Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

13/07/2014

Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 : lại vừa có từ "công điện" được khai sinh

Vẫn về công hàm Phạm Văn Đồng.

Chúng ta đã đột nhiên thấy "công thư". Rồi "thư công". Rồi lại "bức thư" hay "thư".

Tất nhiên, mới đây phía Việt Nam cũng vẫn đã gửi "công hàm" cho phía Trung Quốc.

Và bây giờ, thêm "công điện". Chắc ít ngày nữa, sẽ lại có "điện công". Dần dần, hóa ra "bức điện" nữa, cũng có khả năng !


Toàn văn xem ở dưới. Nhưng cần trích trước một đoạn cuối cùng, ở chú thích số 4, như sau:

"Chúng tôi chỉ đưa ra vài sự kiện với lời giải thích ngắn gọn nhằm giúp độc giả dễ hiểu một điểm pháp lý quan trọng về Công điện hay Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958. Đàng khác, ý thức được tầm quan trọng này, chúng tôi để đồng bào, các cơ quan truyền thông (medias) trong và ngoài nước Việt Nam tùy ý sử dụng, chỉ với một điều kiện duy nhất là không được thay đổi, cắt xén thêm bớt nội dung.

Là một luật sư chuyên nghiệp, có ba con luật sư, hai trong ba hiện với hơn 12 năm kinh nghiệm các hồ sơ quốc tế và các toà án quốc tế, hiện một con làm việc với tư cách luật sư cố vấn, luật sư biện hộ (co-counsel, defense lawyer) tại Tòa Án Quốc Tế tại La Haye, mong đóng góp phần chuyên môn liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa. Trân trọng."

---

LƯU TƯ LIỆU


http://boxitvn.blogspot.jp/2014/07/gia-tri-phap-ly-cong-ham-pham-van-ong.html

13/07/2014







Luật sư NGUYEN LE-HA


Từ nhiều tuần nay, các học giả, nhà nghiên cứu, chính trị gia, luật gia nói viết nhiều về công điện Phạm Văn Đồng ký và gửi ngày 14/9/1958 cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai liên quan tới lời tuyên bố của Trung Quốc ngày 4/9/1958 về bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nới rộng là 12 hải lý bao gồm lãnh thổ trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Xisha tức Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Nansha tức Trường Sa).
Điều tuyên bố trên của Trung Quốc về việc nới rộng biển đảo ra 12 hải lý hoàn toàn phù hợp với đề nghị của Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Genève từ ngày 24-2 đến 29-4-1958.
Bức công điện Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nội dung như sau:
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc,quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.

Chính công điện hay công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng này đã gây nên những tranh cãi bất tận và đối nghịch nhau đưa đến những giải thích và kết luận có nhiều điểm hoàn toàn trái với luật thông lệ quốc tế, công pháp quốc tế và luật quốc tế về hiệp ước.
Chúng tôi nhận thấy có sự nhầm lẫn căn bản là: sự lẫn lộn Luật quốc nội (droit interne) và Luật công pháp quốc tế(droit publique international), và Luật quốc tế về hiệp ước (droit international des traités), đặt biệt Công Ước Vienne về Hiệp Ước (Convention de Vienne sur le droit des traités).
Chúng tôi sẽ giải thích sự lầm lẫn trên có thể đưa đến các kết luận tai hại qua việc đánh giá không chính xác công điện Phạm Văn Đồng đồng thời với những lời giải thích này hy vọng sẽ soi sáng các quyết định của các nhà lãnh đạo Chính quyền Việt Nam can đảm nắm bắt cơ may bằng cách sử dụng cơ quan tài phán quốc tế thích hợp để Việt Nam chiến thắng trên trường quốc tế liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa (1).
I- TÌM HIỂU NỘI DUNG CÔNG ĐIỆN VÀ Ý ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG
1)- Đọc lại từng câu, từng chữ Công điện, chúng tôi nhận thấy mạch lạc rõ ràng (sans équivoque): “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố…, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Đoạn tiếp: Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định… hải phận 12 hải lý và còn nhấn mạnh ba chữ cuối câu trên mặt bể.
2)- Công điện Phạm Văn Đồng không hề nhắc đến, hay ám chỉ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền và quản lý của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà (Việt Nam Cộng Hòa), một quốc gia độc lập (indépendance) có chủ quyền (souveraineté) và được quốc tế thừa nhận tương tự như Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) với thủ đô là Hà Nội.
Sự giải thích trên đúng với qui định căn cứ theo điều 29 Công Ước Vienne về Hiệp Ứơc: thoả ước chỉ áp dụng trên toàn lãnh thổ của bên kết ước (2).
3)- Nhìn kỹ lại lời tuyên bố của Trung Quốc 4/9/1958, trong thời điểm Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Genève, chỉ cốt yếu về việc nới rộng biển đảo ra 12 hải lýkhông phải là lời tuyên bố vể chủ quyền các đảo mặc dù lời tuyên bố có chồng chéo lên chủ quyền các đảo thuộc các nước khác như Việt Nam Cộng Hoà (Hoàng Sa và Trường Sa) và các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan (Trường Sa).
Đằng khác, Công Pháp Quốc tế cũng chỉ cho phép tuyên bố đơn phương một đối tượng duy nhất chỉ định rõ ràng như như việc việc nới rộng biển đảo ra 12 hải lý của Trung Quốc.
Chính vì lý do đó, các quốc gia này đã không thấy cần thiết phải lên tiếng về lời tuyên bố của Trung Quốc ngoại trừ Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Chính Phủ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là một quốc gia độc lập với Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà (theo Hiệp Định Genève 1954 phân định) lên tiếng ủng hộ thông qua Công điện nói trên.
Điều 31 Công Ước Vienne về hiệp ước cho biết việc giải thích thỏa ước phải thiện ý theo ý nghĩa bình thường trong bối cảnh thoả ước phát sinh và theo đối tượng và mục đích rõ ràng trong thỏa ước.
Như vậy Công điện Phạm Văn Đồng được phát sinh gửi đi trong bối cảnh Trung Quốc tuyên bố nới rộng biển đảo ra 12 hải lý vào thời điểm Hội Nghị Quốc Tế về luật biển họp tại Genève từ ngày 24-2 đến 29-4-1958.
Đàng khác, đối tượng và mục đích rõ ràng ghi trong Công điện chỉ rõ việc thừa nhận 12 hải lý mở rộng, không có một chữ, một câu nào trực tiếp hay gián tiếp thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Điều 32 Công Ước Vienne cũng qui định, trong trường hợp văn kiện mù mờ, không rõ ràng, có nguy cơ đưa tới kết luận kỳ quái (absurde) vô lý thì phải xem xét những công việc sửa soạn trước đó và những tình huống đưa tới việc ký kết văn kiện.
Thực vậy cho đến nay, trước thời điểm ký văn kiện, cũng như từ ngày Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký gửi công điện 14/9/1958 tán thành việc nới rộng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, cho đến khi mất đã không hề tìm thấy một tài liệu nào công nhận hay mặc nhiên công nhận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Đàng khác, chúng tôi cũng không thấy có một sự kiện nào, bằng các cuộc thảo luận thương thuyết hay văn bản trao đổi giữa Trong Quốc và Việt Nam liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa trước và sau công điện do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958.
Trái lại, thực tế cho thấy:
Ngay khi Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ ngày 30/4/1975, quân đội của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản đảo Trường Sa rối giao lại cho Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khi thống nhất đất nước 1976.
- Trận hải chiến ngày 19/1/1974 do Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa thuộc chủ quyền và quản lý của Việt Nam Cộng Hoà đã làm thiệt mạng 75 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa anh dũng chiến đấu. Ngay tức thì, ngày 19/1/1974, Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa ra tuyên cáo phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc. Tương tự, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam cũng đã phản đối hành động của Trung Quốc, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
- Ngày 14/3/1988, Trung Quốc đem quân xâm chiếm các bãi đá Gạc Ma, Colin và Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam và giết hại 64 hải quân Việt Nam ra bảo vệ.
Các sự kiện nêu trên, sau khi Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không tồn tại, các Chính quyền kế tiếp từ Chính quyền Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đến Chính quyền Dân Chủ Cộng Hoà và nay là Chính quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không có một sự nhượng bộ hay thỏa ước nào được biết đến cho tới nay liên quan tới các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất cả các giải thích trên cho thấy, Công điện hay Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký gửi ngày 14/9/1958 cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyến bố về lãnh hải 12 hải lý, chỉ là một sự tuyên bố ngoại giao không giá trị pháp lý, không có tác dụng công nhận chủ quyền liên quan tới đảo Hoàng Sa (Xisha) và Trường Sa (Nansha) của Việt Nam.
Theo chúng tôi, Công điện này chỉ có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu một thời kỳ thắm thiết “môi hở răng lạnh giữ hai nước anh em đồng chí cùng chung một giường” và dưới ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc đồng thời chứng tỏ người lãnh đạo đất nước thiếu cảnh giác và không có tầm nhìn xa.
II- NHỮNG LẦM LẪN TAI HẠI
Sai lầm: lẫn lộn về tư cách pháp lý trong hiệp ước quốc tế và cách giải thích Công điện Phạm Văn Đồng tùy tiện theo cảm tính hay theo lăng kính chính trị không căn cứ vào căn bản pháp luật.
Chúng ta đều biết Hiến Pháp quốc gia là luật quốc nội thường ghi nhận và bảo đảm những quyền căn bản của công dân đồng thời qui định cách tổ chức và điều hành quốc gia làm sao phát triển bền vững và mang phúc lợi tối đa cho mỗi người dân.
Trong Hiến Pháp, có những điều khoản qui định về về tư cách pháp lý (qualité juridique) của người dân, của viên chức chính quyền hay của các tổ chức dân sự hay thương mại, được gọi là pháp nhân (personne juridique).
Trong Công Pháp Quốc Tế, cũng có những điều khoản qui định về người đại diện quốc gia hay người có thẩm quyền, không nói người có tư cách pháp lý bởi vì nó thuộc luật quốc nội qui định các điều kiện khác nhau tùy theo mỗi quốc gia.
Bởi vậy không thể áp dụng tư cách pháp lý (luật quốc nội) vào các hiệp ước quốc tế để yêu cầu hủy bỏ thỏa ước đã ký do ngươi ký không có tư cách pháp lý hay vựợt quyền (ultra vires) theo luật quốc nội như trường hợp nêu ra bởi một số học giả và luật gia liên quan tới câu hỏi làm sao giải thoát hoặc vô hiệu hóa Công Hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký.
Có người lại còn yêu cầu Quốc Hội Việt Nam ra nghị quyết hủy bỏ Công Hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký cách đây 56 năm, hoăc xa hơn đòi xoá bỏ chính thể hiện nay và lập lại Việt Nam Cộng Hòa. Thật là ngộ nghĩnh tức cười.
Luận cứ của họ cho rằng công hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng thực sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam tương tự lập luận của Trung Quốc nhưng, theo họ, là vô giá trị vì những lý do sau đây:
- Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có tư cách pháp lý để ký công hàm; hoặc
- Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã vượt quyền hạn (ultra vires); hoặc
- Công hàm ký bởi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã không đưa ra Quốc Hội Việt Nam phê chuẩn, nên thiếu sự đồng thuận (vice de consentement), hoặc vi hiến.
Các lập luận trên hoàn toàn trái với Thông Tục Quốc Tế, đặc biệt các qui định của Luật Quốc tế về hiệp ước.
Thật vậy, nếu đã coi Công hàm ký bởi Thủ tướng Phạm Văn Đồng là một văn bản (hiệp ước) công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thì giải pháp vô hiệu hóa Công Hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký của các học giả và luật gia trên hoàn toàn lầm lạc bởi các lý do sau đây:
- Điều 27 và 46 Công Ước Vienne về hiệp ước không cho phép viện dẫn luật quốc nội như là tì vết (vice) của sự thỏa thuận (consentement) để hủy hiệp ước đã ký, hay không muốn thi hành viện dẫn lý do Công Hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã không được đưa ra Quốc Hội Việt Nam phê chuẩn.
- Điều 7 Công Ước trên ghi rất rõ những ai là đại diện của quốc gia kết ước có đầy đủ quyền lực (pleins pouvoirs) ký, chuẩn nhận, đồng ý một hiệp ước và quốc gia đó bị trói buộc vào hiệp ước.
- Điều 7.2.a): chỉ rõ người đứng đầu quốc gia, người đứng đầu chính phủ, bộ trưởng ngoại giao là những người đại diện quốc gia.
- Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Công Hàm là người đứng đầu chính phủ Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có đầy đủ quyền lực ký và nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà phải bị ràng buộc.
- Nói khác đi, Nhà Nước Việt Nam phải tôn trọng và thi hành hiệp ước được ký bởi người đại diện là Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Giả sử nội vụ được đưa ra Tòa Án Công Lý Quốc Tế với những dữ kiện và lập luận sai lầm trên, kết quả sẽ hết sức tai hại mà độc giả đã thấy trước.
III- CƠ HỘI NGÀN VÀNG ĐỂ VIỆT NAM XÁC QUYẾT CHỦ QUYỀN TRÊN HAI NHÓM ĐẢO HOÀNG SA và TRƯỜNG SA
1- Cơ hội ngàn vàng
Từ ngày Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Công Hàm đã 56 năm, môt số không nhỏ các nhà lãnh đạo đất nước vẫn còn mê mẩn với các khẩu hiệu loè bịp như “các nước xã hội chủ nghiã đều là anh em”, rồi “16 chữ vàng và 4 tốt” do Trung Quốc ban tặng, mặc dù chính họ đã kinh qua nhiều trận chiến tàn phá khủng khiếp 6 tỉnh biên giới Việt-Trung năm 1979, xâm chiếm biển đảo Hoàng Sa năm 1974 và đảo đá Gạc Ma thuộc Trường Sa năm 1988.
Sự việc giàn khoan Hải Dương 981 Trung Quốc đặt trái phép vào thềm lục địa Việt Nam từ hai tháng nay cùng kéo theo hơn 100 các tàu đủ loại, đủ cỡ để bảo vệ các hoạt động của họ cộng với thái độ ngang ngược bất nhân đối với các tàu kiểm ngư và tàu cá của Việt Nam đã là một giọt nước làm tràn ly.
Sự kiện này có lẽ đang thức tỉnh một số quan chức còn mơ màng chỉ nhìn thấy Tàu lạ mà không thấy TÀU thiệt đã và đang giết hại ngư dân Việt từ nhiều năm nay.
Trong khi đó nhân dân cả nước đã tỉnh ngộ từ lâu, họ biết tàu lạ là ai. Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy Ban Công Lý Hoà Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã quả quyết rằng: “Tàu lớn, tàu nhỏ, tàu lạ, tất cả đều là TÀU cả”.
Ngày nay phải bổ túc câu nói trên: “… tàu lặn, tàu ngầm, tàu bay, tất cả đều là TÀU cả”.
Ý dân là Ý Trời: các cuộc xuống đường hàng chục ngàn người, các cuộc hội thảo công khai về biển đảo, các kiến nghị của trí thức, các hội đoàn đủ mọi tầng lớp trong xã hội tố cáo Trung Quốc chiếm đoạt và vi phạm biển đảo Việt Nam dâng cao chưa từng có phải chăng là dấu chỉ báo trước cơn đại địa chấn Tsumani?
Trên bình diện quốc tế, Trung Quốc đang bị kết án không tuân theo luật lệ quốc tế và muốn dùng vũ lực thay đổi đơn phương nguyên trạng tại biển Hoa Đông và Biển Đông.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và vài vị lãnh đạo cao cấp mới đây, đã tố cáo đích danh Trung Quốc vi phạm lãnh hải Việt Nam và đe doạ đưa vụ việc ra Toà Án Quốc Tế giải quyết.
Đó là tín hiệu đáng mừng! Nhưng quan trọng là phải hành động ngay! Không phải truyền lại trách nghiệm cho các thế hệ con cháu 1000 năm sau mới đòi lại như tuyên bố của một quan chức quyền thế.
Theo thiển ý, chúng tôi nghĩ rằng Chính quyền Việt Nam không còn chọn lựa nào khác hơn là khiếu kiện Trung Quốc ra Toà Án Công Lý Quốc Tế La Haye thay vì Toà Án Trọng Tài Quốc Tế như Philippines đang tiến hành.
Việc đưa các tranh chấp ra Tòa Án Quốc Tế là một phương cách giải quyết hòa bìnhbình đẳng và khách quan.Các quốc gia văn minh dân chủ coi đó là cách giải quyết rất bình thường giữa các quốc gia khi có bất đồng tranh chấp và không hề làm suy giảm tình hữu nghị.
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc tại Điều 73 khuyến nghị các thành viên Liên Hiệp Quốc sử dụng Tòa Án Công Lý Quốc Tếgiải quyết các tranh phương chấp như là biện pháp hoà bình.
2- Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye
Chúng tôi đề nghị vụ khiếu kiện Trung Quốc ra Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye và nội dung khiếu kiện phải bao gồm các tranh chấp liên quan tới các nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa bởi các lý do sau đây:
a)- Toà Án Trọng Tài Quốc Tế đang thụ lý vụ Chính quyền Philippines khiếu nại đường lưỡi bò 9 đoạn do Trung Quốc tự nhận chủ quyền chiếm đến 90% toàn bộ Biển Đông, vi phạm quyền, chủ quyền và quyền tài phán các biển đảo của họ đang chiếm giữ.
- Mục đích và đối tượng khiếu tố của họ đơn giản và dễ dàng giải quyết: Trung Quốc chỉ cần có chút thiện chí công nhận các quyền đó bằng một thỏa ước riêng rẽ giữa hai nước và được phê chuẩn bởi Toà Án Trọng Tài Quốc Tế đang thụ lý mà không tổn hại nhiều tới đường lưỡi bò 9 đoạn của họ.
Chúng tôi cũng cần lưu ý quý độc giả rằng, nếu thỏa ước đó thành hình thì nó chỉ có giá trị giữa hai nước ký kết mà không ảnh hưởng gì tới các nước khác về đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc.
- Toà Án Trọng Tài Quốc Tế, như tên gọi, cốt yếu nhằm giảng hoà, tìm đồng thuận giữa các bên để đạt tới một thỏa hiệp (compromis) mà không bắt buộc phải căn cứ vào các luật lệ quốc tế. Án lệ quốc tế đã nhiều lần minh tỏ điều đó.
Giải pháp đó gọi là ex aequo et bono (công bình và hữu ích).
Bởi vậy, Chính quyền Việt Nam, nếu muốn giải quyết toàn bộ và dứt khoát các tranh chấp liên quan tới các nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nên khiếu tố trước Tòa Án Công Lý QuốcTế La Hayetheo chúng tôi là chọn lựa thích hợp và tốt nhất bởi các lý do trình bày dưới đây.
b)- Tòa Án Công Lý QuốcTế La Haye
- Vụ việc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa phức tạp hơn nhiều vì theo chúng tôi hiểu, thứ nhất là cả hai nước đều đòi chủ quyền trên toàn thể hai nhóm đảo này và thứ hai là các chủ quyền đòi hỏi chồng chéo nhau liên quan tới nhiều quốc gia như: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei đối quần đảo Trường Sa và Việt Nam, Trung Quốc đối với nhóm đảo Hoàng Sa.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế (3) là cơ quan cơ quan tài phán chính yếu của Liên Hiệp Quốc có thẩm quyền bao quát các tranh chấp quốc tế tương tự như các Toà Án Trên (Cour Supérieure), còn được gọi là Toà Án Luật Chung (tribunal de droit comun) tại các nước có truyền thống pháp quyền.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế, qua thủ tục có thể giúp Việt Nam thông đạt tới tất cả các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, các luận cứ và chứng cứ liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đây là một phương cách hữu hiệu nhất để các nước trên toàn thế giới biết quyền lợi chính đáng về biển đảo của Việt Nam.
- Tòa Án Công Lý Quốc Tế, cũng có thể cho mở điều tra hay lấy ý kiến chuyên môn của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khi thấy cần thiết do Tòa chỉ định.
- Tòa Án cũng có thể ra án lệnh yêu cầu các bên cung cấp tài liệu cần thiết (pertinents) nhằm giải quyết vụ việc.
Đó là tính cách đặc thù về thẩm quyền bao quát (globale, universelle) của Tòa Án Công Lý Quốc Tế La Haye.
- Hơn nữa, trong vụ khiếu kiện trước Tòa Án Công Lý Quốc Tế các nước có chủ quyền chồng chéo có thể tham dự vớitư cách quốc gia đệ tam (intervenant) một khi phán quyết của Toà Án có thể tổn hại tới chủ quyển của họ, như trường hợp quần đảo Trường Sa nói ở trên giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei.
Một khi đã tham dự thì phán quyết có giá trị cho tất cả.
Hy vọng những trình bày các sự kiện và giải thích (4) trên giúp độc giả có cái nhìn đứng đắn về một vấn đề cực kỳ quan trọng có nguy cơ tổn hại đến sự toàn vẹn lãnh thổ biển đảo và chủ quyền độc lập Việt Nam.

N. L. H.

Tác giả gửi BVN.


GHI CHÚ
(1): Theo đánh giá các chứng cứ hiện có của Trung Quốc và Việt Nam, theo chúng tôi, khả năng thắng kiện gần như chắc chắn. Tuy nhiên vấn đề còn tuỳ thuộc cách trình bày vấn đề, chọn lựa các chứng cứ (pertinents), toà án thụ lý, chiến thuật trình bày vấn đề, để làm sao bắt buộc Trung Quốc có nhiệm vụ phải chứng minh các chứng cứ về chủ quyền (charges de preuves) không phải phía Việt Nam vì các hành vi xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với Việt Nam, v.v. Các chứng cứ về lịch sử, chiếm hữu thực sự hòa bình, liên tục của Việt Nam rất rõ ràng, điều mà Trung Quốc không có, nên luận cứ chính của họ là Công Hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 mặc nhiên công nhận chủ quyền của họ trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Chiến thuật hiện nay của họ là thương thảo đơn phương, không chấp nhận phân xử của Toà Án Quốc Tế, và từ từ tạo ra các chứng cứ mới qui định bởi Công Ứơc Quốc Tế về luật biển 1982, bằng cách ru ngủ các nhà lãnh đạo Việt Nam bất động trong một thời gian dài với mỹ từ “chuyện trong gia đình, đời sau sẽ đòi, ngàn năm sau sẽ đòi…”.
(2): Công Ước Vienne về Hiệp Ước (Convention de Vienne sur le droit des traités) thông qua ngày 23/5/1969 và có hiệu lực ngày 27/01/1980.
(3): Tòa Án Công Lý Quốc Tế được thông qua ngày 26/6/1945 và có hiệu lực ngày 24/10/1946.
(4): Chúng tôi chỉ đưa ra vài sự kiện với lời giải thích ngắn gọn nhằm giúp độc giả dễ hiểu một điểm pháp lý quan trọng về Công điện hay Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958. Đàng khác, ý thức được tầm quan trọng này, chúng tôi để đồng bào, các cơ quan truyền thông (medias) trong và ngoài nước Việt Nam tùy ý sử dụng, chỉ với một điều kiện duy nhất là không được thay đổi, cắt xén thêm bớt nội dung.
Là một luật sư chuyên nghiệp, có ba con luật sư, hai trong ba hiện với hơn 12 năm kinh nghiệm các hồ sơ quốc tế và các toà án quốc tế, hiện một con làm việc với tư cách luật sư cố vấn, luật sư biện hộ (co-counsel, defense lawyer) tại Tòa Án Quốc Tế tại La Haye, mong đóng góp phần chuyên môn liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa. Trân trọng.


7 nhận xét:

  1. "Điện" là "điện tử". Ai cũng quen với chữ này. Như "điện thư" (e-mail) là thư "bằng" điện tử, hay thư được gởi bằng phương tiện điện tử. Hay "thương mại điện tử" (E-commerce) là buôn bán bằng hay thông qua phương tiện điện tử (mạng Internet).

    Nhưng thời 1958 chưa có Internet thì có "điện" được không?

    Vẫn "điện" tốt. Không có "điện tử" thì đã có "điện tín", hay cùng lắm là "điện thoại" hehe.

    Hãy hình dung, TT Phạm Văn Đồng gởi điện tín cho TT Chu Ân Lai của TQ, ghi nhận và tán thành... Hay TT Phạm Văn Đồng gọi điện thoại cho TT Chu Ân Lai...

    Nghe thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng... như thể ông Đồng đang hát cho ông Chu nghe một làn điệu dân ca quan họ vậy.

    Nhưng hình như ông Đồng không "điện" cho ông Chu, mà gởi văn bản bằng giấy, trên đó có đóng dấu chính phủ và chữ kí của ông Đồng?

    Ừ, biết là vậy, nhưng ai thắc mắc thì người đó biết. Chúng ta đã chuyển từ "công hàm" xuống "công thư" mà không gây phản ứng bất lợi nào, và nay là "công điện".

    Nhưng mục tiêu của chúng ta không phải là "công điện", mà là dưới "công điện" nữa, như "tin nhắn" (SMS) chẳng hạn.

    TT Phạm Văn Đồng gởi tin nhắn cho TT Chu Ân Lai...

    Lúc đó là thành công. Đòi lại được Hoàng Sa hay không phụ thuộc hoàn toàn vào việc chúng ta có thể đưa "công hàm" xuống "tin nhắn" hay không.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cứ cái đà này, có khi phát triển thành "thư nhắn" hay "tin nhắn" (SMS) cũng nên đó, hehe à.

      Xóa
  2. Bác Trương Nhân Tuấn vừa có ý kiến:
    http://boxitvn.blogspot.jp/2014/07/vai-cau-hoi-kinh-goi-luat-su-nguyen-le.html

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. 17/07/2014
      Vài câu hỏi kính gởi Luật Sư NGUYÊN LE-HA

      Về bài viết: Giá trị pháp lý công hàm Phạm Văn Đồng theo luật pháp quốc tế và cơ hội ngàn vàng để Việt Nam xác quyết chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa

      Luật Sư cho phép tôi đặt câu hỏi :

      1/ Luật Sư chủ trương thực thể chính trị VNCH (cũng như VNDCCH) là một «quốc gia độc lập (indépendant), có chủ quyền (souvetaineté)». Luật sư cũng chủ trương VN phải kiện TQ về tranh chấp HS và TS.

      Như vậy, với «tư cách pháp nhân» nào nhà nước CHXHCNVN hôm nay đứng ra kiện TQ (ra tòa CIJ hay một Tòa quốc tế nào đó) về các tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa? CHXHCNVN, VNDCCH, VNCH hay CPCMLT CHMNVN?

      Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa trên tay VNCH (với lý do: giải phóng một vùng lãnh thổ đang bị ngoại nhân chiếm đóng). VNDCCH là một quốc gia thứ ba, hoàn toàn xa lạ với VNCH. Trong khi CP CMLTMNVN không thể kế thừa HS từ VNCH, vì không thể kế thừa một lãnh thổ đã mất.

      Vào thời điểm 17-1-1974 TQ chiếm HS, chính phủ VNDCCH im lặng trong khi các nước như Liên Xô, Mỹ... phản đối hành vi sử dụng vũ lực của TQ. Hành vi im lặng, đối với công pháp quốc tế, được hiểu như là sự đồng thuận ám thị. Trong khi MTGPMN tuyên bố rằng các tranh chấp phải được giải quyết bằng thương thuyết. Thực thể chính trị này (cũng như VNDCCH) từ chối ký tên chung với VNCH trong bản tuyên bố lên án TQ xâm lăng.

      Trên các văn bản quốc tế sau 1975, CHXHCNVN tuyên bố là «tiếp tục - continue» VNDCCH.

      Như vậy, quốc gia CHXHCNVN hoàn toàn xa lạ với VNCH (là một quốc gia độc lập có chủ quyền, như lập luận của Luật sư), thì tư cách gì có thể kiện TQ về tranh chấp Hoàng Sa?

      Theo tôi, khi mà Luật sư cho rằng VNCH (và VNDCCH) là hai quốc gia «độc lập, có chủ quyền» thì vấn đề tranh chấp Hoàng Sa sẽ không còn hiện hữu. VN hiện nay (cũng như các thế hệ VN trong tương lai) sẽ không có tư cách nào để thuyết phục dư luận quốc tế rằng «có tranh chấp» tại Hoàng Sa, chứ đừng nói đòi lại.

      2/ LS cho rằng «công điện» 1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ nhìn nhận hải phận 12 hải lý của TQ.

      Vấn đề là trong tuyên bố về hải phận của TQ, hiệu lực 12 hải lý áp dụng cho cả Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa). Công hàm 1958 của VN có nội dung «ghi nhận và tán thành» tuyên bố của TQ.

      Câu hỏi là VN hôm nay có thể chỉ nhìn nhận hiệu lực 12 hải lý tại mọi vùng lãnh thổ của TQ, ngoại trừ HS và TS?

      Xóa
    2. 3/ Đây không phải là một câu hỏi, mà chỉ là một cảnh báo về sai lầm của Luật Sư khi nhìn nhận hiệu lực (12 hải lý) của công hàm 1958.

      Khi Luật Sư cho rằng công hàm 1958 chỉ nói về hiệu lực 12 hải lý, thì mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực pháp lý của công hàm này (cho dầu chỉ nhìn nhận ở nội dung hải phận 12 hải lý).

      Về nội dung công hàm 1958, tác giả của nó là ông Phạm Văn Đồng đã nhìn nhận: «lúc đó là thời chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy». Dữ kiện này đã được báo chí quốc tế ghi chép lại (tờ Far Eastern Economic Review ngày 10-02-1994).

      Tức là công hàm 1958 nhìn nhận tuyên bố của TQ về hải phận 12 hải lý ở các đảo, kể cả Hoàng Sa và Trường Sa.

      Luật sư chắc chắn phải biết luật về «thời hiệu – contemporaneité» của công pháp quốc tế.

      Tuyên bố về hải phận của Trung Quốc năm 1958 phù hợp Luật biển 1958. Tuyên bố này sẽ được nhìn nhận hiệu lực chiếu theo nội dung của Luật biển 1982. Tức là, ngoài lãnh hải 12 hải lý, bờ biển và các hải đảo của TQ sẽ được hưởng vùng kinh tế độc quyền (ZEE) 200 hải lý, đúng theo nội dung của Luật biển 1982.

      Điều này thể hiện trên thực tế. VN đã tôn trọng điều này. Vấn đề là hiệu quả 200 hải lý ZEE có thể áp dụng cho các đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không ?

      Câu hỏi đặt ra để cho thấy là, hành vi nhìn nhận hiệu lực 12 hải lý về hải phận của Luật Sư (và nhiều học giả VN) đã đưa VN vào tư thế rất bất lợi: tranh cãi về hiệu lực vùng kinh tế độc quyền 200 hải lý tại các đảo thuộc Hoàng Sa (thuộc TQ).

      Và điều này sẽ xảy ra tại Trường Sa.

      Với tất cả lòng kính trọng, thưa Luật Sư NGUYÊN LE-HA, tôi cho rằng nếu không nhanh chóng loại bỏ các lập luận tương tự (nhằm hóa giải hiệu lực công hàm 1958), VN không chỉ mất cùng biển Hoàng Sa (như vùng biển hiện nay đặt giàn khoan 981), mà VN sẽ mất cả vùng biển Trường Sa.

      Trân trọng,

      Trương Nhân Tuấn.

      Xóa
    3. Đính kèm: giải pháp đề nghị.

      Vấn đề giàn khoan 981 và tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa có thể sẽ giải quyết bằng một phương cách khác, vừa phù hợp với thực tế lịch sử cũng như quốc tế công pháp, vừa đem lợi ích cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

      Đó là áp dụng tinh thần Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Theo tinh thần hai hiệp định quốc tế này, hai thực thể chính trị VNCH và VNDCCH không phải là hai «quốc gia độc lập, có chủ quyền».

      Trên phương diện thực tế và lịch sử, 20 tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève quyết định phân chia quốc gia VN thành hai miền tại vĩ tuyến 17. Hiệp định nhấn mạnh việc phân chia chỉ tạm thời, đường vĩ tuyến 17 trong bất kỳ trường hợp nào, không thể xem đó là đường biên giới phân định lãnh thổ hay chính trị. Hai miền Nam và Bắc lần lượt mang tên Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nội dung Hiệp định Genève xác nhận VN là nước «độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất».

      Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do ở phía nam vĩ tuyến 17, do đó thuộc quyền quản lý của VNCH.

      Hiệp định Paris năm 1973 xác định lại nội dung hiệp định Genève 1954 : «VN là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất».

      Cả hai hiệp định này đều được bảo trợ của Trung Quốc, cũng như các cường quốc Mỹ, Anh, Pháp…

      Năm 1956 VNCH công bố Hiến pháp, điều 1 khẳng định: VN là một nước cộng hòa, độc lập, thống nhất và bất khả phân. Về phía VNDCCH, Hiến pháp 1946, điều 2 xác định VN là một khối thống nhất bắc, trung, nam không thể phân chia. Hiến pháp 1959, những dòng đầu đã khẳng định VN là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau.

      Cả hai miền như vậy đều tôn trọng nội dung hiệp định Genève 1954: Việt Nam là một quốc gia thống nhất (ba miền) độc lập và có chủ quyền.

      Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.

      Tức là, trên thế giới chỉ hiện hữu một quốc gia VN duy nhất. Hai thực thể VNCH và VNDCCH, nói theo ngôn ngữ công pháp quốc tế, là hai «quốc gia chưa hoàn tất – Etat partiel».

      Ngoài ra, thời điểm phát xuất công hàm 1958 của cố TT Phạm Văn Đồng, phía VNDCCH vẫn còn có nguyện vọng thống nhất đất nước. Nhiều lần phía VNDCCH hối thúc VNCH, cho đến năm 1960, thương nghị giữa hai miền để tiến tới thống nhất Việt Nam theo nội dung của Hiệp định Genève 1954.

      Như vậy, trên quan điểm công pháp quốc tế, nước VN chỉ có một, thống nhất ba miền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, có chủ quyền.

      Trên tinh thần các kết ước quốc tế 1954 và 1973, bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (VNCH hay VNDCCH), như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, cũng như một số các hành vi khác của VNDCCH trong khoảng thời gian 1954-1976 có thể diễn giải là hành vi từ bỏ chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, vì đe dọa đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, do đó chúng đều không có giá trị pháp lý.

      Về vấn đề kiện tụng Trung Quốc về vụ giàn khoan 981 cũng như về tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, tôi có đề nghị như sau:

      Ta thấy tổ chức Liên Hiệp Quốc, qua phát ngôn nhân của tổ chức, mới đây cho biết đã đồng ý làm trung gian để hòa giải tranh chấp hai bên Việt Nam và Trung Quốc. VN cần nhanh chóng nắm lấy cơ hội này, bằng các :

      Đệ đơn đề nghị Tòa Công lý Quốc tế (CIJ) tuyên bố một số điều :

      - Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.

      - Việc chiếm hữu các đảo ở Trường Sa (lập danh sách chi tiết các đảo) năm 1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.

      - Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.

      Xóa
    4. Nếu cần thiết (để mở cho Trung Quốc một bước lùi chiến lược), kiện TQ về lý do:

      - Vi phạm nội dung Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Việt 30-12-2000 về việc chủ trương hiệu lực các đảo, áp dụng cho việc phân định ngoài cửa vịnh Bắc Việt.

      Ba điều đầu tiên yêu cầu Tòa tuyên bố hoàn toàn thuộc về quyền của quốc gia Việt Nam, là thành viên các công ước và các nguyên tắc cơ bản của LHQ. Đồng thời việc giải thích nội dung các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Tòa CIJ. (Các điều ước quốc tế liên quan gồm: Công ước Drago-Porter 1907, Hiến chương LHQ điều 2 khoản 4 ngày 26-6-1945, hay Tuyên bố của Đại hội đồng LHQ 18-11-1987). Đặc biệt các yêu cầu này không liên quan đến các bảo lưu của TQ về việc phân giải tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế.

      Mục đích việc yêu cầu Tòa tuyên bố, nếu thành công (điểm 3), sẽ đưa quần đảo Hoàng Sa (không có tranh chấp, theo TQ) vào tình trạng «có tranh chấp».

      Nếu VN thua, tức Tòa không tuyên bố (không có ý kiến), thì VN cũng không có gì để mất. Trong vụ yêu cầu Tòa tuyên bố này không hề nói đến chủ quyền các đảo (HS và TS) là của ai, mà chỉ nói đến việc nhìn nhận hay không nhìn nhận, danh nghĩa chủ quyền nếu việc chiếm hữu thực hiện bằng vũ lực.

      Còn nếu thắng, VN được nhiều thứ.

      Theo tập quán quốc tế, «đất thống trị biển». Nếu các đảo Hoàng Sa là lãnh thổ «có tranh chấp» thì vùng biển phát sinh từ nó cũng có tranh chấp.

      Vị trí giàn khoan 981 có thể được xem nằm trong vùng biển «có tranh chấp» mà tranh chấp này phát sinh từ chủ quyền các đảo HS chứ không phải phát sinh do chồng lấn hải phận (giữa bờ biển VN với các đảo HS, theo như lập luận của TQ hiện nay).

      Theo thông lệ quốc tế, nếu lãnh thổ có tranh chấp, việc giải quyết thường là chia hai (hay cộng đồng khai thác), mỗi bên được một phần của lãnh thổ đó. Tức là, quần đảo HS có thể chia hai, thí dụ hai nhóm Nguyệt Thiềm và An Vĩnh. VN có thể nhận nhóm Nguyệt Thiềm (phía tây) và giao cho TQ nhóm An Vĩnh (phía đông). Hải phận sinh ra do quần đảo này do đó cũng sẽ chia hai.

      Đó là cái lợi thứ nhất.

      Cái lợi thứ hai ở Trường Sa. Nếu tòa tuyên bố, thì TQ không có chủ quyền tại các đảo của VN tại TS. TQ sẽ không thể tuyên bố vùng «nhận diện phòng không» trong khu vực này được.

      Cái lợi thứ ba, là VN dành được tính «chính đáng». Nhiều người cho rằng các phán quyết của Tòa cũng không làm gì, nếu TQ không tuân thủ.

      Theo tôi, phán quyết của Tòa có tầm quan trọng rất lớn. Trong vụ giàn khoan 981, nếu TQ không rút giàn khoan, VN có thể dùng các biện pháp để bảo vệ quyền lợi của mình. Việc «bảo vệ» ở đây mang tính tự vệ chính đáng, được hiến chương LHQ công nhận.

      Đây là một việc làm ít tốn kém, đáng lẽ không cần phải đưa ra một tổ hợp luật sư nào. Tuy nhiên, để nắm chắc phần thắng, đơn không bị bác do lỗi thủ tục, VN nên thông qua một tổ hợp luật sư chuyên môn ở HK.

      T.N.T.

      Tác giả gửi BVN

      Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 01:59
      Nhãn: Hoàng Sa

      Xóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.