Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

30/09/2014

Đêm trước Đổi Mới (Trần Hoàng Tiến, 2012) : anh Ba, anh Năm, anh Văn, và khoán 100 ở Hải Phòng

Có mấy kì của nhà văn Trần Hoàng Tiến đăng trên Quân đội Nhân dân, vào năm 2012, sau được nhiều nơi cất trữ.

Đọc để biết thế thôi, nhiều chỗ không đúng với sự thực. Vì có thể do tư duy của nhà văn thì có khác.


Tạm lấy về theo bản lưu của VNN (vì đang vội, còn chưa tìm được nguồn từ chính  QĐND, bao giờ tìm được sẽ bổ sung sau. Cái này, lại phải cậy vào Mr. Khoằm luôn rộng rãi sự giúp đỡ nhiệt tình).

---

LƯU TƯ LIỆU


Trong các tên tuổi lớn của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1975-1986, Tổng bí thư Lê Duẩn và Tổng bí thư Trường Chinh là những người có ảnh hưởng và để lại dấu ấn cá nhân sâu sắc nhất đến nhiều quyết định lớn của Đảng vào “đêm trước đổi mới”... sự kiện nóng
Trong những thập kỷ 1970 - 1980, Việt Nam đối mặt với nhiều thử thách, đói nghèo và lạc hậu. Những khuyết tật của phương thức quản lý kinh tế theo mô hình cũ ngày càng bộc lộ rõ nét và nghiêm trọng.
Suốt 10 năm, hàng chục cuộc "phá rào" với những tìm tòi, thử nghiệm hướng đi mới đã diễn ra, được ví như quá trình "thai nghén", tập dượt để đi đến những quyết định lịch sử tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986.
Tuy nhiên, vai trò và những đóng góp của nhiều cá nhân tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này đến nay vẫn chưa được minh định, thậm chí còn có các ý kiến khác nhau.
Loạt bài dưới đây hy vọng góp phần khắc họa một số chân dung và như một lời tri ân tới những người mở lối, đã lát những viên gạch đầu tiên trên con đường đổi mới của đất nước...
Kỳ 1: Anh Ba - Anh Năm và 'đêm trước đổi mới'
Tầm nhìn của "ngọn đèn 200 nến"
Cố Tổng bí thư Lê Duẩn
"Ngọn đèn 200 nến" là từ mà đồng bào, đồng chí dành cho anh Ba-Tổng bí thư Lê Duẩn. Bộ óc sáng láng ấy không chỉ có đóng góp to lớn trongcông cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước mà còn là nhà lãnh đạo luôn đầy ắp những ý tưởng sáng tạo và đổi mới trong một thập kỷ sau giải phóng.
TS Trần Xuân Giá, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư, thời kỳ đầu những năm 80 của thế kỷ trước là Phó chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước cho rằng, Tổng bí thư Lê Duẩn là người có tư duy "vượt trước", sớm nhận ra những hạn chế của cơ chế quản lý kinh tế cũ.
Ngay từ những năm 1979, 1980 ông đã có nhiều cuộc làm việc với các nhà khoa học và chuyên gia kinh tế. Ông chịu khó lắng nghe, nhất là những ý kiến phản biện. Vấn đề ông đặt ra thường xoay quanh hai câu hỏi: "Phải làm gì để tránh cuộc khủng hoảng sắp tới" và "Bắt đầu từ đâu?". Đó là một tầm nhìn xa của người đứng đầu đất nước khi đó.
Luôn sáng tạo và khuyến khích các cách làm mới là điều được nhiều người nhắc tới khi nói về "ngọn đèn 200 nến" Lê Duẩn.
Còn nhớ sau khi Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc bị phê phán nặng nề vì cho nông dân sớm làm "khoán chui", Tổng bí thư Lê Duẩn đã đến Vĩnh Phúc để thăm và chia sẻ với đồng chí Kim Ngọc.
Trò chuyện với Bí thư Kim Ngọc về kinh tế hợp tác xã nông nghiệp, ông nói: "Về hoạt động kinh tế của hợp tác xã tôi có điều rất phân vân. Bởi vì, 5% ruộng đất giao cho gia đình thì người ta làm ra 45% thu nhập, còn 95% ruộng đất giao cho hợp tác xã thì chỉ làm ra khoảng 50% thu nhập, dù 50% này là lương thực rất cần cho xã hội.
Tôi phân vân đã lâu, nhưng thật sự chưa nghĩ ra được cách gì giải quyết. Nay anh đề ra "khoán hộ" thì có lẽ đó cũng là một cách. Nhưng vì quá mới, ngược với suy nghĩ và cách làm lâu nay, cho nên đa số anh em không đồng tình với anh. Anh yên tâm, một sáng kiến làm ăn mới chưa được mọi người chấp nhận ngay thì cũng là chuyện bình thường".
Tháng 10-1981, Tổng bí thư Lê Duẩn về thăm đồng lúa của HTX nông nghiệp Trường Sơn (huyện Kiến An, thành phố Hải Phòng) - đơn vị đạt năng suất cao về khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Ảnh tư liệu.
Cũng với tư duy luôn đổi mới, luôn vận động, có lẽ đồng chí Lê Duẩn là một trong số ít các nhà lãnh đạo cấp cao sớm chấp nhận kinh tế nhiều thành phần.
Nguyên Phó thủ tướng Trần Phương kể: "Năm 1981, với vai trò Bộ trưởng Bộ Nội thương, trong một cuộc họp, tôi đưa ra ý kiến đề nghị cải cách chuyển sang cơ chế quản lý thương mại theo cơ chế tự do. Rất nhiều ý kiến phản đối. Họ nói: Tiền đâu mà in đủ để trả lương, để mua lương thực, thực phẩm? Làm sao cân đối được ngân sách? Tôi nói: Phải tôn trọng quy luật cung cầu.
Cuối cùng, anh Ba "tóm lại" là đồng ý với tôi về tư tưởng. Nhưng anh nói: Tôn trọng quy luật cung cầu nhưng căn cứ vào thực tế thì chưa thể bỏ hết kế hoạch hóa mà phải có lộ trình. Cụ thể là từ việc Nhà nước khống chế 42 mặt hàng thì giảm xuống còn 8. Tiếp theo đó, anh Ba đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan ra lệnh bãi bỏ ngăn sông cấm chợ, ban hành Chỉ thị khoán 100 của Ban Bí thư, chỉ thị 3 kế hoạch trong công nghiệp.
Những bước "cởi trói" đầu tiên này đã tạo tiền đề cho đổi mới và luồng sinh khí mới cho tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Năm 1985, anh là người ghi vào nghị quyết của Bộ Chính trị: "Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần". Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI".
Những năm cuối đời, do hạn chế về sức khỏe, tuổi tác và hoàn cảnh lịch sử cụ thể nên Tổng bí thư Lê Duẩn chưa có điều kiện để hệ thống hóa các quan điểm đổi mới và hiện thực hóa trong thực tiễn đất nước.
Trong ông vẫn không nguôi khát vọng cháy bỏng và lớn lao về một đất nước hùng cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bầu nhiệt huyết và tư tưởng đổi mới của ông đã được thế hệ kế nhiệm tiếp nối và phát triển.
Tổng bí thư của đổi mới
Đồng chí Trường Chinh nhận trọng trách là Tổng bí thư của Đảng ở hai thời điểm đặc biệt của cách mạng Việt Nam: Lần 1 vào đầu những năm 40 của thế kỷ XX, chuẩn bị và lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc và lần 2 vào tháng 7-1986 khi Tổng bí thư Lê Duẩn qua đời ngay trước Đại hội VI 5 tháng.
Cố Tổng bí thư Trường Chinh
Anh Năm-Trường Chinh là một nhà lãnh đạo nghiêm cẩn, rất coi trọng lý luận và hết sức nguyên tắc nhưng lại được coi là "Tổng bí thư của đổi mới".
Ông đã để lại dấu ấn đậm nét trong các quyết định lịch sử tại Đại hội Đảng lần thứ VI. Ông là vị Tổng bí thư đưa ra quyết định đầy bản lĩnh và chưa từng có: Viết lại toàn bộ Báo cáo chính trị ngay sát ngày đại hội theo quan điểm: Quyết tâm đưa đất nước phát triển theo đường lối đổi mới. Và với quyết định này đã mở ra một bước ngoặt mới cho đất nước.
Để nắm chắc tình hình, Tổng bí thư Trường Chinh là người rất chịu khó đi thực tế ở các địa phương.
Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, đầu thập kỷ 80 là một trong những nhà lãnh đạo của Thành phố Hồ Chí Minh kể lại: "Chỉ tính riêng trong hai năm 1982, 1985 đồng chí Trường Chinh từng nhiều lần đến Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí viết: "Việc đi thăm thành phố... cũng như các chuyến đi thăm các địa phương khác trong thời gian qua đã giúp tôi hiểu rõ thêm tình hình thực tế của đất nước, từ đó mà suy nghĩ về một số vấn đề chung có ích trong việc đóng góp vào sự lãnh đạo của Trung ương".
Trong những năm đó, ông đã khảo sát gần 20 tỉnh, thành phố từ miền Nam, ra miền Trung và về miền Bắc. Với tác phong sâu sát, cầu thị, tôn trọng thực tiễn, ông đã thực sự làm một cuộc cách mạng từ trong tư duy của chính mình.
Ban đầu, khi Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 100 về: "Mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp", ông chưa nhiệt tình ủng hộ, có vẻ vẫn còn phân vân, hoài nghi.
Nhưng bằng hàng loạt các chuyến đi thực tế đến các hợp tác xã ở Kim Thi, Tứ Lộc (Hải Hưng trước đây), Hải Phòng, về quê hương Hà Nam Ninh (trước đây)..., ông đã thấy sự khác biệt giữa cơ chế quản lý cũ với mô hình khoán trong các hợp tác xã nông nghiệp và công khai tán thành, cổ vũ Chỉ thị 100.
Nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đoàn Duy Thành nhớ lại kỷ niệm những lần đồng chí Trường Chinh về thăm Hải Phòng vào đầu những năm 80: "Anh Năm rất chú ý lắng nghe và thường nhắc đi, nhắc lại hai từ: "Hay nhỉ!" với nụ cười rất tươi. Anh chỉ hỏi những điều chưa rõ. Không thấy anh tranh luận, hoặc nêu vấn đề cho anh em thảo luận. Nhưng tôi thấy anh suy nghĩ nhiều. Trưa về ăn cơm tôi cũng thấy anh suy nghĩ...
Ngay cả trong câu chuyện lúc nghỉ, anh vẫn hỏi tôi chi tiết về cuộc sống của nông dân, của công nhân, của bộ đội, của cán bộ viên chức. Những lúc ấy tôi cung cấp cho anh những số liệu cụ thể, thiết thực về đời sống của nhân dân, của cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn thành phố...".
Trước những bức bách và đòi hỏi gay gắt phải giải bài toán hóc búa từ cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội của đất nước, đồng chí Trường Chinh đã tập hợp một tổ nghiên cứu (còn gọi là nhóm cố vấn Tổng bí thư) gồm những trí thức, cán bộ có tư tưởng đổi mới để nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nước ta, làm căn cứ phương pháp luận cho việc xác định con đường và bước đi của cách mạng.
Khi giao nhiệm vụ cho tổ nghiên cứu này ông khẳng định: "Tình thế lúc này không thể kéo dài được nữa, không thể duy trì cách nghĩ, cách làm cũ cũng như những chủ trương chính sách và cơ chế quản lý như trước được nữa".
Nhóm cố vấn Tổng bí thư được thảo luận nhiều vấn đề trọng đại và nóng bỏng của đất nước khi đó như: Vấn đề một giá hay hai giá, kinh tế nhiều thành phần, quan điểm cơ cấu đầu tư... một cách dân chủ và thoải mái nhất.
Chủ đề được Tổng bí thư nêu và anh em tranh luận. Nhóm có thể đưa ra những nhận định, đánh giá quan điểm trái ngược chủ trương mà không sợ "phạm húy". Tổng bí thư chỉ ngồi lắng nghe và chăm chú ghi chép từng chi tiết...
Gần đến ngày Đại hội VI, trong Đảng và xã hội vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau. Với vai trò "thuyền trưởng", ông đã có những nỗ lực rất lớn trong việc đấu tranh bảo vệ cho các quan điểm đổi mới.
Tại một hội nghị cán bộ của Hà Nội, ông trình bày phương hướng, nội dung công cuộc đổi mới và quả quyết: "Trong lúc này, chúng ta chỉ có hai khả năng lựa chọn: Đổi mới để tiến lên hay đi theo con đường cũ để chết. Chúng ta phải dứt khoát đổi mới".
Tổng bí thư Trường Chinh đã chủ trì hội nghị trung ương để bàn về những ý kiến khác biệt xung quanh dự thảo văn kiện đại hội.
Sau này được gọi là hội nghị ba quan điểm, kết luận những luận điểm quan trọng, trái ngược với đường lối cũ. Đó là: Phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý.
Những nội dung này đã thay đổi cơ bản nội dung của dự thảo Báo cáo chính trị lần 1 và được coi là "linh hồn" của văn kiện Đại hội VI.
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng chia sẻ: "Điều tôi thấy hết sức thú vị là "tác giả"- nói chính xác hơn là chủ biên của đổi mới - lại là một người được coi là hết sức "cứng" như đồng chí Trường Chinh. Tôi hiểu rằng, đồng chí đã chú ý nghe từ nhiều phía và đặc biệt là đã coi trọng ý kiến của những cán bộ có tư duy, dám nói thật, nói rõ quan điểm của mình. Đồng chí là người rất kiên trì đấu tranh với mọi ý tưởng, mọi sự việc và theo đồng chí là không đúng và cũng rất quyết đoán đối với những điều mà đồng chí cho là đúng đắn, đủ cơ sở".
Kỳ 2: “Ông Kim Ngọc” ở Hải Phòng và ngoại giao Ba Đình
Theo Quân đội Nhân dân
Tiêu đề do Tuần Việt Nam đặt lại
2


    “Ông Kim Ngọc” ở Hải Phòng và ngoại giao Ba Đình


    Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Đoàn Duy Thành - "ông Kim Ngọc" ở Hải Phòng được Trung ương giao tham gia chắp bút soạn thảo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động...
    “Ông Kim Ngọc” ở Hải Phòng và ngoại giao Ba Đình
    Kỳ 1: Đêm trước đổi mới và 'anh Ba-Lê Duẩn, anh Năm-Trường Chinh' 

    Bí thư "khoán hộ" Kim Ngọc ở Vĩnh Phúc (từ năm 1968-1978, ông là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú) thì nhiều người đã biết.
    Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, còn nổi lên mô hình khoán trong nông nghiệp ở thành phố Cảng với vai trò đầu tàu của Chủ tịch UBND Đoàn Duy Thành (tiếp đó, ông giữ cương vị Bí thư Thành ủy, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
    Sau thành công của mô hình này, Đoàn Duy Thành - "ông Kim Ngọc" ở Hải Phòng còn được Trung ương giao tham gia chắp bút soạn thảo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động...
    "Giải mã" Kim Ngọc
    Cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70, ông Đoàn Duy Thành đọc các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước về kinh tế, đối chiếu với mô hình và thực tế tình hình đất nước và địa phương mình, ông rất băn khoăn.
    Ông đặc biệt chú ý tới mô hình khoán của Vĩnh Phúc áp dụng vào những năm 1966, 1967. Các câu hỏi: Bí thư Kim Ngọc là người thế nào? Động cơ nào khiến ông ký ban hành nghị quyết và chỉ đạo làm khoán? Tại sao ông bị chỉ trích và phản ứng dữ dội khi triển khai mô hình này đến vậy?... cứ lởn vởn trong đầu Đoàn Duy Thành. Ông quyết định phải "thực mục sở thị".
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp (người mặc quân phục đứng giữa) và Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Đoàn Duy Thành (người ngoài cùng bên trái, hàng trước) về thăm huyện Kiến An và nghe báo cáo về khâu khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Ảnh chụp lại.
    Đầu năm 1973, Đoàn Duy Thành lúc đó là Trưởng ban Công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học kỹ thuật của thành phố Hải Phòng đã tham mưu với Bí thư Thành ủy Trần Kiên tổ chức một đoàn đi tham quan Thác Bà và qua thăm tỉnh Vĩnh Phú.
    Sau bữa cơm trưa do Tỉnh ủy Vĩnh Phú mời tại khu sơ tán, cách Đền Hùng khoảng 20km, ông Thành tách đoàn nói nhỏ với Bí thư Kim Ngọc: "Tôi xin gặp riêng anh hỏi một số chuyện". Kim Ngọc dẫn ông Thành về lán ở của mình.
    - Có việc gì mà anh cần gặp riêng? Bí thư Ngọc tay vẫn cầm tăm xỉa răng, bình thản như một ông đồ nho hỏi.
    - Thưa anh, tôi muốn xem Nghị quyết về khoán của Tỉnh ủy các anh mấy năm trước? Đoàn Duy Thành đặt vấn đề.
    - Hàng "quốc cấm" xem làm gì... ông Ngọc khẽ cười cười.
    Nói vậy, nhưng ông vẫn đến tủ, lôi tập nghị quyết và đưa cho Đoàn Duy Thành, không quên dặn: "Đọc tại chỗ thôi đấy nhé". Ông Thành đón tập tài liệu đã gây ồn ã một thời và đọc ngay tức khắc.
    - Anh thấy thế nào? Bí thư Ngọc hỏi như thăm dò.
    - Hay đấy! Đoàn Duy Thành đáp luôn.
    Gương mặt Kim Ngọc như bừng sáng, ông mủm mỉm cười:
    - Cũng dám khen cơ à.
    Rồi, câu chuyện của hai ông rổn rang quanh chủ đề nông dân và khoán trong nông nghiệp. Sau cùng, Bí thư Kim Ngọc rưng rưng:
    - Nông dân mình đói và khổ quá, Thành ơi!
    Câu nói đó ám ảnh ông Đoàn Duy Thành mãi đến sau này.
    Chia sẻ với chúng tôi về cuộc gặp với Bí thư Kim Ngọc gần 30 năm trước, ông Đoàn Duy Thành cho rằng, tư tưởng hành động của ông Bí thư "khoán hộ" là anh hùng. Ông đồng cảm với cảnh đói nghèo của dân, dũng cảm "phá rào", mở lối, đi trước để lo cho đời sống của dân.
    Nghị quyết khoán của Vĩnh Phúc về tinh thần là đúng nhưng do quá mới mẻ, lại vào thời điểm chưa phù hợp nên đã bị công kích, phê phán. Tuy nhiên, nội dung của nghị quyết này vẫn còn những hạn chế, đơn giản, như thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ khi áp dụng khoán, thiếu hướng dẫn trong triển khai thực hiện...
    Ngoại giao Ba Đình và Nghị quyết 24
    Ông Đoàn Duy Thành. Ảnh: Hoàng Tiến.
    Năm 1979, ông Đoàn Duy Thành được bầu làm Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng. Trên cương vị mới, Chủ tịch Đoàn Duy Thành dành thời gian xuống với nông dân, giải đáp câu hỏi thường trực trong ông bấy nay: Trên đồng ruộng vựa thóc, một năm hai vụ chiêm mùa, xen một vụ màu mà sao cứ đói triền miên.
    Ban đầu ông nghĩ nếu có cày bừa máy vào làm, có giống mới... chắc năng suất sẽ tăng. Nhưng rồi cày bừa máy, khoa học kỹ thuật, giống mới, phân bón thuốc trừ sâu... được đầu tư mà năng suất vẫn đi xuống.
    Ông lại nhớ hồi nhỏ, nhà ông ở Hải Dương cày cấy bình thường cũng được 100 kg/sào, vậy mà giờ đây không còn nổi 40kg/sào. Nguyên nhân cốt tử nào ở đây?
    Ông đến kiểm tra tất cả huyện ngoại thành. Một xã tiêu biểu như Phục Lễ của huyện Thủy Nguyên, họp hợp tác xã, xã viên thường xuyên đến đủ 100%, đánh một hồi trống họp Đảng bộ là 100% đảng viên có mặt.
    Thế nhưng, năng suất cũng thất thường, ngày công cũng không khá.
    Xã viên cũng chỉ làm nhanh cho xong công việc của hợp tác xã, còn công sức tập trung vào ruộng 5% và đi bắt tôm cá ngoài sông, biển hoặc đi buôn bán lặt vặt.
    Kinh tế hợp tác xã chỉ cung cấp 20% cho cuộc sống gia đình họ, bởi vậy họ phải bươn chải bên ngoài là chính.
    Nhiều xã khi đó thiếu đói trầm trọng...
    Vậy thì, vấn đề mấu chốt ở đây là do khâu quản lý. Ông nhớ tới Bí thư Kim Ngọc và nghị quyết khoán của Vĩnh Phúc...
    Chỉ có thay đổi cách quản lý nông nghiệp thì mới có thể làm chuyển biến tình hình. Ông đem vấn đề bức xúc này bàn với Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo và được ông Tạo đồng tình, ủng hộ.
    Hai cán bộ chủ chốt trao đổi nhiều lần và dự thảo nghị quyết về "khoán sản" trong nông nghiệp. Tuy nhiên, "khoán" vẫn là vấn đề "tối kỵ" khi đó. Bài học "khoán" ở Vĩnh Phúc bị "đánh" tơi tả 15 năm trước vẫn được nhắc đến như là tấm gương "tày liếp" để nhắc nhở, răn đe.
    Thành ủy nhiều lần họp nhưng vẫn chưa nhận được sự thống nhất cao. Bí thư Bùi Quang Tạo và Chủ tịch Đoàn Duy Thành chủ trương cùng với công tác vận động để tạo sự đồng thuận trong nội bộ, phải tranh thủ sự đồng tình của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Đoàn Duy Thành nhận "sứ mệnh": "Ngoại giao Ba Đình".
    Bí thư Thành ủy Đoàn Duy Thành thăm bộ đội và công nhân đang thi công công trình đào sông Cái Tráp (Hải Phòng). Ảnh tư liệu
    Ông nhớ lại: "Tôi đến nhà Tổng bí thư Lê Duẩn và báo cáo suốt 3 giờ về thực trạng nông nghiệp, nông dân và chủ trương "khoán" của Hải Phòng. Tổng bí thư nghe rất kỹ và đồng tình. Ông còn bảo: "Cứ về làm, tôi sẽ về xem các đồng chí làm thế nào".
    Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng coi như đồng ý rồi. Khó nhất lúc này là phải thuyết phục được Chủ tịch Trường Chinh. Tôi báo cáo anh Trường Chinh 2-3 lần, anh tỏ vẻ không phản đối.
    Một lần khác, trong bữa ăn trưa chỉ có tôi và anh, tôi lại đem vấn đề khoán ra để xin ý kiến anh. Tôi cảm giác anh không vui, nhưng anh không nói vào khoán. Anh kể chuyện huyện Xuân Trường, quê anh với thái độ gay gắt, phê bình huyện này buông lỏng quản lý, để hợp tác xã khoán lung tung, không có kỷ cương gì...
    Tôi biết là anh phê bình tôi. Tôi chuyển sang báo cáo công việc khác, về làm kinh tế, về Cảng. Sau đó, để có thực tế thuyết phục, tôi đã bố trí để anh xuống cơ sở, cung cấp các số liệu cụ thể, thiết thực về đời sống nhân dân, công chức. Cuối cùng đến lần thứ 5 xin ý kiến về khoán sản phẩm trong nông nghiệp ở Hải Phòng, anh đã đồng tình".
    Chủ tịch Đoàn Duy Thành về bàn với Bí thư Bùi Quang Tạo, là việc khoán đã chín muồi lắm rồi, bây giờ phải cho một huyện ra nghị quyết trước, để lấy ý kiến từ cơ sở, sau đó Thành ủy sẽ ra nghị quyết chính thức.
    Hai ông quyết định chọn huyện Đồ Sơn để làm trước. Huyện này ra nghị quyết được 32 ngày thì Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng ra Nghị quyết 24 nổi tiếng về khoán trong nông nghiệp vào tháng 8-1980. Ý Đảng hợp với lòng dân đã nhanh chóng được hiện thực hóa trong đời sống. Nhân dân hồ hởi đón nhận và lao động hăng say trên "mảnh ruộng của mình".
    Khi đi cơ sở vào 30, Mồng Một Tết, Chủ tịch Thành vẫn còn thấy bà con lao động trên cánh đồng. Một điều trước đây chưa từng xảy ra. Năng suất vì thế cũng tăng cao, trước đây cả năm cũng chỉ được 3,5 đến 3,8 tấn/ha; ngay trong năm khoán đầu tiên đã tăng lên 4,5 đến 5 tấn thóc.
    Những năm sau đó, nông nghiệp Hải Phòng phát triển rất nhanh. Lương thực coi như đã tự túc được cho cả phi nông nghiệp. Không còn tình trạng hằng năm phải lên Trung ương xin gạo, xin mì.
    Hàng trăm đoàn của Trung ương và các địa phương trong cả nước kéo nhau về Hải Phòng để tham quan, học hỏi. Hải Phòng trở thành mô hình phát triển kinh tế năng động của cả nước...
    Từ thực tế sinh động và thành công của thành phố Cảng, Trung ương giao cho ông Đoàn Duy Thành tham gia soạn thảo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp cho nhóm lao động và lao động xã viên, góp phần tháo gỡ khó khăn, từng bước thúc đẩy sản xuất phát triển...
    "Khoán sản phẩm trong nông nghiệp của Hải Phòng đã làm cơ sở cho Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương vào tháng 1-1981 và Nghị quyết Khoán 10 tháng 4-1988 của Bộ Chính trị khóa VI, lúc này sức sản xuất thực sự được giải phóng, sản xuất được bung ra, lương thực bung ra.
    Nếu như trước đó anh Lê Duẩn đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn lương thực nhiều người hoài nghi thì đến đây chúng ta không những đã giải quyết được cơ bản vấn đề lương thực, đảm bảo về an ninh lương thực mà còn có gạo xuất khẩu, một sự kiện như mơ giữa ban ngày". (Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh)
    Kỳ 3: Ám ảnh gạo mậu dịch: cơn “địa chấn” mang tên Ba Thi
    Trần Hoàng Tiến
    Theo Quân đội Nhân dân
    Tiêu đề do Tuần Việt Nam đặt lại


    4 nhận xét:

    1. http://sknc.qdnd.vn/sukiennhanchung/vi-vn/89/70/84/84/84/133048/default.aspx
      http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su/nhung-nguoi-mo-loi-bai-1/175582.html
      http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su/nhung-nguoi-mo-loi-bai-2/175638.html
      http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su/nhung-nguoi-mo-loi-bai-3/175866.html
      http://qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su/nhung-nguoi-mo-loi-bai-4/176025.html
      http://qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su/nhung-nguoi-mo-loi-tiep-theo-va-het/176036.html

      Trả lờiXóa
    2. Có thế chứ ! Xem bản trên QĐND khác hẳn Khoằm à, để mình đi lại từ chính QĐND. Cạm tạ Khoằm !

      Trả lờiXóa
    3. Hóa ra, từ năm 2012, Khoằm đã lưu trên blog của mình loạt bài này rồi:
      http://fddinh.blogspot.jp/2012/02/nhung-nguoi-mo-loi-tim-uong-i-moi.html

      Trả lờiXóa

    Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

    LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

    Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.