Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

19/10/2013

Văn nghệ thứ Bảy: Đề thi đại học môn Lịch sử (giả tưởng, cho năm 2113)

Bài làm trong 90 phút bao gồm cả thời gian chép đề và tra cứu.

Ghi chú

- Đây là đề thi môn Sử năm 2113, để kỉ niệm tròn 100 năm Nguyên soái từ trần. Đề dùng cho tuyển sinh của các trường quân đội. Thang điểm 10.

- Thí sinh được quyền tra cứu tư liệu giấy và tư liệu mạng tại địa điểm làm bài (yêu cầu ghi rõ số trang của tài liệu giấy, và ghi rõ đường link nếu là tài liệu mạng).

- Đề nghị giám thị kiểm tra tình trạng kết nối mạng ở phòng thi (phải đảm bảo tiếp xúc tốt, mới bắt đầu phát tờ giấy làm bài).

- Giám thị không giải thích gì thêm sau khi đã phát tờ giấy làm bài. 



ĐỀ BÀI

1. Anh/chị hãy cho biết ngày thành lập của Quân đội Nhân dân Việt Nam (ghi rõ ngày tháng năm theo dương lịch) ? (1 điểm).

2. Anh/chị hãy cho biết từ khi nào, và bằng văn bản nào, ai kí, để chính thức quyết định về ngày thành lập của Quân đội Nhân dân Việt Nam ? (2 điểm).

3. Hơn một trăm năm đã qua, anh/chị có thể yên tâm trả lời các câu hỏi tiếp sau đây. 

Anh/chị, tư góc độ suy lí thuần túy, hãy thử giải đáp xem, vì sao cách mạng lại chọn ngày đó là ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, mà không phải là ngày khác ? (2 điểm).



Câu sau (4a và 4b) là tùy chọn (hoặc chọn 4a, hoặc chọn 4b). Cần đọc câu hỏi thật kĩ trước khi chọn lựa.

4a. Nếu không nhất trí với cách chọn đã có, dù chỉ là trong ý tưởng, và dù đã qua hơn 100 năm rồi, anh/chị sẽ liều mình như chẳng có mà chọn lấy ngày nào (ghi rõ ngày tháng năm theo dương lịch) ? Giải thích lí do chọn lựa ? (3 điểm). Lưu ý: Trả lời của thí sinh mang phong cách của riêng thí sinh, hội đồng thi chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về tất cả các thể loại văn phong và văn vở của thí sinh.

4b. Nếu hoàn toàn nhất trí với cách chọn đã có, chỉ cần ghi "Tôi hoàn toàn nhất trí" thì được luôn điểm (2 điểm).
...
...

Vì một trăm năm nữa mới thi, nên đề bài còn đang tiếp tục được biên soạn. Tạm thời đang mới được điểm 8 (và 7), lấy đó là điểm tối đa. 

Trong khi chờ đợi đề được soạn xong, xin nhắc thí sinh: cần tập trung suy nghĩ trả lời đúng câu hỏi, tránh lạc đề. Ví dụ về lạc đề, xin xem bài ở dưới đây. Bài dưới đây sở dĩ lạc đề là vì, nó không cho biết vì sao và từ khi nào lại chọn như vậy, chỉ loanh quanh thế nọ thế kia mà không có tí gì gọi là "thế này". Bây giờ thì đọc:

---
22-12-1944: Thành lập quân đội nhân dân Việt Nam, ngày quốc phòng toàn dân
Quân đội nhân dân Việt Nam là con đẻ của phong trào cách mạng và nhân dân.

Trong cao trào Xô Viết Nghễ Tĩnh (1930-1931), cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng nước ta, đã xuất hiện lực lượng vũ trang nhân dân. Từ những cuộc biểu tình lưu huyết của công nông Vinh-Bến Thủy đã xuất hiện những đội tự vệ, những đội xích vệ đỏ đầu tiên. Chính những xích vệ ấy đã đi đầu trong việc bảo vệ các làng đỏ trong quá trình tồn tại Xô Viết Nghễ Tĩnh.

Lực lượng võ trang nhân dân hình thành rõ nét hơn trong thời kỳ vận động trực tiếp cho thắng lợi của các mạng Tháng Tám (1939-1945). Trong thời kỳ khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940) Đảng ta đã xây dựng đội du kích Bắc Sơn. Ngày 14.2.1941, Đội du kích Bắc Sơn được chính thức thành lập ở khu rừng Khuỗi Nọi, xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn (Lạng Sơn). Đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng công nhận và giao nhiệm vụ cho đội. Đội có 32 người chia ra 3 tiểu đội do đồng chí Lương Văn Chi và Chu Văn Tấn chỉ huy. Vũ khí chỉ co 5 khẩu súng trường, còn toàn súng kíp và dao găm.

Sau hội nghị Trung lần thứ 8 (5-1941), đồng chí Phùng Chí Kiên, được cử phụ trách khu căn cứ Bắc Sơn, Võ Nhai. Đội du kích Bắc Sơn được mang tên mới là Cứu quốc quân cho phù hợp với nhiệm vụ cứu nước trước mắt. Cũng lúc ấy, ở Nam Bộ, đội du kích Nam Kỳ đã xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23.11.1940)

Cùng với nhân dân các dân tộc Bắc Sơn-Võ Nhai, Cứu quốc quân đương đầu với cuộc càn quét của 4.000 quân Pháp, khố xanh, khố đỏ và lính dõng. Các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi hy sinh. Hàng chục đội viên khác của đội bị sát hại, bị xử bắn ngay ở chân đồn Mỏ Nhài. Nhưng dưới dự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Hoàng Quốc Việt, ngày 15.9.1941, trung đội Cứu quốc quân 2 được thành lập tại khu rừng Khuôn Mánh, thôn Ngọc Mỹ, xã Tràng Xá (Võ Nhai) với 47 chiến sĩ (có 3 nữ) do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy.

Trong 8 tháng đánh du kích ở Tràng Xá (7-1941 đến 2-1942). Cứu quốc quân bám đất, bám dân chiến đấu, lực lượng ngày càng lớn mạnh, từ 47 chiến sĩ đã tăng lên 70, vũ khí ngày càng tốt hơn do cướp được của địch khiến chúng phải gọi Cứu quốc quân là "hùm xám Bắc Sơn".

Cũng lúc đó, ở Pác Bó (Cao Bằng) Hồ Chủ Tịch chỉ thị thành lập đội du kích Cao Bằng-nơi có phong trào Việt Minh khá nhất-gồm 12 chiến sĩ do đồng chí Lê Quảng Ba chỉ huy. Để chuẩn bị về lý luận cho công tác xây dựng lực lượng võ trang, Người đã viết các tác phẩm như: cách đánh du kích, phép dùng binh của Tôn Tử.

Lực lượng Cứu quốc quân tiếp tục phát triển. Ngày 25.2.1944, trung đội Cứu quốc quan 3 thành lập ở Khuối Kịch châu Sơn Dương (Tuyên Quang). Tháng 10-1944. Đội được bổ sung một lực lượng quan trọng sau cuộc vượt ngục của 12 đồng chí cán bộ Đảng ở nhà lao Chợ Chu, trong đó có các đồng chí Song Hào, Lê Hiếu Mại...

Sau hơn một năm bị bọn Tưởng Giới Thạch giam giữ trái phép ở Quảng Tây (Trung Quốc), Hồ Chủ Tịch về lại Cao Bằng, kịp thời hoãn lệnh khởi nghĩa của Liên tỉnh ủy Cao Bắc-Lạng, vì đây là thời kỳ "hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới".

Ngày 22.12.1944, theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại một khu rừng nằm giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, Cao Bằng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Hồ Chủ Tịch ủy nhiệm lãnh đạo, đội biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng và đồng chí Xích Thắng làm chính trị viên.

 Image
Ngày 22/12/1944, dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, 34 cán bộ, chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã long trọng tuyên đọc Mười lời thề danh dự

Mười lời thề danh dự của đội viên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân

Chúng tôi đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, xin lấy danh dự của một người chiến sỹ cứu quốc mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh. Xin thề:

1. Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tiêu diệt bọn phát xít Nhật-Pháp và bọn Việt gian phản quốc, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập và dân chủ ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới.

2. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cấp chỉ huy, khi nhận được mệnh lệnh gì sẽ tận tâm, tận lực thi hành cho nhanh chóng và chính xác.

3. Bao giờ cũng kiên quyết chiến đấu, dù gian lao khổ sở cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng không sờn chí, khi ra trận quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước.

4. Lúc nào cũng khẩn trương hoạt bát, hết sức học tập để tự rèn luyện thành một quân nhân cách mạng, xứng đáng là một người chiến sỹ tiên phong giết giặc cứu nước.

5. Tuyệt đối giữ bí mật cho bộ đội về nội dung tổ chức, về các cấp chỉ huy, tuyệt đối giữ bí mật cho tất cả các đoàn thể cứu quốc.

6. Khi ra trận nếu bị quân địch bắt được, thì dù cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lòng trung thành với sự nghiệp giải phóng của toàn dân, không bao giờ cung khai phản bội.

7. Hết sức ái hộ bạn chiến đấu cũng như bản thân, hết lòng giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận.

8. Hết sức giữ gìn vũ khí, không bao giờ để vũ khí hư hỏng, hay rơi vào tay quân thù.

9. Khi tiếp xúc với dân sẽ làm đúng ba điều răn: "không lấy của dân" – "không dọa nạt dân"- "không quấy nhiễu dân" và ba điều nên: "kính trọng dân" – "giúp đỡ dân" – "bảo vệ dân", để gây lòng tin cậy đối với dân chúng, thực hiện quân dân nhất trí giết giặc cứu nước.

10. Bao giờ cũng nêu cao tinh thần tự phê bình, giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến thanh danh Giải phóng quân và Quốc thể của Việt Nam.

34 đội viên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân

Trong số 34 cán bộ, chiến sĩ của đội có 29 người là dân tộc thiểu số. Cụ thể, dân tộc Tày: 19, dân tộc Nùng: 8, dân tộc Mông: 1, dân tộc Dao: 1; còn lại 5 người dân tộc Kinh.

STT
Tên
Bí danh
Dân tộc
Quê quán
1Trần Văn KỳHoàng SâmKinhTuyên Hoá, Quảng Bình
2Dương Mạc ThạchXích ThắngTàyNguyên Bình, Cao Bằng
3Hoàng Văn XiêmHoàng Văn TháiKinhTiền Hải, Thái Bình
4Hoàng Thế AnThế HậuTàyHà Quảng, Cao Bằng
5Bế BằngKim AnhTàyHoà An, Cao Bằng
6Nông Văn BátĐàm Quốc ChưngTàyHoà An, Cao Bằng
7Bế Văn BồnBế Văn SắtTàyHoà An, Cao Bằng
8Tô Văn CắmTiến LựcTàyNguyên Bình, Cao Bằng
9Nguyễn Văn CàngThu SơnTàyHoà An, Cao Bằng
10Nguyễn Văn CơĐức CườngKinhHoà An, Cao Bằng
11Trần Văn CùTrương ĐắcTàyNguyên Bình, Cao Bằng
12Hoàng Văn CủnQuyền, ThịnhTàyVõ Nhai, Thái Nguyên
13Võ Văn DảnhLuânKinhTuyên Hoá, Quảng Bình
14Tô Vũ DâuThịnh NguyênTàyHoà An, Cao Bằng
15Dương Văn DấuĐại LongNùngHà Quảng, Cao Bằng
16Chu Văn ĐếNamTàyNguyên Bình, Cao Bằng
17Nông Văn KiếmLiênTàyNguyên Bình, Thái Nguyên
18Đinh Văn KínhĐinh Trung LươngTàyThạch An, Cao Bằng
19Hà Hưng LongTàyHoà An, Cao Bằng
20Lộc Văn LùngVăn TiênTàyCao Lộc, Lạng Sơn
21Hoàng Văn LườngKính PhátNùngNgân Sơn, Bắc Kạn
22Hầu A LýHồng CôMôngNguyên Bình, Cao Bằng
23Long Văn MầnNgọc TrìnhNùngHoà An, Cao Bằng
24Bế Ích NhânBế Ích VạnTàyNgân Sơn, Bắc Kạn
25Lâm Cẩm NhưLâm KínhKinhThạch An, Cao Bằng
26Hoàng Văn NhưngXuân TrườngTàyHà Quảng, Cao Bằng
27Hoàng Văn MinhThái SơnNùngNgân Sơn, Bắc Kạn
28Giáp Ngọc PángNông Văn BêNùngHoà An, Cao Bằng
29Nguyễn Văn PhánKế HoạchTàyHoà An, Cao Bằng
30Ma Văn PhiêuBắc HợpTàyNguyên Bình, Cao Bằng
31Đặng Tuần QuýDaoNguyên Bình, Cao Bằng
32Lương Quý SâmLương Văn ÍchNùngHà Quảng, Cao Bằng
33Hoàng Văn SúngLa ThanhNùngHà Quảng, Cao Bằng
34Mông Văn VẩyMông Phúc ThơNùngVõ Nhai, Thái Nguyên

Đội chỉ có 34 chiến sĩ với 34 cây súng nhưng đều là những chiến sĩ kiên cường của công nông được chọn lọc từ các đội du kích ở Cao-Bắc-Lạng, một số đã học quân sự ở nước ngoài, hầu hết đã qua chiến đấu, và điều quan trọng hơn cả là không có ai không có nợ máu với đế quốc và phong kiến.

Việc thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử quân đội ta. Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của Hồ Chủ tịch tuy ngắn nhưng rất súc tích bao gồm các vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng ta: vấn đề kháng chiến toàn dân, động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng võ trang cách mạng, phương châm xây dựng 3 thứ quân, phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng võ trang, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích của lực lượng võ trang, Hồ Chủ tịch nói: "...Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội đàn anh mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta".

Chính vì ý nghĩa đó, ngày 22.12.1944 được chọn làm ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân ViệtNam.

Dưới lá cờ đỏ sao vàng, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã long trọng đọc lời tuyên thệ. Sau đó, theo yêu cầu của anh em, đội tổ chưc một bữa cơm nhạt không rau, không muối để nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh của các chiến sĩ cách mạng.

Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng chủ lực đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam, chấp hành chỉ thị phải đánh thắng trận đầu của Bác đã mưu trí táo bạo hạ đồn Phay Khắt (24.12) và Nà Ngần (25.12.1944) trong hoàn cảnh "ăn mỗi ngày một bữa, đánh mỗi ngày hai trận".

Chỉ sau một tuần lễ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã phát triển thành 3 trung đội làm nòng cốt cho công tác tuyên truyền, diệt địch, biến Cao-Bắc-Lạng thành một căn cứ vững chắc.

Tháng 4-1945, theo quyết định của hội nghị quân sự Bắc Kỳ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc Quân đã thống nhất lại vào ngày 15.5.1945 và mang têm Việt Nam Giải phóng quân. Lễ thống nhất được tổ chức tại Chợ Chu (Thái Nguyên) với 13 đại đội.

Tại các chiến khu cách mạng trong nước, lực lượng du kích vẫn phát triển trong hình thái 3 thứ quân: tháng 5-1945 thành lập trung đội du kích của chiến khu Quang Trung tháng 6-1945 đội du kích Đông Triều ra đời, đội du kích Ba Tơ thì từ tháng 3.1945.

Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Việt Nam giải phóng quân có vai trò rất quan trọng; 2 giờ chiều ngày 16-8-theo lệnh của ủy Ban khởi nghĩa toàn quốc và lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch ngày 13.8-từ cây đa Tân Trào, đơn vị chủ lực Việt Nam giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho tổng khởi nghĩa toàn quốc.

Lực lượng võ trang đã hỗ trợ đắc lực cho lực lượng chính trị, tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ sau 15 ngày, ách đế quốc ngót trăm năm, ngai vàng phong kiến hàng ngàn năm đã bị lật nhào.

Ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quân đội ta mang tên Vệ quốc đoàn, đánh dấu thời kỳ hình thành của quân đội Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp quân đội ta mang tên quen thuộc nhất cho đến ngày nay là Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại, quân đội ta đã bước vào thời kỳ trưởng thành.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại vừa qua, Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như mọi bộ phận khác của nó mang cái tên lịch sử là Giải phóng quân miền Nam đã góp phần quyết định cùng toàn dân đánh bại tên đế quốc đầu sỏ, đánh sập ngụy quyền tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam vào mùa Xuân 1975.

"... Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục" (Hồ Chủ Tịch)

Trên cơ sở của một cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại, quân đội ta từ một lực lượng nhỏ bé, vũ khí trang bị thô sơ đã vươn lên thành một đội quân hùng hậu, chính quy hiện đại, gắn bó với nhân dân, tô đậm truyền thống vẻ vang mà Bác Hồ, người cha của các lực lượng võ trang Việt Nam, đã dạy: "... Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng..."

Năm 1989, theo chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng và quyết định của Chính phủ, ngày 22-12 hàng năm không chỉ là ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn là Ngày hội Quốcphòng Toàn dân. Từ đó, mỗi năm, cứ đến ngày này, toàn dân Việt Nam lại tiến hành các hoạt động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội, nhằm tuyên truyền sâu rộng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất bộ đội Cụ Hồ, giáo dục lòng yêu nước, yêu CNXH, động viên mọi côngdân chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Các hoạt động như mít tinh, hội thảo, hội nghị đoàn kết quân dân, giáo dục truyền thống, biểu diễn văn nghệ, đại hội thanh niên, thi đấu thể thao, hội thao quân sự... được diễn ra ở khắp làng, xã, cơ quan đoàn thể, cơ sở đơn vị...

Những hoạt động của ngày hội như vậy nhằm động viên cán bộ, chiến sĩ không ngừng nâng cao cảnh giác, ra sức rèn luyện bản lĩnh chính trị và trình độ quân sự, không ngại gian khổ, vượt qua khó khăn, trong mọi hoàn cảnh của trước đây cũng như hôm nay, để hoàn thành mọi nhiệm vụ xứng đáng với tên gọi: Quân đội nhân dân Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.