Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

22/08/2014

Danh sĩ xứ Nghệ thời Lê Mạc và những tấm sắc phong bằng lụa 400 năm

Gần đây, trong số tư liệu về Nguyễn Văn Giai (quan lớn của Lê Trịnh), tưởng như ngẫu nhiên, tôi lại bất ngờ tìm được một vài thứ khá quí để hiểu thêm về nhà Mạc thời kì Cao Bằng. Nhiều khi ăn may ! Cái đó, viết cẩn thận sau vậy.

Những tư liệu tương tự của phía Mạc lúc đó, vốn không ít, nhưng sau này, lúc chiếm được Cao Bằng, Lê Trịnh cho đốt và phá bằng sạch. Ông tổ của Nguyễn Du chạy từ Cao Bằng về Hà Tĩnh cũng không mang được gì, hay là phải tự đốt bỏ hết, và lên ngàn mà giả thành người rừng.

Nguyễn Văn Giai thì phò Lê Trịnh đánh Mạc. Còn ông tổ của Nguyễn Du thì phò Mạc đánh Lê Trịnh. Mà cũng ở không cách xa nhau. Giông giống xuất thân của một số tướng lãnh thời 1954-1975 sau này.

Mãi đến thời Nguyễn Du, thì dòng họ Nguyễn Tiên Điền mới chính thức nhận mình là hậu duệ của công thần nhà Mạc. Ai mà chả sợ mang tiếng là "ngụy" ! Tất nhiên, Nguyễn Du thì ở vai thấp trong họ, không giữ quyền phát ngôn.

Nguyên chúĐền thờ danh thần Nguyễn Văn Giai tại quê nhà. Ảnh: T.G


Bây giờ, đưa một ít tư liệu của báo chí về đây (có từ năm 2009).

---



LƯU TƯ LIỆU




Thứ Hai, 15:10 21/09/2009

Đạo sắc bằng lụa gấm 400 năm chưa được giải mã


Sắc phong bằng chất liệu lụa gấm có niên hiệu Hoằng Định năm thứ 11 (1610), triều vua Lê Kính Tông hiện đang được ông Nguyễn Văn Tân, xóm Ích Mỹ, xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh), tộc trưởng dòng họ Nguyễn Văn lưu giữ là đạo sắc thuộc nhóm quý hiếm.
Sắc phong bằng lụa gấm niên hiệu Hoằng Định, dài 4,5m, rộng 0,5m cần được giải mã nội dung.
Đạo sắc có chiều dài 4,5m, rộng 0,50m, màu trắng đục, không có hoa văn, gồm 318 chữ, bố cục theo 63 hàng cột dọc, 5 hàng ngang, được viết trực tiếp lên lụa. Nét chữ viết rất mảnh, thẳng hàng, rõ và đẹp, phần ghi niên hiệu nằm ở cuối của khổ vải, chỉ còn ½ phần ấn dấu của nhà vua.
Kết quả khảo cứu ban đầu cho thấy, sắc có niên hiệu Hoằng Định năm thứ 11, triều vua Lê Kính Tông (1610), nội dung của đạo sắc phong công cho ông Nguyễn Văn Giai, một quan đại thần đã có 48 năm làm quan dưới triều Lê (1580 -1628), 3 triều vua: Lê Mục Tông, Lê Thế Tông và Lê Kính Tông.
Nguyễn Văn Giai, sinh năm Giáp Dần (1554), tại xã Mỹ Tường, tổng Phù Lưu, huyện Thiên Lộc (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tỉnh). Khoa thi Canh Thìn (1580) đời vua Lê Thế Tông thi trúng Hội nguyên rồi đỗ Đình nguyên nhị giáp Tiến Sỹ, sau đó ông phục vụ dưới triều đại Lê – Trịnh, được phong Đô đài ngự sử kiêm Thượng thư bộ Hộ và có công thông sứ bàn việc tuế với nhà Minh ở Nam Quan, thăng Thượng thư bộ Lại, tước hầu.
Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hoằng Định thứ 10 (1609) đời vua Lê Kính Tông, ông được phong tước Quận công. Năm Ất Mão (1615) thăng tiếp thiếu phó, coi việc 6 Bộ. Năm Đinh Tỵ (1617), Nguyễn Văn Giai được liệt vào hàng Kiệt tiết tuyên lực dực vận tán trị công thần. Tháng giêng năm Mậu Thìn (1628), niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10, ông mất tại chức, thọ 75 tuổi, được tặng là Tư Đồ, thụy là Cẩn Độ. Đến đời vua Lê Chân Tông, niên hiệu Phúc Thái thứ 3 (1645), Nguyễn Văn Giai được tặng Thái Phó, Đại tư đồ. Đời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Khánh Đức thứ 4 (1652) gia tặng Thái Tể, đến đời Cảnh Hưng bao phong Anh liệt đại vương, về sau được phong Thượng đẳng thần
Trước đây dòng tộc Nguyễn Văn có hai sắc lụa gấm, sau đó một sắc bị thất lạc, nay chỉ còn giữ lại được đạo sắc quý trên. Ngoài sắc lụa gấm đặc biệt đó, dòng họ này còn bảo lưu trên 40 đạo sắc, trong đó một số đạo có niên đại khá sớm: 3 đạo có niên hiệu Quang Hưng năm thứ 14 (1593), Quang Hưng năm thứ 16 (1593), Quang Hưng năm thứ 20 (1597); 1 đạo có niên hiệu Hoằng Định năm thứ 5 (1604), 2 đạo có niên hiệu Hoằng Định năm thứ 8 (1607), 1 đạo Hoằng Định năm thứ 9 (1608), 2 đạo niên hiệu Hoằng Định thứ 12 (1611), 1 đạo Hoằng Định năm thứ 19 (1618)...
Trong số 40 đạo sắc kể trên, có một số bị mục, một số đạo sắc chưa biết nội dung. Những đạo sắc này trước đây được cất giữ tại đền thờ Nguyễn Văn Giai, nay chuyển về gia đình tộc trưởng dòng họ Nguyễn Văn.
Đạo sắc bằng lụa gấm đặc biệt trên được xếp vào nhóm hiện vật đặc biệt quý hiếm ở Hà Tĩnh, cần được các nhà nghiên cứu chuyên ngành quan tâm giải mã nội dung cũng như các giá trị lịch sử, văn hóa mà bản thân đạo sắc quý đó đã bảo lưu gần 400 năm.
B. KHOA – B. HẠNH

http://baohatinh.vn/news/doi-song-van-hoa/dao-sac-bang-lua-gam-400-nam-chua-duoc-giai-ma/48053


2. Bài của trang Dân số

Giải mã đạo sắc bằng lụa dài nhất Việt Nam

Tuy nhiên, theo nhận định của giới nghiên cứu Hán Nôm thì các đạo sắc bằng lụa gấm hầu như đã bị thất lạc hết. Chính vì thế, đạo sắc bằng lụa gấm, dài gần 5m vừa được phát hiện ở dòng họ Nguyễn Văn (Hậu Lộc, Lộc Hà, Hà Tĩnh) là một dải đạo sắc rất có giá trị.
86 tuổi, lần đầu tiên được chiêm ngưỡng đạo sắc
Phải khó khăn lắm chúng tôi mới thuyết phục được ông Nguyễn Văn Tân- hậu duệ đời thứ 13 của danh thần Nguyễn Văn Giai, người đang trực tiếp lưu giữ đạo sắc này cho tận mắt chiêm ngưỡng và chụp ảnh đạo sắc.
Dù đã trải qua hơn 4 thế kỷ nhưng dải đạo sắc vẫn còn gần như nguyên vẹn. Ảnh: T.G
Trước khi bê tráp gỗ đựng 43 đạo sắc còn lưu giữ được từ trên ban thờ xuống, ông Tân không quên "triệu tập" các bậc cao niên trong dòng họ đến thành kính làm lễ xin phép trước ban thờ tổ tiên. Trong khi ông Tân và các bậc cao niên dòng họ Nguyễn Văn làm lễ, có một cụ già 86 tuổi đứng bên tôi thì thầm: "Không phải ai cũng được họ đồng ý cho coi mô đâu (xem đâu). Tui (tôi) sống đã bạc đầu rồi mà vẫn mới chỉ nghe kể lại chứ chưa khi mô (bao giờ) được nhìn thấy đạo sắc một lần. Tui cứ ao ước mần răng (làm sao) coi (xem) đạo sắc một lần tui chết cũng thỏa mãn. Hàng năm, đến ngày giỗ tổ, bầy tui (chúng tôi) làm lễ cúng tại từ đường nhà tộc trưởng rồi để nguyên cả tráp ơ rứa (như thế) rước lên kiệu và rước ra đình thờ cụ chứ không hề bóc tách ra vì sợ mắc tội".
Sau khi đã hoàn tất các thủ tục không thể thiếu, ông Tân đại diện cho cả dòng họ cẩn trọng bê tráp nhỏ, làm bằng gỗ lim, có sơn son thiếp vàng nhưng đã bị trầy xước khá nhiều xuống sân và nhẹ nhàng lần dở từng tấm đạo sắc. Trong mùi thơm của hương trầm, không gian như vỡ òa khi dải đạo sắc bằng lụa gấm được ông Tân lấy ra và trải dài trên tấm bạt đã trải sẵn trên sân.
Một đoạn sắc phong của dải đạo sắc bằng lụa gấm.
Ông Tân cho biết, hiện dòng họ ông còn giữ được tất cả 43 đạo sắc, trong đó chỉ duy nhất đạo sắc này bằng lụa, còn lại là bằng giấy có hoa văn. Thực ra, ngày xưa số lượng đạo sắc nhiều gấp đôi số hiện có và ngoài dải đạo sắc bằng lụa gấm này còn có một dải đạo sắc tương tự. Nhưng vì chiến tranh loạn lạc, phải di chuyển nhiều nơi những đạo sắc đó đã bị thất lạc lúc nào không ai hay biết. Từ ngày hòa bình, con cháu dòng họ đã quyết định gom tất cả các đạo sắc lại để chung trong một tráp gỗ và thờ cúng trên ban thờ chứ không bao giờ lấy xuống, ngoại trừ ngày giỗ tổ.
Theo tìm hiểu, tất cả đạo sắc này là của các vị vua nhà Lê và nhà Nguyễn phong tặng cho đại thần Nguyễn Văn Giai - người đã từng làm tể tướng ba triều vua Lê (Lê Mục Tông, Lê Thế Tông và Lê Kính Tông), là bậc "khai quốc" công thần nổi tiếng chính trực và biết giữ nghiêm pháp luật triều đình, có công bình định nhà Mạc, đồng thời cũng là một nhà thơ thời Lê - Trịnh.
Hiện trên bia mộ của ông tại quê nhà vẫn còn khắc rõ đôi câu đối do chính vua Lê Kính Tông tặng trước lúc ông tạ thế:
"Quốc thạch trụ tam triều
                                danh tướng
Địa giang sơn vạn cổ phúc thần"
(Tạm dịch nghĩa: Trải ba triều thuộc hàng danh tướng trụ cột của nước nhà/ Vạn năm sau là bậc phúc thần nơi sông núi quê hương). Sau khi ông mất được 60 năm, con cháu dòng họ Nguyễn Văn đã lập một tấm bia đá ghi lại công trạng của ông qua các thời kỳ lịch sử. Hiện trong đền thờ của ông còn lưu giữ nguyên xi tấm bia đá này cùng với hai bản di huấn dạy con cái trong nhà và các quan chức dưới quyền của ông thời bấy giờ về đạo lý làm con, làm tôi.
Vua ca ngợi hết lời
43 đạo sắc được gìn giữ rất cẩn thận trong một tráp gỗ. Ảnh: T.G
Theo tìm hiểu, trong 43 đạo sắc còn lưu giữ được, có một số đạo có niên đại khá sớm: 3 đạo có niên hiệu Quang Hưng năm thứ 14 (1593), Quang Hưng năm thứ 16 (1595), Quang Hưng năm thứ 20 (1599); 1 đạo có niên hiệu Hoằng Định năm thứ 5 (1604), 2 đạo có niên hiệu Hoằng Định năm thứ 8 (1607), 1 đạo Hoằng Định năm thứ 9 (1608), 2 đạo niên hiệu Hoằng Định thứ 12 (1611), 1 đạo Hoằng Định năm thứ 19 (1618)… Phần lớn trong số đó đã bị rách do ẩm ướt và mối mọt. Ngoài ra, chưa hề có đạo sắc nào được phiên âm, dịch nghĩa.
Trước đây, số sắc phong đó được thờ tại đền thờ danh thần Nguyễn Văn Giai, nhưng do điều kiện bảo quản không đảm bảo nên vào khoảng những năm đầu thập niên 1970, hội đồng gia tộc Nguyễn Văn mới quyết định chuyển về gia đình ông Nguyễn Văn Tân để tôn thờ và bảo quản.
Riêng đạo sắc bằng lụa gấm có chiều dài 4,5m, rộng 0,5m, màu vàng, không có hoa văn, gồm 318 chữ, bố cục theo 63 hàng ngang, 5 hàng dọc, được viết trực tiếp lên lụa. Qua khảo cứu sơ bộ, ông Hồ Bách Khoa - Phó phòng Quản lí di sản của Bảo tàng Hà Tĩnh cho biết, phần ghi niên hiệu của đạo sắc nằm ở cuối khổ vải đã bị rách nên chỉ còn nửa phần ấn dấu của nhà vua. Tuy nhiên, bằng các nghiệp vụ chuyên môn, bảo tàng đã xác định được đạo sắc có niên hiệu Hoằng Định năm thứ 11, triều vua Lê Kính Tông.
Còn dựa vào nét chữ trên đạo sắc, PGS - TS Hán Nôm Nguyễn Văn Thịnh nhận định: Chữ viết trong đạo sắc rất mảnh, thẳng hàng, rõ và đẹp. Đây là kiểu chữ Khải đá hành (kiểu chữ chân phương được mềm mại hóa) rất đặc trưng của dạng chữ Khải thời Lê. Ngoài ra, nếu xem qua nội dung của dải đạo sắc có thể thấy đây là một dạng "chế" chứ không phải "sắc".

"Chế cũng là một dạng đạo sắc mà nhà vua hay dùng để ban truyền, phong tặng cho một ai đó (tương tự giấy khen, bằng khen thời nay), nhưng chế có phạm vi rộng hơn. Chế không bị gò bó trong một khuôn khổ nhất định như sắc mà có thể nói được nhiều điều hơn. Với thể loại chế, nhà vua có thể thoải mái thể hiện cảm xúc của mình đối với nhân vật mà Ngài muốn ban tặng…" - PGS, TS Nguyễn Văn Thịnh nói.
Hòa thượng Thích Thanh Nguyện - Trụ trì chùa Linh Ứng, xã Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội sau khi xem xét phần nguyên tác chữ Hán đã cho biết, nội dung chính của đạo sắc này là nhà vua thuận theo mệnh trời đặc tiến cho Kim Tử Vinh Lộc đại phu, chức Thượng thư Bộ Lại kiêm Đô Ngự sử của Ngự sử đài, Vĩnh Lộc hầu, là bậc trụ quốc (chỗ dựa của đất nước) Nguyễn Văn Giai.
Ông vốn là bậc chân nho trong một gia đình khoa bảng, từng làm trụ cột cho nhà vua trong việc chỉnh đốn đất nước. Ông là người có tài kinh bang tế thế, giỏi cả văn lẫn võ, bày đặt mưu lược cho nhà vua, giữ yên bờ cõi và thiết lập tình giao hảo với các nước láng giềng. Sinh thời ông cũng là người bộc trực, thẳng thắn, luôn làm theo lẽ phải và lúc nào cũng hết mình vì dân, đề cao chữ đức.
"Nhìn nhận về giá trị văn học thì đây là một bài “chế” giàu giá trị văn học vì nó mang nhiều cảm xúc chủ quan của người viết. Riêng về giá trị lịch sử thì rõ ràng nó đề cập khá đầy đủ chân dung của một vị danh thần, có nhiều đóng góp với triều đình qua nhiều giai đoạn lịch sử. Còn xét ở góc độ văn hóa thì đây đúng là một di sản quý hiếm, cần phải được nghiên cứu và bảo tồn" - Hòa thượng Thích Thanh Nguyện nói.
Soi chiếu vào lịch sử, chúng ta thấy rằng, Nguyễn Văn Giai từng được nhà vua và sĩ phu Lê - Trịnh nhiều đời tôn xưng là một công thần bậc nhất bởi ông là người trực tiếp tham dự vào công cuộc đánh Mạc, khôi phục lại ngai vàng cho nhà Lê. Ông đã từng hai lần cùng với đại quân Lê - Trịnh nắm giữ các đạo quân tiến ra Bắc, chiếm lại Thăng Long từ quân nhà Mạc, bình định thành trì. Sau đó lại giúp nhà Lê thu phục lại Thăng Long, xa giá vua Lê trở về kinh thành. Tiếp đấy, ông còn được cử đi dẹp dư đảng của nhà Mạc và chủ trì việc giao hảo với Trung Quốc, để Trung Quốc thừa nhận nhà Lê Trung hưng.
Cuộc thương nghị kéo dài trên một năm, từ tháng Ba năm 1596 đến tháng Tư năm 1597 mới hoàn tất. Ông còn được nhà vua giao chuyên việc từ hàn, soạn văn thư đặt quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng. Năm 1599, Mạc Kính Cung lên ngôi vua, cấu kết được với một số võ tướng Lê - Trịnh đã kéo đại quân về bao vây Thăng Long khiến vua Lê Kính Tông phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Nguyễn Văn Giai lại cùng Trịnh Tùng xuất quân đốc chiến, đánh bại quân Mạc, giành lại Thăng Long. Sau trận này ông được thăng Hữu Thị lang Bộ Lại.
Rất nhiều đạo sắc bằng giấy đã bị rách nát do mối mọt và ẩm ướt.
Ảnh: T.G
Năm 1600, Mạc Kính Cung cất quân đánh xuống Thăng Long một lần nữa. Đang lúc về quê chịu tang cha nhưng ông vẫn trở lại kinh đô dẫn quân băng vào sào huyệt đánh lui quân giặc và được phong Đô ngự sử ở Ngự sử đài. Năm 1604, ông được phong Thượng thư Bộ Hộ và hai năm sau được gia phong Tham tụng, Thượng thư Bộ Lại, tước Hầu. Đến năm 1612, được đặc phong Quận công. Năm 1617 thăng lên Thiếu phó và chỉ một năm sau được giao quyền cai quản cả lục bộ. Ông cùng Trịnh Tráng (1623-1657) thân chinh đi đánh Mạc Kính Khoan (1623-1638) thắng trận, trở về được thăng Thiếu úy, liệt vào hàng “Kiệt tiết tuyên lực dực vận tán trị công thần”.
Trong những năm vua Lê chúa Trịnh có nhiều lục đục, tranh giành quyền bính, Nguyễn Văn Giai là người đứng ra giải quyết êm thấm những sự cố đầy bi thương này. Ngày 13 tháng Giêng năm Mậu Thìn, tức 27 tháng Hai năm 1628, ông mất tại chức, được truy phong chức Tư đồ. Các triều đại sau đều ra sắc chỉ nâng chức tước, phẩm hàm của ông lên những bậc cao hơn.
Nhật Danh

http://danso.giadinh.net.vn/tet-2011/giai-ma-dao-sac-bang-lua-dai-nhat-viet-nam-2011012704552253.htm


Bậc "Anh liệt Đại vương"
Nguyễn Văn Giai, sinh năm Giáp Dần (1554), tại xã Mỹ Tường, tổng Phù Lưu, huyện Thiên Lộc (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Khoa thi Canh Thìn (1580) đời vua Lê Thế Tông, ông thi trúng Hội nguyên rồi đỗ Đình nguyên Nhị giáp Tiến sĩ, sau đó ông phục vụ dưới triều đại Lê - Trịnh, được phong Đô đài ngự sử kiêm Thượng thư bộ Hộ và có công thông sứ bàn việc tuế với nhà Minh ở Nam Quan, thăng Thượng thư bộ Lại, tước hầu.

Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hoằng Định thứ 10 (1609) đời vua Lê Kính Tông, ông được phong tước Lễ Quận công. Năm Ất Mão (1615) thăng tiếp Thiếu phó, coi việc 6 Bộ. Năm Đinh Tỵ (1617). Nguyễn Văn Giai được liệt vào hàng “Kiệt tiết tuyên lực dực vận tán trị công thần”. Tháng Giêng năm Mậu Thìn (1628), niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10, ông mất khi đang tại chức, thọ 75 tuổi, được tặng là Tư Đồ, thụy là Cẩn Độ.
Đến đời vua Lê Chân Tông, niên hiệu Phúc Thái thứ 3 (1645), Nguyễn Văn Giai được tặng Thái Phó, Đại tư đồ. Đời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Khánh Đức thứ 4 (1652) gia tặng Thái Tể, đến đời Cảnh Hưng phong Anh liệt đại vương, các triều đại phong kiến về sau phong Thượng đẳng thần.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.