần, ít cáu giận. Trong 100 bệnh nhân đều xác nhận, dùng trà
Hao-ling, tinh thần an tĩnh hơn bình thường. Đối với người không bị
cholestérol, triglycéride cao cũng có kết qủa tương tự. (93%)
4.5.
Trà Hao-ling có tính chất làm dịu cơn ho khi bị sưng cổ (amygdalite) hay ho vì
bất cứ lý do gì. Trong 1000 bệnh nhân, có 98 bệnh nhân bị ngứa cổ, ho kinh
niên. Kết quả 79 người dịu cơn ho, tức 80%. Tuy nhiên đối với người không bị
cholestérol, triglycéride cao, bị ho, cho uống Hao-ling, dường như không có kết
quả nào.
4.6.
Khi uống café rồi, sợ bị mất ngủ, dễ cáu, tim đập thất thường. Uống trà
Hao-ling, tác dụng của café chấm dứt ngay sau 10 phút. Cho 50 bệnh nhân, thông
thường uống café bị mất ngủ. Nay cho uống café, rồi cho uống trà Hao-ling, giấc
ngủ đến như thường lệ cả 50 người (100%).
4.7. Trà
Hao-ling có tác dụng trị bệnh gan yếu theo Tây-y (Tỳ-vị hư nhược theo Đông-y).
Trong 1000 bệnh nhân, có 123 người:
4.71 Sau
bữa ăn, chân tay lạnh, buồn ngủ, mệt mỏi.
4.72
Ăn mỡ, ăn no quá, hoặc ăn những thức khó tiêu ợ chua.
Khi dùng trà Hao-ling, các triệu chứng trên biến mất. Thử
nghiệm với 50 bệnh nhân không bị cholestérol, triglycéride cao, nhưng có các
triệu chứng trên. Sau bữa ăn, cho uống Hao-ling, các chứng ấy biến mất. Nếu
dùng liên tiếp trong một tháng, 39 người khỏi hẳn (78%).
4.8. Những
người bị cholestérol, triglycéride cao, bị mập, trọng lượng giảm rất mau trong
tháng đầu tiên. Song khi trọng lượng xuống tới bình thường, thì không xuống nữa
(856/1000 tức 85.6%). Đối với các loại mập khác, dùng Hao-ling gần như không có
kết quả.
4.9. Về
kích thước, những người bị cholestétrol, triglycéride giảm số đo ở vòng bụng
thực mau (Trung bình 14-18%). Còn số đo đùi, ngực, dường như hiếm hoi (1-1.5%).
Đối với những người bụng lớn thuộc loại khác, dùng trà Hao-ling dường như không
có kết quả .
4.10 Chỉ
nên uống trà Hao-ling độc lập. Không thể, không nên pha với đường, sữa, nước đá
hay bất cứ thức ăn nào khác, sẽ mất hiệu nghiệm trà đi. Nhất là uống với nước
đá, sẽ bị tiêu chảy.
4.11 Một
trong những điều làm cho các y-sĩ điều trị rất vui lòng, phấn khởi, là những
bệnh nhân mà sau bữa ăn trưa thường bị mề mệt, buồn ngủ, sau khi uống Hao-ling
tinh thần sảng khoái, đầu óc minh mẫn, năng lực làm việc gia tăng. (783/783
trường hợp, tức 100%).
5. Dùng cho người không bệnh
Một câu hỏi đặt ra: Người không bị cholestérol hay
triglycéride cao, có thể dùng trà Hao-ling được không?
Xin trả lời : được. Với điều kiện dưới 5 g tức 2
gói cho người trọng lượng dưới 50 kg. Hay 7.5 g tức 3 gói cho người trên 50kg.
Không nên dùng qúa phân lượng, bằng không sẽ bị tình trạng bải hoải.
Những trường hợp sau đây, sau bữa ăn, nên uống một tách trà
Hao-ling đặc:
5.1.
Thay café, nước trà khác, để trợ tiêu hoá.
5.2.
Dùng để vô hiệu hoá rượu, café.
5.3.
Dùng để vô hiệu hoá thức ăn nhiều mỡ.
5.4.
Khi ăn quá no.
5.5.
Sợ rằng sau bữa ăn bị lên cân.
5.6.
Sau khi ăn xong, buồn ngủ, mệt mỏi.
6. Một vài y án dùng trà Hao-ling
6.1.
Bác-sĩ Đỗ-H.Đ, 48 tuổi, chuyên khoa thần kinh. Chuyên viên nghiên cứu ARMA.
Hành nghề y sĩ thần kinh và châm cứu. Tinh thần bình thường, cơ thể khoẻ mạnh.
Gia đạo an vui. Quá khứ bị suyễn. Mỗi năm, vào mùa đông thường bị ho, dù không
nhiễm trùng hay allergy. Cholestérol trên 3.4 g/l. Triglycéride trên 3.6 g/l.
Vòng bụng 108 cm. Nặng 62 kg. Uống lipanthyl 300, mỗi ngày một viên.
Đồng nghiệp khuyên uống trà Hao-ling, với phân lượng 3-4 gói
(7.5-10 g) một ngày. Hai ngày đầu than rằng, buổi sáng cảm thấy mệt. Ngược lại
sau bữa ăn trưa, cảm thấy khoẻ mạnh vô cùng.
Đồng nghiệp nhắc:
« Chỉ nên uống Hao-ling sau bữa ăn. Uống Hao-ling buổi
sáng, mà không ăn điểm tâm sẽ mệt lắm ».
Sáng ăn điểm tâm, rồi uống trà Hao-ling . Quả nhiên trong
người khoan khoái vô cùng.
Sau một tháng điều trị, vòng bụng mất 12 cm, trọng lượng
giảm 4 kg. Cholestérol còn 2.6 g/l triglycéride còn 2.4 g/l. Vẫn tiếp tục uống
với phân lượng 2 đến 3 gói một ngày.
6.2 F.
Jean Marie, bác sĩ y khoa, chuyên về giải phẫu, 55 tuổi. Cao 1.70 m, nặng 77
kg. Vòng vụng 116 cm. Sau khi ăn no, hoặc ăn dầu, mỡ, hoặc uống trà, café bị ợ
hơi. Cholestérol 3.90 g/l. Triglycéride 3.95 g/l. Gia đạo bất an. Sức khoẻ dồi
dào. Phi ngựa mỗi tuần trên 100 km. Thường bị ho, ngứa cổ. Sau khi ăn trưa, nếu
không ngủ, không thể tiếp tục làm việc.
Khuyên dùng trà Hao-ling 3-4 gói (7.5– 10 g) ngày. Sau một
tuần, cho biết, không thấy có gì thay đổi.
Hỏi « Có phải dùng một gói trà, cho
vào tách nước sôi rồi uống không? » Đáp « Đúng thế ».
Nhắc « Cho trà vào ấm, đun với một lít nước. Sau khi nước sôi, giữ lửa
trong 10 phút, rồi rót nước vào bình thủy. Uống nóng » .
Hôm sau cho biết « Không cần ngủ trưa, vẫn khoẻ vô
cùng ». Một tuần sau cho biết: Ăn no, ăn mỡ rồi uống Hao-ling, không
bị ợ hơi nữa.
Sau một tháng: Cholestérol xuống 1.90 g/l. Triglycéride
xuống 1.05 g/l. Trọng lượng giảm 4 kg, vòng bụng giảm 10 cm. Khuyên bớt trà,
mỗi ngày 5 g. Sau 2 tháng, trọng lượng còn 67 kg. Vòng bụng còn 93 cm.
Cholestérol còn 1.85 g/l, triglycéride còn 1.00 g/l. Ho vặt hết. Tuy vậy khi ăn
trứng hay mỡ nhiều, vẫn bị ợ hơi, nhưng sau khi ăn, uống Hao-ling thì không
sao.
6.3 M.P.
Thợ sửa xe hơi, 44 tuổi, cao 1.70 m. Nặng 84 kg. Vòng bụng 125 cm. Cholestérol 3.50
g/l. Triglycéride 3.50 g/l. Uống rượu nhiều. Sau bữa ăn phải uống hai, hay ba
ly café, nếu không, sẽ ngủ gật. Mỗi ngày uống một viên lypanthyl 300.
Khuyên bỏ lypanthyl, uống trà Hao-ling 4-5 gói một ngày (10–
12.5 g). Kể từ ngày đầu tiên, bỏ café, nước trà, vẫn tỉnh táo như thường.
Sau một tháng điều trị, cholestérol còn 2.50 g/l.
Triglycéride còn 1.40 g/l. Trọng lượng giảm 7 kg. Vòng bụng giảm 20 cm.
Điều trị tiếp 3 tháng. Cholestérol còn 2.00 g/l.
Triglycéride còn 1.05 g/l. Trọng lượng còn 72 kg. Vòng bụng 95 cm.
Vẫn cho dùng Hao-ling với lượng thấp 5 g (2 gói) một ngày.
Vì « ngon quá, bỏ không được ».
6.4 Nữ
ca sĩ, 48 tuổi. Gốc người Á-châu. Cao 1.63 m, nặng 50 kg. Sang Pháp đã 12 năm.
Mỗi năm tăng kg. Trọng lượng hiện tại 77 kg. Vòng bụng 105 cm. Thần kinh suy
nhược, mỗi ngày lên cơn khóc 3-7 lần. Uống Témesta, Noctran, Valium 5.
Thử máu, thấy cholestérol = 3.20 g/l. Triglycéride = 2.90
g/l. Khuyên uống trà Hao-ling 4-5 gói một ngày (10-12.5 g). Dùng châm cứu trị
thần kinh, tuần hai lần.
Sau hai tuần, hết khóc. Chỉ còn uống Valium 5.
Sau một tháng, bỏ nốt Valium 5. Giảm 7 kg. Vòng bụng giảm 10
cm. Không trị châm cứu nữa.
Sau hai tháng uống Hao-ling. Cholestérol còn = 2.50 g/l.
Triglycéride còn 1.40 g/l. Giảm thêm 8 kg. Vòng bụng 95 cm.
Sau ba tháng uống trà Hao-ling. Trọng lượng còn 58 kg. Vòng
bụng còn 81 cm. Cholestérol còn 2.00 g/l. Triglycéride còn 1.10 g/l. Khuyên
tiếp tục uống Hao-ling với 2-3 gói (5-7.5 g) mỗi ngày.
6.5
T. R. Nhân viên ngân hàng, 60 tuổi. Khoẻ mạnh, không bệnh tật gì. Sau đêm
Giáng-sinh, bội thực, mửa ra thực vật, ợ chua suốt ngày 26-12. Nấu 5 g Hao-ling
trong nửa lít nước. Uống thực nóng một ly lớn. Uống xong khoảng ba phút, hết ợ
hơi, người ấm áp dễ chịu. Uống tiếp hai ly nữa. Sau mười lăm phút, bệnh khỏi.
6.6 M.
V. dược sĩ, 57 tuổi, cholestérol, triglycéride trung bình. Cơ thể khoẻ mạnh.
Thông thường ăn xong mệt mỏi, phải uống café. Nhưng sau khi uống café, tối
thường bị ợ hơi, mất ngủ cực kỳ khó chịu. Trong lần làm việc mệt, quên mất,
uống liền ba ly café. Sau khi uống, tìm bác sĩ xin « giải nạn, bằng không,
đêm không ngủ được, ợ hơi suốt đêm ». Khuyên: Dùng 5 g Hao-ling, nấu trong
một nửa lít nước. Uống trước 17 giờ. Đến 21 giờ buồn ngủ. Giấc ngủ ngon, không
ợ hơi.
6.7.
PH, Rosalie, thương gia, 50 tuổi, khoẻ mạnh. Cholestérol = 1,90, triglycéride =
1. Cao 1.60 m, nặng 60 kg. Glycémie = 1,05. Tự ý mua Hao-ling uống ngày 10 g (4
gói). Sau khi uống ba tháng, trọng lượng không đổi, viết thư hỏi tại sao không
gầy. Trả lời: Hao-ling là sản phẩm y-dược, dùng để trị cholestérol, tryglycéride
cao trong máu. Những người mập do cholestérol hay tryglycéride cao thì mới có
kết quả. Nhắc lại : Hao-ling không phải là sản phẩm trị mập. Những người mập mà
cholestérol, tryglycéride thấp thì chỉ có thể uống... chơi cho thú vị mà thôi.
6.8. Phan
Đình-D. Thiên-tài toán học, người Việt, 57 tuổi. Cư trú tại Việt-Nam. Gia đạo
an vui. Làm việc quá độ, mệt mỏi. Cholestérol lên cao 6g/l, triglycéride
3,50g/l. Lượng đường không rõ. Sau khi uống Haoling với lượng ba gói (7,5 g)
một ngày, liền trong hai tháng. Kể từ ngày uống đầu tiên, đầu óc minh mẫn, tinh
thần sảng khoái, năng xuất làm việc lên rất cao. Chưa kiểm chứng được kết quả
thử máu.
Kính thưa Quý-vị,
Phần điều trần của chúng tôi đến đây là hết, chúng tôi xin
chờ những thắc mắc của Quý-vị
Giám đốc Trung-quốc sự vụ, viện Pháp-Á
Phụ đính,
6.9. Phát tướng, phát tài hay phát quan
tài ?
Đây là một bài tôi viết bằng 4 thứ tiếng Việt, Anh, Pháp,
Hoa, và đã đăng trên nhiều báo tại Pháp, Hoa-kỳ, Anh, Úc, Canada, Trung-quốc,
Hương-cảng. Xin các vị đọc để có một ý niệm về cái chứng mỡ cao trong máu.
Tôi làm thầy thuốc tại Châu-âu đã hai chục năm (75-95). Thân
chủ của tôi hầu hết là người da trắng rất ít thân chủ da mầu. Cứ mỗi lần tôi
tìm ra trong máu một thân chủ có lượng Cholestérol, triglycéride cao, loan báo
cho họ, là y như họ thừ người ra, tỏ ý lo sợ rồi xin giảng giải kỹ về chúng.
Trong khi đó thân chủ da mầu, dù biết lượng mỡ trong máu đến mức nguy hiểm, lại
tỉnh bơ. Cứ tiếp tục xơi những món đầy dầu, đầy mỡ.
Tôi xin cử ra một tỷ dụ : Ông Dupont thấy người tự
nhiên béo lên hơn 3 kg trong hai tháng. Tính chung trong năm qua lên 9 kg, ông
đến xin tôi chẩn đoán. Tôi cho thử máu. Kết quả chỉ có Cholestérol lên cao
4g/l. Còn lại đều bình thường. Nghe tôi loan báo, mặt ông đờ đẫn ra, hỏi
tôi :
– Cholestérol là gì ?
Tôi nghĩ thầm : Ông đã biết rõ cái nguy hại của
Cholestérol, ông mới tỏ ý lo sợ. Vậy thì còn gì để ông thắc mắc nữa ?
Nhưng tôi cũng vẫn tóm lược, giảng giải :
– Ông Dupont thân mến ơi! Ông an tâm, chưa có gì nguy hiểm
đâu. Tôi xin nói về hai loại cholestérol. Một loại nguy hại cho cơ thể, tạm gọi
tắt là CH-T. Một loại tốt cho cơ thể tạm gọi tắt là CH-DL. Cholestérol CH-T là
một chất màu trắng đặc như mỡ do gan tạo thành, lẩn quẩn trong máu. Chất này
giữ việc chính yếu trong việc tạo thành tế bào, tổng hợp sinh tố D và một vài
kích thích tố quan trọng của tình dục. Bình thường gan có thể tổng hợp hay hấp
thụ chất cholestérol trong thức ăn để cung ứng cho cơ thể. Nếu ăn nhiều chất
béo quá, đặc biệt là mỡ động vật, lượng cholestérol CH-T trong máu sẽ lên cao.
Khi ấy nó sẽ bám vào thành mạch máu, lâu dần đưa đến bế tắc.
Ông Dupont lại hỏi :
– Nhưng sao nó lại nguy hại đến tính mệnh ?
– Thông thường, máu chảy vào các động mạch, mang theo oxygène
cần cho hoạt động của tim và óc. Nếu tim không nhận được lượng dưỡng khí cần
thiết, hoạt động của tim sẽ gặp trở ngại, khiến ta cảm thấy khó thở, tức ngực
(angine). Nếu một vài động mạch của tim bị cholestérol CH-T làm nghẽn, cơ tim
khu đó sẽ chết vì thiếu dưỡng khí, ta lên cơn đau tim và bị vỡ ra (infartus).
Khi óc không nhận đủ được lượng dưỡng khí do máu đưa lên, thì từng phần của óc
sẽ tổn thương, nhẹ thì chóng mặt, lẩn thẩn, nhức đầu.
– Tôi thấy có người bị liệt tay, có người bị liệt chân, có
người bị bán thân bất toại vì chứng này. Tại sao vậy ?
– Giản dị thôi, óc là trung khu điều khiển cơ thể. Khi khu
chỉ huy bị nghẽn, thì tay tê liệt, khi khu chỉ huy chân nghẽn thì chân liệt.
Khi hai khu trên bị nghẽn thì bán thân bất toại. Vì vậy lượng mỡ trong máu cao
là một trong những nguyên nhân chính đưa đến tắc nghẽn tĩnh, động mạch, huyết
áp cao, bán thân bất toại, nhồi máu cơ tim (infartus), nhức đầu chóng mặt và
bất lực sinh lý.
– Thế lượng cholestérol CH-T bao nhiêu thì nguy hiểm ?
– Tùy theo quốc gia. Cholestérol CH-T có ba trình độ là bình
thường, nên cẩn thận và đáng ngại:
* Như Hoa-kỳ, Pháp thì dưới 2 g/l là trung bình.
* Tại Trung-quốc, Việt-nam thì dưới 1,8 g/l mới là trung
bình.
* Tại Hoa-kỳ thì 2-2,4 g/l, tại Pháp thì 2-2,50 g/l, tại
Trung-quốc, Việt-nam thì 1,8-2,2 g/l là nên cẩn thận.
* Tại Hoa-kỳ thì trên 2,4 g/l, tại Pháp thì trên 2,5 g/l,
tại Trung-quốc, Việt-nam thì trên 2,2 g/l là đáng ngại. Như ông thì lượng
cholestérol CH-T tới 4 g/l thì thật đáng sợ.
– Nhưng cái cholestérol CH-HDL của tôi lại thấp, chỉ có 0,45
g/l thì sợ gì ?
– Thưa ông cholestérol CH-HDL là loại cholestérol tốt. Mức
thấp nguy hiểm của cholestérol CH-HDL là 0,40 g/l, trong khi của ông là 0,45
g/l thì là mức báo động to rồi.
Thấy ông đờ đẫn ra, tôi an ủi ông :
– Nhưng nay đã khám phá ra, ông phải làm ba việc. Nếu ông
làm đúng thì chả sợ gì nữa.
– Đa tạ bác sĩ, ba việc là những việc gì ?
– Tôi chỉ tóm lược thôi, sau đó ông có thể đọc các sách giản
dị của... để biết chi tiết hơn. Một là tôi cho ông thuốc để điều trị trong 3
tháng. Nhưng cứ mỗi tháng thử lại máu để tùy theo lượng cholestérol mà dùng
thuốc. Hai là ông nên tập thể dục. Môn thể dục chạy, đi xe đạp là tốt nhất. Ba
là ăn uống kiêng cữ.
– Thế tôi phải kiêng những gì ?
– Mỡ động vật; hải sản như cua, tôm cùng tim, gan, óc động
vật; lòng đỏ trứng gà, chocolat, bơ, phó-mát.
Tôi cho ông uống Zocor/20mg, 1 viên vào buổi chiều. Ông
không muốn uống Zocor, tôi cho ông uống Hao-Ling với lượng 4 gói một ngày
(10g).
Ông Dupont cầm toa thuốc trở về. Tháng sau tôi thấy ông gầy
đi 3 kg, lượng cholestérol còn 3 g/l. Sang hết tháng thứ ba, ông mất đi 5 kg,
lượng cholestérol còn 2,4 g/l. Tôi cho ông uống lượng Hao-Ling 2 gói một ngày
để cầm chừng, và ông khỏe mạnh yêu đời.
Hơn năm sau, gặp lại ông Dupont, thiếu điều tôi không nhận
ra ông. Người ông thon, gọn, chân tay chắc nịch, đôi mắt tinh anh, chứng tỏ
thần thái tốt. Sau khi hỏi ra tôi được biết, mỗi chiều đi làm về ông không chạy
bộ 5 km, thì cũng đấm vào bao cát trên nghìn chiêu.
Bàn chung, hầu hết người Âu-Mỹ khi biết cholestérol lên cao,
họ đều kiên nhẫn uống thuốc, tập thể dục. Cũng từ đó, họ chú ý đến vấn đề ăn
uống hơn. Mỗi khi ăn thức ăn lạ, họ không ngần ngại gọi điện thoại cho bác sĩ
gia đình hỏi lại xem có nên ăn hay không. Nếu ăn rồi, thì nên uống thức uống
nào để tránh tai hại.
Tại châu Âu, Mỹ, khi đến tuổi năm mươi trở đi, thì ít nhất
mỗi năm bác sĩ gia đình cho thân chủ đi thử máu, để kiểm điểm lại những thứ
lỉnh kỉnh như mỡ, đường, hồng cầu, bạch cầu, magnésium, potassium, calcium, rồi
đi đo tâm-điện-đồ (ECG). Nếu là các bà thì còn được gửi tới bác sĩ sản khoa để
khám nhũ hoa, xem lại lượng hormone, cào phấn tử cung (flottis) v.v. Lỡ ra bác
sĩ gia đình quên, thì y như họ tới để xin làm các thí nghiệm trên. Tiền chẩn
mạch, tiền thí nghiệm do bảo hiểm trả hết. Thành ra khi những bất thường trong
cơ thể mới xuất hiện, họ biết liền, bác sĩ gia đình cũng biết liền, nên việc
điều trị không khó khăn.
Nhưng những thân chủ, người Hoa, người Việt của tôi, gốc đều
là con cháu vua Thần Nông thì không thế. Hơn nữa rất bướng bỉnh. Khi đau yếu,
thì hoặc là mua thuốc uống bừa, hoặc cạo gió, hoặc đánh gió. Cảm mạo ta cạo
gió. Đau bụng ta ăn gừng. Tiêu chảy, nhức đầu... bôi dầu con dơi. Thậm chí ngất
xỉu cũng cạo gió, thoa dầu nóng, hoặc tẩm quất. Sau đó nằm thi gan với
bệnh tật. Khi thấy Diêm vương sai quỷ tới đòi mạng, đang bay chập chờn trước
nhà, mới chịu đi tìm bác sĩ, thành ra đôi khi bác sĩ bó tay, nhìn bệnh nhân
chết bởi những bệnh lãng xẹt.
Đấy là nói khi bị bệnh đưa đến đau nhức, nóng lạnh, khó thở,
ho hen, cảm mạo, chứ trong khi bị mỡ trong máu lên cao, người Hoa-Việt của tôi
lại còn khinh thường hơn nữa. Lúc mỡ cao, đường cao trong máu, tự nhiên thấy ăn
nhiều, lên cân, da căng bóng, mặt tròn; má, cổ nhúng nhính, bụng từ từ lớn ra
như bụng Phật Di-Lặc. Bạn bè khen : « Ấy là ! Mát da, mát
thịt, béo trắng, béo hồng, trông trẻ hẳn ra đến chục tuổi. » Rồi còn nói
tướng, nói số : « Á ! Cái lày phát tướng, phát tài lớ. »
Tôi xin cử ra một tỷ dụ hàng trăm lần tôi đã gặp.
Bấy giờ là năm 1985.
Ông X, làm giám đốc một cơ sở xuất nhập cảng thực phẩm
Á-châu ở Hương-cảng. Năm đó ông 52 tuổi. Ông với tôi là bạn thế giao từ hồi thơ
ấu. Hè năm đó tôi sang Giang-tô dự đại hội y khoa, nhân dịp ghé Hương-cảng thăm
ông. Thấy ông béo trắng quá bất thường, tôi hỏi trọng lượng, ông cho biết năm
qua ông mập đều đều, mỗi tháng 1 kg, tổng cộng thêm 12 kg. Bà vợ ông sung sướng
khoe :
– Ăn được ngủ được là tiên. Anh coi, da mặt ông nhà tôi căng
thẳng, vết dăn biến đi, lại hồng hào. Vì vậy tôi càng cho ông ấy ăn những thức
bổ béo, kẻo lỡ lại gầy đi.
Tôi biết cái gì đã xảy ra cho ông, tôi khuyên ông nên đi thử
máu, nước tiểu. Ông mắng vốn tôi :
– Lị thì nhìn đâu cũng thấy bệnh. Mập ra cũng bệnh, gầy đi
cũng bệnh. Ngủ nhiều cũng bệnh, ngủ ít cũng bệnh. Nị nên nhớ 6 năm qua, ngộ chưa
từng uống một viên thuốc.
Thế rồi ông bà lôi tôi đi ăn ở nhà hàng lớn. Vì quý tôi,
trong bữa ăn ông gọi những món ăn, mà tôi mới nghe cũng thấy ớn da gà: chả
trứng óc heo, heo sữa quay, da heo chiên dòn, cơm chiên lạp xưởng theo lối
Giang-tô. Đã hết đâu, ông còn gọi thêm tôm lăn bột chiên, tôm ram muối. Trong
bữa ăn, mình ông mà ông nốc cạn chai cognac của Pháp.
Sau bữa ăn, vì tình bạn, tôi khuyên ông một lần nữa nên đi
thử máu, ông tức quá bẹo tai tôi :
– Bộ lị cứ nhất định bắt ngộ phải đi cho người ta xin tí
huyết mới nghe sao ? Lị biết không, từ hồi ngộ phát tướng tới giờ, tiền
vào như nước.
Tôi đành về Paris. Bẩy tháng sau, tám giờ tối (Hương-cảng 2
giờ sáng) tôi nhận được cú điện thoại của bà vợ ông, báo cho biết: ông đau ngực
mấy ngày liền. Ngày đầu chỉ ê ẩm, hôm nay mồ hôi ra dữ dội, lại buồn nôn đã cạo
gió mà không đỡ. Tôi khuyên bà gọi bác sĩ nhưng đêm khuya không ai trả lời. Quá
kinh hãi, tôi yêu cầu bà đưa ngay ông vào bịnh viện. Hôm sau tôi liên lạc với
bệnh viện thì biết ông bị infartus. Rất may cứu kịp. Nguyên do mỡ, đường trong
máu quá cao (cholestérol CH-T tới 6,8 g/l, tryglycéride 3,3 g/l, glycémie 4,2
g/l).
Một trường hợp khác xày ra giữa Paris, năm 1980.
Bấy giờ tôi đang dạy thực tập cho sinh viên tại clinique
Masséna, thuộc Paris 13. Một buổi trưa tôi cùng hai sinh viên Pháp , một sinh
viên Việt, ra nhà hàng gần đó ăn trưa. Cả ba sinh viên đều là bác sĩ mới trình
luận án, nhưng còn làm nội trú. Khi tôi vào trong nhà hàng, đã thấy ba người
quen. Cả ba ông đều trên 50 tuổi. Một ông là chuyên viên hãng nhựa, một ông là
chủ nhà hàng rất lớn, một ông là tài xế taxi. Ba ông có lệ cứ thứ tư thì nghỉ,
xin phép bà xã... rủ nhau đi ăn nhậu. Nhìn trên bàn mấy ông tôi thấy có một
chai cognac Rémy, một chai whisky hiệu ông già chống gậy, một hũ rượu Thiệu-hưng,
một hũ Trạng-nguyên hồng. Tất cả các chai, hũ hầu như cạn gần hết. Tôi chào bắt
tay ba ông, rồi kiếm chỗ ngồi cạnh bàn các ông. Chúng tôi gọi mì nước, bánh
cuốn và nước trà.
Ông taxi hỏi tôi :
– Anh làm bác sĩ mà không uống rượu, không hút thuốc thì
tiền để đâu cho hết ?
Biết đây là lối gây sự của ông, để tự bào chữa mình, nên tôi
trả lời bằng nụ cười. Nhưng cô nữ bác sĩ trẻ trả lời rất dịu dàng.
– Chúng tôi ăn vội để còn làm việc. Nếu uống rượu, hút
thuốc, lát nữa nhả mùi hôi vào mặt bệnh nhân, thì họ sẽ mắng thầm chúng tôi
rằng : « Bác sĩ cà-chớn, nghiện rượu, nghiện thuốc không đàng
hoàng ».
Ông chủ nhà hàng lớn cũng không vừa :
– Tôi thấy thiếu gì bác sĩ cũng uống rượu, cũng hút thuốc.
Gần nhà tôi có ông già uống rượu như hũ chìm, hũ nổi, hút thuốc nhả khói như
tàu lửa, mà thọ tới 90 tuổi. Sống ở đất Pháp này, rượu ngon, thuốc thơm mà
không hưởng, thì sống cũng như chết thôi.
Cô bác sĩ trẻ vẫn không chịu.
– Đất Pháp là đất tự do. Tự do nói, tự do ăn và cả tự do
chết. Ai muốn làm gì thì làm, song đừng bắt người ta phải chết theo mình.
Quan sát nước da, ánh mắt, nghe tiếng nói của ba ông, tôi
ghé vào tai cô bác sĩ, giảng giải cho cô những gì hiện ra trên người ba ông,
rồi kết luận :
– Kệ, họ nói gì mặc họ. Cái ông chủ nhà hàng lớn, ông chuyên
viên kia, dường như bị đái đường nặng lắm mà không biết. Còn ông taxi kia e bị
loét bao tử. Ta cứ chờ đi.
Hơn tháng sau, ông chủ nhà hàng lớn lăn đùng ra, chở vào nhà
thương. Người ta tìm ra lượng đường trong máu ông lên tới 4,2 g/l, cholestérol
CH-T sơ sơ 6,3 g/l, triglycéride tới 3,8 g/l. Hai quả thận của ông hư phải lọc
máu. Bốn hôm sau, ông taxi mửa ra máu, vào nhà thương, người ta tìm ra ông bị
loét bao tử nặng, phải giải phẫu tức thời. Còn ông chuyên viên, có vợ làm y tá,
bà này điệu chồng đi khám rất thường, ông bị tiểu đường với lượng 4,5 g/l. Cái
ngộ nghĩnh là cả ba ông đều vào nhà thương và gặp đúng đám bác sĩ trẻ của tôi
phụ trách điều trị.
Một trường hợp khác, ông M. làm việc cho hãng xe Citroen, với
một chức vụ lớn, lương cao. Ông là em một người bạn gái của tôi. Bà là người
mẫu nổi danh một thời. Năm 1985 ông về Việt-nam cưới vợ. Vợ là một nữ sinh viên
xinh đẹp. Năm 1987 hai người có một đứa con trai, năm 1989 lại có đứa con trai
thứ nhì. Hai vợ chồng cùng đi làm, gia đạo yên vui. Nhưng ông M. có tính thích
ăn thịt heo quay, thịt ba chỉ kho với trứng gà, kho với nước dừa tươi. Mỗi khi
ăn ông dành nước sốt chan đầy bát. Ăn phở thì đòi tái nạm ăn với nước béo. Ông
thích nhất là món chả trứng, mà thịt làm chả phải là thịt ba chỉ. Từ năm 35
tuổi ông bắt đầu mập ra, trung bình mỗi tháng hơn một kí lô. Trong một năm
rưỡi, ông tăng lên tới 19 kg (bấy giờ chiều cao của ông là 1m70, trọng lượng 80
kg). Trong khi bà vợ lại gầy đi (chiều cao 1m60, trọng lượng 45 kg). Một lần
ông mời tôi và bà chị tới nhà ăn, thấy ông mập một cách khác thường, bà chị hỏi
tôi tại sao ? Tôi biết gia đình ông rất nhiều, từ ông bà nội, ngoại, cho
tới chú bác cô dì, đều không có ai mập cả. Tôi khuyên ông thử máu. Ông ừ hự rồi
bỏ qua.
Nhưng ít lâu sau bác sĩ công nghiệp bắt thử máu, và tìm ra
lượng cholestérol CH-T tới 5,6 g/l ; CH-HDL 0,50 g/l , triglycéride tới
3,4 g/l. Bác sĩ công nghiệp gửi thư loan báo tình trạng bệnh của ông cho tôi,
để tôi điều trị. Trong thư còn kèm theo một phiếu trả lời, ghi rõ những thuốc
tôi đã cho ông. Tôi mời ông và bà vợ tới trình bầy những nguy hại của chứng mỡ
cao trong máu, cùng dặn chi tiết :
1. Tuyệt đối cấm ăn những thức ăn sau : đứng đầu là mỡ
heo, mỡ bò, mỡ cừu, mỡ dê, mỡ gà. Nhất là da gà, da heo. Thứ nhì là tròng đỏ
trứng gà, dừa, nước dừa, chocola, phó-mát, bơ, nghêu, sò, mực, tôm, cua. Ngược
lại ăn mỡ cá thì tốt.
2. Thay thế mỡ heo bằng dầu thực vật như dầu bắp, dầu hướng
dương v.v.
3. Chạy dã bộ mỗi ngày ít nhất 4 km.
4. Tạm thời tôi cho ông chọn hoặc là uống thuốc, hoặc dùng
trà Hao-ling với lượng 4 gói một ngày.
Ông là người thuận với chị gái, nên rất nể tôi. Nhưng ông
không uống thuốc, chẳng thể dục, lại tiếp tục ăn thịt ba chỉ, chả trứng óc heo,
phở tái nạm nước béo. Kết quả, hơn năm sau, đang ngồi làm việc, ông lăn đùng
ra. Chở vào nhà thương, ông bị bán thân bất toại. Chỉ khổ cho bà vợ xinh đẹp,
mỗi tuần phải ba lần chở chồng đi châm cứu trong 6 tháng, bấy giờ ông mới tạm
bình phục và đi làm lại được. Từ đấy ông uống thuốc, tập thể dục hàng ngày và
thấy mỡ, trứng, bơ, chocolat, là kinh hãi như thấy quỷ.
Nhưng... dù ông đã đi đứng tạm được, song truyện phòng the
bị tuyệt hẳn, ông có vợ đẹp, chỉ để mà nhìn thôi!
Nào quý độc giả người Việt, người Hoa của tôi, nếu các vị
thích về nước Chúa, lên cõi tiên hay tiêu dao miền Cực-lạc thì cứ tiếp tục xơi
thịt ba chỉ bằng cách kho với nước dừa, làm chả trứng, chả óc heo, thịt kho
tầu, ăn phở thì đòi nạm, tái nạm, cùng chan thêm nước béo. Rồi mỗi sáng xơi
bánh mì với vài cây lạp xưởng hay mấy khúc xúc xích, loại mà cắt ra thấy lấm
tấm những mỡ trắng cùng thịt đỏ. Lỡ không thích xúc xích thì ăn bánh trái bao
mà nhân làm bằng lòng đỏ trứng gà với thịt ba chỉ. Nếu quý ông tương đối béo,
mà xơi như vậy hy vọng ít lâu sau, đồng hồ của quý ông vĩnh viễn chỉ số sáu, dù
đứng trước người đẹp như tiên. Sau đó tiêu dao miền Cực-lạc rất mau. Dĩ nhiên
tiêu dao Cực-lạc thì yên thân. Nhưng lỡ ra không tiêu dao Cực-lạc, mà lại bán
thân bất toại, nằm đó, đi cầu, đi tiểu cũng phải có người dắt, mới khổ cho thân
nhân.
(Bài này viết năm 1990, tôi phụ đính vào đây)
Thấy bác lên bài này em nghĩ rằng có chuyện vui về ông bác sỹ này, quả nhiên là có thật, hihi.
Trả lờiXóaMình đã viết ngay từ đầu là chuyện còn dài lắm mà.
XóaNgay cái tên Hao-Ling cũng là cả một câu chuyện dài đấy ạ.
XóaHá há, Khoằm bắt đầu thấy thú vị rồi đấy. Trước hết, chờ Khoằm kể đã, rồi mình kể tiếp.
Xóa