Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

31/03/2013

Phan Đăng Lưu (1902-1941) đã nhường chức Tổng Bí thư cho Trường Chinh trong Hội nghị Trung ương 7 (1940)

Lời dẫn: Chuyện trà dư tửu hậu trong một đám giỗ gia đình. 

Chuyện này, tôi mới bắt đầu lưu tâm, chưa có tư liệu gì, ghi lại để khỏi quên. Trong tay, mới chỉ có một tư liệu gốc cho biết chính cụ Nguyễn Hải Thần đã giới thiệu ông Phan Đăng Lưu vào học tại trường quân sự Hoàng Phố. 

Thông tin từ đám giỗ (chưa kiểm chứng): sau này, nhóm các ông Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt tựa như có viết là tại Hội nghị Trung ương 7 tại Đình Bảng, đồng chí Phan Đăng Lưu chỉ đến một lúc rồi về. Nhưng thực ra, tạm tin theo tư liệu ở dưới đây, thì Phan Đăng Lưu chính là người chủ trì Hội nghị này từ đầu đến cuối. Hội nghị đã đề cử Phan Đăng Lưu làm Tổng bí thư, nhưng ông từ chối, và giới thiệu ông Trường Chinh (lúc ấy là ủy viên xứ ủy Bắc Kì).

Bài của hai bạn Nguyễn Thị Bình Minh và Phan Đăng Thuận. Nghị quyết của Hội nghị này ở đây.

Tháng 3 năm 2013,
Giao Blog

---

30/03/2013

Đệ nhất phu nhân Trung Quốc chỉ dùng đồ Trung Quốc

Nhiều nơi lên tiếng tẩy chay hàng Trung Quốc.

Còn với bà Bành, từ y phục đến đồ trang sức, đều là hàng hiệu Trung Quốc (xem ảnh ở dưới). 

Trong chuyến công du cùng phu quân đến Mạc-tư-khoa, ngày 22/3/2013

Phu nhân mặc bộ đồ truyền thống Trung Hoa, được xem là hàng Quảng Châu. Hoa tai và bót cầm tay cũng hàng Quảng Đông cả.

Người ta nói bản tính phu nhân vốn kết hàng sản xuất trong nước. Cũng có người nói, đó chỉ là màn trình diễn của phu nhân khi đi công du hải ngoại.



29/03/2013

Cao Huy Thuần tóm lược sách của Maruyama : Nhật Bản đã thoát khỏi tư tưởng của Trung Quốc như thế nào

Lời dẫn: Bài ở dưới đây của ông Cao Huy Thuần đã đăng trên tạp chí Thời đại mới số 19 (tháng 7/2010). Sau đó, thấy một số báo chí trong nước đăng tải lại dưới dạng rút gọn.

Thực chất, bài nên đề tác giả là Maruyama và mở ngoặc ghi "Cao Huy Thuần giới thiệu" hay "tổng thuật" qua bản dịch tiếng Pháp. Có một vài chỗ cần kiến thức sâu về Nho giáo và Nhật Bản, thì bác Cao Huy Thuần do không rõ nên đành viết theo ý hiểu riêng của mình.

28/03/2013

Đi gặp đại sư Kaibara ở Hakata

Hôm trước, viết vội mấy dòng về đại sư ở đây

Tôi đã gặp đại sư, qua tác phẩm mà ông để lại cho đời. Và một phần đời của tôi được đón nhận bóng đại sư đổ xuống, in dấu vào đó.

Ngay cả lúc này, đại sư lại đang bắt đầu trở thành một nguồn gợi hứng khởi cho tôi.

Chúng tôi xuất phát từ sáng sớm. Trên đường, ghé qua nhà người cháu mấy đời của đại sư. Người cháu ấy cũng là bác sĩ, đang là giám đốc một bệnh viện ở Hakata.

(Đang viết)
(Để viết tiêp sau khi đã tạm xong công việc, khi đó post cập nhật trở lại)

24/03/2013

Bác Nguyễn Đình Lộc : Nhân duyên

Hôm qua, tôi đã viết: "Ngày mai, vào tầm trưa, nếu có duyên, hẳn tôi sẽ có dịp gặp ông thêm một lần nữa.".

Hôm nay, đúng như có nhân duyên, không hẹn mà nên, tôi có dịp gặp bác Nguyễn Đình Lộc thêm một lần nữa thật. Là vào tầm trưa như phỏng tính. 

Có lẽ ông đến từ đầu giờ sáng, còn tôi thì đến rất trễ. Lúc tan cuộc, chúng tôi cùng nhau tiễn ông xuống gác, gọi tắc-xi để ông trở lại nhà.



Bác Lộc (các ảnh trong entry này là của tôi)

Ông mang đến cuốn tạp chí Thông tin Khoa học Pháp lý (cơ quan ngôn luận của Viện Khoa học Pháp lý thuộc Bộ Tư pháp) số 5/2012 - số chuyên đề về luật đất đai - nhưng không đả động đến nó trong toàn thời gian.

Một nội dung lớn mà chúng tôi đã cùng bàn luận hôm nay là về di sản văn chương còn rất được ít biết đến của nhà văn Thanh Châu. Thanh Châu là cây bút chủ lực của Tiểu thuyết Thứ Bảy. Sau này, ông được xem là một nhân vật có "liên can" đến nhân văn giai phẩm, nên tựa như đã bị treo bút cả nửa thế kỉ cho đến lúc từ giã cuộc đời trần thế. Đến gần đây, ông mới được phát hiện và công nhận trở lại.

Chị Quỳnh Châu - con gái lớn của nhà văn Thanh Châu - đã kể về cha mình cho chúng tôi nghe. Chị cho chúng tôi xem những bức ảnh lúc Thanh Châu đang ở tuổi sung sức trên văn đàn trước năm 1945.


Chị Quỳnh Châu

Mãi đến lúc sắp từ giã trần thế, Thanh Châu mới tiết lộ: nhà thơ bí ẩn T.T.KH (chúng tôi quen đọc là Tê Tê Ka Hắt) với bài "Hai sắc hoa Ti-gôn" của thời 1930-1945 chính là người tình thời trẻ của ông. T.T.KH là Trần Thị Vân Chung.

Ít ai biết điều sau: nhà văn Thanh Châu là người cùng làng với nhà văn Sơn Tùng. Một ngôi làng nhỏ, ít nhất đã sản sinh ra hai nhà văn lớn đó.

Sự xuất hiện của bác Lộc, của chị Quỳnh Châu, của tôi, và của nhiều người khác, vào hôm nay, chính là nhân duyên. Nhân duyên của chúng tôi với gia đình nhà văn Thanh Châu, sẽ kể ở một dịp khác.

Chúng tôi hầu như không đả động gì đến câu chuyện Hiến pháp hay bản kiến nghị 72 vào hôm nay. 

Bác Nguyễn Đình Lộc như tôi đã thấy

Mấy nay, thấy các nơi đang xôn xao bàn luận về những lời phát biểu của bác Nguyễn Đình Lộc (cựu Bộ trưởng Tư pháp) liên quan đến bản kiến nghị 72 trên VTV1 tối hôm 22/3. Tối hôm đấy, tôi bận, không được xem trực tiếp, chỉ xem bản lưu video ở trên mạng.

Những năm gần đây, do công việc chuyên môn liên quan đến xứ Nghệ, đặc biệt là vùng Diễn Châu quê bác Lộc, nên thi thoảng tôi có gặp và nói chuyện nhanh với ông. Ngày mai, vào tầm trưa, nếu có duyên, hẳn tôi sẽ có dịp gặp ông thêm một lần nữa.

Một lần, ông được mời nói chuyện trước thính giả là những người đồng hương (địa điểm là ở Thanh Xuân Bắc, tôi vẫn còn giữ ảnh chụp khi đó). Trong nội dung nói bình dị và từ từ, ông có tâm sự đại khái: hồi ông nhận được quyết định ra làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp, không phải mất một đồng nào ! 

Câu "không mất một đồng nào" này của ông in đậm nhất vào trí nhớ của tôi. 

Nhớ đến Nguyễn Đình Lộc, là tôi nhớ đến câu nói đó.

Tôi đã trực tiếp hỏi lại, được ông giải thích thêm. Đại khái "không mất một đồng nào" ở thế hệ bộ trưởng như ông, có nghĩa là không mất tỉ tỉ tỉ để mua chức như thế hệ bây giờ. 

Kỉ niệm nhỏ, ghi lại để khỏi quên, cũng tức là để kiểm chứng khi có được điều kiện. Tôi chỉ tin vào tư liệu gốc. "Tư liệu gốc" ở đây với nghĩa là tư liệu gốc từ góc nhìn dân tộc học.




23/03/2013

Không có Đảng Cộng Sản hay là không có Quốc Dân Đảng, thì không có nước Trung Quốc

Chiều tối hôm qua (22/3), giữa bữa tiệc, có người nổi hứng bắt nhịp để cùng hát "Đông Phương hồng,..." một bài ca ngợi cụ Mao Trạch Đông. Rồi, để hướng ứng, một người lại bắt nhịp "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng,...".

Cứ thế, không khí được hâm nóng lên.

Một ông cụ ở Thâm Quyến vừa nâng cốc vừa xướng lên lời: "Mei you Gong-Chan-dang, jiu mei you Zhong Quo 没有共产党就没有中国". Tức là "Không có Đảng Cộng sản, thì không có nước Trung Quốc".

Đây là bài hát được ra đời từ năm 1943. Được sáng tác bởi chàng thanh niên Tào Hỏa Tinh vừa mới lớn, 19 tuổi, tất nhiên đã là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Trước khi bài hát này ra đời, ở Trung Quốc lưu truyền khẩu hiệu "Mei you Quo-Min-dang, jiu mei you Zhong Guo 没有国民党,就没有中国" (Không có Quốc Dân đảng, thì không có nước Trung Quốc).




Bây giờ, nhìn về đại cục, người ta có thể hát hai lời song song:

- Không có Quốc Dân dảng, không có Trung Quốc.
- Không có Cộng Sản đảng, không có Trung Quốc.

Chỗ thú vị là tối qua, người ta không hát "không có Trung Quốc mới", mà chỉ hát "không có Trung Quốc". Chữ "mới" được xem là do cụ Mao thêm vào khi chỉnh sửa ca từ của Tào Hỏa Tinh.

Hình ở dưới, lấy về từ đây.

18/03/2013

Hồ Chí Minh viết về Lê Lợi và Mạc Đăng Dung (1942)



0. Trước khi bị bắt giam ở Trung Quốc và viết tập thơ chữ Hán Ngục trung nhật kí (1942-1943), cụ Hồ Chí Minh có viết một tập thơ bằng quốc ngữ mang tựa đề Lịch sử nước ta (lúc đó cụ đã có tên đó, chứ không phải mãi sau này mới có như tướng Nguyễn Trọng Vĩnh mới đây đã nhớ nhầm).

Sách được Việt Minh Tuyên truyền bộ xuất bản vào tháng 2 năm 1942. Sách ghi giá ngay ở bìa là "giá 1 hào". "Việt Minh Tuyên truyền bộ" là một cái tên nghe rất Tàu, hệt như âm hưởng đọc quốc hiệu "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" sau này. Không hiểu vì sao nhiều người lại muốn trở lại với cái quốc hiệu ấy.

1. Tập sách được mở đầu bằng câu thơ lục bát (sau này, thỉnh thoảng thấy người ta dẫn làm đề từ công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam), là: "Dân ta phải biêt sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam".

Câu này, hình như đã được mô-đi-phê đi thành: "Dân ta phải biết sử ta, nếu mà không biết thì tra gu gờ".

2. Về kháng chiến của Lê Lợi chống Minh và bối cảnh trước cũng như sau đó, cụ Hồ Chí Minh viết (theo văn bản ở đây):


"Cha con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.
Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Tuý Động nọ Chi Lǎng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười nǎm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.
Vì dân hǎng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tôn,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.
Trǎm nǎm truyền đến cung hoàng,".

3. Về sự xuất hiện của Mạc Đăng Dung, cụ Hồ Chí Minh đã viết:
"Trǎm nǎm truyền đến cung hoàng,
Mạc Đǎng Dung đã hoành hành chiếm ngôi
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà,
Bảy mươi nǎm nạn can qua
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.
Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu
Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.
Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,"


Ở thời điểm năm 1941-1942, về cơ bản, cụ Hồ Chí Minh vẫn xem Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung là hai kẻ tiếm ngôi. Quan điểm của cụ thật đúng như chính sử của nhà nước phong kiến, tức Đại Việt sử kí toàn thư.

Bộ sách sử đầu tiên dành cho nhà Mạc một chương 80 trang

Bộ sách mang tựa chung Lịch sử Việt Nam do Nxb Giáo dục ấn hành vào cuối năm 2012, gồm 4 tập (bao quát từ nguồn gốc đến năm 2005), với gần 3000 trang (chia làm 13 phần với 45 chương).

Tập 1: Từ nguồn gốc đến thế kỉ XIV (Phan Huy Lê chủ biên).
Tập 2: Từ cuối thế kỉ XIV đến giữa thế kỉ XVIII (Phan Huy Lê chủ biên).
Tập 3: Từ năm 1858 đến năm 1945 (Đinh Xuân Lâm chủ biên).
Tập 4:  Từ năm 1945 đến năm 2005 (Lê Mậu Hãn chủ biên).



Chương "Nước Đại Việt thời Mạc" nằm trong một phần thuộc Tập 2 bộ sách trên, có dung lượng gần 80 trang.

Thời Mạc ở đây chủ yếu là từ năm 1527 đến năm 1592 (thời kì nhà Mạc ở Thăng Long). Chương sách này chủ yếu tổng quan tình hình nghiên cứu về nhà Mạc từ thời kì Đổi Mới đến nay (khoảng 1/4 thế kỉ). Trong đó, có những luận điểm chính như sau.

1. Nhà Mạc thay thế nhà Lê là hợp thời (phế bỏ một vương triều đã thối nát đến độ sinh ra vua Quỷ và vua Lợn). Đây là một triều đại độc lập, không phải ngụy triều.

2. Nhà Mạc đã khéo léo tránh một cuộc chiến tranh với nhà Minh.

3. Nhà Mạc đạt một số thành tựu nổi bật về kinh tế - văn hóa - xã hội (thương nghiệp, nghề mĩ nghệ, cởi mở về tôn giáo tín ngưỡng, ...).

Đây là bộ sách sử đầu tiên của Việt Nam dành cho nhà Mạc một dung lượng cần thiết với nhãn quan mới.

Bộ sách có đề từ là một lời thơ của cụ Hồ Chí Minh năm 1942 (xem cụ thể ở đây):

" “Dân ta phải biết sử ta,
    Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
    (Hồ Chí Minh- Lịch sử nước ta, 1942)"

17/03/2013

Đường mang tên Thiên Lôi (ở Hải Phòng)

Lời dẫn: Đến quận Lê Chân của thành phố Hải Phòng, thấy có đường mang tên THIÊN LÔI. Chắc sẽ ít ai không giật mình khi nhìn thấy cái biển tên đường như vậy.

Thiên Lôi là tên gọi dân gian của Phạm Tử Nghi (còn gọi là Phạm Thành) - một mãnh tướng của thời nhà Mạc. Là một trong không nhiều tướng Đại Việt mang quân đánh vào vùng Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay.

Ở thành phố Hải Phỏng, hơi lạ là có cả đường Phạm Tử Nghi và đường Thiên Lôi, nằm rất gần nhau.

Bài "Đường Thiên Lôi" ở dưới đây lấy về từ Cổng thông tin Hải Phòng (gọi tắt).

---
Thời gian: 04/11/2010 - 15:52
 Đường Thiên Lôi
Từ điểm tiếp giáp phố Trần Nguyên Hãn (Ngã ba Thiên Lôi) đến phố Trần Quốc Toản (tức phố Lạch Tray), dài 4304m, rộng 3,5m. Chưa có vỉa hè. Đường nằm trên địa bàn các làng Nghĩa Xá, Niệm Nghĩa, Đôn Nghĩa, Dư Hàng, Phụng Giáp. Hiện nay đoạn đầu đường Thiên Lôi thuộc đất Niệm Nghĩa, Nghĩa Xá, quận Lê Chân; đoạn từ phố Lạch Tray đến ngã ba Tổng thuộc phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền. Đoạn giữa vẫn thuộc xã Vĩnh Niệm và xã Dư Hàng Kênh.

Đường Thiên Lôi ngày nay đã là một khu phố buôn bán sầm uất


15/03/2013

Đá cháy được, đất cháy được, nước cháy được, băng cháy được

Trong cuốn sử cổ nhất của Nhật Bản là Nhật Bản thư kỉ ra đời vào thế kỉ thứ 7 sau công nguyên, có nhắc đến hai vật lạ, là "nước cháy được" và "đất cháy được". Chúng được nông dân tìm thấy ở địa phương mình, rồi gửi về kinh đô cho Thiên Hoàng thưởng lãm. Bởi vậy mà được ghi vào sử sách.

Đố biết "nước cháy được" và "đất cháy được" là gì ?

Khi tôi du lãng ở vùng Cửu Châu (miền nam nước Nhật), thỉnh thoảng cũng được người Nhật thế kỉ 21 chỉ cho xem hai vật thể ấy. 

Nhà Nho lớn nhất ở Cửu Châu thời cận đại là Kaibara (thế kỉ 17-18) đã đi bộ và kiệu gần khắp những thôn bản xa mà ngày nay tôi có thể đến bằng tàu điện hay ô-tô, để viết nên bộ sách đồ sộ Phong thổ kí nước Trúc Tiền. Cái ngôi làng mà tôi đã từng sống nằm ở dưới chân một quả núi, có dốc cao trước lối vào, lúc tới đó để chép việc thì Kaibara đã hơn 70 tuổi, chắc ông được đám hầu cận vác lên bằng võng hay kiệu gì đó. Ông viết trong Phong thổ kí nước Trúc Tiền mấy dòng về ngôi làng, kèm theo một câu: "vùng này người ta không dùng củi, thật thích, đúng là được tạo hóa tự nhiên ban cho một sản vật đặc biệt".

Sản vật đặc biệt của những ngôi làng thời thế kỉ 18 ấy chính là cái mà Kaibara gọi là "đá cháy được". Tất nhiên, trong làng tôi hiện nay, đôi khi vẫn thấy một ít "đá cháy được" còn sót lại.

Ngày nay, người ta đang nói đến "băng cháy được".


14/03/2013

Tưởng là Nam những hóa ra vẫn là Nữ : Người đàn bà trong bốn bức tường

1. Không hiếm phụ nữ mang tên giống giống như nam giới. Ngược lại, cũng không ít đàn ông lại mang cái tên nghe từa tựa đàn bà. Bởi vậy, có cả anh Hiền với chị Hiền, lại có cả chị Hùng lẫn anh Hùng, anh Quế chị Quế, nhiều lắm.

2. Một ông bạn biết chữ Hán, nhưng không biết tiếng Nhật, khi xem một loạt tên trong bảng danh sách, thấy những người có chữ Tử  ở trong tên, thì bảo tôi: "Đàn ông Nhật họ thích dùng chữ Tử nhỉ , chắc kiểu như Mạnh Tử với Khổng Tử đây" !

"Tử" đúng là có nghĩa là "nam giới" hay "thầy". Mạnh Tử là "thầy Mạnh", Khổng Tử là "thầy Khổng". Chắc là ông bạn đinh ninh nghĩ như vậy. 

Oái ăm ở chỗ, tên người Nhật hiện đại mà có chữ Tử  ấy thì đích thị phụ nữ rồi. Âm tiếng Nhật của Tử là "", ta cứ tạm hiểu như là "" (cô bé, cô gái, cô nàng,...) trong tiếng Việt đi cho dễ hình dung. Trước đây, bà Phan Thị Lệ kết duyên với tổ sư dòng Karatedo Việt Nam - võ sư Suzuki Choji - lúc theo chồng về Nhật Bản, đổi tên thành Suzuki Reiko. Reiko ở đây có thể hiểu ngầm ngầm là "Lệ-cô", tức "cô Lệ" hay "bà Lệ".

3. Có người nữ lại tên là Nam

Nhà văn Phạm Thị Hoài hình như cũng vốn có tên thật là Phạm Thị Hoài Nam. Mấy ông nhà văn lớp đàn anh, lúc cho đăng truyện của Phạm Thị Hoài Nam đã bỏ luôn đi chữ "Nam", để chỉ còn "Phạm Thị Hoài" cho đến ngày nay.

Tôi thì lại thấy "hoài" (hoài của) cho cái chữ "Nam" mà chị Phạm Thị Hoài đã mất. Mấy bậc đàn anh hơi vội, không suy nghĩ kĩ thêm một chút nữa, xem vì sao ông thân sinh hay ai đó trong gia đình đã đặt cái tên "Nam" cho "kô/cô" ấy chứ ?

Có thể các cụ thân sinh (hay đời trước nữa) của chị Phạm Thị Hoài có biết Hán văn hay nho ý lí số gì đó. 

Có thể các cụ thân sinh đã sử dụng chữ Nam sau đây để đặt tên cho con gái hay cháu gái của mình: 

.


Chữ này âm đọc là "Nam". Nhưng nghĩa lại là "Nữ" (cô bé, người con gái nhỏ). Đặc biệt hơn, nhìn mặt chữ sẽ thấy một chữ "Nữ" nằm trong một hình vuông. Có cảm giác như là một người đàn bà đang nằm giữa bốn bức tường vậy.

Tháng 3 năm 2013,
Giao Blog


12/03/2013

Vì sao nhà hậu Lê (Lê Lợi) có cả vua Quỉ và vua Lợn, mà dân ta vẫn chết mê chết mệt tin và theo ?

Đến thời vua Quỉ và vua Lợn xuất hiện thì cơ đồ của nhà hậu Lê (được khởi dựng bởi Lê Lợi) đã tưởng chao đảo.  

Vua Quỉ, tức Uy Mục đế ở ngôi tới 5 năm (lúc băng tuổi mới ngoài hai mươi một chút). Bản tính hoang dâm vô độ, tàn ác không bút mực tả xiết, trong triều ngoại nội oán hận ngút trời. Sứ giả nhà Minh sang Thăng Long lúc đó, cảm tác viết hai câu thơ nổi tiếng: "An Nam tứ bách vận vưu trường, Thiên ý như hà giang quỉ vương"(Vận nước An Nam bốn trăm năm rất dài, Không biết lòng trời như thế nào mà lại giáng xuống ông vua Quỉ). Mạc Đăng Dung xuất thế ở đời vua Quỉ này (lúc đầu là đỗ võ cử, đến năm 1508 thì được phong làm chỉ huy trưởng của một đạo quân dưới trướng vua Quỉ).

Vua Lợn, tức Tương Dực đế, cũng ở ngôi tới cả 8 năm (lúc băng cũng chưa đến 25 tuổi). Sứ giả nhà Minh sang cũng có nhận xét về Tương Dực, đại khái bảo: vua đẹp trai, nhưng tâm tính thì cong vẹo, hoang dâm vô độ, là vua Lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu. Mạc Đăng Dung vẫn phục vụ tận tụy vua Lợn.

Mãi đến năm 1527, tức là gần tròn 20 năm tính từ lúc được cầm một đạo quân dưới trướng vua Quỉ, Mạc Đăng Dung sau rất nhiều lần trù trừ mới chính thức phế bỏ nhà Lê, tự mình dựng ra một vương triều mới để thay thế.

Nhà Mạc thời kì đầu tiên, lúc Đăng Dung mới lên ngôi, chưa thực sự được ủng hộ. Là vì, hàng quan lại cũng như dân thường, dù đã mấy mươi năm sống dưới vòm trời vua Quỉ và vua Lợn, nhưng vẫn chưa quên được Lê Lợi - người anh hùng giải phóng dân tộc.

Lê Lợi không cướp ngôi, mà dựng nghiệp từ trường kì kháng chiến, đuổi giặc ngoại xâm khỏi bờ cõi nước Nam. Ánh hào quang ấy giúp cho nhà Lê không bị sụp xuống thời Quỉ và Lợn ở ngôi tới gần 15 năm.

Ánh hào quang "người anh hùng giải phóng dân tộc" không chỉ có sức mạnh ấy, mà nó còn giúp cho đám con cháu nhà Lê giành lại được giang sơn mãi đầu thập niên 1590. 

Dân ta mê mệt tin và theo nhà hậu Lê, ngay khi vua Quỉ vua Lợn xuất hiện, ngay khi vua giả do nhà Trịnh dựng lên ở bên đất Ai Lao, chính là vì ánh hào quang của Lê Lợi.

Lê Lợi là người anh hùng. Dân ta không bao giờ quên ông. Nhưng bóng hào quang của Lê Lợi thì có khi chính lại là hệ lụy kéo dài. 

11/03/2013

Phạm Nhan tân thời : Tự cắt đầu mình

Hôm trước, đã nhắc đến Phạm Nhan với tích chuyện "ba vạn chín nghìn". Nhưng đó là Phạm Nhan thời cũ kĩ của gươm giáo, gắn với tục danh Bá Linh, và phép thuật kiểu trung cổ: bị chặt đầu này thì ta mọc đầu khác. "Ta" chính là Phạm Nhan, với ngầm ý thách thức: cứ thoải mái chém hay chặt, mặc sức đi, Phạm Nhan ta đây sẽ ngay lập tức làm chồi ra một cái đầu mới cho mà xem.

Phải đến lúc đưa lá bùa "ba vạn chín nghìn" ra, thì đầu Phạm Nhan mới đứt vĩnh viễn.

Sang tân thời, tức thời của mạng xã hội lan man qua cáp quang, với khung trời ảo nhện, Phạm Nhan đã kháng thuốc dạng "ba vạn chín nghìn". Hắn có thể tự chặt đầu mình. 

Phạm Nhan tân thời có thể tự chặt đầu mình, rồi lại tự mọc ra đầu mới.


10/03/2013

Chữ Lạc Việt cổ : Đăng lại bài cũ (phải đi tìm mảnh vỡ của entry cũ)

Lời dẫn: Entry dưới đây vốn đã đi trên blog cũ của tôi. Blog trên Yahoo ấy hiện đã vĩnh viễn bị xóa sổ. Trước khi bị xóa hoàn toàn, Yahoo cũng có một hành động đáng khen: tạo chức năng để người sử dụng có thể lấy lại toàn bộ nội dung blog. Tuy vậy, khi đã lấy được toàn bộ nội dung blog xuống máy (trong một thời gian rất nhanh, khoảng vài phút), thì hiện tại, vẫn chưa có cách gì chuyển những dữ liệu đó sang blog mới.

Đăng lại entry này từ bản mà trang vibay đã sao chép từ blog của tôi.

So với nguyên bản trên blog cũ của tôi, bản sao của vibay có làm rơi một tấm ảnh.

Nhân có việc đến chữ cổ Lạc Việt nên đăng lại.

---



Quảng Tây phát hiện chữ cổ Lạc Việt (có sớm hơn chữ Giáp Cốt)

(Giao Blog - 28/1/2012) Trước nay, giới nghiên cứu thường xem chữ Giáp Cốt (sử dụng trong bói toán, viết trên xương thú và mai rùa) là loại hình chữ tượng hình cổ nhất. Nó cách thời đại chúng ta khoảng 3 ngàn năm.

Đi các bảo tàng lịch sử khắp Trung Quốc, đâu đâu cũng thấy di vật mang chữ Giáp Cốt được trưng bày. Người Hán rất đỗi tự hào về văn tự của họ, mà nguồn gốc là chữ Giáp Cốt.

Chữ Giáp Cốt thì chỉ đào được ở phía bắc Trung Quốc, không tìm thấy dấu tích ở phương nam. Nên xưa nay, người ta đều đinh ninh rằng nguồn gốc của chữ Hán là gắn với phía bắc Trung Quốc.

Nhưng nay, giới khảo cổ Trung Quốc, đã tiến xa hơn một bước: tìm được loại chữ có sớm hơn chữ Giáp Cốt, những khoảng một ngàn tuổi, tức là cách thời đại chúng ta tới cả 4 ngàn năm. Mặt mũi loại chữ này đại khái như sau: (Xem hình 2)

Hình 1: Tọa đàm lớn của các chuyên gia văn tự Trung Quốc.

Loại chữ này được tìm thấy ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), kinh đô của người Choang, cũng tức là kinh đô của người Lạc Việt trước đây.

09/03/2013

Cha và con : Bác Mao dạy con gái học chữ (1946)

Năm 1946.

Ở trong động Diên An. Thời kì cách mạng trường kì kháng chiến. 

Bác Mao, như bất cứ người bố bình thường nào, dạy con gái mình những con chữ đầu tiên (nguồn ảnh ở đây). 




Ông nổi danh hay chữ (chữ Hán) từ thời nhỏ, đọc sâu và đọc rộng kinh điển Hán văn. 

Ông từng dùng một câu điển nhã để đặt tên cho các con gái của mình: "君子敏与行而讷于言" (Quân tử mẫn dữ hành nhi nhuế vu ngôn).Người quân tử thì mẫn tiệp hành động, mà thận trọng ở lời nói. Luận ngữ có câu: "君子欲讷于言而敏于行"(Quân tử dục nhuế vu ngôn nhi mẫn vu hành). Quân tử nói chậm mà làm nhanh.

Mẫn (mẫn tiệp) và Nhuế (thận trọng ở ngôn từ) là tên các con gái rượu của bác Mao. 


Mùa xuân Hà Nội (2013)



08/03/2013

Chặt đầu này ta mọc đầu khác : Để trừ Phạm Nhan phải dùng bài thuốc độc

Sau những ngày lang bạt kì hồ đầu xuân Quí Tị, trở lại với con ngõ nho nhỏ, ông bạn già bán nước chè chén đầu phố, những đám thanh niên túm tụm quanh bàn cờ lúc hết giờ làm buổi chiều. 

Một bà hàng xóm bày bán rau cỏ và tương cà thập cẩm trên phiến đá vốn là nắp mộ của quan ba Hăng-ri Vi-e, nhìn thấy chiếc va-li kéo đi quen quen, ngẩng lên bảo: "Độ này, chú vắng nhà suốt thế !". Mình về nhà đều phải qua cái mả quan ba ấy (chuyện kể rằng, ngài bị tướng cờ đen Lưu Vĩnh Phúc triệt hạ).

Về nhà.

Lướt web, thấy xung quanh đưa tin Phạm Nhan lại bị chặt đầu. Chuyện nhỏ, như mắt muỗi. Bản tính của Phạm Nhan là chặt đầu này thì ta mọc đầu khác mà. 

Để trừ tận gốc loài Phạm Nhan thì phải dùng bài thuốc độc: cho nó ăn cái ba vạn chín nghìn. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn cho nó chuyên cai quản món ấy. Phụ nữ ngày trước bị hậu sản, ắt là do Phạm Nhan quấy mà ra.