Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

19/06/2016

Bia thờ một đại thần hậu Lê, đồng thời là sử gia chỉnh sửa "Đại Việt sử kí toàn thư"

Đó là đại thần Phạm Công Trứ (1600-1675), quê ở huyện Đường Hào (Hưng Yên ngày nay).

Vâng lệnh chúa Trịnh, đại thần này đã chỉnh sửa bộ Đại Việt sứ kí toàn thư. Đại khái tư tưởng chủ đạo là tâng công nhà chúa, và ghi kiệm lời về vua Lê, chê trách vua Mạc.

Bia thờ Phạm Công Trứ có niên đại rất đáng chú ý: Vĩnh Thịnh 4, tức năm 1679. Tức là sau khi Phạm Công Trứ mất được 4 năm, thì con cháu lập bia.

Rất tiếc là nội dung bia thì khá nghèo nàn, hầu như không giúp ích được gì nhiều.





Nguyên bài ở dưới là của Đặng Văn Lộc ở Hải Dương.


---


(11/08/2009)

VĂN BIA GHI SỰ NGHIỆP PHẠM CÔNG TRỨ

ĐẶNG VĂN LỘC
Sở Văn hóa - Thông tin Hải Dương


Di tích đền thờ Phạm Công Trứ ở thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên còn 12 văn bia. Số bia ghi về điền trạch, về việc thờ cúng tiên tổ, thờ cúng của các chi chiếm tỷ lệ 11/12. Muốn tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của vị quan thừa tướng được đánh giá là bậc “Hiền tài bậc nhất thời Lê trung hưng” cần tiếp cận với văn bia Đại Thừa tướng sự nghiệp bi (Văn bia ghi về sự nghiệp Đại Thừa tướng). Văn bia có chiều cao 123cm chiều rộng 75cm. Trán bia hình vòm điểm cao nhất 28cm. Lòng bia có kích cỡ: 75cm và 86cm, độ dầy (đoạn giữa) 17cm, chất liệu đá. Hai mặt chữ Hán, mặt trước có 19 dòng mặt sau có 20 dòng, mỗi dòng trung bình 25 chữ, tổng cộng gần 1000 chữ. Bia được dựng trong nhà bia. Nội dung văn bia có 2 phần, phần thứ nhất ghi họ và tên, quê quán, các chức vụ đã đảm nhiệm, các tước được Vua phong. Văn bia còn ghi ngày mất, tên thụy, nghi thức tang lễ, đánh giá công lao, ca ngợi tư cách của Phạm Công Trứ. Mặt sau văn bia ghi bài minh thể 4 câu, tóm tắt tiểu sử, công trạng và những ân huệ được vua ban. Ghi ngày giỗ của Phạm Công Trứ, của 2 người vợ. Ghi năm hoàn thành văn bia, người lập, người soạn, người viết văn bia. Năm Vĩnh Trị thứ 4 văn bia được lập (1679), bởi các con Phạm Công Kiêm, Phạm Công Dự, Phạm Công Vĩ. Người soạn văn bia là Tiến sỹ Nho học, Đông các học sỹ đệ nhị danh, Hồ Sỹ Dương, chức Kim tử vinh lộc đại phu, Tham tụng, Công Bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sỹ, tước: Duệ Quận công, hàng Trụ quốc thượng trật, quê ở Hoàn Hậu Quỳnh Lưu Nghệ An. Văn bia có giá trị trên các phương diện: sử học, dân tộc học, văn học, ngôn ngữ học. Văn bia còn là cổ vật cần được bảo vệ theo luật Di sản văn hóa.
Phiên âm:
Mặt trước văn bia: ĐẠI THỪA TƯỚNG SỰ NGHIỆP BI
Đại thừa tướng tính Phạm húy Công Trứ tạo mệnh Canh Tý Đường Hào Liêu Xuyên nhân dã Ttrung hiếu kỳ tâm chí trạch kỳ học chấp nhị hương thí nhất cử chấp lục khảo trúng Sĩ vọng, nhiệm Huấn đạo chức chấp cửu đăng Mậu Thìn khoa Đồng Tiến sĩ xuất thân phụng ứng chế trúng cách nhập Hàn lâm viện lịch nhiệm chí Hiến sứ Phủ doãn Tham chính Thị khanh đẳng chức Ất Dậu dĩ an nội công phong Phó đô Bá tước lịch thăng Phó đô ngự sử hữu dĩ gián ngôn ngưỡng mông thân hạnh dũ đốc Đinh Dậu thăng Lễ bộ Thượng thư Yến quận công, tái phụng mệnh trưởng giám tăng nhung từ vũ trấn tác văn phong Tân Sửu thăng Đông các đại học sỹ Thiếu bảo chức. Giáp Thìn thăng Lại bộ Thượng thư. Mậu Thân dĩ Tham tụng Lại Bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sỹ quốc lão tham dự triều chính Thái bảo Yến quận công chí sĩ phụng ban đối kỳ thập nhị liên cập nghênh tiếp nhất huyện dân Quý Sửu phụng khởi phục nhập triều chưởng lục bộ sự Ất Mão niên thập bát nhật quy tiên hưởng linh thất thập hữu lục phụng tăng Thái tể tứ thụy Kinh Tế phủ quân khâm mông ban nội thảng tiền sai quan dụ tế tái phụng mệnh cấp bản quán dân vi tạo lệ tự sự kỳ sự nghiệp quang tiền chấn hậu công danh thiện thủy bảo chung chất chư cổ chi đại thần công tâm trực đạo tế tế chí thân sinh đô vinh danh chung hữu hiển hiệu kỳ hề tốn tuy nhiên Đại thừa tướng chi sự nghiệp huân danh cố như thử Đại thừa tướng chi quy mô thế trí thị như hà? thời hồ tắc sĩ thanh tĩnh ngọc đường trung diễn luân huy chế ung dung hoàng các thượng luận đạo kinh bang vi đương triều chi nguyên lão dã thời hồ tắc chỉ trung ái quyền hỹ sơ tâm chi võng thê triều đình niệm niệm tiến tích nhật chi đương quyền vi thánh thế chi dật lão dã thời nhi khởi phục biểu xuất bách quan chửng khiêm lục bộ trung hiếu vĩnh khiên nhất tiết thủy chung dư tứ thập niên trung nghĩa mãn triều đình huân danh mãn thiên hạ đãi hồ tịch cốc du tiên chi nhật dịch danh thụy điển tế sách đặc chỉ mông dị số dã điều tiền khâm ban tạo dân phụng cấp ngưỡng thù ân dã ô hô thị hà đại thừa tướng chi công thành danh toại thiếu quý lão toàn sự nghiệp kiên tương ư thiên tái chi hạ giả da dĩ thử tôn cảm mộ khái tưởng đặc lập bi ký.
Mặt sau văn bia: TIÊN NHÂN SINH NIÊN HÚY NHẬT
Hựu tác nhi minh chi minh viết
Đường Hào Cổ Liêu/ Địa hậu dân nhiêu/ Kỳ trung kiệt xuất/ Phu tử đẩu tiếu/ Khoa cao tương tương/ Vị trường thần liêu/ Đãi thân thương truyện/ Chí chủ Đường Nghiêu? Hoàng thường nang quát? Lục dã phong yêu? Phục chưởng lục bộ/ Lịch tán tam triều/ Đài quy hoàn định? Tiên cảnh tiêu diêu (dao)/ Thái tế vinh tặng/ Thế thượng kỷ phiên/ Tư dân đồng tự/ Đại ước tiểu điều/ Tứ thời bát tiết/ Ngọc quản kim tiêu/ Khanh thương sự nghiệp/ Hạt dĩ ca diêu (dao)/ Thử bi nhất lập/ Vạn cổ chiêu chiêu.
Tổng ký tiên nhân sinh niên cập húy nhật
Tiên khảo Thái tể công dĩ Canh Tý niên tam nguyệt thập thất nhật Canh Thân. Mậu Dần thời sinh ư Ất Mão niên thập nguyệt nhị thập bát nhật thọ chung hưởng linh thất thập lục an táng vu hiển tỷ phong Ám quận phu nhân Lưu quý thị hiệu Từ Nhân dĩ Giáp Thìn niên lương nguyệt nhật thời sinh ư Giáp Dần niên thập nhị nguyệt thập ngũ nhật thọ chung hưởng linh thất thập nhất táng vu tỷ phong tặng Á phu nhân Cao quý thị hiệu Huy Trang dĩ Nhâm Tý niên cửu nguyệt nhị thập nhật Thìn thời sinh ư Nhâm Thìn niên cửu nguyệt thập nhất nhật thọ chung hưởng linh tứ thập nhất an táng vu Văn Giang huyện Hoàng Đôi xã Chi Long thôn.
Hoàng triều Vĩnh Trị vạn vạn niên chi tứ xuân tiết cốc đán chúng tử Sơn Nam xứ Than chính Diễn lan nam Phạm công Khiêm Sơn Nam xứ Tham nghị Trung thuần tử Phạm Công Thiện Kinh Bắc xứ Tham nghị Phạm Công Phương Binh bộ viên ngoại tức Phạm Công Dự Hoằng tín đại phu nho sinh Phạm Công Vĩ cẩn lập.
Môn hạ phụng
Tứ Nhâm Thìn khoa Đồng Tiến sỹ xuất thân Kỷ Hợi khoa Đông các đệ nhị danh Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Tham tụng Công Bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Duệ Quận công trụ quốc thượng trật Quỳnh Lưu, Hoàn Hậu Hồ Sĩ Dương huân mộc khể thủ soạn.
Tân Sửu khoa thi trúng thư toán Kinh Bắc xứ Thừa ty nha môn đề lại Thượng Phúc Nhị Khê Nguyễn Vinh thừa tả.
Ất Mão khoa thi trúng thư toán Kinh Bắc xứ thừa ty nha môn đề lại Đường Hào Phù Ủng Lê Trinh Thường thừa tả.
Dịch nghĩa:
Mặt trước:
BIA GHI SỰ NGHIỆP ĐẠI THỪA TƯỚNG (PHẠM CÔNG TRỨ)
Thừa tướng họ Phạm húy Công Trứ, sinh năm Canh Tý (1600) người thôn (xã) Liêu Xuyên, (huyện) Đường Hào. Ông là người trung thành, hiếu thảo. Luôn chú tâm nghiên cứu lý lẽ của sự vật, kết quả học tập rất rạng rỡ, công việc thuận lợi. Năm 22 tuổi, thi Hương một lần đỗ ngay đầu bảng, năm 26 tuổi khảo thí trúng Sỹ vọng được bổ nhiệm chức Huấn đạo, năm 26 tuổi, khoa thi năm Mậu Thìn (1628) đỗ Đồng Tiến sỹ xuất thân (thi) ứng chế được trúng cách, (được tuyển) vào Hàn lâm viện. Lần lượt đảm nhận các chức Hiến sứ, Phủ doãn, Tham chính, Thị khanh. Năm Ất Dậu (1645) có công dẹp yên nội loạn được thăng chức Phó đô, tước Bá rồi thăng chức Phó đô ngự sử. Làm việc can ngăn Vua, càng được vua yêu. Năm Đinh Dậu (1657) được thăng chức Thượng thư Bộ Lễ, tước Yến Quận công, nhận mệnh Vua sửa sang đền miếu, chấn tác văn phong. Năm Tân Sửu (1661) được thăng chức Đông các đại học sỹ, chức Thiếu bảo. Năm Giáp Thìn (1664) được thăng Thượng thư Bộ Lại kiêm Đông các đại học sỹ, bậc quốc lão tham dự triều chính, được ban tặng tước Thái bảo Quận công. Nghỉ hưu (trí sỹ) được ban tặng 12 đôi câu đối thêu vào cờ và được dân 1 huyện nghênh tiếp. Năm Quý Sửu (1673) lại ra làm việc triều chính nắm giữ việc lục bộ. Ngày 28 tháng 10 năm Ất Mão (1675) Đại thừa tướng quy tiên, hưởng thọ 76 tuổi, được tặng Thái tể, ban tên thụy: Kinh Tế phủ quân, được ban tiền ngân khố (lo tang), cử quan triều đình về dự tế, cho dân bản quán làm tạo lệ thờ cúng. Sự nghiệp của Đại thừa tướng làm vẻ vang làm sáng tỏ huân nghiệp người xưa, phấn chấn đời sau (quang tiền chấn hậu). Công danh của Đại thừa tướng trước sau toàn vẹn (thiện thủy bảo chung). Đại thừa tướng mang phẩm chất của các bậc Đại thần xưa: công tâm, theo đường chính đạo, suốt đời vì sự thịnh vượng phát triển. Sinh thời được vinh danh; khi qua đời còn lưu tiếng tốt. Dẫu có thế nào thì sự nghiệp, công danh của Đại thừa tướng vẫn như vậy. Đại thừa tướng xây dựng và thực thi phép tắc ra sao? Làm quan nơi ngọc đường thanh tịnh, soạn thảo ý chỉ của Vua. Ung dung nơi hoàng các bàn đạo trị nước. Là bậc nguyên lão đương triều, được vua cho nghỉ hưu là nghỉ ngay. Luôn thể hiện lòng trung thành, yêu mến, luôn nghĩ để triều đình được thịnh vượng. Lúc được vời ra giữ chức đứng đầu lục bộ, luôn giữ đức trung hiếu, tiết tháo. Hơn 40 năm làm việc, đức trung hiếu lan khắp triều đình, tiếng thơm tỏa khắp thiên hạ. Khi qui tiên được Vua ban cho đổi tên thụy, được ghi vào sách điển tế, ban chỉ dụ cho hưởng nhiều ân huệ đặc biệt, được ban tiền tang điếu, quy định cho dân phụng thờ và nhiều đặc ân khác. Ôi, thực là Đại thừa tướng công thành danh toại, lúc trẻ thì sang quý, khi già thì toàn bích. Sự nghiệp còn ngân nga như tiếng chuông tiếng khánh mãi về sau. Cho nên con cháu cảm động, tưởng nhớ mà lập bia ký đặc biệt này.
Ngày kỵ, năm sinh của bậc tiên nhân
Còn làm một bài minh, bài minh rằng: Thôn (xã) Liêu Xuyên cổ kính ở huyện Đường Hào/ Đất đai mầu mỡ dân giầu có/ Nơi ấy xuất hiện người kiệt xuất/ Làm bậc thầy sáng như sao Bắc Đẩu/ Nhiều người đỗ khoa bảng/ Ở ngôi vị đứng đầu quan lại/ Cẩn thận khi làm sử sách/ Để chúa thượng được như vua Đường vua Nghiêu/ (thời vua thịnh trị nhất của xã hội phong kiến)/ Cất xiêm vàng vào túi buộc lại/ Về yêu mầu xanh và gió thổi nơi đồng quê/ Trở lại đứng đầu 6 bộ/ Qua 3 triều vua/ Hoàn thiện khuôn phép cho triều đình/ Về với cõi tiêu diêu cảnh tiên/ Được truy tặng Thái tể/ Sự ra đi thật kỳ diệu/ Được dân thờ cúng/ Có qui định theo đại ước tiểu điều/ Quanh năm ngân tiếng tiêu tiếng sáo, tiếng đàn sắt đàn cầm ca ngợi sự nghiệp/ Sao lại không viết bài ca/ Vì thế lập văn bia/ Muôn đời rạng rỡ.
Ghi ngày giỗ, năm sinh các bậc tiên hiền
Tiên khảo thái tể công (Phạm Công Trứ) sinh giờ Mậu Dần, ngày 17 (ngày Canh Thân), năm Canh Tý. Mất ngày 28 tháng 10 năm Ất Mão (1675). Hưởng thọ 76 tuổi. An táng ở... Hiển tỷ được phong Ấm quận phu nhân, Lưu quý thị, tên hiệu là Từ Nhân, sinh ngày tháng tốt (lương nguyệt nhật), năm Giáp Thìn. Mất ngày 15 tháng 12 năm Giáp Dần. Thọ 71 tuổi. Hợp táng. Tỷ được phong tặng Á phu nhân, Cao quý thị tên hiệu là Huy Trang. Sinh ngày 20 tháng 9 năm Nhâm Tý. Mất ngày 11 tháng 9 năm Nhâm Thìn, thọ 41 tuổi. An táng ở thôn Chi Long xã Hoàng Đôi huyện Văn Giang.
Mùa xuân năm Vĩnh Trị (1679), buổi sớm ngày tốt.
Các con (nam tử): Phạm Công Kiêm, chức Tham chính Diễn lan xứ Sơn Nam. Phạm Công Thiện, chức Tham nghị thuần tử xứ Sơn Nam. Phạm Công Phương chức Tham nghị xứ Kinh Bắc. Phạm Công Dự chức Viên ngoại Bộ Binh. Phạm Công Vỹ chức Hoằng tín đại phu nho sinh. Kính cẩn lập.
Môn hạ: Đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Nhâm Thìn (1652) Đông các đệ nhị danh khoa Kỷ Hợi (1659) chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tham tụng, Công Bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sỹ, Duệ quận công Trụ quốc thượng trật, Quỳnh Lưu, Hoàn Hậu, Hồ Sỹ Dương kính cẩn vâng lệnh soạn (huân mộc khể thủ soạn).
Nguyễn Vinh người Nhị Khê Thượng Phúc thi trúng thi toán khoa Tân Sửu chức Đề lại Thừa ty xứ Kinh Bắc và Lê Trinh Tường người Phù Ủng Đường Hào chức Đề lại nha môn Thừa ty xứ Kinh Bắc viết chữ./.
Tác giả: Đặng Văn Lộc


http://hannom.vass.gov.vn/UserControls/News/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/noidung/thongbao/lists/baiviet&ItemID=869






















---

Bổ sung


4.

3.

2.


Đền Phạm Công Trứ


Thôn Thanh Xá, Xã Nghĩa Hiệp, Huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên

Phạm Công Trứ, người làng Liêu Xuyên, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hoà, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ông là một nhà quân sự, nhà chính trị đại tài của hai triều đại Lê - Trịnh.

Ông mất ngày 28 tháng 10 năm ất Mão (1675) tại quê nhà, thọ 76 tuổi. Triều đình cho xây đền thờ ông, vua Lê thương tiếc phong tặng "Thái tể, thuỵ là Trung Cần".
Cả cuộc đời ông đã đóng góp công lao xây dựng triều đình, đất nước trong mọi lĩnh vực như chính trị, quân sự, văn học, sử học, pháp luật... Phạm Công Trứ đều có những cống hiến quan trọng, là rường cột của nước nhà.

Ngày nay, hàng năm hai lần nhân dân địa phương cùng các con cháu trong dòng họ lại tế lễ, mở hội vào ngày 17 tháng 3 âm lịch (kỷ niệm ngày sinh) và ngày 28/10 (ngày mất) nhằm ôn lại truyền thống hào hùng của ông.
http://halovietnam.vn/places/info?id=561d3848887b66316ae8791b&lat=&lng=&user_region_id=5555bee2c4a1608e6e9a1610&lang_code=vi#sec_map

1.



24.Tư liệu Hán Nôm tại nhà thờ Phạm Công Trứ ở Liêu Xuyên (TBHNH1996)

22/12/2007

Đinh Văn Minh
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Địa danh: “Liêu Xuyên” đã đi vào lịch sử và mãi mãi gắn liền với những tên tuổi mà sử sách đã giành những trang xứng đáng để ghi nhận, ngợi ca. Trong những tên tuổi ấy, nổi bật hơn cả là nhà sử học, nhà chính trị, nhà thơ thế kỷ XVII: Phạm Công Trứ.
Về Phạm Công Trứ, sách Lịch triều hiến chương loại chí, ở phần “Nhân vật chí”, Phan Huy Chú viết: “…Ông là người thâm trầm, giản dị, chắc chắn. Ra đương việc nước 19 năm, đặt ra phép tắc, sửa soạn kỷ cương, đè nén những kẻ cậy thế nhũng lạm, yêu chuộng những người có phong cách tiết tháo, được đời khen là Tể tướng có tiếng tốt. Ông lại ham đọc sách, chăm học đến già vẫn không mỏi. Có đức tốt, có danh vọng, có công lao sự nghiệp, là bậc hiền tể thứ nhất sau đời Trung hưng…”(1). Tìm hiểu danh nhân lịch sử này, có thể dựa vào các nguồn tư liệu khác nhau. Nhưng thật là thiếu sót, nếu không đọc những “trang sử bằng đá” ở Liêu Xuyên được nhân dân và dòng họ Phạm gìn giữ hơn ba thế kỷ qua.
Liêu Xuyên xưa, nay thuộc xã Nghĩa Hiệp, huyện Mĩ Văn tĩnh Hưng Yên. Ở thôn Thanh Xá có nhà thờ Phạm Công Trứ(2). Đây vốn là từ đường họ Phạm do Phạm Công Trú hưng công dựng năm Cảnh Trị thứ 7 (1669), sau khi thân phụ mới qua đời. Nhà thờ hiện nay chỉ là một gian nhà gạch mái ngói thấp hẹp, đơn sơ. Cụ Phạm Bội Lê năm nay 79 tuổi là hậu duệ đời thứ 9 của Phạm Công Trứ cho biết: Tương truyền Phạm Công Trứ tính giản dị, chất phác, xây dựng từ đường chỉ dùng các vật liệu cũ đã dùng rồi và qui mô nhà thờ hiện vẫn giữ nguyên qui mô từ đường họ Phạm ngày trước. Trong nhà thờ, treo một hoành phi và một đôi câu đối. Hoành phi có 4 chữ lớn “Trung hưng hiền tướng” (nghĩa là: Tể tướng giỏi thời Trung hưng). Bốn chữ này là chữ của Vua Lê phong tặng khi Phạm Công Trứ đã qua đời. Chữ trên câu đối vốn là chữ ở lá cờ chúa Trịnh Tạc tặng lúc ông được về hưu vào năm Mậu Thân (1668). Câu đối như sau:
- Điều đỉnh nại, nhiếp âm dương, triều đình trụ hoạch.
- Hoàn qui mô, định hiệu lệnh, quốc gia đống lương.
Nghĩa là:
- Nêm canh đỉnh vạc, điều hòa khí âm dương, làm cột đá cho triều đình.
- Hoàn thành qui mô, định ra hiệu lệnh, là rường cột của Nhà nước(3).
Trong khuôn viên của nhà thơ còn 10 tấm bia đá. Đáng chú ý là các bia sau đây:
1. Phạm tướng công gia phả chi bi
Mặt sau: Tiên Nhân thọ niên húy nhật.
Người dựng: Phạm Công Trứ.
Năm dựng: Vĩnh Thọ nguyên niên (1658).
Người soạn văn bia: Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn, Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Hộ bộ Tả thị lang, Lai Xuyên hầu, trí sĩ, Kinh Từ Đông Thiết Đồng Chính Phái.
2. Huệ điền chi bi
Mặt sau: Văn hội tính danh.
Năm dựng: Cảnh Trị thứ 6 (1668).
Người soạn văn bia: Tân Mùi khoa đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Công bộ thượng thư, Thiếu bảo, Cẩm quận công, trí sĩ, Hải Nam Chí Lạc Phác Phủ Nguyễn Thọ Quyến.
3. Thái Bảo công từ đường chi bi
Từ đường điền thổ.
Người dựng: Phạm Công Trứ.
Năm dựng: Cảnh Trị thứ 7 (1669).
Người soạn văn bia: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh khoa Tân Mùi, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Công bộ thượng thư Thiếu bảo, Cẩm quận công, trí sĩ, Hải Nam Chí Lạc, Phác Phủ Nguyễn Thọ Quyến.
4. Đại Thừa tướng sự nghiệp bị
Mặt sau: Tiên nhân sinh niên húy nhật.
Người dựng: Các con…
Năm dựng: Vĩnh Trị thứ 4 (1679).
Người soạn văn bia: Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, Đông các đệ nhị danh khoa Kỷ Hợi, Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Tham tụng Công bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, Duệ quận công trụ quốc thượng trật Hồ Sĩ Dương.
Các tấm bia kể trên là những văn bản bằng đá, là nguồn tư liệu có độ tin cậy cao. Nhờ nguồn tư liệu này, chúng ta cso thể đính chính những lầm lẫn thiếu sót có tính chất sử liệu ở sử sách và công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan. Ví dụ: Sách Đại Việt sử ký toàn thư(4) và Lịch triều hiến chương loại chí(5) đều chép “Sau khi Phạm Công Trứ chết, được tặng Thái tể, cho tên thụy là “Trung Cần”. Bia “Đại thừa tướng sự nghiệp bi” lại ghi tên thụy là “Kinh tế”. Vấn đề này, ở sách “Thừa tướng Phạm công niên phả”(6) có lời bàn như sau: “Thụy là “Trung Cần” e nhầm. Tra tờ sắc phong tặng thì tên thụy là “Kinh tế” (Kinh bang tế thế - Đ.V.M chú thích). Bởi lẽ hai chữ “Kinh Tế” mới xứng với thực chất, còn “Trung Cần” chỉ mới nói được mặt tiết hạnh mà thôi”(7).
Các sách khảo cứu như: “Lược truyện các tác gai Hán Nôm, Danh nhân lịch sử Việt Nam”, Thư mục Hán Nôm - mục lục tác giả đều nhầm năm sinh của Phạm Công Trứ là năm 1599. Bia số 4 cho biết Phạm Công Trứ sinh năm Canh Tý. Năm Canh Tý là năm 1600 tính ra dương lịch, còn năm 1599 là năm Kỷ Hợi tính ra âm lịch. Bia còn cho biết tháng, ngày, giờ sinh và mất(8).
Hoặc trong bài viết với đầu đề “Đại Việt sử ký tục biên sơ thám” của tác giả Quách Chấn Đạc đăng trên tạp chí “Đông Nam Á” số 4năm 1989 xuất bản ở Vân Nam Trung Quốc, viết rằng: “Phạm Công Trứ xuất thân trong một gia đình phong kiến thưu hương khá giả, đời ông cha đều làm quan”. Đây là sự lầm lẫn không đáng có. Phạm Công Trứ sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, ít chữ. Đời o­ng đời cha phải chăn vịt, cày ruộng. Chính Phạm Công Trứ thiếu thời vì nhà nghèo, toan đi phương khác kiếm ăn, nhưng nằm mộng thấy thần mách bảo phải chịu khó học hành, muộn mới thành danh. Chỉ đến khi Phạm Công Trứ đỗ đạt, làm quan, ông bà cha mẹ mới được ấm phong tước lộc. Ông Công Cai có công nuôi dạy con được ấm phong, đặc cách bổ chức Lệnh doãn huyện Hoài An (bia gia phả).
Những điều vừa nêu là một phần giá trị của những tấm bia đá tại nhà thờ Phạm Công Trứ ở Liêu Xuyên.
Để giúp bạn đọc có thêm tư liệu tìm hiểu danh nhân lịch sử Phạm Công Trứ và những vấn đề liên quan, chúng tôi dịch bia số 4 để bạn đọc tham khảo.
Bia ghi sự nghiệp Đại thừa tướng
Đại thừa tướng họ Phạm, húy Công Trứ, sinh năm Canh Tý (1600), người xã Liêu Xuyên, huyện Đường Hào, vốn giàu lòng trung hiếu, chăm chỉ học hành.
Năm 22 tuổi đỗ khoa thi Hương.
Năm 26 tuổi đỗ khoa thi sĩ vọng, được sung chức Huấn đạo.
Năm 29 tuổi đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Mậu Thìn (1628), sau đó vào diện rồng ứng chế được đỗ, được nhậm chức ở viện Hàn lâm, rồi làm quan trải các chức Hiến sứ, Phủ doãn, Tham chính, Tự khanh.
Năm Ất Dậu (1645), vì có công dẹp yên nội loạn, được thăng Phó đô ngự sử, tước Bá, sau thăng chức Đô ngự sủa. Do bàn nghị thẳng thắn được chúa tin yêu.
Năm Đinh Dậu (1657), thăng chức Lễ bộ thượng thư, tước Yến quận công, rồi phụng mệnh ra trông coi Quốc tử giám, sửa sang nơi thờ tự, khơi dậy nề nếp văn chương học hành.
Năm Tân Sửu (1661), thăng chức Đông các Đại học sĩ Thiếu bảo.
Năm Giáp Thìn (1665), thăng Lại bộ Thượng thư.
Năm Mậu Thân (1668), trí sĩ với chức Tham tụng Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Quốc lão tham dự triều chính, Thái bảo Yến quận công. Lúc về hưu, được vua chúa ban cho 12 đôi câu đối thêu vào cờ và được nhân dân trong huyện đón rước long trọng.
Năm Quí Sửu (1673), vua mời vào triều giữ việc sáu bộ.
Năm Ất Mão (1675) ngày 28 tháng 10 qui tiên, hưởng thọ 76 tuổi, truy tặng Thái tể, cho tên thụy “Kinh Tế” phủ quân. Vua ban tiền tuất, sai quan lo việc tang lễ. Vua còn cho dân bản quán làm dân tạo lệ lo việc thờ cúng về sau.
Sự nghiệp của Thừa tướng làm rạng rỡ tổ tiên, phấn chân con cháu; công danh của Thừa tướng mở đầu tốt đẹp, kết thúc vẻ vang. So với các bậc đại thần xưa, làm theo công tâm, đi đường chính đạo, xả thân vì nghĩa, sống được danh thơm, chết còn tiếng tốt, thì Thừa tướng có thua kém gì!
Tuy nhiên, công danh sự nghiệp của Đại thừa tướng vững chắc như vậy, xếp đặt nghĩ suy của Đại thừa tướng sáng suốt ra sao, để khi là kẻ sĩ được trong sạch ngồi trong nhà ngọc, giúp vua trị nước ban hành chế độ, ung dung trên gác vàng biện bác bàn bạc công việc xứng đang là bậc nguyên lão đường triều; để lúc được về hưu, trung ái sắt son, lời thề xưa vẫn giữ vững, triều điìn quyến luyến, quyền chức cũ lại giữ nguyên. Rõ ràng là lão tướng thảnh thơi của đời thịnh trị.
Đến ngày khởi phục vào triều, quản lý trăm quan, trông coi lục bộ, trung hiếu gánh vác hai vai, thủy chung hẳn ngoài bốn kỷ; trung nghĩa rạng triều đình, huân danh lừng thiên hạ. Ngày tắt thở qui tiên còn được đổi tiên thụy, tang tế linh đình, hưởng đặc chỉ ấy là khác người vậy; lại được ban tiền tuất, cho dân tạo lệ, đặc ân ấy cũng là hiếm có.
Ôi, vẻ vang biết bao, Đại thừa tướng công đã thành, danh đã toại. Thời trai trẻ tấm thân hiển vinh, khi về già người đời quý trọng. Sự nghiệp ấy còn ngân vang đến ngàn đời không dứt.
Bởi vậy, con cháu tuởng nhớ, nay lập bi ký.
Kèm theo bài minh, như sau:
Đường Hào, xã Cổ Liêu.
Đất có hậu, người nhiều
Từ đó sinh tuấn kiệt
Như sao Đẩu sao Điêu
Từng đỗ cao hàm Tướng
Ngôi cả bậc thần liêu
Như đời Thuương, Phó Duyệt(9)
Phò chủ súy Đường Nghiêu
Xiêm vàng tay xách túi
Lục Dã(10) gió tung diều
Khởi phục coi sáu bộ
Giúp vua trải năm triều
Qui mô đà tươm tất
Tiên cảnh mới tiêu diêu
“Thái tể”, được vinh tặng
Người đời cắm mốc nêu
Nay dân cùng thờ cúng
Ước hẹn có mấy điều
Bốn mùa và tám tiết
Kèn trống rộn sáo tiêu
Lẫy lừng bấy sự nghiệp
Không dứt tiếng ca diêu
Bia này nay kính dựng
Vạn thuở ngắm đăm chiêu
Ghi toàn thể ngày sinh ngày mất của tiên nhân.
- Hiển khảo Thái tể công, sinh giờ Mậu Thìn ngày Canh Thân, mười bảy tháng 3 năm Canh Tý; mất ngày 28 tháng 10 năm Ất Mão, hưởng thọ 76 tuổi, an táng tại…
- Hiển tỷ được ấm phong là Phu nhân Lưu quí thị, hiệu Từ Nhân sinh năm Giáp Thìn mất ngày 15 tháng 12 năm Giáp dần, hưởng thọ 71 tuổi. Mộ hợp táng tại…
- Hiển tỷ được phong tặng Á phu nhân Cao quí thị, hiệu Huy Trang, sinh giờ Thìn ngày 21 tháng 9 năm Nhâm Tý, mất ngày 11 tháng 9 năm Nhâm Thìn, hưởng thọ 41 tuổi, an táng tại thôn Chi Long, xã Hoàng Đôi, huyện Ninh Giang.
Ngày lành tiết xuân năm thứ tư niên hiệu Vĩnh Hựu Hoàng triều (1738).
Các con [đứng ra dựng bia]
- Tham chính xứ Sơn Tây, Diễn Lan nam Phạm Công Kiêm.
- Tham nghị xứ Sơn Nam, Trung Thuần tử Phạm Công Thiện.
- Tham nghị sứ Kinh Bắc, Phạm Công Phương.
- Binh hộ Viên ngoại lang, Phạm Công Dự.
- Hoằng Tín đại phu Nho sinh, Phạm Công Vĩ.
Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, đỗ thứ nhì khoa Đông các năm Kỷ Hợi, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tham tụng Công bộ Thương thư, kieê Đông các đại học sĩ Duệ quận công trụ quốc thượng trật, quê ở Hoàn Hậu Quỳnh Lưu, Hồ Sĩ Dương vâng mệnh kính cẩn soạn văn bia.
Thi đỗ khoa Thư toán năm Tân Sửu, Đề lại nha môn thừa ty Kinh Bắc, quê ở Nhụy Khê huyện Thượng Phúc, Nguyễn Vinh vâng mệnh viết chữ.
Thi đỗ khoa Thư toán năm Ất Mão, Đề lại nha môn thừa ty xứ Kinh Bắc quê ở Phù ủng huyện Đường Hào, Lê Trinh Tường vâng mệnh viết chữ.

Chú thích:
1. Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí tập I, trang 276, Nxb. Khoa học xã hội, 1992.
2. Nhà thờ đã được xếp hạng Di tích lịch sử và văn hóa.
3. Lịch triều hiến chương loại chí Sđd tập I, tr.276.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, tr.336, Nxb. Khoa học xã hội, 1972.
5. Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tập I, tr276.
6. Sách do Cháu ngoại của Phạm Công Trứ là Lê Hữu Mưu biên soạn năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736), ký hiệu A.1368 kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Lê Hữu Mưu người xã Liêu Xá huyện Đường Hào, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Công bộ Hữu thị lang, Nhập thị kinh diên, là con của Tiến sĩ Lê Hữu Danh, cha của Tiến sĩ Lê Trọng Tín.
Bản sách có ký hiệu nói trên là bản sao chép tay, do cháu năm đời chí thứ bảy làm quan Thiên hộ ở huyện Thọ Xương là Phạm Đình Hòa thực hiện năm Gia Long thứ 14 (1815) từ bản thứ bút Kinh diên triều Lê.
7. Sách chữ Hán Toàn Việt thi lục ký hiệu A132/4, kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, quyển 23, tr.1a. Lê Quí Đôn chép là “cho tên thụy là Kinh Tế”.
8. Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên, tr.536, ghi Phạm Công Trứ sinh năm 1602.
9. Phó Duyệt là hiền tướng đời Ân Thương, đã phò tá Ân Cao Tông rất đắc lực.
10. Lục Dã tức Lục Dã đường, tên gọi biệt thự của Bùi Độ đời Đường. Vào năm Khai Nguyên, ba anh em nhạc công Lý Qui Niên được ân sủng cho dựng nhà cửa ở làng Thông Viễn ngoại thành Đông Đô. Nhà dựng xong qui mô to lớn hơn cả trong thành. Sau Bùi Độ chuyển đến đó ở , gọi là Lục Dã đường. Trong bài minh này, Lục Dã (đường) ý nói về ở nhà nơi thôn dã, về hưu.
Thông báo Hán Nôm học 1996 ( tr.219-228
http://hannom.vass.gov.vn/noidung/thongbao/Pages/baiviet.aspx?ItemID=167

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.